I
NỀN TẢNG CHUNG Sử gia nào muốn xác định đúng đắn
giáo lý của đức Phật là gì đều thấy mình đứng trước một rừng kinh sách,
và tuy tất cả đều tuyên xưng thế giá của đức Phật, nhưng lại chứa đựng
những giáo lý rất khác biệt và chống đối nhau. Một vài tác giả có uy
tín, được nuôi dưỡng trong truyền thống Phi công thức, mới đây chủ
trương rằng người ta phải tìm giáo lý của
đức Phật Gautama (Cồ-đàm)
trong chính những lời
Phật dạy vào khoảng 500 năm trước Tây lịch. Chủ trương này đã gặp phải
một vài phản ứng gay gắt. Sự thực là tầng cổ sơ
nhất của kinh điển hiện hữu chỉ có thể đạt tới bằng những lý luận và giả
thuyết không mấy vững chắc. Một điểm duy nhất mà những toan tính khôi
phục lại một thứ đạo Phật “Nguyên Thủy” này chia xẻ với nhau: tất cả đều
đồng ý rằng: giáo lý của đức
Phật chắc chắn không phải là cái mà những người Phật tử hiểu. Bà Rhys
Davids chẳng hạn, đã khai trừ khỏi Phật giáo lý thuyết “vô ngã” và nếp
sống khổ hạnh. Theo bà, giáo lý căn bản của đạo Phật là một hình thức
thờ phụng “Người Nam” H J.Jennings lạnh lùng gạt bỏ ra ngoài Kinh điển
tất cả những gì liên quan đến thuyết luân hồi, và tuyên bố đã phục hồi
được ý nghĩa nguyên thủy của Kinh điển.
đến lượt bác sĩ P.Dahlke
không muốn biết tới tất cả những pháp thuật và thần thoại đầy rẫy trong
Phật giáo cổ truyền và giản lược giáo lý Phật giáo thành một thuyết bất
khả tri hoàn toàn hợp lý. Qua cuốn sách này, tôi cố gắng
trình bầy truyền thống Phật giáo sinh tồn qua những thời đại, và tôi xin
thú thực rằng tôi không hiểu “thông điệp nguyên thủy” của đạo Phật là
gì. Nhìn tất cả lịch sử Phật giáo sau
này như bằng chứng của sự “suy đồi”của thông điệp “nguyên thủy” thật
chẳng khác nào coi cây sồi như một sự suy đồi của trái sồi. Trong tác
phẩm này tôi nhận định rằng giáo lý của
đức Phật, quan niệm trong
mọi chiều hướng, vẻ uy nghiêm và vĩ đại, gồm tất cả những giáo lý nối
kết với những giáo lý nguyên thủy bởi sự liên tục của lịch sử, và tạo
thành những phương pháp đưa tới hủy diệt cá tính bằng cách loại bỏ lòng
tin tưởng vào tự ngã. Suốt cuốn sách này chúng ta sẽ phải
tra cứu kinh điển như những tài liệu chính yếu của Phật giáo sử. Về điểm
này, chúng ta phải thêm vào một cái nhìn tổng quan về văn học Phật giáo
và phải duyệt qua những sự phân chia khác nhau của Kinh điển, thời đại
và những bộ sưu tập trong đó những kinh tạng này được gìn giữ. Từ khởi thủy, Kinh điển đã được
chia ra làm Pháp (Dharma) và Luật tạng (Vinaya). Luật
bàn về kỷ luật tu tập, Pháp về học thuyết. Sau này, chúng ta sẽ
thấy Kinh điển được chia ra làm ba loại, là Luật, Pháp hay Khế
Kinh (Sùtra) và Luận tạng (Abhidarma). Luận tạng bàn về những
học thuyết cao hơn (xem chương IV.) Một sự phân chia quan trọng khác
nữa là sự phân chia giữa Khế Kinh và Luận thuyết (Sàstra). Khế
kinh là một kinh văn được coi như chính đức Phật thuyết. Khế kinh luôn
luôn mở đầu bằng câu: Như vậy tôi nghe một thời.
đức thế tôn đang trú tại
…
[1]
. “Tôi” đây là
tôn giả Ànanda (A-nan) người đã đọc lại tất cả những lời Phật thuyết
sau khi Phật nhập Niết Bàn. Rất nhiều Khế Kinh được thành lập sau khi
Phật diệt độ hàng mấy thế kỷ. Những tác giả thực sự của những Khế Kinh
không phải do chính đức
Phật lịch sử nói, dĩ nhiên, vô danh. Chính những Phật tử cũng bị chia rẽ
rõ rệt vì giá trị của những khế kinh hậu tập này. Một phần được gọi là
Hinayàna hay Tiểu Thừa chủ trương Kinh điển được viết rất
lâu sau năm 480 trước T.L và không được tụng đọc trong Kết tập lần nhất
ngay sau khi đức Phật nhập Niết Bàn, không thể được coi là chính thống,
không phải chính lời Phật thuyết, không thể là gì khác hơn thi ca và
truyện thần tiên. Phần kia được biết dưới danh từ Mahàyàna hay
đại Thừa, ngược
lại, bất chấp những khó khăn về niên kỷ, đã quả quyết rằng những Khế
Kinh sau này cũng do chính miệng
đức Phật nói ra. Sự chậm trễ trong việc ấn tống được giải thích
bằng nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn người thường kể rằng Kinh
Prajnàpàramità, kinh văn bàn về trí tuệ viên mãn được chính
đức Phật nói
nhưng vì quá khó nên những
người đương thời không hiểu nổi. Vì thế, cuốn kinh được cất trong lâu
đài của Xà Thần, hay Long Vương gọi là Nàgas, dưới Âm Phủ (long cung).
