| Chương 
        III Thiền 
        Chỉ - Thiền QuánBốn Mươi Ðối Tượng Thiền Quán
 Có 
        hai hình thức thực hiện Thiền định của Phật giáo gọi 
        là Thiền chỉ (Samatha) và Thiền quán (Vipassana). Các hành 
        giả thường có chủ trương hành ròng Thiền quán, có người 
        chủ trương hành ròng Thiền chỉ, có người chủ trương hành 
        Chỉ Quán song tu, có người đặt nặng Thiền chỉ, có người 
        lại đặt nặng Thiền quán. Các chủ trương ấy đều đúng 
        cả, nhưng chỉ thích ứng với một số căn cơ nào đó, mà 
        không phải thích ứng với mọi căn cơ. Hình thức thực 
        hiện Thiền định thiện xảo nhất là hành Chỉ Quán Song 
        Tu (tu tập xen kẻ Chỉ và Quán). Cứ xét kỹ 37 phẩm trợ 
        đạo ta sẽ thấy rõ điều đó. Trong Tứ Niệm Xứ, mỗi đối tượng 
        thân, thọ, tâm và pháp đều có hai phần thực hiện: chỉ 
        và quán. Phần quan sát, theo dõi các đối tượng gọi là 
        Thiền chỉ, phần quán tánh sanh diệt trên mỗi đối tượng 
        gọi là Thiền quán. Trong Tứ như ý túc, Tâm định là 
        thuộc Thiền chỉ, Tư duy định là thuộc Thiền quán. Trong Năm căn và Năm lực, chi 
        phần Niệm chính là Bốn Niệm Xứ gồm đủ Thiền chỉ và 
        Thiền quán. Trong Bát Thánh Ðạo, Chánh niệm 
        tương đương với Tứ Niệm Xứ, Chánh tư duy thì tương 
        đương với Thiền quán. Nói tóm, Ðạo đế hay con đường 
        Thiền định của Phật giáo là con đường tu tập rất quân 
        bình của Chỉ và Quán. Thiền Chỉ Nếu bạn dừng suy nghĩ và để tâm 
        theo dõi hơi thở vào ra, hoặc để tâm dừng trú trên một 
        đối tượng nhất định với chánh niệm tỉnh giác, thì đây 
        gọi là Thiền chỉ. Thiền chỉ là phần tu tập giữ tâm lý 
        ở trạng thái tĩnh có tác dụng đối trị các tâm lý dao 
        động, trạo cữ, đối trị với các vọng niệm thường 
        khởi lên những ham muốn, những ưu tư v.v... Hành Thiền 
        chỉ, bạn dễ đi vào thân an và tâm an, và do đó dễ đi vào 
        định. Trong Bảy giác chi, Niệm giác chi 
        là chi phần quân bình động tĩnh; Trạch pháp giác chi, Tinh 
        tấn giác chi và Hỷ giác chi là thuộc phần động; Khinh an 
        giác chi, Ðịnh giác chi và Xả giác chi là thuộc phần tĩnh, 
        thuộc Thiền chỉ. Thông thường, khi nào tâm lý hành 
        giả dao động, bồn chồn, hân hoan thì hành giả nên đề 
        khởi Thiền chỉ, tránh đề khởi Thiền quán. Bấy giờ 
        nếu hành Thiền quán thì tâm lý sẽ trở nên động hơn, khó 
        phát triển định lực. Theo dõi hơi thở vào ra, hay theo dõi 
        thân nhiệt, chỉ ghi nhận mà không tư duy và không có phản 
        ứng tâm lý nào đối với thân hành là hành Thiền chỉ 
        về niệm Thân. Theo dõi các cảm thọ trong tự thân, 
        cảm thọ như thế nào thì ghi nhận như thế ấy - hỷ, 
        lạc hay không hỷ không lạc, hoặc các cảm thọ sầu, ưu 
        khác... - mà không có tư duy về các cảm thọ, cũng không có 
        phản ứng tâm lý đối với các cảm thọ ấy, là hành 
        Thiền chỉ về niệm Thọ. Theo dõi các sinh khởi của tâm lý 
        mình - tâm lý tham khởi, sân khởi, si khởi hay không tham, không 
        sân, không si khởi - và chỉ ghi nhận sự có mặt các tâm lý 
        ấy mà không có phản ứng tâm lý khác tiếp theo và không tư 
        duy, phân tích các hiện tượng tâm lý ấy là hành Thiền 
        chỉ về niệm Tâm. Lắng tâm trú niệm trên một 
