| Chương 
        II Những 
        Bước Thực Hành Tứ Niệm Xứ,Hay Niệm Hơi Thở Vào Hơi Thở Ra
 Con đường 
        thực hiện Thiền định rất hiện tại và rất thiết 
        thực. Tất cả những gì mà chúng ta trong chờ và vận 
        dụng đều tập trung vào hai đối tượng: tự thân chúng ta 
        và pháp Tứ Niệm Xứ do kinh nghiệm Thế Tôn để lại. Chúng 
        ta không nên chờ đợi một ân điển, phép lạ nào. May 
        mắn chính là nỗ lực của tự thân dưới sự soi sáng 
        của giáo lý Thiền định . Nhận thức như thế, chúng ta đi 
        vào thực hiện từng bước điều hòa thân, điều hòa hơi 
        thở và điều hòa tâm. A. Ðiều Hòa Thân Tổng Quát Về Thế Ngồi, Chỗ 
        Ngồi, Thời Ðiểm Và Thời Gian Ngồi, Nhập Thiền Và Xả 
        Thiền Ngồi thế hoa sen hay kiết-già: Thực hiện nghiêm chỉnh các điểm 
        sau đây: 
          -- Bàn chân phải đặt lên bắp 
          vế chân trái trước, rồi tiếp đặt bàn chân trái lên 
          bắp vế chân phải. Ðặt chéo chân lên nhau theo thứ tự 
          ngược lại cũng được. -- Bàn tay trái đặt ngửa lòng 
          trên gót chân (hai gót chân), rồi đặt bàn tay phải 
          chồng lên bàn tay trái thế nào để hai đầu ngón tay cái 
          giao nhau (chỉ vừa dính sát nhau). Ðặt bàn tay theo thứ 
          tự ngược lại cũng được, miễn là hành giả cảm 
          thấy ổn. -- Lưng được giữ thẳng đứng 
          . -- Ðầu được giữ thẳng, 
          mắt khép nhẹ nhìn qua đầu chót mũi xuống sàng ngồi. 
          Nếu mắt mở lớn thì sẽ dễ bị tán loạn. -- Miệng ngậm lại một cách 
          tự nhiên . -- Nệm lót dưới bàn tọa để 
          giữ lưng dễ thẳng đứng, nệm mềm mại và dày chừng 
          10cm, hay dày hơn một ít. Với những ai không thể ngồi 
          theo thế hoa sen, thì có thể ngồi bán già hay xếp bằng. 
          Các điểm khác vẫn giữ nguyên.Với những người lớn 
          tuổi, có thể ngồi trên một cái ghế dựa có chỗ gác 
          tay; chân buông thỏng xuống, lưng vẫn giữ thẳng. -- Thở bằng mũi, giữ cho hơi 
          thở vào đến ngực hoặc vào sâu hơn một ít. Thở tự 
          nhiên; đừng cố nín thở. -- Có thể ngồi Thiền bất cứ 
          chỗ nào mà bạn thấy thuận lợi. Chỗ ngồi cốt thế nào 
          đừng nóng quá, đừng nhiều ánh sáng quá, đừng tối quá 
          và đừng có gió lọng. Tránh chỗ ngồi có nhiều muỗi mòng, 
          sâu bọ... tránh chỗ ngồi có nhiều tiếng động ồn ào. -- Bạn có thể ngồi Thiền 
          bất cứ giờ nào trong ngày mà bạn cảm thấy thích hợp 
          với tâm lý và giờ giấc làm việc. Cần tránh ngồi ngay 
          sau bữa ăn - ít nhất là sau bữa ăn chừng 30 phút. -- Nhập Thiền: Trước khi vào 
          ngồi Thiền bạn đừng làm các việc tháo mồ hôi. Nên hít 
          thở và làm vài cử động để giản gân cốt ở tay, chân, 
          cổ và mình trước khi ngồi để cảm thấy dễ chịu hơn 
          khi ngồi. Nên củ soát lại áo và quần mặc, đừng để 
          nó bó sát vào mình gây trở ngại lưu thông của máu. -- Xuất Thiền: Sau một thời 
          gian ngồi Thiền thì bạn xả Thiền.Trước khi xả ít phút, 
          bạn dừng lại sự theo dõi của tâm, lắc nhẹ hai vai, buông 
          hai bàn tay ra trước, xát mạnh hai lòng bàn tay vào nhau cho 
          ấm để háp tay vào đôi mắt, làm như thế chừng 3,4 lượt; 
          sau đó mắt từ từ mở, đoạn xả đôi chân ra, dùng tay 
          xát mạnh trên mu bàn chân và suốt dọc ống chân cho máu 
          lưu thông; làm như thế này chừng 3 phút, sau đó từ từ 
          đứng dậy. Nếu cảm thấy chân và lưng thông máu hẳn bước 
          đi; nếu còn nghe tê thì hãy chờ chốc lát cho máu thông 
          rồi hẵn đi. Bạn phải làm kỹ như thế là để giữ cho 
          mắt khỏi yếu và bước đi khỏi té. Sau khi biết rõ một số việc 
        cần làm ở trên, bạn đi vào các bài thực tập. Bài thực tập số 1: Thời gian ngồi: 10 phút. Ngồi theo các chỉ dẫn ở trên. 
        Thở vào, ra đều đặn. Theo dõi hơi thở: hơi thở vào, ra, 
        dài, ngắn, mạnh hay yếu như thế nào thì chỉ cần ghi 
        nhận như thế ấy. Chỉ theo dõi hơi thở mà thôi, đừng để 
        sự chú ý chạy qua đối tượng khác. Bài thực tập số 2: -- Ôn lại bài thực tập số 1, 
        trong chừng 5 phút, rồi tiếp làm theo lời chỉ dẫn dưới 
        đây: -- Thở vào, ra (hít vào và thở 
        ra ) cho đều đặn, không quá nhanh và không quá chậm. Thở 
        vào và ra, đếm 1 (đếm 1 khi hơi thở ra vừa dứt). Rồi 
        tiếp thở vào, ra, đếm 2. Ðếm như vậy cho đến số 10 
        hay ít hơn số 10 . Khi nào lãng quên số đếm, thì trở 
        lại đếm 1. Tập cho đến khi ngồi liên tục 10 phút mà không 
        bị nhầm, không bị lãng quên là tốt. Trong khi đếm số, hành giả vẫn 
        để ý theo dõi hơi thở vào ra, biết nó là mạnh hay yếu, 
        dài hay ngắn. Bài thực tập số 3: -- Ôn lại bài tập số 2 chừng 5 
        phút trước khi đi vào phần thực tập số 3. -- Vừa theo dõi hơi thở vào, ra 
        vừa nói thầm các câu ghi dưới đây, thế nào là câu hỏi 
        dứt ở cuối mỗi hơi thở vào, ra. Niệm thân: 
        
        (1). Hơi thở vào dài, tôi 
        biết hơi thở vào dàiHơi thở ra dài, tôi biết hơi thở ra dài
 (2). Hơi thở vào ngắn, tôi 
        biết hơi thở vào ngắnHơi thở ra ngắn, tôi biết hơi thở ra ngắn
 (3). Cảm giác thân hành tôi 
        sẽ thở vô.Cảm giác thân hành tôi sẽ thở ra.
 (4). An tịnh thân hành tôi sẽ 
        thở vô.An tịnh thân hành tôi sẽ thở ra.
 Lúc tập bài số ba này (từ đây 
        trở đi), hành giả bỏ đi phần đếm số từ 1 đến 10, nhưng 
        nỗlực tăng thêm sự chú ý theo dõi hơi thở vào ra như ở 
        bài tập số 2. Bài tập số ba này là thuộc 
        phần Thân Niệm Xứ hay Niệm về thân. Ở đây chỉ thực 
        tập phần rất đơn giản về niệm thân, về sau sẽ thực 
        tập sâu hơn. Các em nhỏ trên 10 tuổi chỉ nên 
        thực tập đến bài số 6, thời gian ngồi mỗi lần không kéo 
        dài quá 20 phút. Các em chỉ cần thực tập mỗi 
        ngày một lần vào buổi sáng sớm sau khi thức dậy, hay vào 
        buổi tối, trước khi đi ngủ. Luyện tập như thế này sẽ tăng 
        trưởng ký ức và óc quan sát tốt cho các em. Sức khỏe cũng 
        được bảo đảm tốt. Tính năng động sẽ kềm chế bớt. Bài thực tập số 4: -- Ôn lại bài thực tập số 3 
        trong 10 phút. -- Thực tập Thọ Niệm Xứ (theo 
        dõi cảm thọ). Vừa theo dõi hơi thở vào ra, 
        vừa nói thầm các câu sau đây: 
          (5). Cảm giác hỷ thọ, tôi 
          sẽ thở vôCảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở ra.
 (6). Cảm giác lạc thọ, tôi 
          sẽ thở vôCảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở ra.
 (7). Cảm giác tâm hành, tôi 
          sẽ thở vôCảm giác tâm hành, tôi sẽ thở ra
 (8). An tịnh tâm hành, tôi 
          sẽ thở vôAn tịnh tâm hành, tôi sẽ thở ra.
