[BuddhaSasana]

[Unicode Fonts]


  

Pháp trích lục
Huỳnh Văn Niệm soạn dịch


Tập 3

12. Những nguyên tố

Ta có nghe như vầy:

"Thuở nọ, Ðức Thế Tôn hành trình đơn độc trên đường dài đi vào xứ Magadha (Ma Kiệt Ðà). Khi tới thành Rajagaha (Vương Xá) Ngài đến xin nghỉ đêm tại nhà người thợ làm đồ gốm tên Bhaggava. Ông này nói:

"Chẳng có gì làm phiền tôi cả nếu Ngài muốn nghỉ tạm tại đây. Nhưng nhà tôi hiện nay có một chàng trai đi hành hương xin vào trọ. Vậy xin Ðức Thế Tôn tùy tiện thương lượng với người thanh niên ấy và muốn ở lại đây bao lâu tùy thích.

"Cùng lúc đó, chàng thanh niên Pukkusati với đức tin nhiệt thành muốn tìm phương giải khổ, cũng rời bỏ gia đình đi sống cảnh không nhà. Chàng phát động một cuộc hành hương trên đường dài để tìm theo vết chân của Ðức Như Lai.

"Khi Ðức Phật xin ở trọ, Pukkusati nhả nhặn đáp:

"Kính bạch Ðại Ðức, nhà ông thợ đồ gốm rộng rãi mát mẻ. Vậy xin ông cứ việc sử dụng chẳng có gì làm phiền tôi cả.

"Ðức Thế Tôn bước vào trong, trải chiếc đệm rơm, ngồi kiết già thân hình ngay thẳng, chú tâm về phía trước và giữ oai nghi đó suốt đêm dài khuya khoắt. Chàng trai Pukkusati cũng trải chiếu, ngồi kiết già, thân hình ngay thẳng, chú tâm về phía trước và giữ oai nghi đó suốt đêm.

"Bỗng Ðức Phật hỏi:

"Này chàng thanh niên, hiện nay người đang đi kiếm ai và ai là thầy tổ của ngươi? Chàng nương theo Giáo Pháp nào để tìm đường thánh thiện?"

- "Bạch Ðại Ðức, bậc đáng kính Gotama, rời bỏ gia tộc Thích Ca đi tìm phương cứu khổ đã trở thành một vị A La Hán. Danh thơm của Ðức Gotama hay đến tận phương xa và đâu đâu cũng có tiếng đồn hoan lạc rằng Ngài là Ðấng Thế Tôn, là bậc A La Hán, là Ðấng hoàn toàn giác ngộ, có sự hiểu biết siêu nhân. Ngài là Ðấng Trọn Lành suốt thông tam giới, là bậc Ðại Giác, là Thầy cả chư thiên và nhân loại.

"Ðức Phật hỏi:

"Này chàng tu sĩ, vậy chớ hiện nay Ðức Thế Tôn, bậc A La Hán Ðại Ngộ đó đang ngự tại đâu?"

- "Kinh bạch Ðại Ðức, hiện nay Ðức Thế Tôn, Ðấng Trọn Lành, Ðấng Ðại Giác đang ngự trong mấy tỉnh miền Bắc tại một kinh đô gọi là Savathi (Xá Vệ).

- "Này chàng thanh niên, vậy chớ người có gặp Ðức Thế Tôn lần nào chưa?

- "Bạch Ðại Ðức, tôi chưa hân hạnh được thấy Ngài bao giờ.

"Khi biết Pukkusati chưa nhận diện ra Ngài, Ðức Thế Tôn ôn tồn khuyến hóa chàng tu sĩ:

-"Hỡi này chàng thanh niên đi hành hương! Ngươi hãy chú tâm ráng nghe đây!

"Trong mỗi con người có sáu nguyên tố, sáu sự tiếp xúc, mười tám cái tâm tìm kiếm, và bốn sự quyết tâm. Khi người nào thấu đáo và điều ngự được chúng, không để cho những ý nghĩ vu vơ huyền hoặc xâm nhập, thì người ấy được gọi là bậc Ðại Hiền Thanh Tịnh. Chừng đó người ấy an trú vững vàng trong Chánh Kiến, người ấy cố bảo trì chân lý, thỏa thích với sự dứt bỏ và chẳng làm gì khác hơn là củng cố sự yên lặng an vui.

"Này chàng thanh niên đi hành hương, đây là sự thuyết minh nhứt chi về sáu nguyên tố.

"Ta nói mỗi con người có sáu nguyên tố là: đất, nước, lửa, gió, hư không và tâm thức.

"Ta nói trong mỗi con người có sáu sự tiếp xúc với sáu trần là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.

"Ta nói trong mỗi con người có mười tám cái tâm tìm kiếm là sáu cái tâm vui thích trong lục trần, sáu cái tâm nhàm chán sáu trần, và sáu cái tâm trung lập về các trần đó (không vui, không khổ).

"Ta cũng nói trong mỗi con người có bốn sự quyết tâm là: hiểu biết chân chánh (Chánh Kiến), bảo tồn chân lý, ráng dứt bỏ, và cố gắng thành đạt sự yên tĩnh.

"Ta cũng nói con người cần phải cứng rắn sống trong Chánh Kiến, bảo tồn Chân lý giữ mình chân thật, thỏa thích trong sự dứt bỏ và chẳng làm gì khác hơn là an trú trong trạng thái yên lặng.

"Nhưng thế nào là người cứng rắn trong Chánh Kiến?

"Trước nhứt là sáu nguyên tố mà bản chất có thể được mô tả như sau:

"Chất đất có thể là chủ quan (ở trong xác thân) hay khách quan (ở ngoài xác thân). Nếu ở bên trong thì nó thuộc về một cá nhân, mang tánh cách cá nhân và tùy theo sở hữu của mỗi con người. Ðất có tánh cách cứng, rắn chắc hoặc có những tánh cách tương tợ. Ðó gọi là nguyên tố 'Ðất', trong con người. Ðem nó ra so sánh với chất đất bên ngoài thì chúng ta thấy rằng đó chỉ toàn là đất mà thôi.