        cảnh vô thường, khổ đau hoặc diệt nào đó đã để 
        lại một ấn tượng sâu sắc trong lòng mình, hoặc để tâm 
        trên các quá trình của tâm - vật lý, hay để tâm chú ý trên 
        hình ảnh của chiến tranh, của lá đổ v.v... mà không tư 
        duy phân tích các hiện tượng ấy là hành Thiền chỉ về 
        niệm Pháp. Trú tâm trên hình ảnh của Thế 
        Tôn, trên những đức tánh và đức tướng của Thế Tôn, 
        hoặc trú tâm trên hình ảnh của một gương mẫu thanh 
        tịnh xuất thế nào đó, cũng là hành Thiền chỉ. Ðể niệm theo dõi ảnh tượng êm 
        đềm của thời thơ ấu, của các cảnh trời được diễn 
        đạt trong kinh điển v.v... cũng là hành Thiền chỉ. Ðể tâm lắng tỉnh và yên lặng 
        dừng lại ở niệm từ bỏ, ở niệm không ham muốn cảnh 
        đời phiền trược là hành Thiền chỉ về niệm Pháp. Thường thì các hành giả trong 
        giai đoạn đầu tu tập nên hành Thiền chỉ hay nặng về 
        Thiền chỉ để lắng đứng các vọng đọng của thân và tâm 
        trước khi hành chỉ quán song tu hay đi sâu vào Thiền quán. 
        Ở Thiền chỉ, bạn huấn luyện niệm lực vừa định lực 
        để có khả năng tập trung và quan sát sắc bén, sau đó 
        mới có hy vọng phát triển Thiền quán. Nếu tâm lý thích ứng với 
        Thiền chỉ thì bạn có thể hành Thiền chỉ liên tục cho 
        đến khi nào còn thấy cần thiết và còn dẫn đến kết 
        quả tốt. Nếu không phải là căn tánh đó, thì giai đoạn 
        đầu tu tập là giai đoạn trừ ngũ cái bạn cần để 
        khởi Thiền chỉ hay Thiền quán thích ứng với việc đối 
        trị từng chi phần của ngũ cái và thích ứng với tâm lý 
        bạn từng lúc ngồi Thiền. Ðặc biệt đối với căn tánh tư 
        duy quá nhiều thì pháp môn Thiền chỉ như là pháp môn được 
        chọn lựa thực hiện để quân bình tâm lý. Những lúc cần tĩnh dưỡng sức 
        khỏe để phục hồi năng lực, bạn hành Thiền chỉ. Nếu 
        bạn ngồi Thiền giữ chánh niệm đi ra khỏi trạo cử và hôn 
        trầm, và chỉ chờ các vọng niệm khởi lên thì bạn xóa, 
        thì đây là hình thức Thiền chỉ. Nhưng bạn cần tỉnh giác 
        để biết rằng tâm tịnh chỉ đến một mức độ nào đó 
        bạn cần phải đề khởi Thiền quán để có thể đi sâu và 
        nhanh vào Thiền định, vào việc loại trừ dần các kiết 
        sử. Thiền quán mới là sắc thái trí tuệ đặc biệt của 
        Thiền định Phật giáo. Thiền Quán Nếu theo dõi phân tích một đối 
        tượng, dù đối tượng đó là hơi thở hay Năm triền cái, 
        Năm uẩn, Mười hai giới, Bốn đại, Bảy giác chi hay Bốn 
        Thánh Ðế, và cái nhìn tư duy vận chuyển trên nền tảng 
        Duyên khởi hay Ba pháp ấn, thì đó là Thiền quán. Nói 
        giản dị, Chánh tư duy (tư duy về pháp, về không tham, không 
        sân, không si, không hại) là Thiền quán. Nếu chỉ đơn 
        thuần tư duy mênh mang trong các pháp "thế gian" thì chỉ 
        gọi là tư duy mà không phải là Thiền quán. Nếu tư duy phân tích về tánh 
        sanh khởi và đoạn diệt của thân hành thì gọi là Thiền 
        quán về Thân hành. Nếu tư duy, phân tích tánh sanh 
        khởi và đoạn diệt của các tâm lý tam, sân, si, vô tham, vô 
        sân, vô si thì gọi là Thiền quán về Tâm. Nếu tư duy, phân tích để hiển 
        lộ tánh vô ngã, vô thường, tánh hoại diệt, khổ đau 
        của các pháp, thì gọi là Thiền quán về các Pháp. Nếu tư duy, phân tích các pháp để 
