BuddhaSasana Home Page

Vietnamese, with Unicode Times font


Tìm hiểu các mối quan hệ gia đình xã hội
qua kinh Giáo thọ Thi ca la việt

Luận văn tốt nghiệp

Thích Chúc Thanh


PHẦN 1:  DẪN NHẬP

1. Lý do chọn đề tài

 Học thuyết Duyên Khởi (Paticcasamuppàda) của đạo Phật cho thấy rằng, tất cả các pháp trong vũ trụ vạn hữu luôn luôn có mối quan hệ với nhau hết sức chặt chẽ, hết sức mật thiết. Từ cái mong manh, nhỏ bé như hạt sương mai đọng trên cỏ nội hoa ngàn, cho đến cái bao la rộng lớn như giải ngân hà giữa cõi vô biên, tất cả đều tương quan, cùng tác động lẫn nhau trong quá trình sinh thành và hoại diệt. Thậm chí cái vô thanh, vô sắc như ý niệm, khi đã thoáng qua tâm hồn, thì không phải là không lưu lại sức đồng vọng nơi cõi nhân gian. Đạo lý đó được Đức Phật tán thán như sau:

o cái này có mặt, nên cái kia có mặt
Do cái này không có mặt, nên cái kia không có mặt
Do cái này sinh, nên cái kia sinh
Do cái này diệt, nên cái kia diệt”
[18, 219]

Đặc biệt, giữa con người với con người, thì mối tương quan như vậy lại càng mật thiết chặt chẽ hơn. Tính chất tương thành, tương hoại được thể hiện ở đây vừa cụ thể sinh động, vừa rất thiết thân và có một ý nghĩa thật sâu xa trong cuộc sống cộng đồng. Giáo sư tiến sĩ Bruce J. Cohen, cựu trưởng khoa Xã hội học của đại học Michigan, Hoa Kỳ, cũng đã nhận định: “Trong các nhóm xã hội, các cá nhân luôn luôn thiết lập các mối quan hệ với các cá nhân khác.”[1,14]. Tính chất quan hệ đó như một quy luật khách quan mà dù muốn hay không, con người vẫn phải chịu sự tác động, chi phối của nó. Hơn nữa, con người vốn dĩ có khuynh hướng và nhu cầu thiết lập quan hệ với tha nhân để sinh tồn, phát triển và thăng hoa. Trong cuộc sống, chẳng mấy ai không mong nối được một nhịp cầu bằng hữu tương giao hay vun đắp tốt đẹp các mối quan hệ trong gia đình, xã hội! 

Một quốc gia được vinh dự đứng trên trường quốc tế, được yên ổn sống trong khung cảnh hưng thịnh, phú cường là nhờ ở những người công dân có lương tâm, có hiểu biết và biết thực hành các nghĩa vụ của mình. Một gia đình ấm cúng sống trong sự hòa thuận, tin yêu, vui vẻ không thể không đòi hỏi các nghĩa vụ của từng thành viên trong gia đình đó. Do những lý do trên mà Đức Phật của chúng ta đã thuyết bài kinh “Giáo thọ Thi Ca La Việt” nhằm nhắc chàng thanh niên Singàlaka làm tốt bổn phận và trách nhiệm của mình đối với tự thân, gia đình, xã hội thay vì lạy sáu phương hết sức mơ hồ như lời phó chúc của phụ thân. Bài kinh do Đức Phật trực tiếp nói cho thanh niên Singàlaka cách nay hơn 25 thế kỷ nhưng nội dung vẫn tuyệt đối căn bản và cần thiết cho con người ngày hôm nay, nhằm xây dựng cuộc sống hạnh phúc an lạc cho bản thân, gia đình, xã hội.

Ngày nay, con người đã tiến rất xa trên con đường tiến hóa, đã tạo ra những phương tiện sản xuất hiện đại để phục vụ cho đời sống vật chất và những đòi hỏi ngày càng cao của nhân loại. Mặc khác, đời sống tinh thần của con người đã và đang có những “dấu hiệu” xuống cấp trầm trọng. Đứng trước tình hình đó, chúng tôi thấy rằng trong kho tàng giáo lý của nhà Phật có rất nhiều bài kinh rất căn bản, nếu được áp dụng vào thời đại ngày nay có thể cứu vãn được tình thế “nguy kịch này”, và nhất là bài kinh “Giáo thọ Thi Ca La Việt”. Đây là một bài kinh mang đậm tính nhân văn trong Phật giáo, hướng dẫn và giáo dục con người về cung cách cư xử, về những bổn phận và những trách nhiệm đối với chính bản thân cũng như những người xung quanh. Nếu ai thực hiện được những lời dạy của Đức Thế Tôn trong bài kinh này chắc chắn người đó sẽ có được một cuộc sống hạnh phúc, an vui trong hiện tại cũng như các đời sống ở tương lai. Do tính ưu việt của bài kinh, tác giả không ngần ngại, dù kiến thức về Phật học còn hạn chế, khả năng hành trì chưa “vững chãi”, bắt tay vào nghiên cứu bài kinh với hy vọng sẽ góp thêm một cái nhìn mới về đạo Phật – một đạo Phật rất thực tế lạc quan vì con người và cuộc đời chứ không phải một đạo Phật bi quan yếm thế như người đời xưa nay vẫn nghĩ.

Khi thực hiện đề tài này, chính tác giả cũng muốn tự mình đọc, và ôn lại những lời Phật dạy để cũng cố thêm niềm tin nơi Tam Bảo và nếu những ai hữu duyên đọc được luận văn này sẽ hiểu thêm về “tình thương” của Đức Phật dành cho cuộc đời. Với những ý nghĩ trên tác giả quyết định chọn đề tài này để làm tiểu luận ra trường.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Có thể nói đây là một vấn đề “rất cũ” nhưng cũng “rất mới”. Cũ là vì nó nói về các mối quan hệ của con người từ ngày xua đến nay vẫn như thế nhưng nó sẽ mới khi ta đem nó áp dụng vào trong thời đại ngày nay. Và có thể khẳng định ngay rằng: “các mối quan hệ của con người” là đề tài muôn thuở. Đã có một số nhà nghiên cứu Phật học tìm hiểu về vấn đề này ở nhiều khía cạnh khác nhau như: HT. Thích Minh Châu với bài viết “Đạo đức trong nếp sống người Phật tử”, HT. Thích Thiện Siêu với tác phẩm “Người tại gia tu Phật”, HT. Narada với tác phẩm “Hạnh phúc gia đình” do Phạm Kim Khánh dịch, HT. Sri K. Dhammananda trong tác phẩm “Hôn nhân hạnh phúc – A Happy married life” do Tỷ kheo Thích Thiện Minh dịch, và tác phẩm “Các vấn đề của xã hội hôm nay – Human life and Problems” do Thích Tâm Minh dịch, HT. Walpola Rahula với tác phẩm “Những gì Đức Phật dạy về thế giới ngày nay” do Quang Bảo dịch, HT. Thích Tâm Châu với tác phẩm “Đạo Phật với con người”, ĐĐ. Thích Nhật Từ với bài viết “Đạo hiếu của Phật giáo qua kinh Thiện Sanh”, Ananda. W. P. Guruge với tác phẩm “Giáo dục phật giáo” do Thích Nữ Vân Liên dịch, và tác phẩm “Sự đóng góp của Phật giáo cho nên giáo dục” do Thích Nữ Giới Hương dịch, Thích Hạnh Bình với bài viết “Nền tảng xây dựng đời sống đạo đức theo Phật giáo, Thích Nữ Nguyên Đoan trong luận văn tốt nghiệp với nhan đề “Đi tìm các mối quan hệ gia đình - học đường - xã hội trong kinh tạng Nikàya”, Bùi Mộng Hùng với bài viết “Đạo Phật có thể đem lại những gì cho giáo dục ngày nay?”, Tỷ kheo Weragoda Sarada với tác phẩm “Cha mẹ, con cái và phương tiện truyền thông” do Thích Nguyên Tạng dịch, Venerable Pyinnyathiha với tác phẩm “Phương pháp đưa đến sự hài hòa xã hội” do Mỹ Thanh dịch, Bình Anson với bài viết “Lòng hiếu thảo trong kinh điển Pàli”, Jacqueline Mandell trong tác phẩm “Làm mẹ và thiền tập”do Diệu Anh Quỳnh Trâm chuyển dịch, Chân Như Phan Thị Thuần với bài viết “Người con Phật nhìn về gia đình”, .v.v.

Nhìn chung, các tác giả trên đã đề cập đến vấn đề này ở nhiều giác độ khác nhau. Có tác giả nhìn nhận vấn đề này từ góc độ gia đình như bài viết “Đạo đức trong nếp sống người Phật tử” của HT Thích Minh Châu hay “Người tại gia tu Phật” của HT Thích Thiện Siêu v.v.. Lại có tác giả nhìn vấn đề này ở góc độ xã hội như “Phương pháp đưa đến sự hài hòa xã hội” của Venerable Pyinnyathiha hay “Các vấn đề của xã hội hôm nay – Human life and Problems” của HT. Sri K. Dhammananda.v.v. Trong đó, tác phẩm “Đạo hiếu của Phật giáo qua kinh Thiện Sanh” của ĐĐ. Thích Nhật Từ là một trong những bài viết đề cập trực tiếp đến vấn đề này nhưng tác giả chỉ dừng lại ở mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Với những gì của những bậc “đàn anh” đã phát thảo, người viết sử dụng thành quả của những bậc tiền bối và tiếp tục phát triển để cho vấn đề này mỗi ngày một hoàn thiện hơn.

3. Mục đích của đề tài

Đây là một đề tài mang tính “thời sự” vì nó liên quan đến đời sống của mỗi người. Do đó, khi thực hiện đề tài này, tác giả nghĩ rằng đây là một vấn đề luôn luôn mới mẻ, hấp dẫn đối với những ai còn khao khát đi tìm cái hay cái đẹp trong cuộc sống.

Với những lý do đã nêu trên, mục đích chính của luận văn này sẽ làm rõ ý nghĩa của ba mối quan hệ chính đó là mối quan hệ giữa “cha mạ - con cái”, mối quan hệ giữa “vợ- chồng” và mối quan hệ giữa “những bậc xuất gai – tại gia”. Đây là những mối quan hệ cơ bản để xây dựng một gia đình – xã hội lành mạnh.

4. Nhiệm vụ, đối tượng nghiên cứu

Đối tượng chính của luận văn tốt nghiệp này chính là những mối quan hệ được nói đến trong bài kinh “Giáo thọ Thi Ca La Việt”. Nhiệm vụ của đề tài là làm nổi bậc được nội dung và ý nghĩa của các mối liên hệ từ đó có sẽ cho một cái nhìn mới về đạo Phật. Bên cạnh đó tác giả cũng sẽ cố gắng trình bày những điểm hay đẹp của những mối quan hệ trong bài kinh có liên hệ so sánh đến đời sống hiện tại.

5. Phạm vi nghiên cứu

Vì đây là tiểu luận tốt nghiệp, số trang của luận văn được quy định rất nghiêm ngặt cho nên tác giả chỉ chọn ra ba mối quan hệ mà người viết cho là rất căn bản thể hiện được ý nghĩa của hai loại quan hệ (gia đình – xã hội) đó là: mối quan hệ giã cha mẹ – con cái, quan hệ vợ – chồng và mối quan hệ giữa những vị xuất gia – tại gia.

6. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện lận văn này, chúng tôi đã tiến hành phương pháp nghiên cứu sau:

Phương pháp phân tích bình giảng: với phương pháp này, chúng tôi tiến hành phân tích bình giảng các mối quan hệ được trình bày trong bài kinh có liên hệ so sánh với những vấn đề đương đại. Từ đó, cho thấy được rằng đây là những vấn đề có tính “thời sự” mà Đức Phật đã đề cập và đưa ra giải pháp thiết thực cho từng mối quan hệ cụ thể . Nhân đó, chúng tôi sẽ có một vài nhận định của riêng mình về các mối quan hệ đó.

7. Đóng góp của luận văn

Do tính chất “cấp thiết” và tính “thời sự” của vấn đề muôn thuở của con người, chắc chắn đề tài này sẽ cống hiến những hiểu biết và cảm nhận giá trị - tinh hoa của đạo Phật - cho từng cá nhân và cho sự tiến bộ xã hội nói chung.

Đứng về mặt cá nhân, chúng ta phải thấy rằng bài kinh này đã đang và sẽ nâng phẩm giá của con người lên tầm cao của thời đại. Bởi vì chính sự tương tác của các mối quan hệ sẽ khẳng định chúng ta trong lòng xã hội. Giá trị của con người không nằm trong vị trí hay địa vị xã hội mà nằm trong hành động (đạo đức) và cung cách ứng xử (trí tuệ) của anh ta đối với xã hội. Vấn đề của chúng ta là nhìn nhận, sống và hành động như thế nào mà thôi!

Đứng về mặt xã hội, mọi người đều bình đẳng với nhau không có sự phân biệt về vị trí địa vị. Trong xã hội không có sự cao thấp trong công việc và vị trí của mình. Bất kỳ chúng ta ở vị trí nào nếu chúng ta làm đúng với vai trò của vị trí đó thì chính chúng ta sẽ nuôi dưỡng được panânâa (trí tuệ) và karùna (từ bi). Từ đó chúng ta hành động để làm lợi mình, lợi người đưa đến an lạc cho bản thân và xã hội.

Vì vậy, Phật giáo như một phương thức ứng nhân xử thế thắm đượm tình người, một cách sống hoàn toàn thiết thực với đời thường, mà chưa được giới thiệu một cách đầy đủ. Nói khác đi, đạo Phật không chỉ hướng dẫn con đường siêu thế mà còn có khả năng giới thiệu cho con người ( dù Phật tử hay không phải là Phật tử) những phương thức xây dựng tốt đẹp, hữu ích trong các mối quan hệ ở trong gia đình, và ngoài xã hội. Một đạo Phật hoàn toàn dành cho cuộc sống đời thường mà trước hết là dành cho giới Phật tử tại gia.

 8. Kết cấu của luận văn

PHẦN 1: DẪN LUẬN

PHẦN 2: NỘI DUNG

Chương 1: Tìm hiểu xuất xứ và nội dung bài kinh
Chương 2: Tìm hiểu các mối quan hệ trong bài kinh

PHẦN 3: KẾT LUẬN

*

PHẦN 2:  NỘI DUNG

CHƯƠNG 1
TÌM HIỂU XUẤT XỨ VÀ NỘI DUNG CỦA CÁC MỐI QUAN HỆ
TRONG BÀI KINH

1.1. Xuất xứ của bài kinh

Một thời Thế Tôn sống ở kinh đô Ràjagaha (Vương Xá ), tại Veluvana (Trúc Lâm), Kalandakanivàpa (chỗ tìm ăn của loài sóc). Lúc bấy giờ, Singàlaka (Thi-ca-la-việt), gia chủ tử, dậy sớm, ra khỏi thành Vương Xá, với áo thấm nước, với tóc thấm nước, chấp tay đảnh lễ các phương hướng, Đông, Nam, Tây, Bắc, Hạ, Thượng.

Rồi Thế Tôn buổi sáng đắp y, cầm y bát vào thành Vương Xá khất thực. Thế Tôn thấy Singàlaka, gia chủ tử, dậy sớm, ra khỏi thành Vương Xá, với áo thấm nước, với tóc thấm nước, chấp tay đảnh lễ các phương hướng, Đông, Nam, Tây, Bắc, Hạ, Thượng. Thấy vậy Ngài nói với Singàlaka, gia chủ tử:

- Này Gia chủ tử, vì sao Ngươi dậy sớm, ra khỏi thành Vương Xá, với áo thấm ướt, với tóc thấm ướt chấp tay đảnh lễ các phương hướng, hướng Đông... hướng Thượng?

- Bạch Thế Tôn, thân phụ con khi gần chết có dặn con: "Này con thân yêu, hãy đảnh lễ các phương hướng". Bạch Thế Tôn, con kính tín, cung kính, tôn trọng, đảnh lễ lời nói của thân phụ con, buổi sáng dậy sớm, ra khỏi thành Vương Xá, với áo thấm ướt, với tóc thấm ướt, chấp tay đảnh lễ các phương hướng, hướng Đông... hướng Thượng.

- Này Gia chủ tử, trong luật pháp của bậc Thánh, lễ bái sáu phương không phải như vậy.

- Bạch Thế Tôn, trong luật pháp của bậc Thánh, thế nào là lễ bái sáu phương? Bạch Thế Tôn, trong luật pháp của bậc Thánh, đảnh lễ sáu phương phải như thế nào? Lành thay! Thế Tôn hãy giảng pháp ấy cho con!

Này Gia chủ tử, vị Thánh đệ tử hộ trì sáu phương như thế nào? Này Gia chủ tử, sáu phương này cần được hiểu như sau: Phương Đông cần được hiểu là cha mẹ. Phương Nam cần được hiểu là sư trưởng. Phương Tây cần được hiểu là vợ con. Phương Bắc cần được hiểu là bạn bè. Phương Dưới cần được hiểu là tôi tớ, lao công. Phương Trên cần được hiểu là Sa-môn, Bà-la-môn.[10, 542]

Bài kinh đề cập về nếp sống đạo đức cá nhân, đạo đức gia đình và đạo đức xã hội của người Phật tử. Một nếp sống nỗ lực diệt trừ các ác pháp, thực hành các thiện pháp và hộ trì sáu phương, một nếp sống được mệnh danh là chiến thắng hai đời: đời này và đời sau. Để hiểu thêm về bài kinh chúng ta lần lượt tìm hiểu các mối quan hệ gia đình và xã hội của bài kinh.

1.2. Tìm hiểu các mối quan hệ gia đình

1.2.1. Quan hệ giữa cha mẹ và con cái

Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp, người con phải phụng dưỡng cha mẹ như phương Đông: "Được nuôi dưỡng,(a) tôi sẽ nuôi dưỡng lại cha mẹ;(b) tôi sẽ làm bổn phận đối với cha mẹ;(c) tôi sẽ gìn giữ gia đình và truyền thống;(d) tôi sẽ bảo vệ tài sản thừa tự; (e) tôi sẽ làm tang lễ khi cha mẹ qua đời".

Này Gia chủ tử, được con phụng dưỡng như phương Đông theo năm cách như vậy, cha mẹ có lòng thương tưởng đến con theo năm cách: (a) Ngăn chận con làm điều ác; (b) khuyến khích con làm điều thiện; (c)dạy con nghề nghiệp; (d) cưới vợ xứng đáng  cho con;(e) đúng thời trao của thừa tự cho con.

Này Gia chủ tử, như vậy là cha mẹ được con phụng dưỡng như phương Đông theo năm cách và cha mẹ có lòng thương tưởng con theo năm cách. Như vậy phương Đông được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sợ hãi.

1.2.2. Quan hệ giữa vợ và chồng

Này Gia chủ tử, có năm cách, người chồng phải đối xử với vợ như phương Tây: (a)Kính trọng vợ, (b) không bất kính đối với vợ; (c) trung thành với vợ; (d) giao quyền hành cho vợ; (e)sắm đồ nữ trang cho vợ.

Này Gia chủ tử, được chồng đối xử như phương Tây theo năm cách như vậy, người vợ có lòng thương tưởng chồng theo năm cách: (a) Thi hành tốt đẹỉp bổn phận của mình; (b) khéo tiếp đón bà con; (c) trung thành với chồng; (d) khéo gìn giữ tài sản của chồng; (e) khéo léo và nhanh nhẹn làm mọi công việc.

Này Gia chủ, người vợ được người chồng đối xử như phương Tây theo năm cách và người chồng được người vợ trung thanh theo năm cách. Như vậy phương Tây được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.

1.3. Tìm hiểu các mối quan hệ xã hội

1.3.1. Quan hệ giữa thầy – trò

Này Gia chủ tử, có năm cách, đệ tử phụng dưỡng các bậc sư trưởng như phương Nam: (a) Đứng dậy để chào; (b)hầu hạ thầy; (c)hăng hái học tập; (d)tự phục vụ thầy; (e) chú tâm học hỏi nghề nghiệp.

Này Gia chủ tử, được đệ tử phụng dưỡng như phương Nam theo năm cách như vậy, các bậc sư trưởng có lòng thương tưởng các đệ tử theo năm cách: (a) Huấn luyện đệ tử những gì mình đã được khéo huấn luyến; (b) dạy cho bảo trì những gì mình được khéo bảo trì; (c) dạy cho thuần thục các nghề nghiệp; (d) khen đệ tử với các bạn bè quen thuộc; (e) bảo đảm nghề nghiệp cho đệ tử về mọi mặt.

Này Gia chủ tử, bậc sư trưởng được đệ tử phụng dưỡng như phương Nam theo năm cách và sư tưởng có lòng thương tưởng đệ tử theo năm cách. Như vậy, phương Nam được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sợ hãi.[10, 542]

1.3.2. Quan hệ giữa bạn bè

Này Gia chủ tử, có năm cách vị thiện nam tử đối xử với bạn bè như phương Bắc: (a) Bố thí; (b) ái ngữ; (c) lợi hành; (d) đồng sự; (e) không lường gạt.

Này Gia chủ tử, được vị thiện nam tử đối xử như phương Bắc theo năm cách như vậy, bạn bè có lòng thương kính vị thiện nam tử theo năm cách: (a) Che chở nếu vị thiện nam tử phóng túng; (b) bảo trì tài sản của vị thiện nam tử nếu vị này phóng túng; (c) trở thành chỗ nương tựa khi vị thiện nam tử gặp nguy hiểm; (d) không tránh xa khi vị thiện nam tử gặp khó khăn; (e) kính trọng gia đình của vị thiện nam tử.

Này Gia chủ tử, như vậy các bạn bè được vị thiện nam tử đối xử như phương Bắc theo năm cách và bạn bè có lòng thương vị thiện nam tử theo năm cách. Như vậy phương Bắc được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.

1.3.3. Quan hệ giữa chủ – người làm công

Này Gia chủ tử, có năm cách một vị Thánh chủ nhân đối xử với hạng nô bộc như phương Dưới: (a) Giao việc đúng theo sức lực của họ; (b) lo cho họ ăn uống và tiền lương; (c) điều trị cho họ khi bệnh hoạn; (d) chia xẻ các mỹ vị đặc biệt cho họ; (e) thỉnh thoảng cho họ nghỉ phép.

Này Gia chủ tử, các hàng nô bộc, được Thánh chủ nhân đối xử như phương Dưới theo năm cách như kia, có lòng thương đối với vị chủ nhân theo năm cách như sau: (a) Dậy trước khi chủ dậy; (b) đi ngủ sau chủ; (c) tự bằng lòng với các vật đã cho; (d) khéo làm các công việc; (e) đem danh tiếng tốt đẹp cho chủ.