"Tư cách hiểu biết chân chánh đúng theo thực tế như vậy khiến chúng ta nhận định rằng đó không phải là Ta, không phải của Ta và cũng chẳng phải là Bản Ngã. Khi biết nhận xét đúng theo chân lý như thế, con người không quan tâm gì tới chất đất và chẳng còn ngã chấp.

... (Bốn nguyên tố tiếp theo: nước, lửa, gió, hư không, cũng được giải thích theo thể thức kể trên).

"Ngoài năm nguyên tố trên đây, cái tâm được thanh lọc trở nên trong sạch cao thượng, đưa con người tới trình độ hiểu thấu rõ rệt mọi vật và biết phân biệt cái chi là vui, cái gì là khổ và cái gì không vui không khổ.

"Sự tiếp xúc vừa lòng làm phát sanh cảm giác vui thích. Khi vui thích người biết rõ mình đang trắc nghiệm niềm vui và người cũng biết rằng lúc nào sự tiếp xúc thích thú không còn nữa thì niềm vui cũng biến tan. Ðối với những sự tiếp xúc chán chê sầu não hoặc không vui không khổ người cũng biết nhận định rõ rệt đúng theo chân lý.

"Hỡi này chàng thanh niên đi hành hương! Như hai khúc gỗ được cọ xát với nhau trở nên nóng làm tung tóe ra những đốm lửa và khi chúng bị tách rời ra thì sức nóng biến tan. Cũng như thế ấy, sự tiếp xúc vừa lòng làm phát sanh cảm giác an vui thích thú. Khi trắc nghiệm cảm giác đó người biết mình đang hưởng lạc thú và cũng biết rõ khi sự tiếp xúc vừa lòng chấm dứt thì niềm vui cũng chẳng còn. Ðối với sự tiếp xúc khổ sầu hoặc không vui không khổ, người cũng biết rõ.

"Này người thanh niên, sự thản nhiên thanh tịnh được thanh lọc cao thượng, nó sẽ trở nên mềm dịu sáng chói. Như nén vàng chưa tinh luyện (vàng đồ), được để vào khung đốt lửa lên cho cháy đỏ. Thỉnh thoảng người thợ kim hoàn dùng ống đồng thổi tạt ngọn lửa lên bề mặt cục vàng rồi gấp nó đem nhúng vào nước để quan sát coi công việc mình làm có chu đáo không? Vàng bị đốt chảy ra và được thanh lọc tách rời các loại kim xấu khác như thế nào để nó trở nên tinh vi, mềm dẻo, sáng chói, rồi đem làm ra nhiều món nữ trang như vòng, bông tai, dây chuyển cổ... và được kết quả tốt đẹp.

"Sự an tĩnh thản nhiên được thanh lọc, trau giồi cao thượng trở nên mềm dẻo sáng chói cũng như thế ấy.

"Chừng đó sự hiểu biết rõ rệt phát sanh đến cho người (hành giả) như vầy: "Vậy ta thử tập trung cái tâm được thanh lọc trau giồi cao thượng này và hướng nó về lãnh vực: Không Vô Biên, Thức Vô Biên hoặc Vô Hữu Sở rồi làm phát triển cái tâm trở nên rộng lớn bao la trong các lãnh vực và an trú trong trạng thái ấy một thời gian khá lâu. Quả thật ta đã thành tựu, nhưng đây cũng chỉ là những hiện tượng được chế tạo. Chúng chỉ có tánh cách tạm thời thoáng qua mà thôi".

"Như vậy, hành giả chẳng phí công tìm tòi về tư cách sanh diệt của những vật cấu tạo và chẳng thiết tha gì với chúng. Người được hoàn toàn tự do và chẳng còn chi ràng buộc trên thế gian này nữa.

"Ðược tự do rồi người không còn sợ hãi lo âu, nội tâm không xao xuyến và tin chắc rằng mình chẳng còn tái sanh nữa, mình đã sống tròn đủ cuộc đời cao thượng, các việc mình đã làm xong và không còn dính mắc với bất cứ việc gì trên cõi thế.

"Khi có cảm giác vui, khổ, hoặc không vui không khổ phát sanh, người biết rõ đó là những tình cảm tạm thời, không xem chúng là quan trọng và chẳng quyến luyến ôm ấp niềm vui.

"Khi có cảm giác rằng xác thân mình sắp kết liễu, người cũng biết rõ. Người biết đời sống chấm dứt như thế nào. Người biết sau khi cơ thể rã rời, tất cả những cảm giác và niềm vui đều hòa đồng vào cõi hoàn toàn tịch tịnh.

"Chẳng khác nào cái đèn cháy được là nhờ chất dầu và cái tim của nó. Nhưng khi dầu hao, tim lụn mà người không châm dầu khơi tim thì cái đèn phải tắt. Cũng như thế ấy, kẻ nào hiểu biết sự kết liễu của xác thân và kiếp sống, biết luôn cả tư cách hòa đồng những niềm vui khổ vào cõi tịch tịnh khi xác thân tan rã, kẻ đó đã hoàn toàn thoát ly ra khỏi bánh xe sanh tử.

"Thầy Tỳ kheo thuần thục như thế là người có sự "Quyết tâm cao cả về Chánh Kiến". Vì sự hiểu biết cao siêu cùng tột là tư cách thấu rõ trạng thái kết thúc nguồn thống khổ.

"Tư cách giải thoát căn cứ vào Chân Lý. Sự dối trá tự nó đã là xấu xa lầm lạc. Chân Lý là Niết Bàn, là nơi chẳng còn sự dối trá nào cả. Lẽ đó thầy Tỳ kheo biết trau giồi phẩm hạnh thêm cao thượng đã thành đạt sự "Quyết tâm cao cả về Chân Lý". Vì Chân Lý cao siêu cùng tột là Niết Bàn, nơi chẳng còn điều chi dối trá.