        ly tham ái, ly chấp thủ thì cũng gọi là Thiền quán về các 
        pháp. Theo dõi đường hơi thở vào, hơi thở ra và cái 
        thấy biết về thân, tâm của sự theo dõi cho đến khi 
        bừng tỏ sự thật rằng: không có một tự ngã nào có 
        mặt trong quá trình vật lý, tâm lý ấy, và không có một 
        tự ngã nào gọi là ông A, bà B đang hành Thiền cả, thì đây 
        được gọi là hành Thiền Quán. Lập đi, lập lại công phu 
        này cũng gọi là hành Thiền quán. Theo truyền thống của kinh tạng 
        Nikàya (Kinh Bộ) và kinh tạng A-hàm, hành giả chỉ hành 
        Thiền quán hữu hiệu để loại trừ các kiết sử sau khi 
        đắc Tứ Thiền sắc định hay ít nhất là Sơ Thiền, Nhị 
        Thiền hay Tam Thiền. Tuy nhiên, chúng ta phải hiểu rằng con 
        đường vào giải thoát nói gọn là Bát Thánh Ðạo, mà hai 
        chi phần Chánh kiến và Chánh tư duy là thuộc Tuệ uẩn, 
        thuộc Thiền quán, nên trước khi vào Sơ Thiền, chúng ta có 
        thể hành Thiền quán xen kẻ vào Thiền chỉ để dễ loại 
        trừ dục, sân và nghi triền cái. Thiền quán lúc bấy giờ 
        chỉ được thực hiện vừa đủ, nếu nghiêng nặng Thiền 
        quán lúc bấy giờ thì dễ rơi vào trạo cử, chậm vào định. 
        Thiền quán sau khi rời Tứ Thiền là bước thực hiện 
        quyết định để loại trừ tận gốc rễ các kiết sử, 
        tham ái và vô minh. Suốt lộ trình hành Thiền định, 
        bất cứ khi nào tâm lý ở trạng thái tỉnh hay thụ động 
        như khinh an, xả, định ... thì hành giả cần để khởi 
        Thiền quán mới phát triển được tâm. Bạn có thể thực hiện Thiền quán 
        trong các sinh hoạt hằng ngày bất cứ khi nào bạn muốn và 
        bạn có thể. Ðấy là phương cách bạn quan sát và phân tích 
        sự vật với niệm giác tỉnh. Truyền thống tu tập thường ghi 
        lại bốn mươi đối tượng tu tập Thiền quán dành cho sáu 
        căn tánh khác nhau. Sáu căn tánh nỗi bật của con người 
        là: 
          1. Căn tánh tham ái (ràga carita).2. Căn tánh sân hận (dosa carita).
 3. Căn tánh si mê (moha carita).
 4. Căn tánh về đức tin (saddhà carita).
 5. Căn tánh tri thức, luận giải (buddhi carita).
 6. Căn tánh phóng đảng (vitakka carita)
 Bốn mươi đối tượng Thiền quán 
        bao gồm: 1. Mười đối tượng liên hệ đến 
        các vật có tướng trạng như: đất, gió, lửa, vật màu 
        xanh, vàng, đỏ, trắng, ánh sáng và không gian. Về đất, bạn có thể phân tích 
        về tính duyên sinh của nó, có thể quan sát tính nhẫn 
        chịu, không dính mắc hay tính thanh tịnh của nó như các 
        chất nhơ không thể làm bẩn được đất, như các loài 
        thực vật có thể sinh sống từ đất v.v... để bạn giác 
        tỉnh rằng cái tánh của tâm mình cũng thế. Về nước, tương tự, các chất 
        nhơ cũng không có thể làm nhơ được nước, nước dung 
        chứa tất cả và nhẫn chịu tất cả. Tâm của con người 
        cũng vậy. Về gió, không có gì có thể làm 
        nhơ được gió, gió thổi qua tất cả mà không dính mắc. Tâm 
        của con người cũng vậy. Về lửa, các chất nhơ không làm 
        hoen ố được lửa. Lửa đốt cháy tất cả mà vẫn tỉnh 
        lặng, không dính mắc. Tâm của con người cũng vậy. Chúng ta phải học nhiếp tâm mình 
        theo tánh của đất, nước, gió, lửa. Về màu sắc, có tâm lý thích 
        hợp với màu xanh, có tâm lý thích hợp với màu đỏ v.v... 