 Hỷ là niềm vui, thoải mái của 
        tâm. Lạc là niệm thoải mái của thân (thoải mái của thân 
        thì sâu hơn). Thời gian tập là 10 phút mỗi thời. Ðây là 
        phần thực tập theo dõi các cảm thọ, nhưng ở đây chỉ 
        thực tập có tính hình thức và đơn giản. Phần thực 
        tập sâu hơn sẽ được giới thiệu sau. Thời gian thực tập là 10 phút. Bài thực tập số 5: -- Ôn lại bài thực tập số 4 
        chừng 10 phút. -- Thực tập Tâm Niệm Xứ (theo dõi 
        các trạng thái tâm lý). Vừa theo dõi hơi thở vào ra, 
        vừa nói thầm các câu sau đây: 
          (9). Cảm giác về tâm, tôi 
          sẽ thở vôCảm giác về tâm, tôi sẽ thở ra.
 (10). Với tâm hân hoan, tôi 
          sẽ thở vôVới tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra.
 (11). Với tâm tịnh chỉ, tôi 
          sẽ thở vôVới tâm tịnh chỉ, tôi sẽ thở ra.
 (12). Với tâm giải thoát, tôi 
          sẽ thở vôVới tâm giải thoát, tôi sẽ thở ra.
 Phần thực tập này theo dõi các 
        trạng thái vui, buồn, động tĩnh của tâm lý. Ngang đây, cũng 
        chỉ thực tập có tính cách hình thức và đơn giản. Phần 
        thực tập đi sâu hơn sẽ được giới thiệu sau. Thời gian thực tập là 10 phút. Bài thực tập số 
        6: -- Ôn lại bài thực thực tập 
        số 5 chừng 10 phút. -- Thực tập về Pháp Niệm Xứ 
        (niệm về Pháp). Vừa theo dõi hơi thở vào ra, 
        vừa nói thầm với các câu: 
          (13). Quán niệm vô thường tôi 
          sẽ thở vôQuán niệm vô thường tôi sẽ thở ra
 (14). Quán niệm tan rã, tôi 
          sẽ thở vôQuán niệm tan rã, tôi sẽ thở ra.
 (15). Quán niệm hoại diệt, 
          tôi sẽ thở vôQuán niệm hoại diệt, tôi sẽ thở ra.
 (16). Quán niệm từ bỏ, tôi 
          sẽ thở vôQuán niệm từ bỏ, tôi sẽ thở ra.
 Phần này cũng chỉ thực tập có 
        tính cách hình thức và đơn giản. Thời gian thực tập là 
        10 phút. Các bài tập từ số 1 đến số 
        6 có thể được thực tập đối với mọi căn cơ ngồi 
        Thiền. Ðối với người lớn, tùy theo khả năng, có thể kéo 
        dài thời gian ngồi Thiền mỗi thời là 15 phút. Bài thực tập số 7: Tập chung bài thực tập số 3 và 
        4. Thời gian thực tập mỗi thời là 15 phút. Bài thực tập số 8: Tập chung bài thực tập số 5 và 
        6. Thời gian thực tập mỗi thời là 15 phút. Bài thực tập số 9: Tập chung bài thực tập số 3, 4, 
        5 và 6. Thời gian thực tập mỗi thời là 15 phút hay 20 phút. 
        Bài thực tập này cần thực tập nhiều làm cho thuần 
        nhuyễn. Mỗi câu nói thầm có thể lập lại nhiều lần, 
        nhịp nhàng với hơi thở vào ra. Ðiều cần yếu nhất ở bài 
        thực tập số 9 này là hành giả cần nỗ lực giữ sự chú 
        tâm gắn chặt vào đối tượng theo dõi, giữ mình đừng lãng 
        quên, đừng buồn ngủ, hay đừng tán loạn chạy theo các đối 
        tượng khác khởi lên trong tâm. Bài thực tập số 10: Thời gian thực tập là 20 phút. Tập tương tự bài thực tập 
        số 9, nhưng giữ sự chú tâm vào đối tượng theo dõi 
        mạnh hơn. Trong khi thực tập, cần nhớ chừng giữ hai đầu 
        ngón tay cái đừng rời nhau, giữ thân và đầu thẳng đứng 
        theo thế ngồi đã giới thiệu ở trước. Bài thực tập này 
        cũng cần được thực tập nhiều lượt cho tương đối 
        nhuần nhuyễn. Trong suốt thời gian thực tập bài 
        số 9 và 10, hành giả nhớ rõ đây cũng là thời gian để 
        luyện tập cho thân và hơi thở khá nhuần, khá nhuyễn. Bài thực tập số 11: Khi hơi thở và thân khá điều hòa, 
        hành giả đi vào thực tập bài số 11 này. Phần thực tập từ bài số 1 đến 
        số 10 là phần huấn luyện niệm lực (hay huấn luyện sự 
        chú tâm theo dõi). Bài thực tập số 11 và 12 sẽ là phần 
        huấn luyện sự để tâm một chỗ (hay gọi là trú tâm 
        tại một điểm). Mức độ tập trung ở đây sẽ mạnh hơn, 
        sâu hơn. Thời gian thực tập mỗi thời 
        vẫn là 20 hay 25 phút, nhưng phân ra nhiều lượt nhỏ: mỗi 
        lượt nhỏ chừng 5 phút thì xả, rồi đến lượt tiếp 
        theo. Phần này là phần tập để tâm 
        trước mặt, hay gọi là để niệm trước mặt. Ðể tâm 
        hay để niệm tại một điểm là để sự chú ý tại điểm 
        ấy. Các chỗ để niệm, mà gọi là 
        để niệm trước mặt, có thể là: 
          a. Nhân trung(ở ngay phía dưới 
          chót mũi).b. Ðầu chót mũi
 c. Ấn đường (ở giữa hai chặng lông mày)
 d. Ðơn điền (điểm ở duới rốn chừng 5cm).
 đ. Một vùng nhỏ trước mặt trong tầm mắt nhìn ngang 
          qua.
 (Ðể tâm theo dõi hơi thở vào 
          ra cũng gọi là để niệm trước mặt). Hành giả nên thử tập để 
        niệm ở 5 điểm vừa kể để xem điểm nào thuận để 
        niệm cho hành giả thì hãy chọn điểm ấy mà thực tập để 
        niệm (Như Lai thì thường để niệm ở một vùng nhỏ trước 
        mặt, theo Nikàya). Tâm theo dõi, hay sự chú ý, phải 
        dừng ở điểm đã chọn, đừng để các ý tưởng, các hình 
        ảnh khác trong tâm khởi lên kéo sự chú ý của mình đi nơi 
        khác. Khi thực tập bài số 11 và 12 thì 
        hành giả tạm ngưng thực tập bài số 9 và 10 . Thời gian 
        để niệm có thể kéo dài lâu hơn 5 phút, lâu như hành 
        giả có thể. Tuyệt đối đừng cố gắng quá sức gây căng 
        thẳng đầu óc. Trong thời gian thực tập, nếu cảm thấy 
        mệt lúc nào thì dừng nghỉ xả hơi lúc đó. Khi mà hành giả đã có thể để 
        sự chú ý tại một điểm tương đối ổn trong khoảng 
        thời gian ngồi nói trên, thì hành giả nên vừa để sự chú 
        ý một chỗ, vừa nghe hơi thở vào ra và giữ cho hơi thở 
        điều hòa. Bài thực tập số 12 : Khi bài thực tập số 11 được 
        thực hiện khá tốt, thì hành giả đi vào bài thực tập 
        số 12 gồm các việc làm sau đây: 1. Nhìn kỹ hình tượng đức 
        Thế Tôn, hay hình tượng Bồ-tát, rồi nhắm mắt lại mà 
        vẫn tưởng ra được các đường nét rõ ràng của hình tượng. 