"Khi đôi mắt (Tuệ Giác) chưa bùng sáng, con người bị trói chặt vào cuộc sống và tha thiết ấp yêu nó. Giờ đây màn vô minh bị vẹt, nhường chỗ lại cho ánh sáng cao siêu. Những sự vật nhận định do cặp mắt phàm phu khi trước hiện nay đã thay đổi. Thầy Tỳ kheo đi tới trình độ "Quyết tâm cao cả về sự Dứt Bỏ". Vì tư cách dứt bỏ cao siêu cùng tột là giải thoát (con người) ra khỏi những sợi dây trói chặt vào đời sống.

"Khi đôi mắt chưa bừng sáng, con người hằng làm mồi cho si mê ái dục. Giờ đây chúng đã bị diệt tận gốc rễ, nhường chỗ lại cho sự thông minh sáng lạng. Những sự nhận định với cặp mắt phàm phu lúc trước, hiện nay đã thay đổi. Những sự tối tăm, sân hận, oán thù, tàn bạo, lầm lạc bị diệt tận gốc rễ, nhường chỗ lại cho sự thông minh sáng lạng. Ðược trau giồi thuần thục như thế, thầy Tỳ kheo đi tới trình độ "Quyết tâm cao cả về sự An Tĩnh". Vì sự an tĩnh cao siêu cùng tột là dập tắt lòng tham dục, sân hận, si mê.

"Ta nói kẻ nào an trú vững chắc trong trạng thái yên tĩnh không còn bị những ý nghĩ vu vơ lầm lạc, không lợi ích xâm nhập, kẻ đó đáng được gọi là bậc Ðại Hiền Thanh Tịnh. Nhưng thế nào là ý nghĩ không lợi ích?

"Nói rằng: "Ta đây" là một ý nghĩ vô ích. Nói rằng: "Không phải Ta đây" là một ý nghĩ vô ích Ta sẽ tái sanh hay không sanh ra nữa? Ta sẽ có xác thân hay vô minh? Hữu tri hay vô tri? v.v..., đều là những ý nghĩ vô ích. Chúng giống như một chứng bệnh, như ung nhọt, như cái gai nhọn.

"Khi vượt qua khỏi các ý nghĩ vu vơ không lợi ích, người ấy được gọi là bậc Ðại Hiền Thanh Tịnh, không còn sanh trưởng nữa, không còn sợ hãi và chẳng tham muốn gì nữa. Người đó không còn yếu tố gì để tái sanh. Không sanh trưởng thì sự già nua làm sao đến được? Mà không già thì khỏi chết. Nếu không chết thì còn sợ chi nữa và chẳng sợ hãi thì cần gì tham muốn?

"Hỡi chàng thanh niên đi hành hương! Ðó là sự thuyết minh nhứt chi về những nguyên tố mà người cần ghi nhớ trong tâm".

"Nghe xong Chánh Giáo, Pukkusati nhận ra người khuyến hóa mình chính là Ðức Thế Tôn, là Ðấng Ðại Giác. Chàng liền vén y bên vai phải, mọp xuống chân Ngài: "Kính bạch Ðức Thế Tôn, vì lỗi lầm điên dại nên con đã vô ý xưng hô với Ngài như đối với một đạo sĩ tầm thường. Vậy xin Ðức Thế Tôn nhận lời sám hối tội lỗi và con nguyện sẽ không tái phạm nữa trong buổi tương lai".

"Ðức Phật nói: "Lành thay! Ðó là triệu chứng tấn hòa trong giới bổn, khi người tự biết lỗi mình, ăn năn sám hối và nguyện giữ gìn không cho tái phạm sau này".

- "Bạch Ðức Thế Tôn, vậy xin Ngài cho phép con xuất gia thọ cụ túc giới để gia nhập vào Tăng Hội".

- "Này chàng thanh niên đi hành hương, vậy ngươi có tam y quả bát rồi chưa?"

- "Bạch Ðức Thế Tôn chưa có".

- "Này chàng thanh niên, Ðức Chánh Biến Tri không thể ban cụ túc giới xuất gia cho kẻ nào không có y bát đặng".

"Rất thỏa thích về lời giáo đạo, chàng tu sĩ Pukkusati tỏ lòng tri ân, vái chào Ðức Thế Tôn rồi đi tìm y bát. Nhưng lúc đi trên đường chàng rủi bị bò húc chết. Các Tỳ kheo được tin đến hỏi Ðức Phật tại sao Pukkusati vừa mới nghe Ngài thuyết minh Chánh Giáo lại mang họa như thế? Vậy chớ người sẽ tái sanh về đâu và số phận ra sao?

"Ðức Phật thuyết:

"Này các Tỳ kheo, chàng thanh niên Pukkusati rất thông minh học rộng, đã thông suốt Giáo Lý khắp các ngành, từ thô thiển đến vi tế. Như Lai chẳng gặp khó khăn gì khi giáo hóa chàng ấy. Pukkusati đã chặt đứt hoàn toàn năm dây trói buộc vào kiếp sống. Chàng được sanh về cảnh giới an vui cao cả và không còn trở lại thế gian này nữa (Ðắc quả thánh thứ ba là A Na Hàm, Bất Lai)".

"Chư Tăng đồng thanh hoan hỉ về lời giải thích của Ðức Thế Tôn."

-- Trung Bộ, 141

Lời của dịch giả.