        Bạn hãy quán sát tâm lý của mình thích hợp với màu sắc 
        nào thì bạn chọn vật có màu sắc ấy làm đối tượng 
        Thiền quán. Nếu màu thích ứng tâm lý thì bạn dễ hân 
        hoan đi vào quán niệm; ngược lai, màu chọi lại tâm lý thì 
        bạn sẽ không tập trung được tâm vào Thiền quán, có khi 
        còn bị phản ứng đi vào sầu não, chán nản. Về ánh sáng, không gian bạn cũng 
        hành Thiền quán tương tự. Ánh sáng và không gian đều 
        thanh tịnh và bủa khắp, không có gì làm ô uế được. Tâm 
        của con người cũng vậy. 2. Mười đối tượng về xác 
        chết như: sình, biến sắc, rã, chảy nước dơ, bị 
        cắt đứt đoạn, bị xé nát, bị bung rời từng mảnh, không 
        nguyên hình thể, đẫm máu, bị dòi rỉa, thi hài chỉ còn 
        cốt. Quán mười đối tượng xác 
        chất này gọi là quán bất tịnh tướng, chỉ áp dụng để 
        đối trị các tâm tham ái, tham dục: cứ tập trung nhìn, 
        quan sát kỹ mười đối tượng ấy cho đến khi lòng tham 
        dục lắng dịu hẳn. Chỉ nên quán vừa đủ mà không nên 
        đi sâu vào quán pháp này, bởi vì nó có thể dẫn đến 
        phản tác dụng tâm lý khiến hành giả chán nản đến không 
        muốn sống (hay đến độ tự hủy hoại mạng sống). Với các căn tánh nặng về sân 
        thì tuyệt nhiên không nên hành pháp quán bất tịnh ấy. 
        Với các căn tánh thích sạch và ghét dơ cũng thế. 3. Mười đối tượng suy niệm 
        như: Phật, Pháp, Tăng, Thí, Giới, Thiên, Niết-bàn, Chết, 
        Thân và Hơi Thở vào, ra. Về Phật, quán niệm nội dung: Ðức 
        Phật là bậc đã chứng ngộ vị giác ngộ cao cả nhất, đã 
        chứng ngộ từ lý Duyên khởi, đã thấy rõ tất cả pháp, 
        đã mở ra con đường giải thoát chưa từng được khai 
        mở, là bậc Thầy cao cả của Trời và Người. Về Pháp, quán niệm nội dung: Pháp 
        đã được Ðức Phật khéo thuyết giảng, có tác dụng đoạn 
        tận tham sân si, đoạn tận khổ đau. Bản chất của Pháp là 
        ly dục. Về Tăng, quán niệm nội dung: Tăng 
        là đoàn thể sống hòa hợp, có giới đức thanh tịnh, là 
        những người đang thực hiện con đường giải thoát mà Ðức 
        Phật đã tuyên thuyết, đang hành Ðạo và sẽ thành tựu Ðạo. Về Thí, quán niệm về tánh khoan 
        dung, vị tha để loại trừ các hại tâm, bất thiện tâm. Về Thiên, quán niệm cuộc sống 
        thiện dẫn đến quả báo Thiên giới để dìm sâu các dục 
        ái. Về Niết-bàn, quán niệm nội 
        dung của giải thoát là ái diệt, sân diệt và vô minh 
        diệt, vọng tưởng thức diệt, thủ diệt ..., Niết bàn là 
        pháp vô vi, không sinh diệt. Về Chết, quán niệm rằng mọi 
        người đều phải chết và có thể chết bất cứ lúc nào 
        thân bị diệt, tuổi thọ diệt hay mạng sống diệt. Quán 
        niệm nhiều lần như thế để thấy vô thường mà nỗ 
        lực hành Thiền định, và để không sợ hãi trước cái 
        chết. Về Thân, quán niệm tái sanh 
        diệt của thân, quán niệm tánh bất tịnh của thân ... để 
        giác tỉnh đi ra khỏi lòng tham ái, chấp thủ sắc thân 
        của mình và của người. Về Hơi thở vào hơi thở ra, quán 
        niệm tái sanh diệt của hơi thở vào ra, quán niệm mạng 
        sống của con người treo trên đầu hơi thở, rất là mỏng 
        manh, vô thường. Sự nghiệp cuộc đời của con người cũng 
        mỏng manh như hơi thở: hơi thở vào mà không ra hay hơi 
        thở ra mà không vào là thời điểm khép kín thế giới 
        hiện tại này, bây giờ tất cả chỉ là bóng mộng đối 
        với hành giả. Tất cả các pháp quán trên đều 
        nhắm đến một mục tiêu duy nhất là đánh thức tâm thức 
        rời khỏi tham ái và chấp thủ. 4. Bốn Thiền vô sắc: Thiền quán bốn cảnh Thiền vô 
        sắc chỉ thực hiện sau khi đã vào Tứ Thiền sắc giới, 
        nghĩa là lúc tâm thức đã nhuần nhuyễn chỉ còn xả và 
        nhất tâm để đưa vào bốn đối tượng vô sắc. 