Này Gia chủ tử, các hàng nô bộc, được vị Thánh chủ nhân đối xử như phương Dưới với năm cách, có lòng thương đối với Thánh chủ nhân theo năm cách. Như vậy phương Dưới được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.

1.3.4. Quan hệ giữa tại gia – xuất gia

Này Gia chủ tử, có năm cách vị thiện nam tử đối xử với các vị Sa-môn, Bà-la-môn như phương Trên: (a) Có lòng từ trong hành động về thân; (b) có lòng từ trong hành động về khẩu; (c) có lòng từ trong hành động về ý; (d) mở rộng cửa để đón các vị ấy; (e) cúng dường các vị ấy các vật dụng cần thiết.

Này Gia chủ tử, các vị Bà-la-môn, Sa-môn, được vị thiện nam tử đối xử như phương Trên theo năm cách như vậy, có lòng thương vị thiện nam tử ấy theo năm cách sau đây: (a) Ngăn họ không làm điều ác; (b) khuyến khích họ làm điều thiện; (c) thương xót họ với tâm từ bi, dạy họ những điều chưa nghe; (d) làm cho thanh tịnh điều đã được nghe; (e) chỉ bày con đường đưa đến cõi Trời.

 Này Gia chủ tử, các vị Sa-môn, Bà-la-môn, được thiện nam tử đối xử như phương Trên với năm cách, có lòng thương thiện nam tử theo năm cách. Như vậy phương Trên được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.

Tiểu kết:

Trên đây là nội dung của các mối quan hệ trong gia đình và xã hội mà Đức Phật đã trình bày một cách chi tiết cho chúng ta. Ở mỗi mối quan hệ Đức Phật đã trình bày những bổn phận và nghĩa vụ của cả hai bên được thự hiện trên cơ sở hiểu biết và đầy từ tâm. Từ đó cho ta thấy rằng Đức Phật của chúng ta rất “tinh tế” trong cách hành xử. Một mối quan hệ tốt không thể không có sự hợp tác của hai bên và nhất là những mối quan hệ này có sự quan hệ mật thiết với nhau, tác động hỗ tương lẫn nhau. Nếu một trong hai bên của một mối quan hệ nào phá vở những nghĩa vụ và bổn phận của mình thì lập tức mối quan hệ ấy có “trục trặc” xảy ra. Đây là cái nhìn biện chứng của Đức Phật về đời sống cá nhân và xã hội.

CHƯƠNG 2
TÌM HIỂU Ý NGHĨA CỦA CÁC MỐI QUAN HỆ ĐƯỢC ĐỀ CẬP TRONG BÀI KINH

2.1. Ý nghĩa của các mối quan hệ gia đình

2.1.1. Ý nghĩa của mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái

Thường thì khi đề cập đến đạo hiếu trong đạo Phật người ta chỉ nói đến việc hiếu thảo của người con, mà không đề cập nhiều đến vai trò đạo đức và giáo dục của các bậc cha mẹ. Đó là một sự thiếu sót rất lớn. Thật ra theo tinh thần của lời Phật dạy trong kinh tạng Pàli và Đại thừa, “đạo hiếu” của người Phật tử được thể hiện đầy đủ về hai mối quan hệ giữa cha mẹ với con cái, và giữa con cái với cha mẹ. Ở đây, người viết sẽ đề cập về hai mối quan hệ thể hiện đạo hiếu đó, được mệnh danh là đạo làm cha mẹ và đạo làm con.

Trong các mối quan hệ con người, có thể nói mối quan hệ cha mẹ và con cái là thiêng liêng nhất. Sự thiêng liêng không chỉ đơn thuần nằm ở mối quan hệ di truyền và huyết thống, mà đó còn là tất cả tình người, tính giáo dục, đạo đức của hai thế hệ, trước và sau, thế hệ sanh và thế hệ được sanh ra. Người con nào phá vỡ mối quan hệ thiêng liêng này đối với cha mẹ, nghĩa là bất hiếu, báo đời, hại cha mẹ, làm mất thanh danh và truyền thống tốt đẹp của gia tộc, làm các việc phạm pháp v.v… thì người con đó không còn là người con đúng nghĩa, mà chỉ là một người tội lỗi và đáng trách. Trái lại, cha mẹ không làm tròn bổn phận của mình, chẳng hạn như không giáo dục con cái trưởng thành về thể chất, thể trí, tự lập trong đời sống chân chánh (chánh mạng) thì hàng cha mẹ đó cũng không xứng đáng là các bậc cha mẹ. Cả hai hạng cha mẹ và con cái như vậy đều được xem là không xứng đáng trong tinh thần giáo pháp của Đức Phật.

Trên tinh thần xây dựng và phát huy một xã hội an bình và hạnh phúc trong chiều hướng thượng, những lời dạy của Đức Phật trong tam tạng kinh điển Nam tông và Bắc tông, đã trực tiếp và gián tiếp ca ngợi về mối quan hệ thiêng liêng giữa cha mẹ và con cái. Trong phần này, chúng tôi trình bày mối quan hệ này cụ thể qua kinh Giáo Thọ Thi-ca-la-việt (Singalovada Suttanta) thuộc Trường Bộ Kinh của kinh tạng Pàli. Đây là một bài kinh được xem là tiêu biểu cho đạo hiếu trong truyền thống Phật giáo Nam tông.

Điều cần nói ở đây là trong lời Phật dạy về đạo hiếu, các giá trị giáo dục và đạo đức được thể hiện theo mối quan hệ song phương, đa chiều. Đạo hiếu, do đó, không chỉ dành cho những người con đối với cha mẹ mà quan trọng không kém đó là quan hệ của cha mẹ đối với con cái. Nói khác hơn đó là mối quan hệ của đạo làm cha mẹ và đạo làm con cái.

2.1.1.1 Cha mẹ đối với con cái

Nói đến mối quan hệ cha mẹ đối với con cái là nói đến tinh thần trách nhiệm và bổn phận của các bậc cha mẹ đối với một phần máu thịt mà mình đã sinh ra. Theo lời Phật dạy, cha mẹ sinh con cái không phải để thỏa mãn dục tính mà là thể hiện tình thương yêu đối với một phần máu mủ và sự sống của chính mình. Ở đây, chúng ta thấy đạo Phật đã nhấn mạnh đến đạo đức trong mối quan hệ giới tính của các bậc cha mẹ. Chính do tính chất đạo đức này mà các bậc cha mẹ cảm thấy cần phải có trách nhiệm đạo đức đối với việc nuôi nấng và dạy dỗ cho con cái trưởng thành và có lợi ích cho xã hội. Mối quan hệ của cha mẹ như vậy được xem là nền tảng ban đầu, là cơ sở phát sanh các mối quan hệ đạo đức xã hội về sau.

Kinh “Giáo thọ Thi-ca- la- việt” đã đề cập đến mối quan hệ đạo đức của các bậc cha mẹ đối với con cái qua năm tiêu chí căn bản sau đây:

Các bậc cha mẹ phải có lòng thương tưởng đến con cái theo năm cách: (a) ngăn chặn con cái làm việc ác (b) khuyên dạy con cái làm việc thiện, (c) tạo dựng nghề nghiệp cho con cái, (d) tạo dựng gia thất cho con cái, và (e) truyền trao gia tài cho con cái đúng thời. [20].

a. Ngăn chặn con làm việc ác

Như đã nói mối quan hệ giới tính của các bậc cha mẹ trong đạo Phật được đặt trên cơ sở đạo đức, do đó, sự sanh sản con cái không nhằm nhu cầu thỏa mãn các khoái lạc giác quan thuần túy. Chính vì thế các bậc cha mẹ xem việc nuôi nấng con cái không chỉ là trách nhiệm mà còn là luân lý đạo đức không thể thiếu được.

Trong trách nhiệm thiêng liêng thứ nhất này, các bậc cha mẹ ngoài việc nuôi nấng con cái về thể chất, còn phải nuôi con cái bằng đạo đức và trí tuệ chân chánh. Đó là sự giáo dục con cái không được làm các điều ác. Khái niệm" điều ác" được chỉ chung cho các hành vi, lời nói và cả tâm tư ý nghĩ có hại cho bản thân chúng, cho cha mẹ chúng và cho các mối quan hệ con người và xã hội khác. Nói khác hơn, theo Đức Phật, giáo dục con trước nhất và hơn hết là giáo dục chúng không làm các điều ác. Bởi lẽ một người dù cho có khỏe mạnh và giàu sang đến đâu nhưng nếu hành vi và cuộc sống của họ không đem lại lợi ích cho người khác mà chỉ đem lại đau khổ cho tha nhân thì chắc chắn rằng đời sống đó là vô nghĩa cho bản thân ngay hiện tại và nguồn tội lỗi và đau khổ cho cả đời này và đời sau. Dạy con thành người là dạy con xa lánh các điều tội ác. Đó là không giết người, không trộm cướp, không lừa gạt, không quan hệ giới tính phi pháp và không nghiện ngập say sưa để thần mê trí mờ.

Ngoài ra, không làm các điều ác còn là sự tuân thủ luật pháp xã hội, tôn trọng thuần phong mỹ tục của quốc gia, duy trì truyền thống tốt đẹp của gia đình. Sự giáo dục con cái như vậy rõ ràng là sự giáo dục của người có trí: không nuông chìu con cái, không để chúng có cơ hội đi vào con đường tội lỗi. Các bậc cha mẹ nuôi con mà không biết dạy con tránh xa tội ác như vậy sẽ trở thành chướng ngại cho đời sống gia đình và xã hội.

b. Khuyên dạy con làm việc lành

Không có gì tích cực hơn đối với các bậc cha mẹ theo đạo Phật là dạy con cái làm điều thiện, đạo đức. Nói khác hơn, giáo dục con cái từ bỏ điều ác là cơ sở nền tảng để từ đó giáo dục chúng làm điều lợi ích cho xã hội. Nội dung trách nhiệm thứ hai của các bậc cha mẹ trong lời dạy này là khuyến khích con cái vào các hoạt động lợi ích cho cộng đồng, cho nhân quần xã hội. Đây là cách giáo dục vô cùng tích cực cho một xã hội an bình và thạnh trị.

Từ một góc độ khác, việc dạy con từ bỏ các thói hư tật xấu, các hành vi bất chánh và bất thiện mặc dù là tốt nhưng chỉ mới tốt có phân nửa: đó là tốt cho bản thân chúng và gia đình. Đây là giáo dục đạo đức cho bản thân con cái, cơ sở nền tảng cho sự trưởng thành đạo đức của chúng về sau. Giáo dục con quan trọng hơn là giáo dục tính chất vị tha, vô ngã trong từng hành vi lời nói, cử chỉ và việc làm. Đó là lối giáo dục dấn thân để phục vụ cho tha nhân. Cách giáo dục như vậy rõ ràng rất đặc trưng, ít tìm thấy trong bất cứ tôn giáo nào, từ hữu thần cho đến vô thần.