Khi thời cơ đến, Long Thụ đại luận sư xuống dưới Âm Phủ và mang lên trần
giới. Câu chuyện này không cốt kể cho tất cả mọi người. Trong ý định
thích nghi với căn cơ khác nhau của nhiều người khác nhau, Phật giáo
luôn luôn sẵn sàng cung cấp một lối giải thích thần thoại cho những
người quen suy tưởng trong những tương quan thần thoại, và đồng thời một
lối giải thích triết học cho những người quen với
những hình thái tư tưởng triết học. Sự biện minh có tính cách triết học
của những Khế Kinh sau này hay dùng thuyết “Tam Thân” của
đức Phật mà chúng ta sắp
nói tới, theo đó các Kinh điển cổ điển do “Ứng thân” của
đức Phật thuyết, và Kinh
điển sau do “Báo thân” Phật (xem chương VII), phần Những Học Thuyết
khác). Luận thuyết
(Sàstra) là một cuốn luận do một tác giả mà tên tuổi thường được biết
đến, cố gắng trình bày
hệ thống hơn những Khế Kinh trước, và thích dẫn những Kinh này như những
thế giá, Nhiều luận thuyết do các nhà bác học của Giáo Hội như
Nagàrjuna, Vasubandhu (Thế Thân), và những vị khác trước tác, còn lưu
truyền đến ngày nay. Toàn bộ
sáng tác phẩm văn học Phật giáo thật mênh mông. Chỉ có những đoạn ngắn
đến tay chúng ta. Phật giáo sử của chúng ta vì thế sẽ mãi mãi còn là
mảnh vụn và giả định. Trong khoảng 400 năm truyền thống chỉ được lưu
truyền bằng cách truyền khẩu. Một vài nét đặc trưng của Cựu
điển rõ ràng là những nét
của truyền thống khẩu truyền, như sự lặp đi lặp lại nhiều lần, sự ưa
chuộng vần điệu và những danh số. Hậu quả của sự
ưa chuộng khẩu truyền này là rất nhiều tài liệu cổ điển nhất ngày nay
không còn nữa. Nói về thời đại của các Kinh
điển chúng ta gần như trong đêm tối. Phật giáo thuộc thành phần của
những truyền thống trong đó ít tên tuổi lộ diện, và trong đó niên kỷ lại
càng ít được biết đến một cách rõ ràng hơn nữa. Thực là bực bội khi
chúng ta muốn cố gắng áp dụng những ý niệm thông dụng của ngành phê bình
sử. Langlois và seignbos, trong tác phẩm giáo khoa về phương pháp sử
học, đã quả quyết rằng: “Một tài liệu mà tác giả, niên biểu và xuất
xứ không thể xác định không có giá trị gì hết”. Than ôi! Đó chính là
trường hợp của phần lớn những tài liệu mà chúng ta dùng để xây dựng
“lịch sử” Phật giáo. Người Ấn độ
luôn luôn tỏ ra hầu như thờ ơ đối với các niên biểu của lịch sử. Sự thay
đổi của lịch sử được coi như hoàn toàn không quan trọng so với Chân lý
bất biến. Những Phật tử Ấn đã chia sẻ thái độ này. Ngay cả trước một
niên biểu quan trọng như thời tại thế của đức Phật, sự thẩm định của họ
cũng sai biệt rất nhiều. Các học giả hiện đại thường đặt thời Niết bàn
của Phật vào năm 483 trước T.L. Ở Ấn, truyền thống Phật giáo còn đưa ra
nhiều niên đại khác, thí dụ 852 trước T.L. hay 652, hay 353, hoặc ngay
cả 252 tr. T.L. nữa. Vì thiếu một cái khung niên biểu chắc chắn, một
phần lớn những điều mà ta bàn đến về sự tiếp nối của những biến cố lịch
sử Phật giáo chỉ là những ức đoán mà thôi. Tuy nhiên, chúng ta phải chấp
nhận rằng thái độ Phật giáo đối với các niên đại, dù đáng bực bội đối
với các sử gia, không phải hoàn toàn do tà ý như chúng ta tưởng. Chính
Pháp tự nó không có lịch sử. Những gì thay đổi chỉ là những cảnh ngộ bên
ngoài mà trong đó nó vận hành. Và hầu hết những gì quan trọng thực sự
theo quan điểm tôn giáo và tâm linh không có chỗ đứng trong một cuốn sử.
Hầu hết những kinh nghiệm của các bậc hiền triết và thánh nhân xa xưa
đều thực nghiệm trong cô liêu thoát khỏi con mắt nhà sử học. Phật giáo cũng giữ
lại rất ít tên tuổi
vì rằng trong những
thời kỳ tốt
đẹp nhất, đặt
tên tuổi mình vào một
tác phẩm văn học là
một hình thức xấu
xa đối với một
tu sĩ. Với họ, vấn
đề quan trọng không
phải là ai đã nói, mà là cái đó có đúng hay
không, có ích lợi hay không, có trung thành với
truyền thống hay
không. Tính cách độc đáo hay mới
mẻ không được đề
cao, vô danh đồng nghĩa với
thánh thiện. Thái độ
này sẽ được đền
bù. Nếu một công
trình tập thể kiên
quyết, trong một thời
gian lâu dài, do một số
người hoàn toàn dâng mình cầu
tìm giải thoát, tạo
ra một hệ thống
trị liệu
tâm linh thì kết
quả,
sau một
thế
kỷ,
có thể
nói vô cùng quan trọng. Hơn nữa,
ngay nơi mà những tên tuổi được viện dẫn, người ta cũng không thể chấp
nhận ngay giá trị pháp định của chúng được. Những tên tuổi vĩ đại như Mã
Minh (Ásvaghosha), Long Thụ (Nàgàrjuna) và Thế Thân (Vasubandhu) thường
đi đôi với nhiều tác phẩm, mà truyền thống sùng tín sau này đôi khi kéo
dài đời sống của tác giả chúng thêm vài thế kỷ, trong khi ngành phê bình
lịch sử hiện đại gặp phải nhiều khó khăn trong
việc phân biệt nhiều người khác nhau dưới một cái tên. Tuy nhiên có thể võ đoán niên biểu
của vài tác phẩm. Kinh Tập bộ (Sutta Nipàta) chẳng hạn,
hình như chứa đựng một vài bản văn tối cổ mà chúng ta có, một phần vì
ngôn ngữ cổ điển của nó, một phần vì phần bình luận của nó nằm trong
Thánh điển của Thượng Tọa Bộ (Theravàda). Giả thuyết của chúng ta liên
quan tới niên kỷ của những kinh điển Phật giáo có thể căn cứ trên nền
tảng ngữ học hay học thuyết. Căn cứ trên nền tảng học thuyết người ta
thường gặp phải nguy hiểm – mà quá khứ thường không tránh khỏi – là
người ta tạo ra một vài quan niệm độc đoán về Phật giáo “sơ khai” rồi
căn cứ vào đó định niên biểu cho tất cả. Những bản dịch Hán văn giúp
chúng ta rất nhiều, bởi vì những bản dịch này đề ngày tháng rất cẩn
thận, do đó cho pháp chúng ta suy ra rằng nguyên tác hẳn phải được viết
ở Ấn độ một khoảng thời
gian trước đó. Nhưng dẫu vậy, chúng ta cũng thấy rằng sự hình thành của
những tác phẩm quan trọng nhất hình như trải qua một thời kỳ dài. Những
tác phẩm như Mahàvastu, hay Latitavistara chứa đựng những
nguyên liệu có thể xếp từ 200 năm trước T.L. tới 600 năm sau T.L. Trong
một cuốn kinh như Diệu Pháp Liên Hoa kinh, hay Bát nhã Bát
thiên tụng những chương cuối được viết sau những chương đầu hàng mấy
thế kỷ. Những Kinh điển còn tồn tại đến
ngày nay gồm trong ba đại bộ: 1. Tam Tạng Pàli (Tripitaka
Pàli) Tam Tạng
này chứa đựng những kinh điển của một trong những tông phái Tiểu Thừa,
Thượng Tọa bộ. Những Kinh điển khác của những tông phái Tiểu Thừa khác
một phần lớn được giữ trong văn hệ Sanskrit và Hán văn, nhưng một phần
lớn đã bị mất. để cho sự
tham khảo sau này được dễ dàng, tôi nêu ra đây một cái nhìn tổng quan về
những sự phân chia chính của Thánh
điển
Tiểu Thừa. 2. Tam Tạng Trung Hoa. Sự thành lập Tam Tạng này không
được xác định rõ rệt, và nó thay đổi theo thời gian. Bản Kinh Mục tối
cổ, vào khoảng 518 sau T.L. kê khai 2.113 tác phẩm, trong đó 276 tác
phẩm còn tồn tại. Bộ Tam Tạng được ấn tống lần đầu tiên vào năm 972. Lần
ấn loát mới nhất của Nhật Bản, Taisho Issaikyo (đại
Chính Nhất Thiết Kinh), vào văm 1924.1929 cho 2.184 tác phẩm trong 55
quyển mỗi quyển khoảng 1000 trang
[2] .