        Cho đến khi hình tượng trong tâm tưởng xuất hiện uy nghi, 
        không bị dao động thì bấy giờ khả năng tập trung đã đến 
        lúc khá hữu hiệu, các tạp niệm đã lắng chìm khá 
        nhiều. Hành giả vừa chú tâm vào hình tượng trong tâm tưởng 
        vừa theo dõi hơi thở vào ra. Hành giả cũng có thể vừa 
        tập trung vào hình tượng trong tâm tưởng vừa khởi niệm 
        tác lễ như khi tác lễ hình tượng thật ở ngoài. 2. Tưởng ra một hồ nước trong 
        trước mặt, hay một ao sen đẹp, rồi để niệm dừng ở 
        đó. Khởi niệm tưởng như chính hành giả đang ngắm nước, 
        ngắm sen bên bờ hồ, bờ ao vậy. Tập như thế này, tạp 
        niệm sẽ tiêu dần và định lực dễ phát triển. Dĩ nhiên 
        là hành giả cần phải giữ chánh niệm, tỉnh giác, không 
        để các niệm tham, sân, ưu não khởi. Khả năng khởi tưởng 
        và dừng tâm này sẽ được dùng trong các công phu tu tập 
        về sau trong việc điều hòa giữa Thiền chỉ với Thiền quán. 3. Tương tự, hành giả có thể 
        tập trú tâm vào một hình ảnh hay một cảnh tượng nào mà 
        tự mình cảm thấy dễ lắng tâm, dễ an tịnh tâm. Tránh các 
        đối tượng kích động dục vọng. Ghi chú: 
        
        Bài thực tập 
        số 13: Kiểm soát điều hòa 
        hơi thở.* Thực tập theo dõi hơi thở vào, 
        ra là huấn luyện niệm lực. * Thực tập dừng tâm trên một 
        đối tượng là huấn luyện định lực . * Giác tỉnh, chánh niệm trong khi 
        theo dõi và trú tâm trên đối tượng là sự có mặt của 
        tuệ hay tuệ lực. * Hành giả chỉ cần thực tập 
        niệm hơi thở vào hơi thở ra, theo dõi 16 đối tượng, và 
        để niệm an tịnh trước mặt theo các bài thực tập từ 
        số 10 đến số 12 cũng đủ đi sâu vào Thiền định. Có 4 tướng trạng của hơi thở 
        mà hành giả trải qua: 
          1. Tướng trạng hơi thở động 
          thành tiếng. 2. Tướng trạng hơi thở khò khè. 3. Tướng trạng hơi thở nhẹ, 
          nhưng vào ra bị ngột ngạt, không thông. 4. Tướng trạng hơi thở vào ra 
          nhẹ nhàng, rất là nhẹ nhàng, như có như không. Chỉ có tướng trạng hơi thở 
        số 4 (vào ra nhẹ nhàng và thông) tạm xem là tướng điều 
        hòa của hơi thở. Trong thời gian thực tập từ bài 
        đầu đến bài số 12, cần để ý giữ cho hơi thở dần 
        dần trở nên điều hòa. Thực ra, theo Kinh tạng Nikàya thì 
        sự chứng đắc điều hòa hơi thở cao nhất là khi mà hành 
        giả tuệ tri sự tập khởi, sự chấm dứt, vị ngọt và 
        sự nguy hoại của 6 xúc xứ, được giải thoát không có 
        chấp thủ (Tương Ưng IV, bản dịch của HT. Minh Châu, 1982, 
        tr. 259). Hơi thở điều hòa thì thân thể 
        an và tâm lý dễ an. Hơi thở mà thiếu điều hòa thì ngồi 
        chóng mệt, thân dễ nóng và tâm dễ tán loạn. Do vậy, hành 
        giả cần nỗ lực điều hòa hơi thở trước.Bài thực tập 
        số 14: Kiểm soát điều hòa 
        thân Hành giả cần lưu ý thực hiện 
        tốt các điểm sau đây: 
          1. Ngồi đúng theo tư thế ngồi 
          đã được giới thiệu từ phần đầu thực tập. 2. Tập cho đến khi hai đầu 
          gối đặt sát sàn nhà (sàng ngồi) - hẳn là có nệm lót 
          ở bàn tọa. 3. Giữ thân yên, không dao động 
          trong suốt thời gian ngồi, ít nhất là 60 phút liền. 4. Thân nhiệt điều hòa, toàn 
          thân đều ở trong tư thế nghỉ ngơi (thả hết các bắp 
          thịt và gân, tuyệt nhiên không thể cho chúng căng lên, 
          bởi nếu căng thì thân sẽ nóng lên, sẽ không an tịnh để 
          ngồi Thiền lâu được). Thực tập được bốn điểm trên 
        là hành giả tương đối ổn định được phần điều hòa 
        thân. Từ đó có thể ngồi lâu hơn, nếu muốn. Ðiều hòa thân và điều hòa hơi 
        thở có tương quan mật thiết đến sự chú tâm của bạn. 
        Nói khác đi, nếu việc dán chặt tâm vào đường hơi thở 
        thực hiện được, thì tạp niệm lắng đi, không khởi lên 
        được. Trong những lúc tạp niệm ít khởi lên, thì dễ rơi 
        vào trạng thái buồn ngủ, mê mê hay vô ký, bởi vì đối tượng 
        hơi thở mà bạn theo dõi thì nhạt nhẽo, chưa đến lúc 
        tạo cho bạn một phấn khích nào. Nếu bạn dán chặt sự 
        chú tâm vào hơi thở với niệm giác tỉnh, thì bạn sẽ 
        dần dần đánh tan được trạo cử và hôn trầm (sự chú tâm 
        sẽ đánh tan trạo cử, niệm giác tỉnh sẽ đánh tan hôn 
        trầm). Bài thực tập số 15: Tập hai câu (1) và (2) trong bài 
        số 3, trong chừng 5 phút đến 10 phút. * Với câu số (3) trong bài số 3, 
        bạn vừa lắng nghe đường hơi thở vừa lắng nghe toàn 
        bộ cơ thể của mình, những trạng thái nóng, lạnh, thoải 
        mái ... và giữ niệm giác tỉnh rời khỏi các tâm lý tham, 
        sân đối với các trạng thái thân hành đó. Thực tập 
        chừng 5 phút đến 10 phút. * Với câu số (4) trong bài số 3, 
        bạn tập nhiếp thân cho an tịnh, khởi tưởng về trạng thái 
        an tịnh của thân bạn từng kinh nghiệm để đưa thân về 
        trạng thái an tịnh đó. Thực tập như thế chừng 5 đến 
        10 phút. * Với câu số (5), tập trung tâm 
        để làm sinh khởi cảm giác hỷ hoặc tưởng lại kinh 
        nghiệm về cảm giác hỷ mà bạn đã từng kinh nghiệm để 
        dễ khởi lên cảm thọ về hỷ, hoặc quán niệm một đối 
        tượng nào đó mà thường khiến bạn sinh tâm hoan hỷ. 
        Thực tập chừng 5 đến 10 phút. * Với câu số (6), tập tương 
        tự câu số (5), thay thế cảm thọ hỷ bằng cảm thọ 
        lạc. Thực tập chừng 5 đến 10 phút. * Với câu số (7), bạn theo dõi tâm 
        trạng bạn đang ở trạng thái buồn hay vui, khổ hay lạc... 
        Tập từ 5 đến 10 phút. * Với câu (8), bạn nhiếp tâm 
        đưa về trạng thái an tịnh, không khởi lên các cảm thọ 
        hỷ, lạc, không hỷ, không lạc. An tịnh mà giác tỉnh. 
        Trạng thái tâm lý này khác xa với trạng thái tâm lý vô ký, 
        thụ động. Tập từ 5 phút đến 10 phút. * Với câu (9), lắng nghe tâm 
        trạng từ trạng thái an tịnh ấy những gì khởi lên tiếp 
        theo. Chỉ theo dõi và ghi nhận mà không phản ứng. Các tâm 
        lý bấy giờ đang khởi lên là thuộc về tham, sân, si hay không 
        tham, không sân, không si. Tập từ 5 đến 10 phút. * Với câu số (10), bạn hãy 
        khởi tưởng đến niềm tin đạo, niềm tin đi ra khỏi khổ 
        đau, nghĩ đến kết quả giải thoát của từng bước tu 
        tập mà bạn có thể gặt hái để lòng hân hoan khởi lên. 
        tập chừng 5 đến 10 phút. * Với câu số (11), bạn xét kỹ 
        tâm lý hân hoan, bạn sẽ thấy nó là tâm lý dao động được 
        cần nhiếp tỉnh, nghĩa là bạn ý thức rằng hân hoan là động, 
        là trạo cử, liền cố rời khỏi niềm hân hoan ấy để 
        trở về với tâm lý an tịnh, dừng nghỉ. Dừng nghỉ trong 
        tỉnh giác. Tập như thế chừng 5 đến 10 phút. * Với câu số (12), bạn cần 
        nhận rõ tâm lý an tịnh hay tịnh chỉ còn vướng mắc tính 
        thụ động, hay nói cách khác đi nó chỉ là tâm lý phản 
        ứng với tâm lý động (tâm lý hân hoan), khi tâm lý hân 
        hoan chìm lắng thì tâm lý tịnh chỉ này sẽ khởi động 
        hoặc chìm vào ngõ hôn trầm thụ động. Do đó, bạn hãy 
        cố dẫn tâm vào giải thoát. Tâm lý giải thoát là tâm lý 
        đầy giác tỉnh, đi ra khỏi các cảm thọ về tâm, mà vẫn 
        ghi nhận rõ ràng các hiện khởi của tâm lý đối với các 
        ảnh tượng bên trong cũng như bên ngoài. Tập chừng 5 đến 
        10 phút. Ghi chú: 
        
        Nếu bạn thực tập mỗi câu 5 phút, 
        thì bạn có thể thực tập đủ 12 câu (từ số 1 đến số 
        12) trong một thời ngồi Thiền, để phù hợp với thời 
        gian ngồi mỗi thời là 60 phút. Bạn có thể sắp đặt 
        thời gian thực tập mỗi câu thế nào để thích ứng với 
        thời gian ngồi Thiền mỗi thời của bạn, bạn cũng có 
        thể thực tập 4 câu niệm thân một thời riêng, 4 câu 
        niệm thọ một thời sau, và 4 câu niệm tâm trong một thời 
        ngồi Thiền sau nữa. Bài thực tập số 16: Phần lắng tâm theo dõi các câu nói 
        từ (1) đến số (12) ở bài thực tập số 15 là thuộc 
        thực tập về Thiền Chỉ. Phần thực tập riêng các câu 
        từ số (13) đến số (16) sẽ được trình bày riêng ở bài 
        thực tập này gọi là Thiền quán. Phần trình bày Thiền quán 
        ở bài thực tập số 16 này mới chỉ là phần trình bày 
        giới hạn và đơn giản. Phần Thiền quán toàn diện hơn 
        sẽ được trình bày ở Chương III của cuốn sách này. Trong suốt thời gian thực tập 
        Thiền quán này, bạn có thể ngưng Thiền quán bất cứ lúc 
        nào trong khi ngồi Thiền mà bạn cảm thấy căng thẳng, 
        mệt mỏi, trạo cử, hay tâm giác tỉnh chìm lặn, yếu đi. 