Trên đây là bài Pháp có tầm quan trọng đặc biệt dành cho những bậc thượng căn. Lời lẽ rất cao thâm tế nhị, khó hiểu, mang tánh cách "Siêu Thế Gian Pháp" (Lokuttara Dhamma) diễn tả trong mỗi con người có sáu nguyên tố. Năm cái đầu: Ðất, nước, lửa, gió, và hư không là thuộc về Sắc Pháp. Nhưng đặc biệt là nguyên tố "Tâm" thuộc Danh Pháp là yếu tố nồng cốt cho sự giải thoát hay sao đọa. Tâm có năng lực đưa con người tới nơi dứt khổ là Niết Bàn, nếu biết điều khiển nó đúng theo lời dạy của Ðức Như Lai. Trái lại Tâm cũng có thể xô đẩy chúng sanh vào vòng si mê ái dục, gây nhiều nghiệp dữ, sa vào cạm bẫy của ma vương để dốt cuộc phải bị luân hồi khổ não triền miên trong tam giới.

Chúng ta nên tìm hiểu những nguyên nhân nào khiến Ðức Phật thuyết minh cho chàng thanh niên Pukkusati nghe những điểm diệu thâm sau đây về bốn sự quyết tâm:

1) Quyết tâm thành đạt Chánh Kiến.
2) Quyết tâm bảo tồn Chân Lý.
3) Quyết tâm thỏa thích trong sự dứt bỏ.
4) Quyết tâm củng cố sự thản nhiên an tĩnh.

Ðó là những huấn từ có tánh cách siêu thế chớ chẳng phải tầm thường. Ðức Thế Tôn dùng Tuệ Nhãn đoán biết rõ trình độ và phẩm hạnh của người thanh niên Pukkusati là thế nào. Một chàng tu sĩ trẻ trung giữa lúc xuân thời, đang sống cuộc đời nhàn nhã buông lung, lại dũng mãnh rời khỏi gia cư thân thuộc, đi sống đời hành khất cô đơn, cắt đứt những tình cảm thông thường, phát động một cuộc hành hương diệu vợi, xuyên qua rừng núi hiểm nguy theo dõi dấu chân của Ðức Thế Tôn để xin xuất gia tu theo Chánh Giáo, chỉ vì được nghe qua danh tiếng của Ðức Như Lai mà thôi. Một con người tuy còn trai trẻ nhưng mang dòng nhiệt huyết như vậy thế nào cũng có bộ óc thông minh xuất chúng, thích nghe, thích hiểu, thích làm. Pukkusati là con người thực tế dám hành động theo lẽ phải, không do dự, không thối chuyển.

Vì thấu rõ tâm địa của Pukkusati, Ðức Thế Tôn biết thế nào chàng ta cũng liễu ngộ sau khi nghe Pháp, và chính Ngài đã cho chư Tăng biết rằng Pukkusati rất thông minh học rộng nên Ngài khuyến hóa dễ dàng.

1) Về điểm "Quyết tâm thành đạt Chánh Kiến" ở đây không phải là sự hiểu biết thông thường của hạng phàm nhân, biết nhận định phải quấy, tốt xấu, lành dữ xuyên qua các sự việc biểu lộ bên ngoài bản thân, mà là sự trắc nghiệm quán xét đúng theo chân lý nội tâm về những nguyên tố tùy thuộc Sắc Pháp và Danh Pháp ẩn sâu trong mỗi cá nhân.

Khi Tuệ Giác bừng sáng sau thời gian hành đạo nhọc nhằn, gian khổ, bậc siêu nhân nhìn thấy rõ rệt thân mình chỉ là sự phối hợp những nguyên tố: đất, nước, lửa, v.v., và các Sắc Pháp đó tự chúng cũng không bền vững lâu dài. Vì lẽ ấy hành giả chẳng còn tưng tiu ôm ấp quý trọng xác thân nữa. Trên các nguyên tố thô sơ đó, Ðức Phật cho Danh Pháp là những trạng thái do tâm cấu tạo, rất tế nhị, nhưng cũng đều là vô thường biến đổi.

Sự hiểu biết cùng tột như vậy gọi là "Chánh Kiến Siêu Thế Gian".

2) "Quyết tâm bảo tồn Chân Lý" có nghĩa là giữ vững lập trường đạo đức của mình luôn luôn vững chắc, dứt khoát. Ðức Phật nói Niết Bàn là Chân Lý cùng tột và Chân Lý cùng tột là Niết Bàn. Vì lẽ đó, các bậc hành giả trong Phật Giáo phải cố gìn giữ Chân Lý không hề chênh lệch để nhắm thẳng mục đích cuối cùng là Niết Bàn. Trên đường tu tập, chúng ta không nên thỏa thích, toại nguyện ôm ấp vài thành quả phi thường có tánh cách huyền bí tạm thời như đắc phép thần thông, được sống lâu, biết ấn chú,. vân vân... Luôn cả trường hợp đắc bốn bực Thiền Vô Sắc để hưởng phước hàng vạn triệu năm trên thiên giới cũng không đáng say mê ôm ấp. Sự quyết tâm này cũng thuộc lãnh vực Siêu Thế.

3) "Quyết tâm dứt bỏ": Người đời có thể vì hoàn cảnh, vì uất hận hoặc tự ái cá nhân, dám bỏ địa vị, danh vọng, tài sản, xa lìa quyến thuộc. Thỉnh thoảng có vài kẻ chán đời khi nghe được đạo lý, rồi bỏ nhà cửa vợ con ra đi tìm đường thánh thiện. Nhưng đây cũng là trường hợp dứt bỏ của hạng phàm phu do những động cơ bất thường thúc đẩy chớ không phải do sự xét đoán thông minh. Vì chí hướng con người luôn luôn thay đổi vô chừng.

Vì lẽ đó, phát sanh ra nhiều trường hợp các nhà tu hành, lúc đầu rất hăng hái, dám ly gia cắt ái, kham khổ hành đạo. Nhưng thời gian sau, hoặc bị Tà Tư Duy khuấy rối, hoặc bị tiền tài danh lợi cám dỗ nên sa ngã, không tìm cách "Tự Giác - Giác Tha" trước cứu mình sau độ người để nắm tay nhau thoát ra khỏi sông mê biển khổ.