4. Một phần lớn tác phẩm
Sanskrit còn được bảo toàn nhưng không có đủ bộ tập hay Thánh điển. Trong cuốn sách này, tất cả những
thiên luận được kể dưới bốn tiểu đề này đều được coi như những nguồn tài
liệu chính thống của tư
tưởng Phật giáo. Sự lựa chọn
này đã được thực hiện trong quá khứ bởi những người khôn ngoan hơn tôi,
và tôi không có lý do gì để bài bác cả. Phần lớn cuốn sách này sẽ được
dành để bàn về những sự tin tưởng và tụ tập của riêng một phần Phật giáo
đoàn, phần chia ra Tu sĩ và Cư sĩ, Tiểu thừa và
đại thừa và những trường
phái tư tưởng khác nhau. Tuy nhiên một thiểu số những đức tin có một nền
tảng chung với toàn thể phong trào Phật giáo trong tất cả mọi hình thức
của nó và của chúng ta phải bắt đầu từ những đức tin ấy. Trước hết chúng
ta phải nói qua về lòng tin tưởng liên quan đến
đức Phật và liên hệ với
chủ đề này, chúng ta phải bàn về cái bị coi là “Vô thần” của đức tin
Phật giáo. Thứ đến một vài quan điểm giáo lý chung của tất cả mọi Phật
tử. Những quan điểm đó hoặc liên quan đến hoặc chính là yếu tính của
cuộc sống tâm linh, và do đó nằm trong “Tứ thánh
đế” Hoặc chúng liên quan
đến cơ cấu và sự tiến triển của thế giới, và phát xuất từ Ấn-độ-giáo.
Vì những tin tưởng liên quan đến
đức Phật không kém thành phần di sản
văn hóa chúng ta
[5] ,
chúng không làm minh bạch đối với nhiều người, và đòi hỏi một sự giải
thích cẩn thận. Đức Phật có thể khảo sát theo ba
quan điểm:
1. Như
một con người,
Đức
Phật Cồ đàm (Gautama) đã
sống giữa khoảng 500 và 480 trước T.L., trong vùng đông Bắc ấn. Sự kiện
lịch sử của đời ngài không thể tách rời khỏi truyền thuyết mà tất cả
Phật tử đều chấp nhận. Cuộc đời của Cồ đàm, hay Thích ca Mâu ni
(Sàkyamuni) (“Hiền nhân của bộ lạc Sàkya”) như một cá nhân, trong
bất cứ trường hợp nào, không mấy quan trọng đối với tín ngưỡng Phật Giáo.
đức Phật là một tiêu thức
đã nhập thể trong cá nhân này – và đó chính là tiêu thức có liên quan
đến đời sống tôn giáo. Cũng có thể, dầu không chắc chắn lắm, những tín
đồ tầm thường đôi khi nghĩ về đức Phật như một con người, nhưng thần học
chính thống không bao giờ khuyến khích một lòng tin như vậy. Trong lý
thuyết chính thức, đức Phật, “đấng Giác ngộ”, là một thứ qui phạm tự thị
hiện trong thế gian trong nhiều thời kỳ khác nhau và nơi nhiều cá tính
khác nhau, và những đặc tính cá biệt này không đáng kể. Hiển nhiên đối với Phật tử, những
người tin vào sự đầu thai, Cồ đàm không phải đến thế gian lần thứ nhất
vào năm 560 tr. T.L. Như bất cứ một chúng sinh nào khác, Ngài đã trải
qua nhiều kiếp, đã kinh nghiệm thế gian như một con vật,
một người, một vị thần. Trong nhiều kiếp tái sinh, Ngài đã chia sẻ số
phận chung của tất cả chúng sinh. Sự viên mãn tâm linh như sự viên mãn
của một đức Phật không thể là kết quả của nguyên một đời. Tâm linh đó
phải tu luyện từ từ qua những thời đại. Nó phải qua một cuộc hành trình
dài, dài đăng đẳng làm choáng váng óc tưởng
tượng. Nó phải cần tới ba vô lượng kiếp (eón hay mahàkalpa theo
phép tính thông thường. Tính theo năm, vào khoảng 3x5051 năm, hay ít ra
cũng vào khoảng đó. Trong suốt thời gian này, vị Phật tương lai đã thực
hành tất cả mọi đức hạnh bằng đủ mọi cách. “Xúc địa ấn”
[6]
nơi rất nhiều
tượng Phật tượng trưng cho sự sửa soạn Phật quả lâu dài của đức Phật.
Truyện truyền kỳ kể lại cuộc chiến đấu của Thích ca Mâu-ni với Màra, Ma
vương, Chúa Tể thế gian này ra sao trước khi giác ngộ. Thích
Ca Mâu ni nói với Ma Vương
rằng ngài đã chứng tỏ lòng khinh miệt những quyền lực và sự cao sang thế
tục khi ngài hy sinh của cải, thân thể và cuộc sống biết bao lần trong
vô lượng kiếp. Ngài viện trái đất ra làm chứng và địa mẫu thần nhảy lên
khỏi mặt đất xác nhận lời ngài.
địa mẫu thần cũng chứng nhận sự kiện đức Thích Ca Mâu ni đã thi
hành mọi công hạnh của một Bồ tát. Lời nói này ẩn tàng một chân lý tâm
linh thẳm sâu. Ma vương, tương tự Satan, là chúa tể thế gian và trái đất
này. Nó tuyên rằng Bồ tát, tiêu biểu cho cái gì vượt khỏi thế gian này,
hận thù không đợi trời chung với thế gian, không có quyền chiếm miếng
đất trên đó ngài ngồi thiền định. Bồ tát, trái
lại, tuyên bố qua những nghĩa cử hy sinh trong những tiền kiếp có quyền
chiếm một khoảng đất nhỏ. 2. Nếu giáo thuyết
của đức Phật chỉ là lời nói
của một vài cá nhân, giáo thuyết ấy sẽ thiếu thẩm quyền cưỡng chế. Thực
ra, nó tỏa ra từ nguyên lý tâm linh, từ Phật tính tiềm ẩn trong cá nhân
Thích Ca Mâu ni và như chúng ta nói, “gợi hứng” ngài tri kiến và giảng
dạy chân lý. Khi Phật giáo coi đức Phật là một nguyên lý tâm linh họ gọi
ngài là Như Lai (Tathàgata) hay nói về Pháp thân ngài, ý
nghĩa nguyên thủy của chữ Tathàgata ngày nay không còn được ai biết tới
nữa. Những nhà chú giải sau này giảng danh từ như là phối hợp của hai
chữ “Tathà” “Như thế” và quá khứ phân từ “àgata” “đã đến” hay “gata”
“đã đi”. Nói khác Như Lai Tathàgata là một người đã đến hay đã đi “như
thế” nghĩa là như những Như Lai khác đã đến và đã ra đi. Sự giải thích
này đề cao sự kiện “Đức Phật lịch sử” không phải là một hiện tượng đơn
độc, nhưng ngài là một trong một chuỗi vô lượng những Như Lai xuất hiện
trong thế gian qua các thời đại và giảng cùng một giáo lý. Như Lai, như
thế thiết yếu là một phần tử của một nhóm. Nhóm gồm bảy hay hai mươi bốn
hay một ngàn Như Lai đặc biệt phổ cập trong dân gian. Ở Sànei và Bhàrhut
chẳng hạn, bảy Như Lai nghĩa là Thích Ca Mâu ni và sáu vị tiên phong
được trình bày trong nghệ thuật bởi bảy ngôi tháp (Stùpa) đựng xá lợi
hay bởi bảy cây, dưới gốc những cây đó các ngài đã đạt đến giác ngộ. Ở
Gandhàra, Mathùra Ajanta, đức
Phật trình bày dưới hình thức nhân loại hoàn toàn không thể phân biệt
được với nhau. 3. Bây giờ chúng ta phải khảo sát
đức Phật trong “Báo thân”
của ngài. Khi đi lại như một con người, Thích Ca dĩ nhiên như những
người khác. Nhưng thân thể bình thường này của đức Phật chỉ là một lớp
ngoại diện bao bọc và đồng thời che dấu nhân tính thực thụ của ngài và
nó hoàn toàn ngẫu nhiên và không đáng kể.