Nói khác hơn, giáo dục đạo đức cho con cái bao giờ cũng bao gồm hai bước, đó là giáo dục đình chỉ ác và giáo dục phát huy thiện. Đình chỉ ác thôi chưa đủ mà còn phải phát triển thiện. Có như vậy thì xã hội không những vắng mặt các tệ nạn và khủng hoảng đạo đức, mà còn trổ hoa kết trái của hạnh phúc và an lạc từ những hành vi đạo đức tích cực của thế hệ những người con, thế hệ nền tảng và tinh hoa của mọi tầng lớp xã hội. Đó là giáo dục con cái theo tinh thần của bậc giác ngộ, để tạo dựng một gia đình và xã hội vắng ác đầy thiện, vắng cái xấu xa tội lỗi, tràn đầy cái chân thiện mỹ.

 c. Tạo dựng nghề nghiệp chân chánh cho con cái

Giáo dục theo tinh thần đạo Phật luôn bắt đầu và đặt nền móng trên giáo dục đạo đức. Các bậc cha mẹ nào không đặt tầm quan trọng của giáo dục đạo đức ắt sẽ gặp phải cảnh người con bất hiếu, ngỗ nghịch và tạo ra cảnh mất đầm ấm hạnh phúc trong gia đình ở hiện tại và về sau, cho dòng tộc và tha nhân. Nói như thế không có nghĩa đạo Phật bỏ rơi sự giáo dục con cái trưởng thành về thể chất.

Tạo dựng nghề nghiệp cho con cái không những bao gồm sự nuôi nấng theo tinh thần khoa học mà còn chăm lo đến nghề nghiệp tương lai của chúng. Điều này có nghĩa là giao cho con cái cả gia tài sự nghiệp sẵn có của mình không bằng truyền thụ cho chúng kiến thức để có được nguồn tài sản đó. Ở đây, giáo dục Phật giáo nhấn mạnh đến giáo dục “nhân” để sinh ra “quả”. Vun bồi nhân là cách tốt nhất để gặt hái quả tốt. Do đó giáo dục trong đạo Phật luôn là giáo dục con đường chứ không ban cho con đường. Đây là lối giáo dục vô cùng sáng suốt vì đã loại bỏ yếu tố tha lực trong các hoạt động và phát triển nhân cách đạo đức và năng lực bản thân.

Kế đến lời dạy này còn nhắm đến tính giáo dục tinh thần tự lực cho con cái, theo quy luật của cuộc sống và theo đạo đức của cuộc đời. Chỉ có tinh thần tự lực, dưới sự hướng đạo của cha mẹ, con cái mới thật trưởng thành trong xã hội.

Một ý nghĩa khác có thể rút ra từ lời dạy trên là để khắc chế nạn lêu lỏng và buông thả của đời sống thanh thiếu niên trong xã hội nhiều cám dỗ, các bậc cha mẹ phải dạy chúng ý thức về một nghề nghiệp ổn định cho bản thân. Sự sống nhờ vả, dù đó là nhờ vào cha mẹ, cũng chỉ là tạm thời và có ý nghĩa rất ít; trong khi sự tự lập bằng mồ hôi, sức lực, trí khôn trong chiều hướng đạo đức và khả năng của bản thân mới là con đường tự tồn tại lâu dài và bền bĩ. Chính sự giáo dục này giúp cho con cái thoát khỏi các cạm bẫy ăn chơi sa đọa của xã hội, góp phần ổn định đời sống tập thể và cộng đồng, nhất là hạn chế nạn thất nghiệp và những việc làm phi pháp.

d. Xây dựng gia thất xứng đáng cho con cái

Trách nhiệm của các bậc cha mẹ không chỉ dừng lại ở giáo dục đạo đức tránh ác làm lành, ổn định nghề nghiệp cho con mà còn chăm lo đến đời sống lứa đôi cho con cái. Cần nhấn mạnh ở đây rằng xây dựng gia thất cho con cái không có nghĩa là ép buộc con cái phải làm chồng / vợ một người nào đó mà mình thích, thay vì người mà chúng yêu thương. Đạo Phật không khuyến khích một tập tục "bắt đâu ngồi đó" như trong truyền thống Ấn giáo cổ đại, cũng như truyền thống "phụ vi tử cương" của Nho giáo. Đạo Phật đề cao tinh thần bình đẳng trong nhận thức của cha mẹ và con cái. Khi chưa đến tuổi thành niên, con cái tùy thuộc vào sự quyết định đúng đắn của cha mẹ. Khi con cái đã đến tuổi trưởng thành, việc quyết định đời sống hôn nhân của chúng phải tùy thuộc vào sự lựa chọn của chúng. "Ép dầu ép mỡ ai nỡ ép duyên" là một phương châm rất phù hợp với tinh thần của lời dạy này. Ngoài ra, một ý nghĩa giáo dục khác là nếu cha mẹ có thể dạy và tạo dựng nghề nghiệp chân chánh và ổn định cho con cái thì các bậc cha mẹ cũng có thể cố vấn tình yêu và hôn nhân cho chúng. Lời dạy này mang tính giáo dục rất cao. Cha mẹ không chỉ là người sanh ra con cái mà còn là người thầy, người cố vấn, người hướng đạo đời sống yêu đương và hôn nhân cho con cái. Ở đây, ngoài yếu tố truyền trao kinh nghiệm yêu đương và hôn nhân cho con cái, các bậc cha mẹ còn phải đóng vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn con cái chọn lựa người bạn đời thích hợp. Không có gì thiêng liêng và cao quý cho bằng khi cha mẹ còn đóng vai trò của người thầy và người cố vấn hôn nhân.

Nói rõ hơn, cha mẹ chỉ làm chức năng tư vấn cho con cái biết rõ tiêu chuẩn của một người vợ hay người chồng lý tưởng cũng như, thế nào là trách nhiệm và bổn phận của đôi vợ chồng “loan phụng hoà minh” v.v… Hoàn toàn không có chuyện ép buộc và sắp đặt của cha mẹ trên vấn đề hôn nhân của con cái. Đây là tinh thần giáo dục rất phù hợp đời sống hôn nhân hiện đại.

Một điểm cần lưu ý nữa là khái niệm "xứng đáng" trong cụm từ "xây dựng gia thất xứng đáng cho con cái." Xứng đáng không có nghĩa là "môn đăng hộ đối" như phong tục Nho giáo. Xứng đáng ở đây mang tính đạo đức và xã hội. Ở góc độ đạo đức, người con khôn ngoan nên biết chọn cho mình người bạn đời có đủ phẩm chất đạo đức ít nhất như mình. Đây là sự tương thích về nhân phẩm giữa hai người. Kế đến, về phương diện xã hội, sự xứng đáng còn mang ý nghĩa chọn người bạn đời có cùng tánh tình, chí hướng và hạnh nguyện. Không có gì đau khổ cho bằng khi vợ chồng lâm vào cảnh "đồng sàng dị mộng" vợ nắng chồng như mưa hay vợ mặt trăng, chồng mặt trời v.v… Để tránh các tình trạng đau lòng có thể dẫn đến sự đổ vỡ mối quan hệ tình yêu và hôn nhân như vậy, con cái rất cần đến sự cố vấn của cha mẹ chúng, những người ít nhất đã một lần trải qua.

Trên tinh thần giáo dục trên, việc dựng vợ gả chồng xứng đáng cho con cái không chỉ tránh được các đổ vỡ do mối quan hệ đơn thuần "môn đăng hộ đối" về vật chất nhưng lại không thích hợp về tánh tình, đạo đức, trí tuệ và hạnh nguyện, mà còn hướng đến một căn bản tương thích của đời sống lứa đôi. Nói cách khác, hạnh phúc hôn nhân không chỉ có được từ sự giàu sang mà phải đặt nền tảng trên sự tương thích về phẩm chất đạo đức, lý tưởng và hạnh nguyện. Trong bất kỳ cuộc hôn nhân nào nếu có sự tương thích về đời sống đạo đức và lý tưởng thì tất nhiên sẽ kéo theo sự hạnh phúc lứa đôi.

Ngoài ra, lối giáo dục cố vấn con cái trong hôn nhân theo tinh thần lời Phật dạy còn có những giá trị đạo đức sau đây:

- Chận đứng hoặc hạn chế một cách tối đa tình trạng tự tử của những đôi uyên ương do cha mẹ không đồng ý gả họ cho người họ yêu say đắm.

- Chận đứng tình trạng ly thân, ly dị, đổ vỡ hôn nhân do đôi uyên ương không tương đồng về đạo đức, trí tuệ và lý tưởng.

- Hướng đến một xã hội mà các phần tử của nó có tinh thần tự chủ, độc lập trong nhận thức và hành động nhất là trong việc chọn người bạn đời thích hợp.

e . Truyền trao gia tài cho con cái đúng thời

Trách nhiệm thứ năm này mang ý nghĩa pháp lý và đạo đức rất cao. Về phương diện pháp lý, việc truyền trao này bao gồm di chúc và tài sản thừa tự cho con cái. Có nhiều bậc cha mẹ đã không nghĩ tới chuyện này khi còn khỏe mạnh. Do đó, một khi nhắm mắt xuôi tay, con cái bất hiếu đã gây cảnh nồi da xáo thịt về quyền thừa tự, tranh giành tài sản do cha mẹ để lại. Chính vì thế, để tránh các tình trạng trên, Đức Phật đã dạy các bậc cha mẹ phải di chúc và trao truyền gia tài khi mình còn sáng suốt và khỏe mạnh. Chỉ có trong tình trạng khỏe mạnh và sáng suốt, người ta mới có thể chọn người xứng đáng vá thích hợp để mà ủy thác.

Về phương diện đạo đức, sự truyền trao gia tài không chỉ có nghĩa đơn thuần là phân chia tài sản cho con cái mà còn có ý nghĩa truyền trao di sản văn hóa của dân tộc, truyền thống gia đình. Gia tài đó hẳn không phải là "một nước Việt buồn" mà phải là một nước Việt thoát khỏi thực trạng khổ đau (khổ đế) hướng đến an lạc và giải thoát trên tinh thần tự chủ vô ngã. Một gia tài như vậy, vàng bạc không thể mua được, đô-la không thể đổi được. Do đó cần phải cẩn trọng chọn lựa người xứng đáng mà truyền trao. Đức ngũ tổ Hoằng Nhẫn đã không truyền trao y bát cho ngài Thần Tú mà trái lại truyền cho ngài Huệ Năng. Đức Phật Thích-ca đã không trao chánh pháp nhãn tạng, niết-bàn diệu tâm cho ngài A-nan bác học đa văn mà giao cho tổ Ca-diếp đạo cao đức trọng. Sự chọn lựa ở đây bao hàm nội dung đạo đức rất lớn. Chọn lựa sai lầm thì kết quả đau thương sẽ không thể tưởng tượng. Chính vì thế sự chọn lựa đối tượng trao gia tài cần phải cẩn trọng, hợp thời, hợp cơ. Trừ phi đối tượng xứng đáng về đạo đức và trí tuệ được chọn lựa và giao phó, sự truyền trao sẽ trở nên vô nghĩa và nguy hiểm cho cả nhiều thế hệ về nhiều phương diện của cuộc sống.

Ở mức độ đơn thuần hơn, sự truyền trao gia tài hợp thời còn có ý nghĩa giúp cho xã hội tránh được sự truyền thừa không xứng đáng, những tình trạng cha truyền con nối, những truyền thống thế tập "con vua thì được làm vua, con sải ở chùa thì quyét lá đa." Nói chung, nếu tinh thần này được áp dụng ở xã hội thì lo gì xã hội không có đủ người tài đức, đất nước không có được minh quân. Mọi sự phân biệt mang tính cách bè phái, cục bộ "con ông cháu cha" sẽ không còn cơ hội để tồn tại trong một xã hội mà tinh thần giáo dục của Đức Phật được truyền thừa và phát huy triệt để.