        Bấy giờ bạn chuyển qua công phu, theo dõi hơi thở vào hơi 
        thở ra theo bài thực tập số 2 cho đến khi xả Thiền. 
        Bạn có thể chuyển đổi qua lại chỉ, quán xen kẻ cho đến 
        khi xả Thiền. - Về câu số (13), bạn suy tưởng 
        về các hiện tượng vô thường: khi thì nghĩ đến vô thường 
        thân sắc, khi thì nghĩ đến vô thường của tâm lý con người, 
        khi thì nghĩ đến vô thường của đời sống v.v ... bạn có 
        thể dừng niệm trên một hình ảnh vô thường nào đó đã 
        khiến bạn xúc động nhất để từ đó bạn sẽ dễ dàng 
        khởi tâm ly tham và tinh cần, hay ít ra để cho lòng tham và 
        lười biếng chìm đắm dần xuống. Tập từ 10 đến 15 phút. 
        Hoặc giả, do công phu Thiền chỉ liên tục mà bạn đi đến 
        cái thấy biết (hay cảm nhận) vô thường từ dòng chảy 
        của các quá trình tâm lý và vật lý. - Về câu số (14), bạn nhìn một 
        vòng xung quanh mình bạn sẽ thấy bất cứ cái gì hể có 
        sanh thì sẽ có diệt, có hợp thì có ly, có xuất hiện sẽ 
        có biến mất. Mọi hiện hữu đều đi dần vào sự tan rã. 
        Bạn cũng đang trên đường đến đó, mà thời điểm đến 
        chưa biết lúc nào. Cứ nhìn hoại diệt ấy nhắc nhở bạn 
        rời tâm chấp thủ và lòng tham ái, quen dần với hiện tượng 
        hoại diệt để thức tỉnh đẩy lui hữu ái và lòng sợ hãi 
        về hoại diệt. Tập từ 10 đến 15 phút. -Về câu (15) và (16), có thể từ 
        quán vô thường và tan rã, bạn nhận ra rằng vô thường thì 
        đau khổ, hoại diệt là khổ đau để khởi lên niệm từ 
        bỏ tham ái, từ bỏ lòng chấp trước. Bạn cũng có thể 
        thấy được khía cạnh nguy hiểm của tham ái và chấp 
        thủ, những nguyên nhân dẫn đến sầu, bi, khở, ưu, não mà 
        rời khỏi chúng. Tâm giải thoát chính là tâm ly tham, từ 
        bỏ ấy. Ý nghĩa của giải thoát là ý nghĩa đi ra khỏi trói 
        buộc của lòng tham ái và chấp ngã. Với đối tượng quán vô thường, 
        hoại diệt và trừ bỏ trên, bạn có thể thực hiện pháp 
        quán bằng cách nhìn thẳng vào Năm uẩn trên cơ sở duyên 
        sinh. 
          -- Sắc uẩn là do các duyên 
          kết hợp: hương ấm + tinh của cha + huyết của mẹ + các 
          thức ăn nuôi dưỡng v.v .... Như vậy, sắc uẩn là không 
          có tự ngã (bản ngã), là vô thường. Vì nó vô thường, 
          biến dịch trước khát vọng thường hằng của bạn nên 
          nó gây ra khổ đau. Vì là vô thường, vì đem lại khổ đau, 
          nên sắc uẩn không thể được chấp nhận là ta, là của 
          ta hay là bản ngã của ta. -- Quán tương tự như thế đối 
          với thọ uẩn, hành uẩn, tưởng uẩn và thức uẩn. Từ sự giác tỉnh (thấy rõ) 
        sắc uẩn vốn không có bản ngã, khởi lên lòng không chấp 
        thủ, không tham ái thân sắc của mình, của tha nhân và 
        thế giới. Từ sự giác tỉnh thọ uẩn vốn 
        không có tự ngã, bạn tỉnh ngộ ra rằng không thật có 
        khổ, lạc, và thật không có chủ thể nhận chịu cảm giác 
        khổ lạc ấy, tâm có thể đi vào tuệ giải thoát. Từ sự giác tỉnh tưởng uẩn 
        chỉ là các duyên phối hợp, vốn không tự ngã, bạn có nhân 
        duyên thoát ly khỏi các trói buộc của chấp thủ kiến, 
        của tư duy hữu ngã và của tư tưởng hệ. Bởi tưởng 
        uẩn vốn không phải là ta, là của ta hay là bản ngã của 
        ta, nên từ ngàn xưa đến ngàn sau, và cả trong từng giây 
        phút hiện sinh, bạn muốn tự do tự tại ngoài nó, bạn có 
        thể thoát khỏi ách trói buộc của nó bất cứ lúc nào. Nói 
        khác đi, nó vốn không trói buộc bạn và không trói buộc 
        ai cả. Từ sự giác tỉnh hành uẩn vốn 
        không tự ngã, bạn bừng ngộ ra rằng các hành động của 
        thân, khẩu, ý, các lẽ thiện ác đều không dích dấp gì 
        đến bạn, chúng ta là những huyền ảo. Bạn vốn độc 
        lập và tự tại ngoài hành ẩn. Từ sự giác tỉnh thức uẩn 
        vốn là không, bạn sẽ bừng tỉnh bằng mọi sự ghi nhận 
        sự có mặt của các pháp vốn không có thật, tất cả đều 
        là sương mù. Bạn có thể cảm thấy tự do, tự tại bất 
        cứ khi nào. Tất cả vốn không phải là 
        bạn, vốn không phải là của bạn, và vốn không phải là 
        bản ngã của bạn. Bạn có thể tự tại thoát ly tham ái, 
        chấp trước cuộc hiện sinh một cách nhẹ nhàng như đối 
        với cảnh mộng. Bạn thực tập kiên trì như thế 
        nhiều lần, nhiều trăm lần, và nhiều nhiều hơn nữa, 
        bạn sẽ thấy rõ kết quả tốt đẹp của pháp quán trên. 
        Ðừng vì kết quả tu tập đến muộn mà rời bỏ pháp tu. 
        Bạn nhớ nhé! Trong việc thực hiện Thiền quán 
        này, bạn cần chuẩn bị suy nghĩ trước những gì là vô thường, 
        tan rã, hoại diệt và từ bỏ mà bạn sẽ phân tích, quán 
        niệm khi ngồi Thiền. Bạn chuẩn bị đến một nội dung tư 
        duy tương đối nào đó, nếu không, bạn khó để khởi 
        Thiền quán và khó lâu trong Thiền quán. Hoặc giả, bạn liên 
        tục hành công phu này sẽ dẫn bạn đến cái thấy biết 
        rằng tất cả các hiện hữu do các duyên mà sinh đều vô 
        thường, tan rã, hoại diệt và tâm bạn sẽ tự rời khỏi 
        tham ái các hiện hữu. từ đây tâm giải thoát dấy khởi, 
        tuệ giải thoát dấy khởi. Những tư duy giản dị sau đây có 
        thể gợi ý cho bạn về việc nghĩ trước đến một chặng 
        đường Thiền quán sẽ đi qua: 1. Vũ trụ vật lý là vô thường: Văn học ghi: "Thanh hải biến vi 
        tang điền" (biển xanh hóa thành ruộng dâu), nói lên sự 
        thật biến đổi vô thường của trời đất như cụ Ôn Như 
        hầu đã viết: "... Sơn hà cũng huyễn, côn trùng cũng như" 
        (Cung Oán Ngâm Khúc). Núi non cũng theo thời gian mà hao 
        mòn biến đổi. Một cơn động đất là đã có thể đổi 
        vùng núi thành biển, biển thành núi. Huống nữa là các hình 
        thể vật lý mỏng manh khác. Nắng, mưa, bão tố cũng đến, đi 
        vô thường. Có một thời, nhiều năm, nhiều trăm năm, 
        nhiều trăm nghìn năm trời không mưa, bây giờ tất cả loài 
        thực vật đều khô cháy. (Theo Tăng Chi 3A, tr. 100, bản 
        dịch của HT. Minh Châu, 1981). Ðến một thời, thái dương 
        hệ này xuất hiện hai mặt trời, rồi, 3, 4, 5, 6, 7 mặt 
        trời, bấy giờ sông, biển đều khô cạn, cây cối khô cháy, 
        trời đất sẽ không còn tồn tại nữa. Ðây là hình ảnh 
        các hành là vô thường (theo Tăng Chi 3A, tr 10: 103, bản 
        dịch của HT. Minh Châu 1981). 2. Cơ thể vật lý là vô thường: Thai tạng chỉ là sự kết hợp 
        của hương ấm và tinh khí của cha mẹ trong thời kỳ bà 
        mẹ có thể thụ thai. Ðời sống của bào thai tùy thuộc vào 
        bà mẹ và nhiều yếu tố khác nữa, không có dấu hiệu gì 
        bảo đảm an toàn cả. Sau khi trẻ ra đời, mệnh sống lại 
        phụ thuộc vào các điều kiện sống rất là mỏng manh: 
        bệnh tật, tai họa, gió độc v.v... có thể lấy đi mạng 
        sống bất cứ lúc nào. Từ đây, kiến thức và sự nghiệp 
        có thể bị thiêu cháy hoàn toàn. Nếu cơ thể được phát 
        triển tốt đẹp, thì cũng sẽ bị kết thúc sớm hay muộn. 