đó không phải là một biểu
lộ tương xứng với con người thực của đức Phật. Ẩn sau lớp vỏ ngoài này
còn có một thân khác, khác biệt thân của mọi người về nhiều
phương diện, chỉ có thể nhìn
thấy bằng con mắt bằng đức tin. Phật tử gọi thân nó bằng nhiều tên khác
nhau, “thụ dụng thân”, “vô cấu thân”, “Phật tính thân”. Một danh số gồm
“32 tướng đại tượng phu” thường được bổ túc bằng một danh số 80 “tướng
tốt phụ” mô tả những sắc thái nổi bật nhất của “Báo thân Phật”. Bản danh
số 32 tướng tốt được tất cả mọi tông phái chấp nhận và chắc chắn phải cổ
điển lắm rồi. Tranh và tượng Phật chúng ta thấy trong nghệ thuật Phật
giáo không bao giờ thấy thân thể con người mà ai cũng thấy, nhưng bao
giờ cũng cố gắng trình bày “Báo thân” của đức Phật. Không
phải do những thời kỳ Phật giáo sử gần đây sáng tạo ra, ý tưởng cho rằng
những dấu hiệu khác nhau trên thân thể, chỉ những hiền triết mới nhận
ra, chỉ định mệnh một người, vóc dáng và tương lai, cổ xưa hơn cả Phật
giáo nữa. 32 tướng đại tượng phu phát xuất từ một thiên văn chuyên thư
tiền Phật giáo. “Báo thân” Phật không chịu những giới hạn thể chất như
thân thể người ta. Thân đó có thể di chuyển trong một không gian không
lớn hơn một hạt cải, và trong một vài trường hợp, Phật bước đi ba bước
tới cõi trời Nhân đà la (Indra), nghĩa là một khoảng không gian dài lắm. Bàn kỹ về
những tướng cổ truyền của đại tượng phu sẽ đưa
chúng ta đi xa lắm, dầu người ta không thể hiểu nghệ thuật Phật giáo nếu
không hiểu rõ những tướng tốt này. “Báo thân” Phật cao 18 bộ, và nhiều
tượng Phật có chiều cao như vậy. Thân thể này màu vàng ròng tử kim.
“Giữa hai chân mày của đấng Thế tôn có một búp len
[7] (ùrnà)
mềm như bông, và giống như hoa nhài, như mặt trăng, như vỏ óc, như tua
nhụy bông sen, như sữa,
như một giọt sương đọng. Một luồng ánh sáng muôn
màu rạng ngời phát ra từ búp bông trắng như tuyết
hay bạch kim đó
[8]
. điêu
khắc thường trình bày ùrnà bằng một điểm trơn hay bằng một viên ngọc
thạch. Trong giai đoạn sau này của Phật giáo, đã giải thích ùrnà như một
con mắt thứ ba “con mắt trí tuệ”. Ở đây chúng ta phải nói tới truyền
thống vay mượn nhiều ở sự tu tập Yoga. Những Du già sư thường chú tâm
vào một điểm vô hình ở trên và giữa hai chân mày, và thuyết Yoga luôn
luôn chủ trương có một trung tâm giáo lý hay tâm linh lực nằm ở
phần đó của vầng trán. Hai đặc điểm nữa của “Báo thân”
Phật đặc biệt đáng chú ý và quan trọng.
đó là Ushnisha,
nghĩa đen là “Khăn bịt đầu”, một thứ “mũ chùm đầu” được tô vẽ trên những
pho tượng như một cục
bướu hay chỗ u trên đỉnh đầu. Ở Gandhàra nó hình tròn, ở Cambodge hình
nón, nhọn ở Siam và những tiểu tượng ở Bengale vào cuối thế kỷ thứ XI,
cuối cùng ở Lào, nó có hình thể một ngọn lửa. Ngoài ra, có một ngọn lửa
không ngừng tỏa ra từ thân đức Phật. Tia sáng phát ra từ nơi ngài và soi
sáng một vùng không gian rộng lớn. “Chung quanh thân đức Phật luôn
luôn có một ngọn lửa, rộng sáu bộ, bốn phương đêm ngày chiếu sáng, rực
rỡ như ngàn mặt trời, và giống như một trái núi kim cương chuyển động”.
Theo truyền thống chung của Ấn độ, có một thứ năng lực mãnh liệt
rạng ngời tỏa ra từ thân những vĩ nhân, và tập quán tu tập thiền định
tăng trưởng ngọn lửa ấy. Luôn luôn quyền lực thần diệu này được tượng
trưng bằng những ngọn lửa tỏa ra từ một vầng hào quang quanh đầu đức
Phật và đôi khi từ hai vai. Ở Java, những ngọn lửa nhỏ phát ra từ vầng
hào quang sau tượng Phật có hình của vần OM thiêng liêng, nghĩa
là có hình thể một dấu hỏi ngược và một cái đuôi
vòng theo đường trôn ốc. Xung quanh đầu đức Phật có một vầng hào quang
chỉ thần tính và thánh tính. Trong nghệ thuật Gandhàra vầng hào quang
cũng được dùng cho các vị thần và vua chúa, và nghệ thuật Ky tôn giáo
cũng đã nhận biểu tượng này
vào thế kỷ thứ IV. Ở bất cứ
nơi nào danh từ đức Phật được dùng trong truyền thống Phật giáo, người
ta thấy ngay tam diện này của đức Phật trước mắt.
đối với những sử gia Ky
tô và theo chủ trương bất khả tri luận, chỉ có đức Phật nhân loại là
thực, còn đức Phật tâm linh và thần thông dưới mắt họ chỉ là sản phẩm
tưởng tượng. Viễn tượng của những tín đồ thì lại khác hẳn. Bản hữu Phật
và “Báo thân” Phật trổi vượt lên một cách rõ ràng, và thân nhân loại của
đức Phật cũng như cuộc sống lịch sử của Ngài hiện ra như những miếng giẻ
rách tả tơi ném lên ngai tâm linh ngời sáng. Người ta thường
nói rằng Phật giáo là một hệ
thống vô thần, và giả thuyết này đã đưa đến nhiều cuộc tranh luận. Một
vài người quả quyết rằng vì Phật giáo không bàn tới Thượng đế, nên không
phải là một tôn giáo; người ta khác chủ trương Phật giáo hiển nhiên là
một tôn giáo không biết tới Thượng đế, lòng tin vào Thượng đế không
thiết yếu đối với tôn giáo. Những cuộc tranh luận này phát xuất từ giả
thuyết rằng Thượng đế
là một danh từ minh bạch. Nhưng không đúng như vậy.