Nói tóm lại, mối quan hệ giữa cha mẹ đối với con cái là mối quan hệ mang tính đạo đức và giáo dục rất cao. Các bậc cha mẹ không chỉ chăm lo về đời sống vật chất cho con cái mà còn và quan trọng hơn hết là chăm lo và phát triển đời sống đạo đức và trí tuệ của chúng. Về đời sống đạo đức, cha mẹ phải huấn luyện và dạy dỗ con cái các phẩm chất đạo đức, tránh ác làm lành, từ bỏ con đường xấu xa phát huy đời sống chánh mạng và chánh nghiệp. Kế đến cha mẹ còn dạy cho con cái ý thức trách nhiệm cao độ của người con, tinh thần tự lập qua việc ổn định nghề nghiệp trong xã hội. Ngoài ra, cha mẹ còn phải cố vấn cho con cái trong việc lựa chọn một người bạn đời lý tưởng, để đời sống gia thất về sau được bền bỉ và hạnh phúc. Chỉ có những người con như vậy mới xứng đáng tiếp hưởng gia tài được đúc kết bằng mồ hôi và xương máu của cha mẹ, của những thế hệ cha anh đi trước. Thiết nghĩ tinh thần giáo dục cao thượng này nên được các hội bô lão, các hội phụ huynh học sinh nghiên cứu và áp dụng triệt để, để tình thương, sự phát triển và hạnh phúc nở hoa trên sự sống của con người hôm nay và mai sau.

Rất khó cho trẻ con thấu đáo được đức hy sinh của cha và mối tình thâm của mẹ, vì lòng thương lai láng của cha mẹ tựa hồ như nước mưa từ không trung rơi xuống, đem lại hạnh phúc bao nhiêu cho nhơn loại rồi êm đềm lặng lẽ trôi đi không màng đến sự biết ơn của ai. Hình như đây là định luật thiên nhiên trong trời đất! Lòng thương của cha mẹ từ trên nhỏ xuống thì vô bờ bến mà từ dưới chảy lên thì rất hiếm hoi. Thật vậy, người làm cha mẹ không bao giờ trông đợi sự đền ơn trả thảo của trẻ con khờ dại, chưa đủ kinh nghiệm, chưa biết lo nghĩ đến bổn phận làm con, cũng như chưa nhận thức được thế nào gọi là tình thương.

Chưa đến lúc đóng vai trò làm cha mẹ, trẻ con không thể thấu triệt được tình thương của cha mẹ như thế nào.

Truyện tích sau đây về tình thương của cha mẹ đối với con rất đáng làm một bài học quí giá cho đàn hậu tiến:

Hoàng tử A-xà-thế (Ajàtasattu) bị Đềà-bà - đạt-ta (Devadatta) xúi dục, định giết cha là Bình-sa Vương (Bimbisara) để chiếm ngôi. Rủi thay, âm mưu của hoàng tử bị bại lộ, vua cha bắt được quả tang. Quần thần xin hành phạt xứng đáng. Nhưng vua cha quá thương con, không đành xử phạt, lại còn nhường ngôi vàng cho hoàng tử, vì thấy con thèm muốn làm vua.

Đãõ không biết ơn, A-xà-thế lại còn hạ ngục vua cha và ra lịnh bỏ đói cho chết lần chết mòn. Chỉ một mình hoàng thái hậu được phép vào thăm. Mỗi khi đi bà dấu đồ ăn trong túi áo, đem cho chồng. A-xà-thế hay được quở trách mẹ. Sau lại, bà dấu đồ ăn trong đầu tóc. A-xà-thế cũng biết được. Cuối cùng, bà tắm rửa sạch sẽ rồi thoa vào mình một thứ đồ ăn làm bằng mật ong, đường và sữa. Vua gợt lấy món ăn này trên tay để ăn đở đói. Nhưng A-xà-thế cũng bắt được và cấm hẳn mẹ không cho vào thăm cha nữa.

Lúc ấy vua Bình-sa Vương cam chịu đói, nhưng lòng cũng không oán trách con, cho đó là oan nghiệt tiền khiên, có vay phải có trả, nên thản nhiên cố gắng tham thiền. Thấy cha vẫn vui tươi, A-xà-thế nhứt định giết chết cha cho khuất mắt, nên hạ lịnh cho một người thợ cạo vào khám đường lấy dao bén gọt gót chân, lấy dầu và muối xát vào rồi hơ trên lửa nóng.

Khi người cha bất hạnh thấy thợ cạo đến thì mừng thầm, ngỡ rằng con mình đã ăn năn hối hận, cho người đến cạo râu tóc mình để rước về. Trái với sự mong ước của Ngài, chính anh thợ cạo đến để đem lại cho Ngài cái chết vô cùng thê thảm.

Cùng một ngày ấy vợ của A-xà-thế hạ sanh được một hoàng nam. Tin lành đến cho A-xà-thế cùng một lượt với tin vua Bình-sa Vương chết trong ngục. Được biết chánh hậu hạ sanh hoàng nam, nỗi vui mừng của Vua A-xà-thế không sao tả được. Cả người nghe nhẹ nhàng vui sướng. Tình thương của một người cha lần đầu tiên chớm nở trong lòng, mặn nồng, sâu sắc, thấm vô từng khớp xương ống tủy. Đứa con đầu lòng là một nguồn yêu thương, là một cơ hội để cho cha mẹ thưởng thức một tình thương mới mẻ, đậm đà, vô cùng trong sạch. Cảm giác đầu tiên của người mới được đứa con đầu lòng dường như đưa họ vào một cảnh giới kỳ lạ, khiến họ có cảm tưởng rằng máu huyết của mình đã nhỏ giọt ra để nối tiếp mình.

Vừa lúc ấy A-xà-thế sực nhớ đến cha. Bỗng nhiên ông đứng phắt dậy, kêu lên như điên: "Hãy chạy mau, thả ra lập tức người cha yếu quí của trẩm". Than ôi, người cha yêu quí ấy đã ra người thiên cổ!

Khi hay tin cha chết, Vua hối hận đi tìm mẹ và hỏi:

- Thưa Mẫu hậu, khi con còn nhỏ Phụ Hoàng có thương con không?

- Con ôi! Cho đến giờ này con mới hỏi thì đã muộn rồi. Và tại sao con hỏi lạ vậy? Mẹ tưởng trên thế gian này không tìm đâu ra một người cha lành như cha con. Để mẹ thuật lại cho con nghe. Lúc mẹ còn mang con trong lòng, một ngày nọ mẹ nghe thèm một món kỳ quái. Mẹ thèm mút vài giọt máu trong bàn tay mặt của cha con. Mà mẹ đâu dám nói ra. Rồi càng ngày mẹ càng xanh xao, và sau cùng phải thú nhận với cha con. Khi nghe vậy, cha con vui vẻ lấy dao rạch tay cho mẹ nút máu. Lúc ấy các nhà chiêm tinh trong triều tiên tri rằng con sẽ là người thù của cha con. Do đó, tên con là A-xà-thế (Ajàtasattu, kẻ thù chưa sanh). Mẹ có ý định muốn giết con ngay trong lòng, nhưng cha con không cho. Khi sanh con ra, mẹ nhớ tới lời tiên tri nên một lần nữa muốn giết con. Một lần nữa, cha con ngăn cản mẹ. Một hôm, con có một cái nhọt trên đầu ngón tay, đau nhức vô cùng, khóc suốt ngày đêm, không ai dỗ con ngủ được. Cha con, đang cùng bá quan phân xử việc triều đình, nghe vậy cầm lòng không đậu, bế con trong lòng và không ngần ngại ngậm ngón tay con trong miệng nhẹ nhẹ nút cho con đỡ đau. Gớm thay! Cái mụt nhọt bể, máu mủ tuông ra trong miệng cha con. Sợ lấy ngón tay ra con sẽ nghe đau nên cha con nuốt luôn vào bụng cả máu lần mủ!". Vua A-xà-thế xúc động, rơi lụy dầm dề [3].

Nghe qua chuyện tích này, chúng ta cũng có thể tưởng tượng được nỗi buồn thảm và hối hận như thế nào của vua A-xà-thế.

2.1.1.2. Con cái đối với cha mẹ

Theo tinh thần duyên khởi của đạo Phật, bất cứ mối quan hệ nào cũng phải có sự đối lưu của ít nhất hai thành phần. Ở đây sự đối lưu là giữa cha mẹ và con cái và ngược lại. Tinh thần giáo dục của Đức Phật không đơn thuần và một chiều, mà đó là sự đối lưu của ít nhất hai trị số con người trong mối quan hệ vừa đạo đức và giáo dục. Nói cách khác, nếu các bậc cha mẹ sanh con cái không vì sự thỏa mãn các khoái lạc giác quan, nhưng thể hiện tinh thần trách nhiệm và giáo dục cao độ cho con cái trưởng thành về thể chất, thể trí và sống vững vàng trong xã hội thì đối lại người con cũng phải có trách nhiệm đạo đức đối với hai đấng sanh thành ra mình, nuôi nấng mình trưởng thành và trở nên hữu dụng cho bản thân và xã hội. Sự hiếu thảo của người con như vậy được trình bày qua năm trách nhiệm đạo đức sau đây:

Có năm trường hợp người con phải phụng dưỡng cha mẹ, đó là, (a) tôi sẽ nuôi dưỡng cha mẹ, (b) tôi sẽ làm tròn bổn phận đối với cha mẹ, (c) tôi sẽ giữ gìn danh dự gia đình và truyền thống, (d) tôi sẽ bảo vệ tài sản thừa tự, và (e) tôi sẽ lo chu toàn tang lễ của cha mẹ đúng pháp. [20]

a. Tôi sẽ nuôi dưỡng cha mẹ

Trách nhiệm đạo đức trước tiên của một người con đối với hai đấng sanh thành ra mình theo Đức Phật là nuôi dưỡng cha mẹ. Hay nói cách khác người con phải lấy sự báo đền cha mẹ bằng cách chăm sóc cha mẹ về đời sống vật chất, cũng như chính cha mẹ đã lo cho chúng ta trưởng thành, trong suốt 18 năm vị thành niên. Cần lưu ý ở đây rằng mệnh đề "tôi sẽ" biểu thị một ý thức trách nhiệm cao độ, chứ không đơn thuần là một lời hứa cụi. Như chúng ta đã biết Đức Phật định nghĩa nghiệp là những hành vi có ý thức và ý thức là chất xúc tác và dẫn đạo các hành vi của lời nói và việc làm. Do đó, chỉ có với một ý thức sâu sắc về bổn phận làm con "tôi sẽ nuôi dưỡng cha mẹ" mới có thể giúp người con duy trì tốt truyền thống hiếu thảo đối với cha mẹ được.

Sự chăm lo đến đời sống vật chất của cha mẹ ở đây cho thấy đạo Phật rất thực tiễn. Người con hiếu thảo không chỉ biết vâng lời cha mẹ, làm việc tốt cho gia đình và xã hội mà trước tiên và hơn hết là lo phần đời sống vật chất cho cha mẹ mình. Chăm lo đời sống vật chất bao gồm việc dâng tặng cho cha mẹ tiền chi tiêu, quà quý, thuốc thang, sự thăm viếng và phụng dưỡng khi cha mẹ đau ốm hay không còn sức lao động.