Trên đây Ðức Phật dạy hành giả cần phải dứt bỏ những gì quý báu nhứt của chính mình, dù là bản thân đi nữa. Dứt bỏ những thành quả tạm thời trên đường tu tập như đắc phép mầu, ếm quỉ trừ ma, bùa mê thuốc lú... và dứt bỏ luôn cả bốn bực Thiền Vô Sắc thì mới mong thấu rõ Chân Lý cùng tột là Niết Bàn. Ðây là tư cách dứt bỏ siêu thế gian mà người phàm tục ít khi biết tới.

4) "Quyết tâm củng cố sự thản nhiên an tĩnh": Theo kinh điển, đạo quả thánh nhân có thể thành đạt do hai đường lối là "Minh Sát" (Vipassana) và "Tịnh Tâm" (Samatha). Người không có thiền định nhưng đắc một trong bốn quả thánh gọi là "Sukkhavipassaka" nghĩa là dùng Tuệ Giác soi thấu tất cả để làm khô cạn phiền não.Người đắc quả thánh do Pháp Thiền Ðịnh gọi là "Samatha Yanaka", nghĩa là dùng Pháp Tịnh Tâm làm lắng dịu phiền não.

Chúng ta thường có dịp gặp những con người hay trầm tư mặc tưởng, dáng điệu trang nghiêm, ít nói năng, nhưng thật sự tâm trung của họ chưa nhứt thiết là yên tĩnh. Một nhà tu hành ngồi ngay thẳng, đôi mắt lim dim, tánh tình hòa hưởng, với nụ cười kín đáo trên đôi mép hoặc tịnh khẩu như bình, cũng chưa có gì đảm bảo rằng nội tâm của người ấy là yên tĩnh. Lời nói hàm hồ viễn vông của người thế gian là điều vô ích trong cuộc sanh hoạt hằng ngày, nhưng cũng không mấy tai hại.

Ðối với bậc hành giả, tình thế lại tế nhị tâm lý hơn nhiều. Chẳng những bên ngoài người ấy phải luôn luôn thu thúc, gìn giữ oai nghi phong độ, chỉnh tề, mà cốt yếu là phải điều ngự nội tâm cho an tĩnh thanh cao, không cho những tư tưởng tà vạy chẳng lợi ích xâm nhập khuấy rối làm ô nhiễm thì mới mong tìm thấy đạo quả. Các ý nghĩ bông lông vô ích hay Tà Tư Duy gây trở ngại lớn lao cho người hành đạo. Chúng là ma vương, là tùy phiền não ẩn sâu trong tiềm thức đã lâu đời, luôn luôn ám ảnh theo dõi hành giả tận chốn núi cao rừng thẳm, cản ngăn bước tiến.

Bởi vậy Ðức Phật dạy người giới tử phải cương quyết gạt bỏ những ý nghĩ không lợi ích, ráng giữ lòng thanh tịnh để thấu rõ Chân Lý tuyệt đối là Niết Bàn, và trở thành bậc Ðại Hiền Thanh Tịnh (Muni). Nghĩa là luôn luôn sống trong sự yên lặng và chẳng làm gì khác hơn là bảo trì thân tâm yên tĩnh an vui.

Nói tóm lại cho dễ hiểu, Ðức Phật mô tả con người như một Tiểu Càn Khôn (Thế giới nhỏ) được cấu thành bởi Tinh Thần và Vật Chất (Danh Sắc, Nama Rupa). Ðạo giải thoát chỉ tìm ra nội bên trong bản thân chứ không thể có ở bên ngoài. Hành giả cần phải trắc nghiệm các hiện tượng tâm lý (Danh Pháp) và vật chất (Sắc Pháp) để tìm ra chân lý.

Người hành đạo chỉ hoàn tất con đường thánh thiện khi nào tuệ giác bừng sáng cho thấy rõ Danh và Sắc Pháp đều là vô thường biến đổi cần phải loại trừ.

13. Những phép mầu

"Hỡi các Tỳ kheo! Ba phép mầu đó là thế nào?

1) Phép mầu về thần thông biến hóa (Thần Túc Thông),
2) Phép mầu về Tha Tâm Thông (Ðoán biết tư tưởng kẻ khác),
3) Phép mầu về Giáo Pháp (Giáo Hóa Thần Thông).

"Ðây là phép mầu thứ nhứt nói về trường hợp một đạo sĩ có năng lực phi thường, biết biến hóa ra thiên hình vạn trạng lạ đời. Từ một, người biết phân thân ra làm nhiều người và từ nhiều người biến lại thành một. Từ hiện diện người biến mất rồi tái xuất hiện. Người có thể đi ngang qua một tường thành hay xuyên qua đảnh núi như đi trên khoảng trống. Người chui xuống đất rồi trở lên dễ dàng như lao mình xuống nước. Người đi trên nước bằng phẳng như trên mặt đất. Người ngao du trên hư không, ngồi tréo chân như chim bay. Người có thể sờ mó mặt trời hay mặt trăng theo ý muốn. Người có thể điều khiển thân mình cho tới cõi trời Phạm Thiên. Ðó là phép mầu về thần thông biến hóa.

"Còn đây là phép mầu về Tha Tâm Thông. Một đạo sĩ có năng lực huyền bí đoán biết: "Anh đang suy tính thế này hoặc thế khác". Dù tư tưởng kẻ khác rắc rối mấy, người cũng đoán không sai. Chỉ nắm được một triệu chứng do tiếng nói của người, của hạng phi nhơn hay chư thiên, người cũng đoán được tư tưởng của họ, không sai chạy mảy may, dù đoán bao nhiêu lần cũng không trật. Hoặc giả ông thầy bói có hành thiền định cũng biết được tư tưởng kẻ khác không cần bắt được triệu chứng nào bằng cách điều khiển tâm mình xuyên qua tư tưởng kẻ khác. Dù đoán bao nhiêu lần cũng không sai. Ðó là phép mầu về Tha Tâm Thông.