Ở đây chúng ta có thể
phân biệt ít nhất ba ý nghĩa của danh từ này. Trước hết có Thượng đế
hữu ngã sáng tạo vũ-trụ; thứ đến có một Thiên tính, được quan
niệm như vô ngã hay Siêu ngã; thứ ba có một số những Thần Thánh,
hay thiên thần không phân biệt rõ rệt lắm với các thần thánh. 1.
Theo nghĩa thứ nhất, truyền thống Phật-giáo không hoàn toàn phủ nhận sự
hiện hữu của đấng sáng tạo, nhưng Phật giáo không quan tâm lắm xem ai là
đấng đã tạo ra vũ trụ. Cứu cánh của giáo lý Phật giáo là giải thoát
chúng sanh khỏi khổ đau, và những suy lý liên quan đến nguồn gốc của vũ
trụ không quan trọng đối với công cuộc nầy. Không những sự suy lý đó làm
mất thì giờ mà chúng còn có thể trì hoãn sự giải thoát khổ đau bằng cách
tạo ra những ác ý trong mình và trong người khác. Nếu vì thế những
Phật-tử nhận một thái độ bất khả tri đối với vấn-đề một đấng sáng tạo
hữu ngã, họ không ngần ngại đề cao đức Phật hơn Brahman, Thượng đế, theo
thần học Bà la môn giáo, đã tạo ra vũ trụ. Họ cho rằng Phạm Thiên Brahma
đã mắc phải tính kiêu ngạo khi nghĩ về mình như thế này: “Ta là
Brahma, ta là Brahma vĩ đại, Chúa tể chư
Thần; ta không phải vật thụ tạo, ta sáng tạo ra thế giới, ta là đế vương
của trần gian, ta có thể sáng tạo, thay đổi sinh sản; ta là Cha của muôn
loài.” Kinh điển không ngần ngại vạch ra cho
thấy rằng Như Lai không mắc phải tính khoa trương trẻ con ấy. Nếu sự
lãnh đạm với một đấng sáng tạo hữu ngã của Vũ trụ là chủ trương Vô thần,
thì quả thực Phật giáo vô thần. 2.
Tuy nhiên ngày nay, có lẽ chỉ nhờ những tác phẩm của Aldous Huxley,
chúng ta đã quen thuộc với sự phân biệt giữa Thượng đế và Thần tính, nét
đặc trưng của Perennical Philosophy. Khi chúng ta so sánh những
thuộc từ của Thiên Chúa giáo hiểu, với những thuộc từ của Nirvàna, gần
như chúng ta không thấy một sự khác biệt nào. Quả thực Niết Bàn không có
những tác dụng vũ trụ, không phải là thế giới của Thượng đế, nhưng là
một thế giới tạo ra bởi lòng tham lam và đần độn của chúng ta. Quả thực
qua thái độ của họ Phật tử biểu lộ một sự khước từ trần gian về tất cả
mọi phương diện quyết liệt hơn sự khước từ chúng ta ta thấy nơi những
người Ky-tô giáo. đồng
thời họ tránh được một số những vấn đề thần học vụng về bí hiểm và cảm
thấy không cần phối hợp, thí dụ, giả thuyết một Thượng đế toàn năng và
đầy tình thương với sự hiện hữu của những nỗi khổ đau và hỗn loạn vô tận
trong thế gian này. Phật giáo không bao giờ tuyên bố rằng Thượng đế là
Tình yêu, có lẽ vì thận trọng đối với sự chính xác tinh thần đã khiến họ
phải quan niệm rằng chữ “Tình yêu” là một chữ không thích đáng nhất và
hàm hồ nhất mà người ta có thể dùng. Nhưng ngược lại, người ta nói với
chúng ta rằng Niết Bàn là thường tại, vững bền, không thể lay chuyển,
không tuổi tác, bất sinh bất diệt, không thành, không hoại.
đó là sức mạnh, cực lạc
và hạnh phúc, nơi an trú và nơi an ninh bất khả xâm phạm.
đó là Chân lý thực thụ,
và Thực tại tối cao, đó là Thiện, cứu cánh tối thượng, và sự
thành tựu duy nhất của cuộc đời chúng ta, Hòa bình vĩnh cửu, sâu kín và
bất khả lãnh hội. Tương tự,
đức Phật, như sự nhập thể
của Niết Bàn, trở thành đối tượng của tất cả những cảm xúc mà chúng ta
quen gọi là tôn giáo. Qua Phật giáo sử chúng ta cũng thấy
có sự căng thẳng giữa hai cách thế hành giáo Tín (Bhaktic) và Tuệ
(Gnostic), như trong Ky-tô giáo. Tuy nhiên có sự khác biệt là trong Phật
giáo viễn quan Tuệ luôn luôn được nhìn nhận là viễn quan chân chính hơn,
trong khi viễn quan Bhakti, sùng tín, ít nhiều được coi như thuộc quyền
khai thác của đám phàm phu tục tử (xem chương IV, đoạn 7). Người ta
thường tìm thấy trong tư tưởng triết học hay cả những tư tưởng triết học
trừu tượng cũng mặc một thứ ấm áp cảm xúc khi chúng liên hệ đến Tuyệt
đối. Chúng ta chỉ cần nghĩ tới những đoạn miêu tả về nguyên
động
đệ Nhất của Aristote.
Nhưng trong Phật giáo, ngoài ra, toàn thể hệ thống nghi thức, và sự cử
dương thánh thể được liên kết với một Tuyệt đối được quan niệm theo quan
điểm tâm linh bằng một cách thế không thể chấp nhận được về phương diện
luận lý, nhưng đã chống lại được sự thử thách của đời sống trong một
thời gian lâu dài. 3.
Bây giờ chúng ta đi đến một đề tài gai góc của
đa thần giáo. Giáo lý
Ky-tô phần nào đã thấu nhập vào nền giáo dục của chúng ta, khiến chúng
ta tin rằng đa thần giáo
thuộc về một giai đoạn đã bị vượt qua của nhân loại, nó đã bị thay thế
bởi độc thần giáo, và không còn tìm thấy chút âm hưởng nào trong tâm hồn
con người hiện đại nữa. để
có thể thấu hiểu lòng bao dung của Phật giáo đối với chủ trương đa thần,
trước hết chúng ta phải hiểu rằng
đa-thần giáo vẫn còn rất
sống động, ngay cả trong chúng ta. Nhưng nơi nào trước kia Nhã-điển,
Baal Astarté, Isis, Xá vệ (Sarasvati), Quan Âm, v.v… đã kích thích óc
tưởng tượng của quần chúng thế nào thì ngày nay những chữ như Dân
chủ, Tiến bộ, Văn minh, Bình đẳng, Lý trí, Khoa học, v.v… khêu gợi
họ như thế. Một rừng người đã thay thế cho một rừng danh từ trừu tượng.