Lời dạy này ngoài việc khích lệ con cái hiếu kính đối với cha mẹ còn nhắm vào việc xóa bỏ các quan niệm sai lầm cho rằng cha mẹ sinh con là để thoả mãn dục vọng cho nên con cái không cần phải có trách nhiệm lo lắng trở lại. Nếu lời dạy cao qúy này được áp dụng chắc chắn rằng xã hội sẽ không còn tình trạng các cha mẹ già phải tủi phận vào sống các nhà dưỡng lão, chỉ vì các người con bất hiếu. Kế đến, lời dạy còn có ý nghĩa cao quý khác, đó là, sẽ không còn cảnh những đứa con ngỗ nghịch "báo đời" cha mẹ dưới nhiều hình thức và về nhiều phương diện.

b. Làm tròn bổn phận đối với cha mẹ

Ý thức trách nhiệm làm tròn bổn phận của một người con là điều quan trọng thứ hai trong đạo hiếu thảo của người Phật tử. Lời dạy này mặc dù rất bao quát nhưng có ý nghĩa đạo đức rất lớn. Khái niệm bổn phận ở đây cần phải được hiểu là sự thực thi những điều trách nhiệm của người con đối với cha mẹ tùy theo hoàn cảnh và điều kiện cho phép. Nghĩa là công việc hiếu thảo không bao giờ là một sự bắt buộc mà trái là một ý thức cao độ, ý thức làm người có đạo lý.

Có nhiều trường hợp người con vì thương cha kính mẹ mà làm nhiều điều tội ác để chu cấp tài sản cho cha mẹ. Đạo Phật chống lại sự hiếu thảo phi pháp như vậy. Nói cách khác làm trọn bổn phận tùy theo hoàn cảnh và điều kiện cho phép là một trong những cách thể hiện chữ hiếu hợp lý nhất. Ví dụ khi còn ngồi dưới mái trường, việc làm trọn bổn phận của người con đối với cha mẹ là vâng lời thầy cô, học hành chăm chỉ, thu hoạch kiến thức để làm nền tảng trí thức và đạo đức cho bản thân, hiện tại và về sau. Khi đã xây dựng gia thất riêng, việc làm tròn bổn phận của người con là sống đúng, sống theo và sống hợp với các nguyên tắc đạo đức của đạo Phật, không làm các điều ác, phát huy các điều thiện, chăm lo cho vợ/chồng con chu đáo, thăm viếng cha mẹ khi có thời gian, phụng dưỡng đời sống vật chất cho cha mẹ tùy theo khả năng và điều kiện v.v… Nói chung trong mọi hoàn cảnh và trường hợp, người con làm tròn bổn phận phải là người có ý thức trách nhiệm và thể hiện trách nhiệm đó đúng chánh pháp và phù hợp với đạo lý mặc ước và luật pháp của xã hội hiện hành.

Ở một góc độ khác, việc làm tròn bổn phận còn có ý nghĩa đạo đức rất lớn, nhất là trong trường hợp cha mẹ sống thiếu chánh kiến đối với Phật pháp tăng hoặc tạo tác nhiều điều tội lỗi. Người con có hiếu là người con phải biết tìm mọi cách khuyên gián cha mẹ, giúp cho cha mẹ trở về với con đường hiền lương và thánh thiện. Ở đây, chúng ta thấy tính tương tác trong giáo dục của Phật giáo. Người con hiếu thảo không chỉ đơn thuần vâng lời cha mẹ, nhất là những lời không có lợi cho sự tiến bộ đạo đức và tâm linh. Ngược lại người con phải có các hành vi cụ thể để khuyến tấn cha mẹ mình. Người làm được như vậy theo Đức Phật có giá trị hiếu thảo nhiều lần so với báo hiếu đơn thuần về của cải vật chất:

"Những ai đền ơn cha mẹ bằng cách nuôi dưỡng dâng cúng với của cải vật chất tiền bạc thì không bao giờ đủ để đáp đền ơn cha mẹ. Nhưng này các Tỳ Kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin Tam Bảo thì khuyến khích cho có lòng tin Tam Bảo, đối với cha mẹ sống tà giới, thì khuyến khích vào chánh giới, đối với cha mẹ sinh khởi tham, thì khuyến khích bố thí, đối với cha mẹ tà kiến thì khuyến khích vào chánh kiến. Cho đến như vậy, này các Tỳ Kheo, là làm đủ và đáp ơn đủ cho mẹ và cha." (Tăng Chi bộ Kinh I. 75)

Nói cách khác, báo hiếu trong đạo Phật không chỉ đơn thuần về đời sống vật chất mà quan trọng hơn là đời sống tinh thần và đạo đức. Đây chính là nét đặc sắc và độc đáo của chữ hiếu trong đạo Phật.

c. Giữ gìn danh dự và truyền thống gia đình.

Mỗi dân tộc đều có một bản sắc văn hóa riêng. Chính nét riêng là giá trị tạo nên và đóng góp cho nền văn hóa của nhân loại. Cũng vậy mỗi gia đình đều có truyền thống riêng mà các bậc tiền bối và tổ tiên đã dày công xây dựng. Người con hiếu thảo theo Đức Phật là người, ngoài việc làm tròn bổn phận, phụng dưỡng vật chất cho cha mẹ đúng pháp còn là người biết tôn trọng các giá trị văn hóa và di sản truyền thống tốt đẹp của gia đình, giống nòi và dân tộc.

Cần lưu ý ở đây rằng lời dạy này không nhằm khuyến khích một chế độ thế tập "cha truyền con nối" một cách mù quáng. Nó chỉ nhằm kêu gọi ý thức trách nhiệm bảo vệ và phát huy các truyền thống tốt đẹp của một gia phả, một làng xóm, một cộng đồng, một sắc tộc, một quốc gia mà thôi. Đạo Phật không dạy chúng ta phục tùng các truyền thống lạc hậu, phản với đạo đức và sự hướng thượng trong đạo đức và tu tập. Trong tinh thần này, những quan niệm duy trì truyền thống theo kiểu "con vua thì lại làm vua, con sải ở chùa thì quét lá đa" cần phải được loại bỏ ra khỏi quan điểm chữ hiếu trong đạo Phật.

Chúng ta vẫn còn nhớ trong bài kinh giáo dục cho dân tộc Kàlàma về mười tiêu chí của một niềm tin có chánh kiến, có điều dạy rằng "đừng vội tin một điều gì chỉ vì điều đó có hay thuộc truyền thống." Lời dạy này phản ánh rằng các truyền thống có thể có hai mặt, một mặt tốt và tiến bộ, và một mặt xấu và phản tiến hóa. Đức Phật chỉ khuyên chúng ta theo mặt tốt và tiến hóa của truyền thống trong khi mạnh dạn loại bỏ các mặt tiêu cực và bất lợi của nó. Lời dạy này càng có ý nghĩa to lớn hơn nếu ta đặt nó trong sự vận động bảo tồn và duy trì các sắc thái văn hóa của tổ chức UNESCO. Nói dễ hiểu hơn, đây có thể là phương châm cho một khuynh hướng giữ gìn và bảo vệ nền văn hóa tích cực của các sắc dân, của các dân tộc trên thế giới theo chiều hướng có chọn lọc các truyền thống và đặt chúng trong tiêu chí của các giá trị phát triển đạo đức và đạo lý con người hơn là chỉ đơn thuần tìm hiểu và làm sống dậy chúng.

d. Bảo vệ tài sản thừa tự

Nếu "duy trì các truyền thống tốt đẹp của gia đình, quốc gia" là một nguyên tắc chung và bao quát đối với những người con có hiếu theo tinh thần lời Phật dạy thì "bảo vệ tài sản thừa tự" là một nguyên tắc cụ thể ứng dụng trong phạm vi của truyền thống gia tộc. Điều này có ý nghĩa giáo dục rằng một mặt con cái phải biết sử dụng gia tài và di sản của cha mẹ để lại đúng pháp và mặt khác phải là người kế thừa có đạo lý. Nghĩa là cha làm thầy thì con cái không được đốt sách. Cha mẹ làm việc thiện, tôn kính tam bảo, thì con cái không nên làm việc ác, phỉ báng Phật, pháp, tăng, trái lại còn phát huy một cách tốt hơn và có chiều kích hơn.

Rất tiếc hiện nay trong nhiều xã hội, lời dạy nầy không được áp dụng nên đã có nhiều cảnh con cái trở thành những kẻ phá hoại tài sản của cha mẹ và tổ tiên để lại. Nhiều người con chỉ biết chi tiêu gia tài của cha mẹ theo khuynh hướng tán gia bại sản hơn là duy trì và phát huy chúng.

Áp dụng lời dạy này trong một chiều kích lớn hơn chúng ta thấy rất có lợi cho xã hội và đất nước. Việt Nam là đất nước được mệnh danh với truyền thống con rồng cháu tiên, Phù Đổng thiên vương, đã từng bất khuất trước các thế lực ngoại xâm và đô hộ. Những hành động "cõng rắn cắn gà nhà" hay "rước voi giày mả tổ" là những hành vi tội ác không chỉ đi ngược lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà còn làm chết đi tinh thần cao quý đó. Tương tự, quan niệm "mái chùa che chở hồn dân tộc, nếp sống muôn đời của tổ tông" là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam từ nhiều đời. Ai manh tâm phá hoại chùa chiền, biến chùa chiền thành các hợp tác xã, hoặc sử dụng chùa chiền vào các mục đích thế tục hay tư lợi thì hẳn rằng đã manh tâm phá hoại một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, đi ngược đạo lý Việt Nam.

e. Lo chu toàn tang lễ cho cha mẹ đúng pháp

Điều hiếu thảo cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng là khi cha mẹ qua đời, con cái phải tổ chức tang lễ cho cha mẹ một cách chu toàn và đúng pháp. Tổ chức tang lễ chu toàn tùy thuộc rất nhiều vào phong tục tập quán của từng quốc gia, xã hội và gia đình. Nói chung là phải làm đúng theo các quan niệm đạo hiếu của từng dân tộc và truyền thống.

Tổ chức đúng pháp là điều quan trọng hơn. Nếu tổ chức "chu toàn" nhằm nhấn mạnh đến hình thức và trình tự của tang lễ như tẩm liệm, chôn cất v.v… thì tổ chức "đúng pháp" nhấn mạnh đến nội dung và tinh thần của tang lễ. Đúng pháp theo tinh thần lời Phật dạy là con cái không nên khóc lóc, than vãn mà trái lại nên chánh niệm tỉnh giác trước cơn vô thường sinh ly tử biệt để hỗ trợ cho cha mẹ không còn quyến luyến tình cảm thế gian, vãng sanh một cách nhẹ nhàng và dễ dàng. Sự khóc lóc và rên rỉ của con cái có thể làm động tâm các bậc cha mẹ vừa quá cố và do đó làm trở ngại rất nhiều cho tiến trình tái sanh của cha mẹ. Do đó, người Phật tử không nên quá bi lụy theo thường tình của thế gian, trái lại thỉnh mời quý đại đức tăng ni và ban hộ niệm đến tụng kinh để siêu độ cho người quá vãng.

Có nhiều người con khi cha mẹ còn sống thì đối xử một cách bỏn xẻn, không phụng dưỡng cha mẹ. Nhưng khi cha mẹ vừa nằm xuống thì lại cố tình tổ chức tang lễ cho rềnh rang, để chứng tỏ ta đây là người con có hiếu. Đạo Phật không dạy chúng ta như vậy. Trái lại, đạo hiếu của Đức Phật rất chu đáo và nhấn mạnh đến ý thức trách nhiệm chân thành của người con hơn là các hình thức nghi lễ bề ngoài, đôi lúc có tính cách lạc dẫn. Khi cha mẹ còn sống thì cúc cung, chăm sóc, sớm thăm tối viếng, cung phụng miếng ăn và thuốc thang cho cha mẹ. Vâng lời cha mẹ khi cha mẹ có lời dạy bảo hay. Làm tròn bổn phận làm con trong mọi hoàn cảnh. Khuyến khích cha mẹ trở về con đường hiền lương và đạo đức nếu cha mẹ vượt quá con đường hiền thiện. Rồi đến lúc cha mẹ nhắm mắt lìa đời thì tổ chức tang lễ giản đơn nhưng không kém phần trang nghiêm và có ý nghĩa đạo đức.