          - Quán niệm "không gian là vô 
          biên" và an trú tâm ở đó. - Quán niệm "thức là vô biên" 
          và an trú tâm ở đó, sau khi đã vào Không vô biên xứ. - Quán niệm "không có gì cả" 
          và an trú ở đó, sau khi đã vào Thức vô biên xứ. - Quán niệm rằng "không có tưởng, 
          cũng không phải là không có tưởng" và an trú ở đó, 
          sau khi đã vào Vô sở hữu xứ. Căn bản của bốn quán niệm trên 
        là thường giác tỉnh rằng các cảnh giới đang trú là 
        hữu vi nên vô thường và chúng sẽ dẩn đến đoạn diệt, 
        khổ đau. Nhờ niệm giác tỉnh ấy hành giả mới từ bỏ các 
        cảnh giới Thiền vô sắc để đi vào Diệt thọ tưởng định 
        để đoạn tận các lậu hoặc. Thường thì, để được an toàn, 
        hành giả dừng lại ở Vô sở hữu xứ định và hành giả 
        hành Tứ vô lương tâm (từ, bi, hỷ, xả). 5. Tứ vô lượng tâm: Tứ vô lượng tâm là đại từ, 
        đại bi, đại hỷ và đại xả. Kinh Bộ (Nikaya) chỉ có vài 
        phẩm Kinh đặc biệt xác định hành giả chỉ tu Bốn vô lượng 
        tâm từ Vô sở hữu xứ định để băng vượt Phi tưởng 
        phi phi tưởng định thẳng vào Diệt thọ tưởng định. Hành giả quán niệm rải tâm 
        từ, tâm bi, tâm hỷ và tâm xả khắp các phương hư không 
        nhiều lần cho đến nhuần nhuyễn thì sẽ được định 
        Diệt thọ tưởng. Một số kinh khác (của Kinh Bộ và 
        A-hàm) thì chỉ khích lệ hành giả dừng lại ở Tứ thiền 
        sắc định. Tại đó, dùng Thiền quán để loại trừ, đốt 
        cháy các lậu hoặc. 6. Một đối tượng về tưởng 
        (sannà): Tưởng đến khía cạnh nguy hiểm 
        (vô thường và khổ đau) của bốn loại thức ăn (đoàn 
        thực, tư niệm thực, thức thực và thiền duyệt thực) để 
        xả bỏ hết thảy tham sân. 7. Ðối tượng phân tích, luận 
        giải: - Phân tích Năm uẩn như đã trình 
        bày ở chương II. - Phân tích Sáu giới (địa, 
        thủy, hỏa, phong, không gian và thức) và quán sát như thật 
        rằng Sáu giới ấy ở trong thân thể ta và ở ngoài thế 
        giới đều là Duyên sinh, không có tự ngã; chúng không 
        phải là ta, là của ta hay là bản ngã của ta. Quán sát và 
        phân tích như thế để giác tỉnh đi ra khỏi chấp thủ ngã 
        và chấp thủ pháp. - Phân tích Mười hai nhân duyên: 
        hết thảy các pháp ở trong cũng như ngoài ta đều do duyên 
        sinh nên hữu vi, vô thường và dẫn đến khổ đau. Do vậy, 
        không thể xem chúng là ta, là của ta hay là bản ngã của 
        ta. Mỗi chi phần trong Mười hai chi nhân duyên cũng do duyên 
        mà sinh (do mười một chi phần kia duyên nhau mà sinh). Hết 
        thảy là vô ngã, nên thật là sai lầm nếu ta nhận thấy có 
        bóng dáng của cái ngã ở một nơi nào đó. Thấy vô ngã 
        sẽ rời khỏi chấp thủ ngã. Thấy vô thường, khổ đau 
        sẽ rời khỏi tham ái và sân hận. Ở vị trí phàm phu, nhờ thấy lý 
        Duyên khởi mà ly dục; ở Tứ thiền sắc định, nương vào 