"Còn phép mầu về Giáo Pháp là thế nào? Trong trường hợp này, một ông giáo chủ dạy giới tử: "Ngươi nên học hỏi như thế này chớ chẳng phải như thế kia. Ngươi phải thực hành như thế này chứ không phải như thế khác. Ngươi hãy cố gắng thành tựu phẩm hạnh như vầy và ráng bảo tồn mức độ ấy". Ðó là phép mầu về Giáo Pháp.

-- Tăng Chi Bộ, I

14. Ðức Phật chê những phép thần thông và tha tâm thông.

"Này các Tỳ kheo, nhưng có trường hợp một kẻ vô tín ngưỡng phanh phui châm biếm như vầy: "Nào lạ gì? Có một thứ bùa chú gọi là Gandhari. Nhờ bùa chú đó mà ông đạo sĩ mới biến hóa được ra thiên hình vạn trạng, biết phân thân, chui xuống đất, đi trên nước, bay trên hư không..."

"Này các Tỳ kheo, vì nhận thấy sự vô ích, bất hảo của các phép thần thông nên Như Lai nhàm chán không muốn chúng được phô trương. Về phép Tha Tâm Thông cũng thế, nó chẳng tốt đẹp gì. Vì đôi khi kẻ vô tín ngưỡng nói: "Nào lạ gì? Có một loại ngọc kim cương. Nhờ thứ ngọc đó mà ông đạo sĩ đoán được tư tưởng kẻ khác, nào là: "Anh đang suy nghĩ thế này, toan tính thế kia... Vì nhận thấy sự vô ích bất hảo của phép Tha Tâm Thông nên Như Lai nhàm chán, không muốn chúng được phô trương".

-- Trường Bộ, I

15. Ðức Phật trách phạt Tỳ kheo Pindola Bharadvaja

Ngày kia một thương gia giàu có tại thành Vương Xá (Rajagaha) cho treo một cái bình bát bằng cây trầm hương trên ngọn cây tre và tuyên bố: "Nếu có thầy đạo sĩ hay sa môn nào tài giỏi biết phép thần thông, lên tới ngọn tre lấy được bình bát, thì nó sẽ thuộc về phần vị đó". Sáu ông giáo chủ nhóm ngoại đạo đến thử tài nhưng không xong. Khi đó thầy Tỳ kheo Pindola Bharadvaja dùng thần thông bay lên lấy bát. Dân chúng thành Vương Xá reo hò vỗ tay hoan nghinh trong lúc thầy Tỳ kheo Pindola Bharadvaja ôm bát bay quanh thành Vương Xá ba vòng, rồi theo yêu cầu của người thương gia, ông đáp xuống trước sân nhà.

Nghe tiếng reo hò của dân chúng, Ðức Phật hỏi. Ðại đức Ananda thưa: "Bạch Ðức Thế Tôn, chính ngài Pindola Bharadvaja đã lấy được cái bình bát của người thương gia nên dân chúng mới reo hò như thế".

Ðức Phật liền quở trách Ðại đức Pindola như vầy:

"Này Pindola, hành động đó thật chẳng xứng đáng chút nào. Hành động đó không hợp lẽ, không tốt đẹp với một sa môn. Là việc chẳng nên làm. Tại sao với cái bình bát không ra gì, ngươi lại phô trương cho người đời biết những việc phi thường, những phép thần thông? Như vậy chẳng khác nào một phụ nữ vén khố lên cho người xem để được một Masaka mẻ góc.

Sau khi quở trách Ðại đức Pindola xong Ðức Phật thuyết:

"Này các Tỳ kheo, các ngươi không nên biểu diễn những chuyện phi thường, những phép thần thông trước công chúng. Tỳ kheo nào bất tuân sẽ bị phạt theo điều luật "Hành ác" của Giới Bổn. Này các Tỳ kheo, hãy đập bể cái bình bát đó, đem cán ra thành bột phấn rồi các ngươi chia nhau để thoa tay"

-- Luật 11

Lời của dịch giả

Nói về bản chất, phép thần thông là con dao hai lưỡi, lợi ít hại nhiều, không thể đưa tới giác ngộ, nên Ðức Phật cấm đoán các đệ tử không cho biểu diễn trước công chúng. Thật ra, nó chỉ là thành quả của bốn năng lực căn bản "Iddhi padas" (Tứ Chánh Cần): Tập trung ý muốn, tập trung nghị lực, tập trung tư tưởng và tập trung sự quan sát trong Pháp hành thiền định. Một đôi khi Ðức Phật và Ðại đức Mục Kiền Liên cũng thi thố phép mầu, nhưng với mục đích cứu độ kẻ khác. Phần đông hành giả đắc Phàm Ðịnh thường ưa thích phép thần thông, ôm ấp bám dính nó rồi trở nên cống cao ngạo mạn để sau cùng phải mang họa như trường hợp ông Ðề Bà Ðạt Ða.

Trong ba phép mầu kể trên, Ðức Phật chỉ khuyến khích về cái thứ ba là phép mầu về Giáo Pháp. Ðây là uy lực tuyệt đối phi thường về nội tâm để chế ngự tư tưởng của đối phương mà chỉ các Ðấng Toàn Giác mới có. Ðức Thế Tôn đã bắt buộc phải áp dụng phép mầu này trong hai trường hợp làm cho 5 ông Kiều Trần Như và Ðức Ca Diếp (Ourouvela Kassapa, giáo chủ nhóm thờ thần lửa Djatilas) phải vâng lời và xin thọ giáo với Ngài:

1) Chỉ sau khi nghe Ðức Phật tiết lộ rằng Ngài đã thành bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác, năm ông Kiều Trần Như mới thôi gọi Ngài là bạn và chịu tiếp rước.