Nói chung, báo hiếu khi cha mẹ qua đời là việc lo chu toàn tang lễ một cách chân thành, trang trọng; không đặt nặng các hình thức lễ nghi như hiến tế súc vật, cúng tam sên (sanh), trổ nhạc tây nhạc tàu, thuê người khóc mướn, tổ chức ca hát xướng kỵ, v.v… Các việc làm như vậy chỉ tạo thêm nhiều nghiệp ác và tội lỗi mà thôi. Tang lễ theo đạo Phật nên đơn giản bao gồm các khóa lễ tụng kinh tưởng niệm, phóng sanh thả vật, làm phước cúng dường, để hồi hướng công đức cho cha mẹ vừa quá cố, như một hành trang đạo đức cho cha mẹ đi tái sanh vào các cảnh giới an lạc.

Tiểu kết:

Qua những gì vừa được trình bày ở trên, đạo hiếu của Phật giáo bao gồm đạo làm cha mẹ và đạo làm con cái. Năm nguyên tắc đạo đức của đạo làm cha mẹ và năm nguyên tắc đạo đức của đạo làm con trong kinh Thiện Sanh có thể được xem là những chuẩn mực, khuôn vàng thước ngọc cho các mối quan hệ của cha mẹ và con cái trong một xã hội tiến bộ và văn minh. Người viết nghĩ rằng đạo hiếu tích cực và toàn diện như vậy nên được đưa vào giảng dạy trong các cấp bậc của học đường để phục hưng và chấn chỉnh một nền đạo đức bị suy thoái hiện nay, do thiếu ánh sáng từ bi và trí tuệ của đạo Phật.

Nếu năm nguyên tắc đạo làm cha mẹ nên được phổ biến rộng rãi trong các hội bô lão và các hội phụ huynh thì năm nguyên tắc đạo làm con nên được truyền bá trong các câu lạc bộ thanh thiếu niên, trong các hội đoàn sinh viên học sinh, để các bậc làm cha mẹ xứng đáng là cha mẹ và để các người con xứng đáng là những người con.

Buồn thay, trong những bậc cha mẹ ngày nay, tình yêu thương của bố mẹ thì không có, thật hết sức đáng tiếc. Sự chạy đuổi theo vật chất, những phong trào giải phóng, các khẩu hiệu bình đẳng, đã dẫn đến kết quả cả bố mẹ đều trải qua nhiều giờ làm việc ở văn phòng, cửa hàng, hơn là ở nhà trông nom chăm sóc con cái. Những đứa trẻ được giao cho người thân hoặc cho người giúp việc, chúng cảm thấy lạc lỏng vì thiếu tình thương và sự chăm sóc dịu dàng của mẹ. Bù lắp vào sự thiếu quan tâm đối với con, người mẹ cố gắng xoa dịu bằng cách thỏa mãn tất cả những đòi hỏi của trẻ để chúng được vui lòng. Mua sắm các loại đồ chơi hiện đại như là xe tăng, súng máy, tàu bay, và những thiết bị giống như thế, chỉ là một thứ đồ chơi làm cho khuây khỏa chứ không phải là một lối giáo dục tốt.

Nhồi nhét cho bé những thứ đồ chơi như thế không thay thế được tình thương và sự trìu mến của người mẹ. Không có tình thương yêu trìu mến và sự dẫn dắt của bố mẹ, chúng sẽ lớn lên và trở thành một tội phạm. Rồi như vậy, ai sẽ chịu trách nhiệm về một đứa con ngỗ nghịch? Lẽ đương nhiên là bố mẹ phải gánh chịu trách nhiệm thôi! Đặc biệt đối với người mẹ đi làm việc sau một ngày vất vả ở văn phòng rồi tiếp theo những công việc lặt vặt trong nhà, hầu như không thể có đủ thời giờ dành cho việc chăm sóc và quan tâm đến con cái. Bố mẹ không dành thời giờ cho con cái họ nên khi về già những đứa con này không có thời giờ dành cho họ. Bố mẹ tự cho là vì quá bận rộn nên không có thì giờ chăm sóc chỉ biết chi tiêu nhiều tiền bạc cho con cái thì đừng than phiền khi những đứa con "bận rộn " của họ lần lượt bỏ họ cô đơn trong "căn nhà đắt tiền nhưng giá lạnh"!

Hầu hết những phụ nữ tham gia vào xã hội ngày nay để gia đình họ có thể hưởng thêm lợi ích vật chất. Nhưng họ phải nên quan tâm đến lời khuyên của Gandhi đối với người đàn ông đi tìm kiếm tự do bởi lòng tham hơn là sự thiếu thốn. Dĩ nhiên, căn cứ vào cơ cấu kinh tế ngày nay, chúng ta không thể phủ nhận một số người mẹ buộc phải bỏ gia đình để tham gia vào xã hội. Ở trong trường hợp như thế cha mẹ phải hy sinh thêm thời gian của họ để bù đắp vào những gì con cái của họ thiếu đi khi họ vắng nhà. Nếu bố mẹ dành những giờ không làm việc ở sở làm ở nhà với bọn trẻ, tất sẽ có một sự hiểu biết gắn bó hơn giữa bố mẹ và con cái.

Trong những bài pháp của ngài, Đức Phật liệt kê một số nhiệm vụ và bổn phận chủ yếu như là những lời hướng dẫn cơ bản đó là, bằng đức tu tập và hành động, để dẫn dắt con cái tránh xa những điều xấu xa và bằng những lời động viên nhẹ nhàng, để dìu dắt chúng làm tất cả những điều cho gia đình, xã hội và tổ quốc. Trong sự liên kết này, bố mẹ chắc hẳn phải vận dụng sự chăm sóc tuyệt đối trong việc xử sự với con cái. Đây không phải là điều bố mẹ bày tỏ nhưng đó là những gì thật sự phải như thế và cần phải thực hiện, đó là điều đứa trẻ tiếp thu một cách không ngờ đến và thật trìu mến. Đứa bé bước vào thế giới được nặn lên bởi cách cư xử của bố mẹ. Nó đi theo sự việc là gần mực thì đen gần đèn thì sáng. Bố mẹ dành nhiều thời gian với con cái mình sẽ truyền đạt những cá tính của họ một cách tế nhị với con cái của họ.

Hơn hết, tinh thần đạo hiếu mang tính giáo dục và đạo đức của Đức Phật nên được các nhà giáo dục quan tâm, giới thiệu vào các sách giáo khoa về công dân giáo dục, để làm tốt đẹp đạo lý tình người. Chỉ trừ khi nào các nguyên tắc đạo hiếu nêu trên được áp dụng thì khi đó gia đình và xã hội có sự an lạc và đạo đức. Do đó mọi hoạt động và tuyên truyền chống phá đạo lý hiếu thảo của đạo Phật sẽ là con đường tự hủy diệt đạo đức bản thân và xã hội. Mong sao các nhà lãnh đạo đất nước chân chánh sớm nhận ra được con đường giáo dục cao thượng, đạo đức và thuận tiến hóa của đạo Phật để xây dựng một đất nước Việt Nam giàu mạnh về vật chất và khỏe mạnh về tinh thần!

2.1.2. Ý nghĩa của mối quan hệ giữa vợ và chồng

Trong các mối quan hệ ở gia đình thì mối quan hệ vợ - chồng vừa có ý nghĩa quyết định cho việc duy trì nòi giống, vừa có tác dụng và ảnh hưởng lớn lao đối với sự thành bại nên hư của một gia đình. Tục ngữ ca dao Việt Nam đánh giá như vậy:“Thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn”

Mối quan hệ này còn đem lại cho con người nhiều hạnh phúc lứa đôi nhưng đồng thời cũng gây ra lắm khổ đau, bất hạnh. Chính vì mối quan hệ này mang nhiều ý nghĩa và chức năng quan trọng như thế, nên việc ý thức về vai trò của người chồng, người vợ lại càng phải được chuẩn bị chu đáo, thấu tình đạt lý hơn. Và việc truyền đạt những kiến thức về hôn nhân - gia đình cho thế hệ thanh niên là một trách nhiệm không thể thiếu được của các bậc phụ huynh, nhà trường và xã hội. Đức Phật cũng đánh giá rất cao mối quan hệ vợ chồng, Ngài cho rằng mối quan hệ này là xứng đáng để con người đảnh lễ và chỉ cần thực hiện tốt mối quan hệ này là con người sau khi chết được sanh lên cõi thiên giới.

Trong kinh Phật có dạy phương Tây tượng trưng cho đạo vợ chồng. Nếu mỗi bên thực hiện đầy đủ các bổn phận thì họ làm tròn đạo vợ - chồng và trở thành vị che chở cho phương Tây. Đạt được như vậy thì Đức Phật xác nhận rằng: “Sau khi thân hoại mạng chung các vị này sẽ sanh thiện thú thiên giới”[10, 542]. Trong Kinh Tăng Chi Đức Phật cũng nhấn mạnh rằng một người phụ nữ thực hiện tốt đẹp đạo làm vợ thì: “Sau khi thân hoại mạng chung được sanh lên thiện thú”[12, 517]. Như thế, chính ngay nơi đạo vợ -chồng là đạo tu tiên, làm tiên chứ đâu cần phải tìm ở đâu xa, tìm ở ngoài biển Đông hay ở thâm sơn cùng cốc chỉ tốn công sức mà thôi, điều này trong kinh Tăng Chi Đức Phật dạy:

Hãy thường yêu thương chồng,
Luôn cố gắng, nỗ lực,
Người đem lại lạc thú.
Chớ khinh thường người chồng,
Chớ làm chồng không vui,
Chớ làm chồng tức tối,
Với những lời ganh tỵ.
Chồng cung kính những ai,
Hãy đảnh lễ tất cả,
Vì người này có trí,
Hoạt động thật nhanh nhẹn,
Giữa các người làm việc,
Xử sự thật khả ái,
Biết giữ tài sản chồng,
Người vợ xử như vậy,
 Làm thỏa mãn ước vọng,
Ưa thích của người chồng,
Sẽ được sanh tại chỗ,
Các chư Thiên khả ái.”
[13, 107-108]

Nói như vậy mà bảo đạo Phật không sâu, không tạo niềm khích lệ cho đời và không cứu đời thì quả thật là quá sai lầm ! Phải chăng, vì thế, Ngài dạy cho người vợ và người chồng cần thực hiện những bổn phận để nuôi dưỡng mối quan hệ này được tốt đẹp, thăng hoa

2.1.2.1. Vợ đối với chồng:

Trong chiều quan hệ này, tinh thần trách nhiệm hỗ tương được nhấn mạnh hàng đầu và lòng tương kính, tương ái là chất liệu đặc trưng làm căn bản cho tất cả hoa lành trái ngọt. Để thực hiện tốt mối quan hệ này Đức Phật khuyên người vợ nên thực hiện năm bổn phận.: (a) Thi hành tốt đẹp bổn phận của mình; (b) khéo tiếp đón bà con; (c) trung thành với chồng; (d) khéo gìn giữ tài sản của chồng; (e) khéo léo và nhanh nhẹn làm mọi công việc.

a. Thi hành tốt đẹp bổn phận của mình.