Ở Âu châu khúc quanh đã được đánh dấu ngày mà người Pháp truất phế Mary
đồng Trinh và chuyển lòng
ưu ái của họ tới Nữ thần Lý trí. Lý do của sự thay đổi này không cần
phải tìm đâu xa xôi. Thánh tính hữu ngã nẩy mầm nơi mảnh đất của nền văn
hóa nông thôn trong đó đa số dân chúng không biết chữ, trong khi những
danh từ trừu tượng tìm thấy đặc ân nơi những người học thức trong những
đô thị mới. Người trung cổ đi chinh chiến cho Jésus-Christ, Thánh George
và San José. Những cuộc viễn chinh của thập tự quân thời hiện đại hỗ trợ
cho những danh từ trừu tượng như Thiên Chúa giáo, lối sống Thiên chúa,
Dân chủ và Nhân quyền. Học thức, tuy nhiên, không phải là
yếu tố duy nhất khiến đa
thần giáo của thời đại mới khác
đa thần giáo của cổ thời. Một yếu tố khác là sự phân cách của
chúng ta với những mãnh lực Thiên nhiên. Ngày xưa mỗi một cái cây, mỗi
một cái giếng, hồ hay sông rạch, hầu như mỗi một loại thú vật đều có thể
tạo ra một thánh tính. Thêm vào đó lòng ưa chuộng dân chủ khiến chúng ta
giảm bớt khuynh hướng phong thần cho những vĩ nhân.
Ở Ấn-độ, vua chúa ngày
xưa được tôn như Thần thánh và luôn luôn, kể từ thời cổ Ai-cập, chế độ
quân chủ chuyên chế của vị chúa thần thánh là một đường lối hữu hiệu
nhất để tập trung quyền hành trong tay nhà vua - ở La Mã, Trung-Hoa,
Iran và Nhật Bản. Nhiều người tuy đề cao Hitler, Staline và Churchill
đến đâu, họ không còn có khuynh hướng đặt những người ấy hoàn toàn
lên hàng thần thánh nữa. Sự phong thần những vĩ nhân không hạn chế
những nhân vật trong chính giới.
đa thần giáo cựu truyền của tâm trí con người đã bừng nở trong
Hồi giáo và Thiên chúa giáo, sau lớp vỏ của một Nhất thần giáo chính
thức dưới hình thức thờ phụng chư thánh. Trong Hồi giáo nữa, chư thánh
hợp nhất với những quỷ thần mà từ thời xa xưa trú ngụ ở những giang sơn
khác nhau. Cuối cùng, chúng ta phải ý thức rõ rệt rằng những tín đồ ở
bất cứ nơi đâu đều mong đợi những lợi lộc nhãn tiền mà tôn giáo họ đem
lại. Mới đây, trong một cửa tiệm Anh quốc giáo (Anglican) ở Oxford, tôi
thấy rằng ngày nay có lẽ Thánh Christophe là bậc thánh duy nhất thu hút
những hội này: Huy chương của ngài ngăn ngừa những tai nạn xe cộ. Tương
tự, Phật tử trông đợi tôn giáo họ ngăn ngừa bệnh tật và hỏa hoạn, có thể
cho họ con cái và những lợi lộc khác. Thật quá hiển nhiên là một Thượng
đế độc nhất ngự trị trên kia, trên cả những tinh tú và phải coi sóc toàn
thể vũ trụ không lẽ lại có thể bị phiền nhiễu vì những chuyện nhỏ mọn
như thế. Những nhu cầu đặc biệt, tuy nhiên, đẻ ra những thần thánh đặc
biệt để thỏa mãn chúng. Hiện nay, chúng ta đã phát triển trong chúng ta
lòng tin tưởng rằng khoa học và kỹ nghệ sẽ thỏa mãn cho những nhu cầu
ấy, và những khuynh hướng “mê tín” nhất của chúng ta được dành cho những
hoạt động chứa đựng một yếu tố may rủi lớn lao này. Trong đám người chấp nhận Phật
giáo, gần như tất cả những hoạt động đều chứa đựng một yếu tố may rủi
lớn lao, và một số lớn thần linh đã được cầu đảo để phù trợ họ, Phật tử
không tìm thấy bất cứ một lý do nào để chống đối việc thờ phụng nhiều
Thần thánh bởi vì ý niệm về một Thượng đế hay ghen tuông hoàn toàn xa lạ
đối với họ; và cũng bởi vì họ quá tin rằng sự thông tuệ của người ta rất
giới hạn, đến nỗi chúng ta khó biết khi nào chúng ta đúng và nhất là
không thể nào chắc chắn người nào đó sai lầm. Như người Ky-tô giáo, Phật
tử tin rằng một đức tin
chỉ có thể duy trì được nếu nó có thể thích nghi với thói quen tâm lý
của những con người trung bình. Vì lẽ đó, chúng ta thấy rằng trong Cựu
điển, những thần thánh của Bà-La-Môn giáo đều được chấp nhận và sau này,
Phật tử đón nhận tất cả những vị Thần địa phương của bất cứ miền nào họ
đến. Nếu chủ nghĩa vô thần là sự phủ
nhận sự hiện hữu của một Thượng đế, người ta sẽ sai lầm vô cùng khi mô
tả Phật giáo như một tôn giáo vô thần. Mặt khác,
độc thần luận chưa bao
giờ lôi cuốn được tâm hồn Phật giáo. Phật giáo không bao giờ quan tâm
tới nguồn gốc vũ trụ - trừ một ngoại lệ: vào khoảng năm 1000 sau T.L.
Phật tử ở Tây Bắc Ấn giao tiếp những lực lượng chiến thắng của Hồi giáo.
Trong tham vọng là tất cả cho tất cả mọi thần học của họ bằng một khái
niệm về một Adibuddha (Thiền Phật), một thứ Phật toàn năng và toàn tri
nguyên thủy, người bằng thiền định đã tạo ra Vũ trụ. Ý niệm này đã được
một số tông phái ở Népal và Tây Tạng chấp nhận (xem chương VIII, đoạn
6.) Sau Phật, là Pháp. Tinh hoa của
giáo lý, được tất cả các trường phái công nhận, nằm trong tứ Thánh
đế mà
đức Phật giảng lần thứ
nhất tại Bénarès (Ba-la-nại) ngay sau khi giác ngộ. Trước hết tôi phát
biểu công thức của phần giáo lý căn bản này, sau đó đến phần bình luận. 1.
Khổ đế là gì? Sinh là
khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ.
Ái biệt ly khổ.
Oán tắng hội
[9]
khổ. Cầu bất đắc
cũng là khổ. Tóm lại, chấp thủ vào bất cứ cái gì nằm trong ngũ uẩn là
khổ. 2.
Khổ Tập Thánh đế là gì?
đó chính là dục đưa đến
tái sinh, tương ưng với hỷ và tham, cầu tìm
hoan lạc nay đây mai đó, nghĩa
là khao khát kinh nghiệm cảm giác, khao khát miên trường tự ngã
(thường kiến), khao
khát hủy diệt, (đoạn kiến).
3. Khổ Tập Diệt Thánh
đế là gì?đó
là sự tận diệt hoàn hoàn tham ái khao khát này, sự trừ khử, xả ly, giải
thoát khỏi nó, không ràng buộc với nó.
4. Khổ Tập Diệt
đạo Thánh
đế là gì?