        Mọi người đều phải chết. 3. Tâm lý vô thường: Tâm mọi người thường thay đổi 
        rất nhanh: thoạt vui, thoạt buồn, chợt hy vọng, chợt 
        thất vọng v.v.... ít ai có khả năng làm chủ tâm lý mình, 
        đồng tâm lý liên tục trôi chảy, thay đổi. Tình cảm cũng 
        thân, sơ, nóng, lạnh, không thường, chịu phụ thuộc vào các 
        yếu tố bất định ở bên trong và bên ngoài mỗi người. 4. Ðời sống xã hội vô thường: Ðời sống xã hội chịu ảnh hưởng 
        của những thay đổi, xáo trộn về kinh tế, chính trị, an 
        ninh. Xã hội lúc mang màu sắc này, lúc mang màu sắc khác, 
        khi sáng sủa, khi ảm đạm. Cá nhân bị cuốn hút theo 
        những thay đổi lớn của xã hội và chịu sức ép của 
        những cuộc thay đổi. Nói tóm, các pháp do điều kiện 
        sinh nên vô thường. Vì vô thường đi ngược với những 
        ham muốn nắm giữ cuộc đời của con người nên gây ra 
        khổ đau. Ngay cả khi đang nắm giữ được hạnh phúc trong 
        tay (tạm gọi thế), thì sự lo sợ hạnh phúc ấy ra đi cũng 
        đủ xé nát tâm can con người. Các pháp là vô thường, 
        khổ đau, nên thật là phi lý nếu ta nhận chúng là ta, là 
        của ta hay là bản ngã của ta, bởi vì chúng không thuộc 
        quyền kiểm soát, làm chủ của ta, và không mãi mãi ở 
        lại với ta. Tại đây, ta cũng thẫy rõ vô thường không 
        hẳn là đem lại khổ đau, mà chính ham muốn thường hằng, 
        ham muốn nắm giữ cái ngã (cái ngã của tự thân và của các 
        pháp) là gốc của khổ đau, hay nói khác đi, chính tham ái và 
        chấp thủ ngã tướng là khổ đau. Khi phân tích nhận ra 
        mọi hiện tượng là vô ngã, vô thường thì tâm lý ta sẽ 
        thức tỉnh đi ra khỏi chấp ngã và tham ái. Cũng có thể 
        khi thấy các hiện tượng là vô thường thì sẽ xô ngã 
        được cái gốc mà từ đó tham ái sinh khởi: đó là ý 
        niệm về ngã hay ý niệm thường hằng. Có một điều thật là cụ thể 
        là một khi biết là lửa thì ta không để tay vào, một khi 
        biết là mộng thì lòng yêu thích người và cảnh trong 
        mộng tự tiêu. Cũng thế, khi đã nhận thức rõ ràng khía 
        cạnh huyễn mộng, nguy hiểm của các pháp, thì tham ái và 
        chấp thủ tự tan. Kết quả kinh nghiệm giải thoát này đang 
        chờ đợi công phu Thiền chỉ và Thiền quán của hành 
        giả. 5. Phân tích Năm uẩn: * Về sắc uẩn: sắc uẩn gồm có 
        nội sắc (cơ thể của ta) và ngoại sắc (tha nhân và thế 
        giới vật lý). Thân thể này là duyên kết hợp của tinh khí 
        của cha, mẹ và nghiệp thức (hương ấm của mình trong 
        thời kỳ bà mẹ có thể thụ thai, và được thức ăn nuôi 
        dưỡng...). Cơ thể phát triển hay hoại diệt không phụ 
        thuộc vào ý muốn của mình (hay chỉ phụ thuộc rất ít). 
        Nó có mặt do sự kết hợp của thọ, tưởng, hành và 
        thức uẩn. Ðấy là một tập hợp duyên sinh nên vô ngã, vô 
        thường và sẽ dẫn đến khổ đau. Quán tương tự đối với tha nhân 
        và thế giới. Tất cả đều không phải là ta, là của ta, 
        hay là bản ngã của ta. Chúng không thật có. Ta vốn tự 
        tại, độc lập trước những biến đổi của chúng. Hiểu 
        như vậy là ta sẽ thoát khỏi các khổ đau vì sắc uẩn. Nàng Abhirùpa Nandà (xem Trưởng Lão 
        Ni kệ) là một cô gái có nhan sắc tuyệt trần, thuộc dòng 
        Thích-ca, vị hôn phu bị bệnh chung, gia đình ép nàng xuất 
        gia. Ðã là một nữ tu sĩ, nàng vẫn thường kiêu hãnh về 
        sắc đẹp của mình và thường lẩn tránh Thế Tôn vì sợ 
        bị Thế Tôn quở trách. Một hôm, Thế Tôn hóa hiện một 
        nữ nhân tuyệt đẹp đứng hầu cạnh Thế Tôn, trước 
        mắt Nandà. Tiên nữ này đang chốc lát trở thành già nua, 
        dung sắc tàn tạ nhanh chóng khiến Nandà xúc động mạnh 
        về sắc tướng vô thường. Bấy giờ Thế Tôn liền nói lên 
        bài kệ: 
          
            
            "Này Nandà hãy nhìn,Bệnh hoạn và bất tịnh
 Tâm nàng hãy tu tập
 Ðạt cho được nhất tâm
 Hãy tu tập vô tướng
 Do thắng tri được mạn
 Tấm thân chỗ qui tụ
 Ðầy hôi hám thối nát
 Quán tri tánh bất tịnh
 Tâm tư khéo Thiền định
 Hãy bỏ mạn tùy miên [*]
 Nàng sẽ sống an tịnh".
 [*] Có 7 mạn tùy miên: tham, sân, 
            kiến, nghi, mạn, hữu ái, vô minh. Nghe xong bài kệ, Nandà bừng ngộ 
        và đắc liền quả A-la-hán. Bài kệ của Thế Tôn như hồi 
        chuông thức tỉnh Nandà ra khỏi mê chấp sắc thân, lòng buông 
        xả các tùy miên mà chứng ngộ. * Về thọ uẩn: Các cảm nhận đau 
        đớn, lạc thú, buồn, vui ... là thuộc về thọ uẩn. Do đó 
        các mặt của sắc, tưởng, hành và thức uẩn mà thọ uẩn 
        có mặt. Nên thọ uẩn không thật có. Do có nội sắc tiếp xúc với 
        ngoại sắc (các trần khác) mà có cảm thọ, nên cảm thọ 
        là do các duyên mà sinh, là vô thường; do vô thường mà 
        cảm thọ dẫn đến khổ đau . Cảm thọ vốn không thật có, 
        và chủ thể đón nhận cảm thọ cũng không thật có. Cả 
        hai đều do vọng tưởng về ngã mà sinh. Thực sự, không có sự kiện "khổ 
        đau" hay "ta khổ đau". Câu chuyện Tổ Ðạt-ma an tâm cho 
        Nhị tổ Huệ Khả soi sáng quá trình phân tích cảm thọ ở 
        trên. Tổ Huệ Khả thưa: "Tâm con bất 
        an, xin ngài an cho". Tổ Ðạt-mạ cười và dạy rằng: "Ðem 
        tâm ông ra đây ta an cho". - Bạch, con tìm mãi không thấy tâm 
        ở đâu cả. - Vậy là ta đã an tâm cho ông 
        rồi đó. ("Vô Môn Quan", Huệ Khai soạn). Nghe xong Tổ Huệ Khả bừng ngộ. Ở đây, hẳn bạn thấy rõ 
        trạng thái tâm lý là bất an là không có thật, cái gọi là 
        tâm của Huệ Khả cũng không thật có, thì làm sao thật có 
        cái gọi là "tâm con bất an" của Huệ Khả? Cảm giác bất an và cảm giác mình 
        bất an là kết quả của mê mờ, chấp thủ. Ai thấy được 
        điều này có thể bừng tỉnh như Nhị Tổ, nếu tâm thức 
        đã sẵn sàng với một căn bản định và tuệ. * Về tưởng uẩn: tưởng nương 
        vào sắc, thọ, hành, thức mà có. Tưởng do nhân duyên sinh 
        nên vô ngã, vô thường. Vì vô thường, tưởng đem lại 
        khổ đau. Nói đến tưởng là nói đến đối tượng của tưởng, 
        tưởng về cái gì. Cái gì ấy là sắc pháp, cái sắc do 
        tứ đại sanh (ý tưởng, tư tưởng được gồm về đây), 
        và những cảm thọ ... Sắc và thọ uẩn ... đã là không 
        thật, thì tưởng uẩn không thể có chân đứng. Tưởng 
        vốn không có tự ngã, vốn vô thường và đem lại khổ đau 
        nên tưởng không thể là ta. Ta vốn độc lập ở ngoài tưởng 
        uẩn, ở ngoài các đối tượng sinh khởi tư tưởng. Trưởng Lão Ni Kệ ghi lại câu 
        chuyện nàng Sihà, con gái của một võ tướng, một cô gái 
        giản dị thông thường. Một hôm nghe bậc đạo sư thuyết 
        pháp, nàng trở thành một tín nữ, rồi xuất gia không bao lâu 
        sau đó. Bảy năm đầu tu tập Thiền quán, lòng nàng cứ nghĩ 
        đến các cảnh trời đẹp ý, mộng và thơ, nên tâm tư bị 
        dày vò khổ sở, thân thể bị hao mòn. Nàng sầu muộn không 
        biết cách nào thoát khỏi trói buộc của các dục tưởng này. 