2) Dù Ðức Thế Tôn đã thi thố 3500 phép lạ, nhưng Ðức Ca Diếp vẫn cho mình là tài giỏi cao thượng hơn Phật. Ông chỉ chịu phục tùng khi nghe Phật cho biết rằng ông chưa đắc đạo quả gì cả.

16. Lời giáo đạo của Ðức Thế Tôn cho ngài Rahula nghe

Ta có nghe như vầy:

"Thuở nọ Ðức Thế Tôn đang ngụ tại rừng tre gần thành Vương Xá. Cùng lúc đó Ðại đức Rahula cũng an trú hành đạo tại Ambalatthika. Sau khi xuất định, Ðức Phật lên đường đi về phía Ambalatthika. Từ xa thấy dạng Ðức Thế Tôn, Ðại đức Rahula vội vã sắp đặt chỗ ngồi và mang nước đến cho Ngài rửa chân. Ðến nơi, Ðức Phật an tọa và rửa chân xong, Ðại đức Rahula đảnh lễ rồi ngồi kế bên.

"Ðức Phật để dư lại dưới đáy ô chút ít nước và hỏi:

- "Này Rahula, ngươi có thấy chút nước dưới đáy ô không?"

- "Bạch Ðức Thế Tôn, thấy".

- "Cũng như thế đó Rahula, đời đạo đức của kẻ xuất gia thật mỏng manh ít ỏi khi người không hổ thẹn, tha hồ dối trá và không chân thật".

"Ðổ hết nước trong ô rồi Ngài hỏi:

- "Này Rahula, ngươi có thấy nước trong ô đã đổ hết ra ngoài không?"

- "Bạch Ðức Thế Tôn, thấy".

- "Thì cũng như thế đó Rahula, đời đạo đức của kẻ xuất gia bị vất bỏ khi chẳng biết hổ thẹn, tha hồ dối trá và không chân thật".

"Úp ô xuống Ngài hỏi:

- "Này Rahula, ngươi có thấy cái ô úp xuống không?"

- "Bạch Ðức Thế Tôn, thấy".

- "Thì cũng như thế đó Rahula, đời đạo đức của kẻ xuất gia bị đảo lộn khi chẳng biết hổ thẹn, tha hồ dối trá và không chân thật".

"Lật ngửa ô lên Ngài hỏi:

"Này Rahula, ngươi có thấy cái ô lật ngửa trống trơn không?"

- "Bạch Ðức Thế Tôn, thấy".

- "Thì cũng như thế đó Rahula, đời đạo đức của kẻ xuất gia thật rỗng không, khi ngươi chẳng biết hổ thẹn, tha hồ dối trá, thiếu chân thật.

"Hỡi này Rahula! Cũng như thớt voi trận của đức vua có cặp ngà dài, cứng chắc, thuộc loại voi giống được huấn luyện để xông pha chiến địa. Nhưng lúc lâm trận nó chỉ làm phận sự với hai cẳng trước, với hai cẳng sau, với thân hình phía trước, thân hình phía sau, với cái đầu, với hai vành tai, với cặp ngà, với cái đuôi.. nhưng vẫn lo bảo vệ cái vòi của nó để khỏi thương tổn.

"Tên nài nghĩ rằng: "Ðây là thớt voi trận của nhà vua có cặp ngà dài, cứng chắc, thuộc loại voi giống được huấn luyện để xông pha chiến địa. Nhưng khi lâm trận nó làm phận sự với hai cẳng trước, với hai cẳng sau, với thân hình phía trước, thân hình phía sau, với cái đầu, với hai vành tai, với cặp ngà với cái đuôi song vẫn lo bảo tồn cái vòi của nó cho khỏi thương tổn. Như thế, con voi không chịu hy sinh hết mình cho đức vua".

"Này Rahula, nhưng nếu thớt voi trận của nhà vua có cặp ngà dài, cứng chắc, thuộc loại voi giống được huấn luyện để xông pha chiến địa. Lúc lâm trận nó làm phận sự với hai cẳng trước, với hai cẳng sau, với thân hình phía trước, thân hình phía sau, với cái đầu, với hai vành tai, với cặp ngà, với cái đuôi và luôn cả cái vòi của nó.

"Tên nài nghĩ rằng: "Ðây là thớt voi trận của nhà vua có cặp ngà dài, cứng chắc, thuộc loại voi giống được huấn luyện để xông pha chiến địa. Khi lâm trận nó dám hy sinh tất cả cho nhà vua, thì chẳng việc gì nó không làm được.

"Này Rahula, cũng như thế đó, kẻ nào không biết hổ thẹn, tha hồ dối trá, thì không có việc gì xấu xa tội lỗi mà người chẳng dám làm. Lẽ đó người hãy cố huấn luyện tập như vầy: "Dù trong lúc nói chuyện vui đùa, tôi nhứt quyết không hề dối trá".

"Phật hỏi tiếp:

- "Rahula, vậy ngươi biết cái gương dùng để làm gì?"

- "Bạch Ðức Thế Tôn, gương dùng để soi thấy mặt, để phản chiếu mọi vật".

- "Cũng thế ấy Rahula, con người cần soi sáng, nghĩa là phải suy đi nghĩ lại kỹ càng trước khi hành động bằng thân, suy đi nghĩ lại kỹ càng trước khi hành động bằng khẩu, suy đi nghĩ lại kỹ càng trước khi hành động bằng ý".

"Này Rahula, dù muốn làm bất cứ việc gì bằng thân ngươi phải suy nghĩ kỹ lưỡng về hành vi đó. Ngươi tự hỏi rằng: "Hành động bằng thân này sẽ mang lại hậu quả xấu xa tai hại cho ta không, có tai hại cho kẻ khác không, hoặc có tai hại cho cả hai? Hành động đó sẽ gây ra nghiệp dữ và đưa đến khổ đau không?" Nếu ngươi suy nghĩ thấy: "Hành động bằng thân mà ta định làm đây là xấu xa nguy hại cho ta, nguy hại cho kẻ khác, hoặc nguy hại cho cả hai. Hành động đó sẽ gây ra nghiệp dữ, đưa đến khổ đau". Rahula, chứng đó ngươi phải cố gắng gạt bỏ ý nghĩ muốn làm việc đó.