đó là bát chính
đạo, gồm có: chính kiến,
chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng, chính tinh tấn, chính
niệm chính định. Sự quán
tưởng một cách có hệ thống về Tứ Thánh
đế, được coi như
những sự kiện nền tảng của đời sống, là một phận sự then chốt của đời
sống Phật tử. Ở đây tôi phải giới hạn vào Thánh đế thứ nhất. Duyệt qua
một vài ý nghĩa hàm xúc của nó sẽ giúp chúng ta rất nhiều trong việc
thấu hiểu giáo lý Phật giáo trong viễn tượng đứng đắn của nó. Phần thứ nhất không mang lại nhiều
khó khăn lắm cho trí tuệ, và ai cũng có thể ưng chuẩn. Nó chỉ kể
ra bảy khía
cạnh quen thuộc chất chứa khổ đau của cuộc đời. Sự chống đối tinh thần
của chúng ta chỉ bắt đầu với phần thứ hai, bao hàm phổ quát tính của đau
khổ. Tuy nhiên chúng ta phải kể thêm sự chống đối cảm xúc tác động như
một chướng ngại mãnh liệt cho sự thẩm định viên mãn đối với ngay cả phần
thứ nhất. đa số chúng ta
có khuynh hướng sống trong
một thiên đường ảo tưởng, ngắm
nhìn những khía cạnh tươi sáng của cuộc sống và thu nhỏ đến mức tối
thiểu những khía cạnh khó chịu của nó. Thường trụ trên đau khổ thông
thường đồng nghĩa với việc đi ngược lại những khuynh hướng của chúng ta.
Thường thường, chúng ta che phủ nỗi đau khổ bằng tất cả mọi loại “màn
che cảm xúc”. Cuộc đời sẽ không thể nào chịu đựng được với phần đông
chúng ta có thể nhìn thấy rõ bản chất của nó, và nếu viễn tượng tinh
thần của chúng ta chiếu rọi vào những khía cạnh nhờm tởm của nó cùng một
cường độ ánh sáng như vào những khía cạnh đáng yêu kia. Chúng ta thích
quay mặt đi với những sự kiện đau buồn.
điều thấy rõ trong sự
bành trướng của những “Uyển khúc ngữ Pháp”, (euphemisms) là một cách nói
tránh những danh từ có thể gợi ra những liên tưởng khó chịu. Một lối
diễn tả mơ hồ hay quanh co che lấp một sự kiện khó chịu hay cấm kỵ.
Trong bất cứ ngôn ngữ nào cũng có hàng trăm uyển khúc ngữ pháp dùng thay
cho sự “chết, dĩ vãng, bệnh hoạn, cái giống, sự tiêu hóa, và những thảm
cảnh gia đình”. Một người không “chết”, nhưng hắn “đi”, “trút hơi thở
cuối cùng”, “yên nghỉ”, “từ trần”, “gặp lại
đấng đã tạo ra hắn”, “về
chầu ông bà”, “về Tây phương cực lạc” v.v… Một cố gắng tư duy đặc biệt
cần phải vận dụng để đối mặt với thực tại viên mãn của cái chết. Thái độ
chung là nhắm mắt trước những sự kiện cay đắng, quầy quả bỏ đi, giảm tới
mức tối thiểu tầm quan trọng của chúng hay thêu dệt hoa hòe hoa sói.
Những người đàn bà đứng tuổi không thích người ta nhắc tới tuổi tác
mình. Khi nhìn thấy một xác chết người ta thường rùng mình và nhìn
đi chỗ khác. Như một đề tài trò chuyện, những khía cạnh não nề và buồn
nản của cuộc đời làm chướng tai gai mắt người thượng lưu, và làm những
người khác kinh sợ. Hơn nữa, một sự tư duy đặc biệt rất cần thiết để gợi
ra những cái thường thường bị bỏ quên. Ở đây tôi không thể chứng minh
một cách kỹ lưỡng sự chạy trốn thực tại chua chát lại một phần do lòng
ngã ái, và nhất là do sự sợ hãi, cộng với ước muốn bảo vệ nhân tính khỏi
những ý tưởng đe dọa sự nhất trí của nó ra sao. Cái đám đại chúng áp đảo
dễ sợ kia chẳng có thể sống hớn hở như thế nếu không từng chấp nhận một
thái độ đà điểu trước cuộc đời. Chính trong ý nghĩa này mà Thánh đế thứ
nhất tự nó chẳng phân minh. để
hiểu nó, chúng ta phải
tàn bạo với những tập quán suy tưởng cố cựu của chúng ta. Trong ước muốn
in sâu những khía cạnh thiếu quyến rủ của cuộc đời lên một tâm trí trơ
lì khăng khăng cự tuyệt, Quán hạnh sư Phật giáo (Yogin) vì thế sẽ phải
quán tưởng cặn kẽ từng chi tiết lần lượt bảy đề mục của
công thức. Cuối công thức,
đức Phật đã phát biểu
rằng vạn pháp trong thế gian này đều bị trói buộc trong vòng khổ đau.
Trước đây chúng ta đã nói tới ngũ uẩn. Bây giờ người ta nói rằng không
thể “đụng chạm” tới vật thể, hay cảm giác, tri giác, xung động và những
hành động ý thức
[10] mà không
bị lôi cuốn vào đau khổ. Buddhaghosa (Phật Minh) giảng giải ý nghĩa
những lời giáo huấn của đức Phật bằng một chuỗi thí dụ chọn lọc. “Cũng
như lửa với củi, khí giới với mục tiêu, những con ruồi trâu, muỗi, v.v…
với thân con bò, những người thợ gặt với cánh đồng, những tên trộm cướp
với xóm làng – cũng vậy ở đây sinh, v.v… xáo trộn ngũ uẩn trong đó chúng
được tạo ra, giống hệt như cỏ và cây leo mọc trên mặt đất, hay như hoa
và trái trổ trên cây”. Phổ quát tính của khổ đau không
hiện ra ngay như một sự kiện tự minh nhiên. Chúng ta bướng bỉnh bám vào
niềm tin rằng người ta có thể tìm thấy một vài nguồn hạnh phúc trong thế
gian này. Chỉ có thánh nhân, A-La-Hán mới có thể hiểu trọn vẹn đệ nhất
Chân Lý. Như đức Phật đã nói: “Bắn hết mũi tên này đến hết mũi tên
khác qua một lỗ khóa nhỏ ở đằng xa và không trượt một lần nào là một
việc khó khăn. Bắn một sợi tóc chẻ ra một trăm lần xuyên qua một sợi tóc
cũng chẻ ra từng ấy lần còn khó khăn hơn nữa. Thấu hiểu sự kiện: “tất cả
là khổ đau” còn khó khăn hơn thế nữa”. Quả thực, việc trực giác được phổ
quát tính của khổ đau tăng trưởng dần dần cùng với sự trưởng thành tâm
linh của chúng ta. Có nhiều nỗi đau khổ hiển hiện trong thế gian. Tuy
nhiên một phần lớn bị che khuất và chỉ có hiền nhân mới nhận ra. Nỗi đau
khổ hiển hiện ra bởi những cảm giác khó chịu và đau đớn liên kết với nó,
và bởi phản ứng lẩn tránh và gớm ghét. Nỗi đau khổ che khuất nằm trong
cái mà bề ngoài có vẻ thú vị, nhưng trong đó đã chứa sẵn niềm đau. Chỉ
cần kể ra đây bốn thứ đau khổ bị che lấp, sự thấu hiểu những nỗi đau đó
tùy thuộc trình độ sâu sắc của trực giác tâm linh chúng ta: 1. Một cái gì, trong khi thú vị,