        Sau cùng nàng quyết định tự vẩn. Khi sợi dây thòng lọng 
        vừa đưa vào cổ thì nỗ lực Thiền quán trong bảy năm qua 
        của nàng đánh thức nàng bừng tỉnh nhận ra rằng nàng 
        phải đoạn diệt dục tưởng chứ không phải là đoạn 
        diệt thân sắc của nàng, cái cổ xinh đẹp của nàng không 
        phải là cái cổ dục tưởng. Buông thả chiếc thòng lọng, 
        nàng liền ngưng tâm, Thiền quán ngay tại chỗ, đánh tan 
        được chút mê mờ chấp ngã mà nàng còn vướng mắc, chút 
        mê mờ đã che khuất đôi mắt đẹp của nàng và che khuất 
        cả trời đất vô ngã. Nàng thấy thật rõ dục tưởng cũng 
        vô ngã, không phải là nàng, không phải là của nàng, và không 
        phải là tự ngã của nàng. Nàng liền chứng quả A-la-hán 
        (Therìgatha, Trưởng Lão Ni Kệ, 43). * Về hành uẩn: Hành uẩn có 
        mặt là do sự có mặt của tập hợp sắc, thọ, tưởng và 
        thức uẩn. Hành do duyên sinh nên vô ngã và vô thường, hành 
        đem lại khổ đau. Hành là các biểu hiện tâm lý 
        tham, sân, si đối với năm uẩn (con người và thế giới). 
        Sắc thọ, tưởng đã không thật thì hành cũng không thật 
        có. Thiện, ác là thuộc hành uẩn, nên thiện, ác vốn là 
        đối đãi, không thật. Thật phi lý, nếu nhận hành là ta, 
        là của ta, hay là bản ngã của ta. Do lẽ này, ta vốn mãi 
        độc lập với hành uẩn. Trưỡng Lão Tăng Kệ, số 65, 
        thuật chuyện Tỷ-kheo Sora Kili Misa sinh trưởng từ một gia 
        đình của một hội viên hội đồng thành phố, bị trói 
        buộc bởi thân hành và ý hành nên không thể định tâm để 
        phát triển Thiền quán. Tỷ-kheo Sona nổ lực để vượt qua 
        mà vẫn không thành tựu, bèn quyết định hoàn tục để tu 
        phước (bố thí, cúng dường ) - nghĩa là nuôi dưỡng các hành 
        tâm sở. Thế Tôn thấy rõ tâm tư Sona và dạy Sona tu Thiền 
        chỉ. Không bao lâu sau, Tỷ-kheo phát triển được Thiền định 
        và chứng đắc A-la-hán. Ði vào Thiền định là đi ra 
        khỏi trói buộc của ý hành. Ðiều này chứng tỏ hành 
        uẩn không phải là ta, là của ta hay tự ngã của ta. * Về thức uẩn : Thức có mặt là 
        do có thọ, tưởng, hành và sắc uẩn. Theo 12 chi phần nhân 
        duyên thì do có hành mà có thức. Khi hành đã không thật thì 
        thức cũng không thật. Thức lại nương vào căn và 
        trần mà xuất hiện. Căn và trần đã là huyễn sinh thì 
        thức cũng là huyễn hữu (không thật có). Do đó, thức không 
        phải là ta, là của ta hay là bản ngã của ta. Nhận thức 
        như vậy hành giả có thể rời xa cả hữu ái và vô hữu 
        ái . Kinh Sáu Xứ (Trung Bộ Kinh III, tr. 
        351,352, bản dịch của HT. Minh Châu) ghi lời giảng của 
        Thế Tôn cho 60 vị Tỷ-kheo rằng : 
          " ... Này các Tỷ-kheo, do duyên 
          mắt và các sắc khởi lên nhãn thức - Tương tự, khởi lên 
          nhỉ, tỷ, thiệt, thân và ý thức. Sự gặp gỡ của căn, 
          trần và thức là xúc. Do duyên xúc khởi lên các lạc 
          thọ, khổ thọ, bất khổ, bất lạc thọ... Này các 
          Tỷ-kheo, vị ấy do đoạn tận tham tùy miên đối với 
          lạc thọ, xả sân tùy miên đối với khổ thọ, nhổ lên 
          vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, làm 
          cho minh khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là người 
          chấm dứt khổ đau". Ðược nghe Thế Tôn giảng dạy 
        như vậy, tất cả 60 vị Tỷ-kheo ấy đều rời khỏi chấp 
        thủ, giải thoát hết lậu hoặc. Ðây là sự tự giải phóng 
        ra khỏi thức uẩn. Bạn nên thực tập nhiều lần 
        Thiền quán với Năm uẩn như vừa được trình bày. Về 
        sau, tùy theo căn cơ của bạn, nếu tâm lý bạn bị vướng 
        mắc nặng vào uẩn nào(sắc hay thọ...) thì Thiền quán ngay 
        uẩn đó. Nếu cảnh sống nào hằng ngày gây 
        một ấn tượng sâu sắc về vô thường, khổ đau trong lòng 
        bạn, thì bạn hãy để tâm ngay trên cảnh sống ấy mà 
        Thiền quán sâu xa, thật sâu xa, kết quả ly tham ái và ly 
        chấp thủ sẽ được gặt hái nhiều hơn. Kinh điển Phật giáo, đặc biệt 
        là Trưỡng Lão Tăng Kệ và Trưỡng Lão Ni Kệ, ghi lại 
        rất nhiều trường hợp các tu sĩ chứng đắc Thánh quả 
        nhờ thấy rõ lẽ vô thường. Chuyện kể (Kinh Bổn Sanh) trường 
        hợp một đệ tử nhỏ tuổi của Tôn giả Xá-lợi-phất không 
        thích ứng với pháp quán bất tịnh, đã được Thế Tôn 
        cho phép ngắm nhìn một đóa hoa thật đẹp nở trên một 
        hồ nước thật xinh, thật thơ mộng. Khi sự chú ý của người 
        đệ tử này dán chặt vào đóa hoa thì Thế Tôn vận thần 
        thông cho đóa sen hóa hiện kia héo rụng liền. Thấy từng cánh 
        hoa bỗng nhiên héo úa và rơi rụng, người đệ tử trẻ 
        tuổi bừng tỉnh lẽ vô thường, lòng ly tham hoàn toàn mà 
        chứng đắc A-la-hán quả. Bạn có thể thực tập pháp 
        Thiền quán này vào các buổi chiều tàn trong một vườn hoa 
        (gần một bồn hoa), hay vào những chiều lá đổ, bạn sẽ 
        thấy các tâm lý ly tham, ly thủ, khinh an và xả xuất hiện, 
        lòng bạn sẽ lắng tỉnh hơn và niềm tin vào " mục tiêu" 
        và " con đường" sẽ tăng trưởng mạnh. Khi mà tham dục và chấp thủ được 
        buông xả, thì định và tuệ tự đến (hay tự chiếu). Ðịnh 
        ấy chẳng là gì khác hơn là trạng thái tâm lý động viên 
        Sự ra đi của các tâm lý vọng đọng chính là sự trở 
        về của định và tuệ. Nỗ lực đầu tiên của bạn khi 
        thực sự đi vào công phu Thiền định, là dịp bỏ các 
        trạng thái tâm lý mệt mỏi, thụ động, buồn nản (hôn 
        trầm), các trạng thái tâm lý tán loạn, lăn xăn, ồn ào 
        (trạo cử), các tính nóng nảy, vội vả (sân), các ham 
        muốn sắc, thinh, hương, vị và xúc chạm êm ả (dục), và 
        các mối hoài nghi, do dự về "mục tiêu" và "con đường" 
        . Sau bước nổ lực đó, bạn tu 
        tập mạnh về chánh niệm, tỉnh giác, vận dụng Thiền quán 
        về vô thường, vô ngã và khổ đau, bạn sẽ có kinh 
        nghiệm đi sâu vào định tuệ. Phần thực tập đi vào định và 
        tuệ là phần thực tập trực tiếp điều hòa tâm.   B. Ðiều Hòa Tâm Ðiều hòa tâm là giai đoạn tu 
        tập trọng tâm của Thiền định. Mở đầu là bước loại 
        trừ Năm triền cái, tu tập chánh niệm tỉnh giác nhiếp 
        phục tham, ưu ở đời. Tiếp theo là bước tu tập Thiền 
        chỉ và Thiền quán. Hai chứng bịnh (trở ngại) thường 
        gặp phải trong thời gian tu tập Thiền định là trạo cử 
        và hôn trầm, thụy miên. Hành Thiền, nếu bạn không giữ 
        được chánh niệm, tỉnh giác thì bạn sẽ rơi vào một 
        trong ba trạng thái tâm lý: trạo cử, hôn trầm và vô ký. Ðối trị Trạo cử Nếu bạn không thể dừng tâm vào 
        một đối tượng đã chọn như ý bạn muốn, tâm cứ chạy 
        dài từ đối tượng này qua đối tượng khác, thì đấy là 
        trạng thái tâm lý dao động, hay gọi là trạo cử. Trạo cử là một tâm lý, gây 
        trở ngại, ngăn cách bạn với Thiền định. Bạn cần nổ 
        lực vượt qua trạng thái tâm lý này. Khi vừa nhận ra mình đang trạo 
        cử, bạn liền dừng suy tư, để sự chú ý theo dõi hơi 
        thở vào ra một cách chuyên chú cho đến khi bạn cảm thấy 