        tâm thức nhu nhuyến ở đây, hành giả có thể từ pháp quán 
        Duyên sinh để giác tỉnh vào Thánh vị. Ở địa vị hữu 
        học, các bậc Thánh có thể nương vào pháp quán nhân duyên 
        mà đoan trừ hết thảy lậu hoặc, đắc A-la-hán quả. Từ Thiền quán, hành giả thấy rõ 
        giả tướng của cuộc đời và của các Thiền cảnh. Tác 
        dụng của cái thấy ấy là buông xả ái, thủ. Một nguồn 
        hỷ lạc đầy thanh thoát, giải thoát đến ngay sau cái ấy 
        và sự buông xả ấy tùy thuộc vào cái thấy sâu hay cạn, 
        toàn vẹn hay giới hạn mà sự buông xả sẽ trọn vẹn hay 
        giới hạn. Từ đây, bạn có thể định nghĩa Thiền là 
        buông xả, hay ra đi, hoặc từ bỏ, như ý nghĩa của 
        "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" (nên khởi lên niệm không 
        trú trước, không dính mắc, hay không chấp thủ - Kinh Kim 
        Cang), hoặc như lời Tổ dạy "Tọa Bồ- đề tòa, tâm vô 
        sở trước" (ngồi chỗ giác ngộ, tâm không dính mắc). * * * Qua phần Thiền quán được trình 
        bày ở trên, bạn có thể đi đến một nhận thức mới 
        về pháp tu đơn giản "Niệm hơi thở vào, hơi thở ra" 
        rằng hình thức đơn giản ấy không còn giản đơn nữa. 
        Trong nó có chứa đựng diệu pháp, diệu nghĩa của giải 
        thoát. Nếu không thế, thì hóa ra pháp tu ấy có ngã tính không 
        đi vào diệu pháp, là một điều trái ngược với sự 
        thật vô ngã. Thực sự, đi vào pháp hành, bạn 
        sẽ thấy chánh niệm tỉnh giác là trú trên niệm vô ngã, là 
        rời xa khỏi sự chấp trước của tướng ngã, nhơn, chúng 
        sinh và thọ giả (ly tứ tướng), đây là ý nghĩa 
        ba-la-mật. Ðạo đã có mặt ngay tại chánh niệm tỉnh giác 
        theo dõi hơi thở vào ra, có thể nói đó là "niệm hơi 
        thở vào, hơi thở ra" Ba-la-mật. Chỉ vì trong tập thể tâm 
        thức của hành giả đang có mặt nhiều tiếng nói ồn ào 
        của Năm triền cái, của các kiết sử nên hành giả chưa 
        kịp thấy rõ đạo hay chứng ngộ Ðạo. Do vậy, công phu 
        Thiền chỉ trong buổi đầu tu tập là làm lắng dịu và 
        dập tắt đi những tiếng nói ồn ào kia để từ Thiền quán 
        mà làm hiển lộ Ðạo như thật. Từ đây hiện rõ lên 
        rằng: sự khác biệt của người có chánh kiến đang tu 
        tập Thiền định và người đã chứng đắc định và Thánh 
        quả là ở sự có hay không có mặt của những tiếng nói 
        ồn ào nói trên. Nói cách khác, con đường Thiền định là 
        con đường đánh tan sự hoạt náo của Năm triền cái và Mười 
        kiết sử. Bạn không thể mơ màng chờ đợi công phu hành 
        Thiền những gì khác hơn. Tuy nhiên, giữa phàm phu và Thánh 
        giả, và giữa Thiền chỉ và Thiền quán không hoàn toàn có 
        sự cách biệt, mà là có một cái gì liên tục, xuyên suốt 
        như là một sợi chỉ đỏ xuyên suốt chuỗi ngọc bích, đó 