"Này Rahula, nhưng nếu ngươi suy nghĩ: "Hành động bằng thân mà ta định làm đây không mang lại hậu quả xấu xa cho ta, không mang lại hậu quả xấu xa cho kẻ khác hoặc cho cả hai. Ðó là hành động tốt tươi cao thượng sẽ đưa đến hạnh phúc an vui". Chừng đó ngươi nên làm việc ấy.

"Này Rahula, khi đang hành động bằng thân, ngươi cũng nên suy nghĩ: "Vậy chớ việc ta đang làm bằng thân đây sẽ mang lại cho ta những hậu quả xấu xa tai hại chăng, hoặc tai hại cho kẻ khác hay cả hai? Việc đó có xấu xa tội lỗi và sẽ đưa đến khổ đau không?". Này Rahula, nếu suy nghĩ thấy việc đang làm bằng thân là xấu xa đê tiện, nó mang lại hậu quả tai hại cho ta, cho kẻ khác hoặc cho cả hai và sẽ đưa đến khổ đau, chừng đó ngươi nên đình chỉ ngay việc làm đó.

"Này Rahula, nhưng nếu ngươi suy nghĩ: "Hành động bằng thân mà ta đang làm đây không mang lại hậu quả xấu xa tai hại cho ta, cho kẻ khác hoặc cho cả hai và nó chẳng đưa đến khổ đau". Chừng ấy ngươi nên tiếp tục làm việc đó.

"Này Rahula, khi một việc làm bằng thân đã thực hiện rồi, ngươi nên suy nghĩ: "Vậy chớ sự hành động bằng thân vừa rồi sẽ mang lại cho ta những hậu quả xấu xa tai hại chăng, nó sẽ tai hại cho kẻ khác hoặc cả hai không?" Này Rahula, nếu suy nghĩ thấy việc đã làm bằng thân đó là tai hại cho mình, cho kẻ khác hoặc cho cả hai, thì ngươi nên sám hối tội lỗi với Như Lai hay các vị cao tăng và nguyện sẽ chẳng tái phạm về sau.

"Này Rahula, nhưng nếu ngươi suy nghĩ: "Việc làm bằng thân vừa rồi không mang lại hậu quả xấu xa tai hại cho ta, cho kẻ khác hoặc cả hai. Ðó là hành động tốt tươi cao thượng sẽ đưa tới hạnh phúc an vui". Chừng đó ngươi nên phát tâm hoan hỉ thỏa thích và ráng ghi nhớ, niệm tưôủng phước báu về việc lành đã làm xong bằng thân".

(Những hành động do khẩu, do ý, cũng được giải thích như thể thức kể trên).

"Này Rahula, bất cứ là trong thời quá khứ, trong buổi tương lai hoặc hiện nay, các đạo sĩ hay Bà La Môn muốn cho những hành vi về thân, khẩu, ý của mình được đứng đắn thanh cao, cho ngày thêm trong sạch, cần phải suy đi nghĩ lại kỷ càng trong mỗi việc làm, mỗi lời nói, mỗi ý nghĩ, cân phân, tính toán... và luôn luôn suy nghĩ".

"Ðức Thế Tôn dứt lời, Ðại đức Rahula phát tâm hoan hỉ thỏa thích về sự khuyến hóa của Ðức Như Lai."

-- Trung Bộ, 61

Lời của dịch giả

Trong cuộc lễ xuất gia, với sự chứng minh của chư cao tăng đại đức, thầy Tỳ kheo long trọng nguyện vâng giữ những điều học ghi trong giới bổn của Ðức Phật.

Ngoài giới cấm Bất Cộng Trụ (bị trục xuất ra khỏi giáo hội) và Tăng Tàn (cấm phòng) thì các giới khác có thể được ân xá sau khi người phạm giới biết ăn năn sám hối và cam kết không tái phạm. Ðúng theo tinh thần của Tạng Luật, sự chân thật của bậc xuất gia là yếu tố tối trọng để bảo trì giới hạnh của người tu sĩ cho mau tiến hóa và sự dối trá là điều nguy hại làm tắc nghẽn đường đạo đức.

Thầy Tỳ kheo không những gìn giữ giới hạnh trang nghiêm bên ngoài mà cần nhứt là phải thành thật với chính bản thân, ráng tránh xa, ghê sợ các điều quấy do thân, khẩu, ý và biết hổ thẹn tội lỗi.

Cũng như quả địa cầu nâng đỡ vạn vật, giới luật có tánh cách bảo trì nâng đỡ người tu hành đi tới mục đích cao cả và kẻ nào chẳng biết hổ thẹn tránh xa tội lỗi, cố tâm ém nhẹm việc làm bất chánh, không chịu sám hối chừa cãi mà vẫn duy trì tăng tướng giả dối bên ngoài, Ðức Phật nói:

- Ðời đạo đức của người đó rất ít cũng như chút nước đọng dưới đáy hồ.
- Ðời đạo đức của người đó bị vất bỏ cũng như chút nước bị tạt hết ra ngoài.
- Ðời đạo đức của người đó bị đảo lộn như cái ô bị úp xuống.
-Ðời đạo đức của người đó rỗng không như cái ô lật ngửa trống trơn.

(Xin xem tiếp Tập 4)

-ooOoo-

[Mục lục][Tập 1][Tập 2][Tập 3][Tập 4]


[Thư Mục chính]

Last updated: 29-05-2000

Web master: binh_anson@yahoo.com
binh_anson@hotmail.com