        vừa ổn. Ổn định xong trạo cử, bạn có thể tiếp tục 
        theo dõi hơi thở, Thiền chỉ hay trở ngại tư duy nếu bạn 
        thấy cần. Với những ai bị dao động 
        nhiều bởi tư duy lúng túng của mình, thì chỉ nên theo dõi 
        hơi thở hay hành Thiền chỉ trong một thời gian khá lâu trước 
        khi có thể đi vào Thiền quán, hay chỉ quán song tu. Có những cấp độ trạo cử thô 
        và tế khác nhau bạn cần nhận rõ để vận dụng các công 
        phu thích ứng. Khi bạn chưa được vào Sơ 
        thiền, có nghĩa là bạn còn vướng mắc vào Năm triền cái, 
        trong đó có trạo cử. Trạng thái trạo cử ở trên là 
        thuộc cấp độ thô gọi là trạo cử của kẻ phàm phu chưa 
        vào định. Khi bạn đã vào định, những lo 
        nghĩ, ưu tư của bạn khởi lên tìm cách để đi ra khỏi các 
        kiết sử (thân, kiến, nghi, giới cấm thủ, dục, sân, hữu 
        ái, vô hữu ái, mạn, trạo cử, vô minh) là hình thức 
        trạo cử, nhất là những khi bạn không nhận ra chỗ vướng 
        mắc của mình để gỡ. Nhưng trạo cử ở đây ở cấp độ 
        tế nhị hơn ở cấp độ trước. Khi hành giả chứng được quả 
        Thánh hữu học (từ Tu-đà-hoàn đến A-na-hàm), nghĩa là còn 
        vướng mắc vào Năm thượng phần kiết sử (hữu ái, vô 
        hữu ái, mạn, trạo cử và vô minh), nếu hành giả thao 
        thức tìm lối thoát khỏi trói buộc của các kiết sử đó 
        do vì không nhận ra chỗ vướng mắc của mình, thì đấy là 
        trạng thái trạo cử tế nhị nhất. Cho đến khi đắc 
        A-la-hán, trạng thái tâm lý trạo cử mới hoàn toàn bị 
        loại trừ . Trạng thái tâm lý trạo cử nào 
        cũng chướng đạo, cũng ngăn che giải thoát cả, hành giả 
        cần nhiếp tâm chánh niệm, tỉnh giác để đi ra. Theo dõi chuyên chú hơi thở vào 
        ra, hành Thiền chỉ và chánh niệm tỉnh giác là biện pháp 
        đối trị trạo cử một cách hữu hiệu. Ðối Trị Hôn Trầm Trạng thái tâm lý mệt mỏi, uể 
        oải, lười biếng, buồn ngủ khi ngồi Thiền gọi là 
        trạng thái hôn trầm thụy miên (có khi ngủ hẳn một lát 
        ). Khi bạn theo dõi một đối tượng 
        trong khoảng thời gian khá lâu, sự theo dõi của bạn có 
        thể lơi dần, yếu dần, rồi mất dần luôn sự kiểm soát. 
        Bấy giờ, tâm lý của bạn chìm vào hôn trầm. Trạng thái 
        tâm lý này sẽ ngăn trở bước tiến thực hành Thiền định 
        của bạn. Bạn luôn luôn cần nỗ lực đi ra khỏi hôn 
        trầm. Khi biết mình đang bị hôn trầm, 
        bạn liền thức tỉnh tìm cách đi ra. Bạn có thể để sự 
        chú ý ngay trên đỉnh đầu một lát cho đủ tỉnh táo, 
        rồi bạn tự trách mình ngay, khởi niệm nổ lực ngay, trở 
        về theo dõi chuyên sâu vào hơi thở vào ra. Phương thức đối 
        trị hôn trầm hữu hiệu là bạn đi vào tư duy liền. Nghĩ 
        ngay hôn trầm là tai hại lớn cho công phu thực tập Thiền 
        định, rồi khởi lên Thiền quán đối tượng mà bạn thích. 
        Bạn có thể Thiền quán lâu như bạn có thể. Một số phương thức đối trị 
        hôn trầm sau đây mà Thế Tôn đã dạy cho Tôn Giả 
        Mục-kiền-liên (Tăng Chi 3A, tr 85-86, bản dịch của HT. Minh 
        Châu, 1981) tám ngày trước khi Tôn Giả đắc A-la-hán, bạn 
        có thể vận dụng: 
          1. Khi bạn đang ở tưởng nào mà 
          thụy miên kéo đến thì bạn rời khỏi tưởng ấy, đừng 
          tác ý đến tưởng ấy, thụy miên sẽ tan đi. 2. Nếu rời khỏi tưởng ấy mà 
          thụy miên vẫn còn, thì bạn tư duy các giáo lý mà bạn 
          vẫn nghe, đã học thuộc. Thụy miên sẽ bị loại trừ. 3. Nếu tư duy như thế mà thụy 
          miên vẫn không tan, thì bạn đọc tụng Pháp như đã nghe, 
          đã học thuộc. Thụy miên sẽ bị loại trừ. 4. Nếu thực hiện như vậy mà 
          thụy miên vẫn chưa tiêu, thì bạn sẽ kéo mạnh hai lỗ 
          tai và lấy hai tay xoa bóp tay, chân cho tỉnh. 5. Nếu làm như thế mà thụy miên 
          vẫn tồn tại, thì bạn sẽ rời khỏi chỗ ngồi Thiền, 
          ra ngoài lấy nước mát rửa mặt, nhìn về phía phương 
          trời xa xăm sáng sủa, hay nhìn lên các vì sao (nếu về đêm), 
          thụy miên sẽ tan mất. 6. Nhưng nếu các biện pháp trên 
          không có kết quả, thì bạn hãy tác ý tưởng đến ánh sáng, 
          tưởng ban ngày. Như thế, với tâm mở rộng, không hạn 
          chế, tu tập tâm chói sáng, sẽ là tiêu tan hôn trầm. 7. Nếu tưởng ánh sáng ... không 
          có kết quả, thì bạn hãy đi kinh hành, tác tưởng trước 
          mặt và sau lưng, để tâm hướng nội, thụy miên sẽ bị 
          loại trừ. 8. Nếu các biện pháp đối 
          trị khi ngồi, khi đứng, khi đi không có kiến hiệu, thì 
          bạn hãy nằm theo dáng nằm của sư tử, nghiêng về hông 
          phải, đôi chân gác lên nhau, giữ chánh niệm các tưởng 
          thức dậy thật mau, không khởi niệm ham thích nằm ngủ, 
          các tưởng như vậy nhiều lần, thụy miên sẽ đi đến 
          tiêu tán. Khi bạn đang theo dõi một đối tượng, 
        bỗng bạn lững quên đi một chốc, đánh mất sự kiểm soát, 
        không biết bạn đang làm gì, bây giờ là lúc bạn bị rơi 
        vào hôn trầm nhẹ. Chỉ cần giác tỉnh thì bạn liền đi 
        ra khỏi hôn trầm ấy ngay. Ðối Trị Vô Ký Ngoài hai trạng thái tâm lý trạo 
        cử và hôn trầm kể trên, có một trạng thái tâm lý không 
        phải là tỉnh giác, không phải trạo cử, cũng không phải 
        là hôn trầm mà chỉ hơi ngã về hôn trầm gọi là trạng 
        thái vô ký. Ðấy là trạng thái tâm lý khờ khờ mà bạn có 
        thể ngỡ là bạn đang tỉnh táo (không hôn trầm, không 
        trạo cử). Bạn cần tỉnh giác đánh thức mình đi ra khỏi 
        trạng thái ấy ngay, đừng lầm lẫn nó với trạng thái tâm 
        lý lắng đứng, an tỉnh. Vô ký là biểu hiện của si tâm, 
        tướng biểu hiện bên ngoài của hành giả là tướng "lặng 
        chết" hay tướng lắc lư như đồng bóng. Chỉ cần tỉnh 
        giác theo dõi hơi thở vào ra thì tâm lý vô ký lặn mất 
        ngay. Thông thường, pháp thực hành 
        của bạn là Thiền chỉ hoặc Thiền quán. Khi bạn hành 
        Thiền chỉ lâu, thì dễ bị rơi vào hôn trầm; khi bạn hành 
        Thiền quán lâu, thì dễ bị rơi vào trạo cử. Do đó bạn 
        cần tỉnh giác vận dụng chỉ, quán vừa đủ trong giai đoạn 
        tu tập từ Năm triền cái, thế nào để loại trừ trạo 
        cử và hôn trầm. Nếu bạn vận dụng chỉ quán song tu đúng 
        mức thì đó là vận dụng tu tập thiện xảo, bạn có 
        niềm tin đi vào Thiền định chóng. Nguyên tắc tổng quát 
        để hành chỉ quán tốt là đề khởi quán khi tâm lý thụ 
        động, và chỉ để khởi khi tâm lý năng động. Nếu bạn 
        thực tập đi ngược với nguyên tắc đó thì chỉ dần đến 
        kết quảlung túng trong trạo cử và hôn trầm. Ðể đi nhanh vào định, song song 
        với việc đối trị trạo cử, hôn trầm, bạn còn cần đối 
        trị với dục, sân và nghi triền cái. Ðối Trị Dục Triền Cái Dục đề cập ở đây được 
        giới hạn trong những ham muốn ngũ dục lạc: sắc, thanh, hương, 
        vị và xúc. Sơ Thiền được định nghĩa là 
        "ly dục, ly ác pháp bất thiện pháp". Ðối tượng trở 
        lại nhất trong việc vào Sơ thiền là dục. Ðể đoạn 
        trừ lòng dục về dục giới, bạn cần thường xuyên thực 
        hiện ba việc tu tập, đào thải hôn trầm và trạo cử. 