bao hàm nỗi đau khổ của tha nhân. Người ta thường mù quáng đối với khía cạnh này của sự vui thú cá nhân. Khả năng từ bi của chúng ta càng tăng lên, nó càng mở rộng phạm vi sầu muộn và chúng ta cảm thấy những nỗi đau khổ của những kẻ khác như của riêng chúng ta vậy. Con vịt quay thú vị chừng nào chúng ta chưa biết tới cảm giác của con vịt. Tâm trí vô thức của chúng ta có cảm thức liên đới với người khác mãnh liệt hơn chúng ta tưởng. Khi chúng ta mua lạc thú bằng cách tước đoạt những lạc thú của người nào đó, chúng ta có thể cảm thấy rằng lạc thú là một thứ đặc quyền đi đôi với một cảm thức tội lỗi vô thức. điều đó có thấy rõ trong thái độ của những người giầu sang đối với của cải họ. ít người giầu có mà tôi đã gặp không sợ trở thành nghèo khó. Họ cảm thấy không xứng đáng đối với của cải họ, vì thế người ta thường thấy họ cố gắng tỏ ra xứng đáng với nó. Vì họ hại người nghèo để làm giầu, họ không muốn nhìn thấy những người này, hay mua chuộc họ hoặc dày xéo họ về phương diện tinh thần bằng cách ngắm nhìn sự vô giá trị của họ. Cảm thức tội lỗi vô thức là kết quả của lòng từ bi bị ức chế. Người ta dễ dàng so đọ mình với một người đau khổ, nghèo túng hay dị dạng, và thường đặt mình vào cảnh ngộ những người ấy. Một vài người trong chúng ta cảm thấy mình không làm gì để xứng đáng được sung sướng hơn những người bạn xấu số. Ngược lại, chúng ta có thể cảm thấy xứng đáng bị trừng phạt, và không có gì thực có thể bảo vệ chúng ta khỏi một số phận tương tự. Người ta tránh nỗi tuyệt vọng tâm linh nhức nhối bằng cách chạy trốn nhận rằng lương tâm xã hội không bao giờ hoàn toàn dập tắt được. Những kẻ được sống trong hoàn cảnh may mắn thường tự trách mình vì sự khốn khổ của những kẻ khác. Tuy vậy họ tạo ra một hình ảnh xã hội trong đó sự cơ cực có thể hoặc giảm thiểu đến mức tối đa, hay có thể được biện minh hoặc tô vẽ đẹp đẽ: “Không ai có thể đói khát ở Anh quốc.” “Ai cũng có thể có công ăn việc làm nếu họ muốn.” “Hành khất chỉ là những kẻ làm biếng, và thường họ rất giầu. Bạn không thấy báo chí mới đây nói tới chuyện đó sao?” “Người nghèo có thể sẽ khá giả nếu họ không uống rượu nhiều thế, hay nếu họ bớt hút đi.” Tất cả những điều đó có thể đúng nhưng tại sao lại có thượng tầng kiến trúc tinh tác đó nếu không có một cảm thức tội lỗi trong cùng đáy của nó? 2. Một
cái gì, trong khi thú vị, bị nối kết với xao xuyến, vì người ta sợ mất
nó. Phật giáo
gọi nó là “hoại khổ”, và hầu hết, nếu không phải là tất cả, đều có thể
vướng vào. Xao xuyến và lo âu không thể tách lìa với ràng buộc. Sự kiện
này chỉ có thể hoàn toàn sáng tỏ khi người ta dám giải thoát khỏi ràng
buộc, và nếm cực lạc và vô úy khởi từ đó. 3. Một cái gì, trong khi thú vị,
trói buộc chúng ta chặt hơn nữa với những pháp hữu vi là mảnh đất trên
đó đa số đau khổ không thể tránh được. Biết bao điều kinh khủng chúng ta
đã gặp phải chỉ bởi sự kiện chúng ta có một cái thân! Nhiều dục lạc được
tiếp nối bởi ác nghiệp (trừng phạt), và bởi khao khát mới trói buộc
chúng ta với trần gian này. Khổ đau liên quan mật thiết với sự kiện duy
nhất là cuộc sống của chúng ta thuộc pháp hữu vi. Thường thường chúng ta
hoàn toàn không thể nhìn thấy rõ, và cặp mắt chúng ta chỉ rộng mở khi
nào, nhờ sự thiền định lâu dài, chúng đạt được một vài hiểu biết về cái
vô vi như quê hương của chúng ta (xem chương IV, đoạn 6). 4. Những lạc thú phát sinh ra từ
bất cứ cái gì nằm trong những “uẩn” đều không thể thỏa mãn được những
ước vọng thâm sâu của chúng ta. Chúng phù phiếm, đầy xao xuyến, thô
bỉ và đê tiện. Cố gắng xây dựng hạnh phúc chân chính trên cái phù hoa,
tầm thường và vô nghĩa như những cái mà thế gian này cung hiến cho chúng
ta là một việc phi lý. điều
đó càng ngày càng trở nên rõ rệt khi chúng ta đạt tới kinh nghiệm về cực
lạc tâm linh. So sánh với nó, những lạc thú khách quan hình như thiếu
thỏa đáng, độc hại nữa, bởi vì chúng loại trừ niềm thanh tịnh mà sự xả
ly và đoạn diệt khát vọng đem lại. “Niềm
vui của những dục lạc trong thế gian, Về Chân
đế thứ hai và thứ ba, ý
nghĩa của chúng đã khá minh bạch. Chúng quả quyết rằng tham dục là nguồn
gốc của khổ đau, và đoạn diệt tham dục sẽ diệt trừ khổ đau. Cái giây
chặt chẽ nối kết khổ đau với tham dục đã
được trình bày trong một
hệ luận quan trọng với Tứ Thánh
đế, được biết dưới công thức Duyên Khởi. Bắt đầu Vô minh,
nó kết cấu mười hai nhân duyên với lão và tử ở cuối cùng, bao gồm tất cả
những hành pháp trong thế gian này. Cuộc khám phá ra thập nhị nhân duyên
được tán thán như công đức lớn lao nhất của Như Lai (Tathàgata). Một
tụng ngôn tóm tắt cương lĩnh của tất cả mọi tông phái Phật giáo, và
người ta thấy khắp nơi trên chùa chiền, bia đá, tượng, và bia ký trong
khắp thế giới chịu ảnh hưởng Phật giáo. “Như Lai đã giảng dạy nguyên
nhân của tất cả các pháp khởi lên từ một nhân duyên, và chấm dứt cũng
bằng một nhân duyên. Đó là giáo lý của đấng
đại Sa Môn.”
[11]
Tuy nhiên ý nghĩa đích thực
của thuyết thập nhị nhân duyên được diễn dịch một cách rất khác nhau
trong những tông phái khác nhau. Những chi tiết vượt ra ngoài khuôn khổ
cuốn sách này. Pháp môn tu tập nằm trong Bát Chính
đạo sẽ được bàn tới kỹ
lưỡng trong những chương kế tiếp. Ở đây, chúng ta chỉ cần ghi nhận rằng
Chính Kiến chỉ cho “Tứ Thánh
đế”, Chính Tư Duy,
là một ước vọng diệt tự ngã và đem lại an lạc cho kẻ khác, được
Buddhaghosa chú giải bằng ba thuật ngữ “Xả ly, Vô ác ý và Bất hại”,
và Chính Tinh Tấn nhằm những cố gắng từ bỏ tất cả mọi ác
pháp, và gặt hái, phát triển, gieo trồng thiện pháp thay vào đó.
“Như vậy tôi nghe. Một
thời đức Thế Tôn trú tại…
-ooOoo-
Ðầu trang |
Mục Lục
| |
Chân thành cám ơn Đại đức
Thích Nguyên Tạng đã gửi tặng bản vi tính
và đạo hữu Tâm Bửu đã giúp dò soát
(Bình Anson, 03-2004)
[Trở về
trang Thư Mục]
last updated: 05-04-2004