        là Chánh niệm tỉnh giác. Thông thường, cái nhìn, quan sát 
        hay theo dõi các pháp của hành giả chỉ dừng lại ở sự có 
        mặt của tư duy nhị nguyên đầy ngã tính thì chỉ gọi là 
        niệm. Nhưng, khi cái nhìn, quan sát hay theo dõi của hành 
        giả có mặt tính sáng suốt của tâm thức, tính nhận ra vô 
        ngã tính, vô thường tính và khổ tính của các pháp - hay 
        gọi là tuệ (pannà), nhân tố điều chỉnh cho đúng các hành 
        động thân, khẩu, ý và giữ tâm ra khỏi các phiền não, 
        tham, ưu, thì bấy giờ nó được gọi là Chánh niệm. Tánh 
        sáng suốt kia có mặt gọi là Tỉnh giác. Do đó, Chánh 
        niệm luôn luôn đi đôi với Tỉnh giác. Cũng có thể nói Chánh 
        Niệm là Tỉnh giác, hay Tỉnh giác là Chánh niệm. Nhờ tánh sáng suốt của tuệ có 
        mặt trong từng niệm mà hành giả luôn luôn thấy có mặt 
        của mục đích giải thoát trong từng bước đi, trên con 
        đường đi, và biết chọn lựa đối tượng Thiền chỉ và 
        Thiền quán một cách thiện xảo, thích ứng với điều 
        kiện tu tập của tự thân, hầu để dẫn đến sự phát 
        triển tốt về Thiền định. Cho đến khi nào mà Chánh niệm 
        Tỉnh giác không còn việc gì để làm nữa, nghĩa là cho đến 
        khi nào mà các phản ứng tâm lý tham ái và chấp thủ bị 
        loại ra hết ngoài cái nhìn, ngoài sự quan sát hay theo dõi các 
        pháp của hành giả, thì cho đến khi ấy khổ đau được hoàn 
        toàn đoạn tận, đấy là đích điểm cuối cùng của lộ 
        trình tu tập giải thoát của Ðạo đế, hay của con đường 
        Thiền định, như Thế Tôn đã dạy: "Trong cái thấy, sẽ chỉ là cái 
        thấy; trong cái nghe, sẽ chỉ là cái nghe; trong cái thọ, tưởng, 
        sẽ chỉ là thọ, tưởng; trong cái thức tri, sẽ chỉ là cái 
        thức tri. Như vậy là đoạn tận khổ đau". (Tiểu Bộ 
        Kinh I, tr.398, bản dịch của HT . Minh Châu, 1982). Chính Chánh niệm, Tỉnh giác đã 
        có mặt từ đây đến đó, từ phiền não đến Niết-bàn. 
        Nó như đôi chân của ngỗng trời lội trong dòng sinh tử mà 
        không dính mắc sinh tử, và có tác dụng đưa ngỗng trời 
        qua bên kia bờ sông nó muốn, mà hai câu thơ của nhà sư 
        Việt Nam, sư Pháp Thuận (thế kỷ thứ 10) đã nói đến khi 
        nối tiếp hai câu thơ của Sứ thần Trung Quốc là Lý Giác: 
          
          "Bạch mao phô lục thủyHồng trạo bãi thanh ba"
 (Lông trắng phô dòng lụcSóng biếc chân hồng bơi -- TT. Mật Thể dịch)
 Ðể có thể biết thêm về lộ 
        trình tu tập Thiền định, chúng ta hãy nhìn lại đoạn đường 
        Thế Tôn đã đi qua, đã thân chứng. Và duyệt lại công phu 
        của mình qua bảy bước đi thanh tịnh mà Luận sư Phật Âm 
        (Buddhaghosa) và Hòa thượng Mahasi Sayadaw trình bày trong tập 
        Thăng Tiến Tuệ Giác (The Progress of Insight) mà chúng tôi sẽ 
        trình bày trong chương IV. -oOo- Chương 
        trước | Mục lục | Chương 
        kế |