          1. Thường quán vô ngã, vô thường 
          và khổ đau hay là quán khía cạnh nguy hiểm của các pháp. 
          Nhờ thấy rõ chân tướng vô thường và khổ đau mà hành 
          giả tỉnh cơn mê đắm dục lạc. 2. Quán trực tiếp hậu quả tai 
          hại, nguy hiểm của lòng ham muốn sắc, thanh, hương, vị 
          và xúc, và nhìn thẳng vào khía cạnh bất tịnh của chúng. 
          Nhờ thấy rõ khía cạnh nguy hiểm và bất tịnh mà bạn 
          tỉnh mộng đắm say, đi ra khỏi các trói buộc của chúng. 3. Nghĩ đến hạnh phúc, an lạc 
          của Thiền định và sự cần thiết của một căn bản 
          Thiền định để đi sâu vào tuệ, giải quyết vấn đề 
          khổ đau của sinh tử mù mịt. Niềm phấn khởi hân hoan 
          đi vào Thiền định của bạn sẽ dễ dàng buông thả 
          dục lạc rơi lại đằng sau. Bạn trầm tư nhiều lần, cho đến 
        lúc tâm bạn tự tách rời khỏi dục lạc như một ngọn lá 
        vàng buông mình lìa khỏi cành. Hân hoan, hỉ lạc và niềm 
        tin Thiền định sẽ đến với bạn vào thời điểm cánh lá 
        vàng dục lạc ấy buông rơi. Ðối Trị Sân Triền Cái Sân là tâm lý vội vã, nôn nóng, 
        nóng giận và ghét bỏ. Sân hận đối lập với từ bi như 
        tâm lý học A-tỳ-đàm (Abhidhamma) xác định: "sân", từ Pàli 
        gọi là dosa, và "từ bi" trong từ Pàli gọi là adosa. Ðối trị với tâm lý sân, bạn 
        cũng có các phương cách tu tập: 
          1. Khởi niệm từ bi, hay gọi là 
          quán từ bi, thì sân sẽ lắng dịu. 2. Nhìn thật kỹ thân phận 
          khổ đau của con người thì lòng từ sẽ khởi lên và lòng 
          sân sẽ chìm lằng xuống. 3. Quán khía cạnh nguy hiểm 
          của sân: những hậu quả tai hại do sân đem lại trong 
          hiện tại và tương lai. Người ta thường bảo một đốm 
        lửa sân có thể thiêu hủy các rừng công đức. Nhờ vậy 
        để tự cảnh giác. Sân hận luôn luôn đầu độc tâm lý gây 
        đỗ vỡ làm xấu nhan sắc, giảm ngắn tuổi thọ và ít 
        nhiều gây rối loạn tiêu hóa. Suy nghĩ như vậy, bạn có dịp 
        thức tỉnh đi ra khỏi sân. Ðối Trị Với Nghi Triền Cái Nghi, đó là nội dung của sự không 
        nhận ra " mục tiêu" và" con đường" của Thiền định. 
        Chương I của cuốn sách nhỏ này có thể giúp bạn một 
        phần trong việc cởi bỏ lòng nghi ấy. Nghi sẽ ngăn cản bạn đi vào 
        sự tập trung tư tưởng. Cho đến khi bạn học pháp, nghe pháp 
        và có chánh kiến về pháp thì bạn mới thoát khỏi lưới 
        nghi. Cho đến khi ấy, bạn mới vận dụng hữu hiệu nỗ 
        lực tu tập của bạn để loại trừ cái triền cái và các 
        ảo giác, vọng tưởng.   C. Ðối Trị Các ảo 
        Giác Vọng Tưởng Trong Và Sau Khi Ngồi Thiền: Ðối tượng của tu Thiền là 
        loại bỏ Năm triền cái sau bước điều hòa thân và điều 
        hòa hơi thở. Tiến bộ đáng được ghi nhận và việc 
        thực hành Thiền định qua quá trình đoạn trừ Năm triền 
        cái ấy. Tất cả công phu là ở đó. Bạn đừng bày vẻ thêm 
        gì nữa. Ở giai đoạn đầu thực hiện, 
        một số hành giả, do hành Tứ Niệm Xứ hay Niệm hơi thở 
        vào hơi thở ra chưa nghiêm túc, có thể rơi vào một giấc 
        ảo giác, vọng tưởng. Chẳng hạn, ảo giác nghe có kiến bò 
        trên mình, mặt, nghe ngứa, cảm giác ngồi nghiêng lệch v.v 
        ... là do chưa điều hòa tốt thân và hơi thở. Nghe lâng lâng, 
        tưởng chừng mình có thể bay liệng là do hai đầu gối chưa 
        để sát sàn ngồi (bị hỏng). Có khi trong trạng thái tâm lý 
        mê mê hay vô ký rồi ý khỏi tưởng ra nhiều hình ảnh, màu 
        sắc mà ngở là kết quả của tu tập hay lo sợ về chúng 
        v.v... Bạn cần ổn định dứt khoát 
        rằng pháp Niệm hơi thở vào hơi thở ra tự nó đã là pháp 
        đối trị với các thứ vọng động, loan tưởng, bạn đừng 
        chờ đợi một biện pháp đối trị nào khác cho các vọng 
        tưởng, loạn động khác hơn là chính việc nghiêm chỉnh hành 
        Niệm hơi thở vào và hơi thở ra đó. Pháp tu ấy dẫn đến 
        định, có nghĩa là đi ra khỏi mọi thứ loạn động, loạn 
        tưởng thì Thế Tôn đã dạy thêm cho chúng ta các pháp đối 
        trị khác. Thấy rõ "mục tiêu" và "con đường" của 
        Thiền định là ổn định rằng "Tứ Niệm Xứ là con đường 
        độc nhất đưa đến giải thoát", có khả năng để đầy 
        lùi các vọng động và loạn tưởng. Có người hành Thiền băn khoăn 
        không biết mình có thể tự biết mình đang ở đâu trên 
        con đường Thiền định, mình đang ở Sơ Thiền, Nhị 
        Thiền chăng ? v.v... Nhất là khi ngồi Thiền thấy hân hoan, 
        và sau khi ngồi Thiền trong đêm có các giấc mộng lành. 
        Bạn đừng băn khoăn điều đó. Chừng nào mà tâm lý của 
        bạn có mặt tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất tâm thay chỗ cho 
        Năm triền cái, thì bạn nhận ra ngay bạn đang ở Sơ Thiền 
        và v.v... Cái điều duy nhất đúng mà bạn 
        phải thấy khi ngồi Thiền là thấy rõ sự vào ra của hơi 
        thở, sự khởi diệt của các cảm thọ và các tâm lý. 
        Thấy rõ mà vẫn giữ niệm giác tỉnh đi ra khỏi các tham 
        ưu ở đời. Ðể hổ trợ cho các công việc 
        đối trị các triền cái và các loạn tưởng, bạn có thể 
        và chỉ nên thực hiện thêm pháp Sám hối và Bố thí. Hai 
        pháp này sẽ làm tăng trưởng thiện tâm và xả bỏ các 
        tham ái, sân hận và các mặc cảm tội lỗi gây dao động tâm 
        lý bạn. Khi bạn đã ý thức và đã chọn 
        con đường thực hiện Thiền định được trình bày ở trên, 
        bạn hãy trung thành với nó. Bạn đừng ngóng vọng một ngõ 
        đường tu tập nào khác, đừng để mình rơi vào cảnh "đứng 
        núi này trông núi nọ", bởi vì đó là cảnh nuôi dưỡng 
        trạo cử và nghi triền cái đi ngược với mục tiêu ban đầu 
        của bạn. -oOo- Chương 
        trước | Mục lục | Chương 
        kế |