 Trong mỗi gia đình, trách nhiệm và vai trò của người vợ rất lớn, rất nặng. Người vợ là hạt nhân trực tiếp tạo nên sự thành bại nên hư của một gia đình. Cho nên không phải vô cớ mà người Việt chúng ta gọi vai trò của người vợ là: “Nội tướng” hay tục ngữ Việt Nam nhận định: “Vợ ngoan làm quan cho chồng” hoặc: “Giàu nhờ bạn sang nhờ vợ” Vai trò của người vợ có ý nghĩa quyết định lớn như vậy trong việc đi lên của người chồng và cả gia đình. Vì thế việc thực hiện tốt vai trò đó hay “Thi hành tốt bổn phận của mình” là điều căn bản trên hết, là yêu cầu lớn nhất đối với người vợ.

b. Khéo tiếp bà con bên chồng

Đây là một trong những khía cạnh mà người vợ có thể tạo nên cho chồng tiếng thơm, làm “nở mặt nở mày” hay ngược lại. Điều mà tục ngữ Việt Nam gọi là “Sang nhờ vợ” được thể hiện trước hết ở phương diện này, tức là đối với gia đình chồng. Nhất là trong xã hội Việt Nam chúng ta hiện nay vẫn còn những gia đình sinh hoạt theo phong cách “Tam đại đồng đường”, bố mẹ, ông cháu... cùng sống trong một mái ấm gia đình. Và tập tục đó vẫn còn là niềm tự hào của nhiều gia đình có truyền thống văn hoá, quí tộc nho gia... Nếp sống đó tiêu biểu cho một trong ba chuẩn mực thịnh vượng: Phước - Lộc - Thọ. Trong bối cảnh đó, mẹ chồng, anh em bên chồng... luôn là những thử thách lớn với người vợ trong phận dâu con. Chính vì thế mà người vợ - nàng dâu cần tâm niệm điều “Khéo đón tiếp bà con bên chồng”. Một việc rất dễ gây “điều thị phi” hay “tiếng bấc tiếng chì” cho tự thân và cho cả người chồng. Còn đối với những gia đình có cuộc sống độc lập thì lời dạy này của Phật vẫn không phải là không đáng để tâm. Vì người Việt chúng ta vốn dĩ nặng tình huyết thống, xem trọng họ hàng, dòng tộc.

 c. Trung thành với chồng

Điều mà xã hội đánh giá cao về người phụ nữ Á Đông nói chung và người phụ nữ Việt Nam nói riêng là ở đức tính này. Đó là chất liệu làm nên vẻ đẹp nội tâm, làm nên đức hạnh của người phụ nữ. Đức tính này không chỉ là niềm tự hào của người vợ mà còn là niềm tự hào chung cho cả gia đình họ. Tấm lòng của người vợ, của người phụ nữ cũng chính là ở đây. Và có lẽ không có một người vợ, người mẹ nào trong truyền thống văn hoá Á Đông và Việt Nam lại không nghe một nỗi đau thầm lặng khi biết mình không hết lòng, không chung thủy với chồng, với con dù là có lý do chính đáng đi nữa thì vẫn nghe xót xa tận đáy lòng.

 d. Khéo giữ tài sản của chồng

Ở đây cho thấy yêu cầu chủ yếu của người phụ nữ, của người vợ không nhằm vào trọng tâm tạo ra đời sống kinh tế cho gia đình mà cốt lõi là thực hiện chức năng điều tiết phân phối hợp lý về đời sống kinh tế của gia đình. Muốn thực hiện điều đó thì người vợ phải biết rõ và nắm giữ toàn bộ tài sản gia đình. Nhờ đó họ có thể thực hiện việc chi thu thỏa đáng, phù hợp tài sản chồng làm ra mới có thể được giữ gìn, được tốt đẹp. Như thế khi người vợ không nắm giữ tài sản gia đình là chưa làm tròn trách nhiệm làm vợ. Và người chồng nào không để cho vợ giữ gìn, bảo quản toàn bộ tài sản gia đình; tự họ gánh lấy công việc điều tiết, chi thu hàng ngày thì thật là bi kịch của người chồng và cũng là mầm họa cho cả đôi bên. Trên một phương diện khác chúng ta thấy rằng, theo lời dạy này của Đức Phật thì chức năng trọng tâm của người vợ là bảo quản duy trì tài sản mà chồng đã tạo ra. Do đó, khi người phụ nữ phải bôn ba trong việc mưu sinh, làm trụ cột cho việc tạo ra đời sống kinh tế gia đình, dù là vì bất cứ nguyên nhân gì thì cái giá đầu tiên mà cả nhà phải trả là một ngôi nhà khá là trống vắng, lạnh nhạt và bề bộn của một ngôi nhà thiếu vắng chủ nhân. Khi người vợ gánh vác trọng trách tạo ra đời sống kinh tế thì cảm nghe như thế nào nhỉ !? Một thực tế nữa cũng đang phổ biến hiện nay ở nước ta: cả vợ và chồng cùng phải làm mới có thể đủ sống, đủ nuôi con.

Trong bối cảnh xã hội đang phát triển, đang được công nghiệp hoá - hiện đại hóa; rồi trong tương lai thực tế này lại càng phổ biến hơn ở nước ta. Đó cũng là một nét đặc trưng của các xã hội công nghiệp phát triển hiện nay trên thế giới. Trong hoàn cảnh này chúng ta thử nghiệm xem: Sau tám giờ làm việc ở công sở người chồng trở về nhà rồi tự mình nấu cơm, thu dọn nhà cửa... thì họ cảm thấy được nghỉ ngơi, được chăm sóc không nhỉ!? Với người vợ vốn là nữ giới “chân yếu tay mềm” lại càng cảm nghe mệt mỏi hơn ! Thực trạng đó rồi đây xã hội sẽ giải quyết ra sao? Hay lúc đó mọi người sẽ nhiễm cái nết: “chưa đi đã chạy” và cuộc sống chạy đua với vòng quay của kim đồng hồ không hơn không kém mà các nước công nghiệp chưa biết làm sao để giảm đi áp lực này trong cuộc sống.

e. Khéo léo và nhanh nhẹn làm mọi công việc

Nếu như ở bổn phận thứ tư chỉ là yêu cầu người vợ thực hiện tốt trong lãnh vực tài chánh của gia đình, thì ở điều thứ năm là yêu cầu người vợ thực hiện tốt tất cả những gì còn lại trong việc tổ chức cuộc sống gia đình. Đó là một yêu cầu tổng quát mà tính chất nội tướng được biểu lộ rất rõ trên ba phương diện: Có khả năng thực hiện làm việc nhà, làm đúng lúc, đúng thời và chất nữ tính luôn luôn được thể hiện nơi mỗi việc làm. Trước hết là khả năng hay tài năng tổ chức, sắp đặt làm mọi công việc ở trong gia đình. Nếu như một người vợ không làm hoặc không có khả năng tổ chức đời sống gia đình, thì mọi công việc trong nhà sẽ rất rối rắm, lộn xộn và bừa bãi. Chẳng hạn như một người vợ,ỉ thì điều căn bản trước hết là phải biết giúp đỡ chồng và nuôi dạy con cái. Việc làm này đòi hỏi ở người vợ một số hiểu biết nhất định về giáo dục, về dinh dưỡng, về y tế... Nếu không được trang bị và tự trang bị những kiến thức cơ bản nào đó về những mặt trên thì họ khó có thể làm tốt công việc hỗ trợ, giúp đỡ chồng và nuôi dạy con. Ví dụ, nếu như người vợ biết chọn nguồn thực phẩm hay món ăn có chất dinh dưỡng phù hợp thì điều đó đem lại sức khoẻ tốt đẹp cho chồng và cả gia đình.

Hơn thế nữa, nhờ đó gia đình có được một bầu không khí ấm cúng, vui vẻ trong đời sống. Không phải tự nhiên mà xã hội lưu tâm rất nhiều đến tài nội trợ của người phụ nữ, của người vợ. Người chồng cũng được thơm lây khi vợ có những tài năng này, nhất là trong những buổi lễ, tiệc tùng của gia đình có nhiều quan khách tham dự. Người vợ không chỉ tự mình làm tốt đẹp việc gia đình mà quan trọng hơn hết là biết tổ chức, biết sắp xếp và phân phối hợp lý công việc làm cho tất cả các thành viên trong gia đình. Họ biết yêu cầu người chồng làm điều gì, con cái giúp đỡ điều gì và cả người giúp việc (nếu có) để mọi người có thể thực hiện tốt vai trò của mình. Nhờ đó việc nhà luôn luôn ổn định tốt đẹp, khả năng tổ chức này mới là yêu cầu cần thiết nhất ở người vợ.

Phương diện thứ hai là không chỉ biết làm, có khả năng thực hiện mà người vợ còn phải biết làm đúng lúc, đúng thời. Nhờ đó công việc mới đạt hiệu quả cao hơn và việc gia đình mới có thể trôi chảy, hoàn thành. Chẳng hạn như lúc người chồng bị đau ốm mà vợ chỉ lo miệt mài với công việc hàng ngày hoặc thảo luận với chồng về tình trạng tài chánh hay than thở với chồng chuyện học hành không tốt của con cái... Tất cả những việc làm đó đều cần thiết nhưng lại thật không đúng lúc, không đúng thời. Việc thích hợp nhất lúc bấy giờ không phải là làm mà tạm gác lại tất cả mọi chuyện, nên gần gũi chăm cho sóc cho chồng. Lắm lúc trong cuộc sống, người vợ không cần làm gì cả mà vẫn thành công trong công việc gia đình. Đó là lúc chồng gặp khó khăn trong cuộc sống thì lúc đó người vợ cần dành nhiều thời gian tâm tình, động viên, nói chuyện với chồng nhiều hơn. Nhờ đó người vợ có thể hiểu thêm tâm sự của chồng và người chồng cũng cảm thấy được an ủi, được khuây khỏa, vơi đi những nỗi nhọc nhằn trong đời sống. Đó không phải là thành công của người vợ sao? Ngạn ngữ Phương Tây có câu: “Việc hôm nay chớ để ngày mai” cũng không ngoài tinh thần đúng lúc, đúng thời này.

 Phương diện thứ ba là chú trọng về đặc trưng giới tính: Người vợ không chỉ biết làm, làm đúng lúc, đúng thời mà thành công nhất của họ là tính chất đằm thắm, dịu dàng, nhẹ nhàng rõ nét trong mỗi việc làm. Đó cũng là tính cách độc quyền là thế mạnh của phái nữ, phái yếu, giúp cho họ thành công nhiều trong cuộc sống gia đình. Còn ngoài xã hội thì nhờ đó mà họ có khả năng làm dịu đi, làm vơi đi “không khí oi bức, ngột ngạt, nặng nề” của cuộc đời.

Tóm lại khi một người vợ biết làm đúng vị trí, vai trò, trách nhiệm của mình thì không khí đầm ấm gia đình luôn là nơi trú ẩn yên vui và an ổn cho chồng - con cái và phải chăng, xã hội cũng vơi đi những gánh nặng của vấn đề con không cha (hoặc không mẹ), trẻ em thất học lêu lỏng vì không có người giáo dục và những tình trạng bi đát khác có thể xảy ra... Hiện nay, người ta thường chuộng vẻ đẹp mà quên đi chiều sâu tâm hồn, chưa tìm hiểu nhau kỹ đã đi đến hôn nhân rồi gây ra những đổ vỡ thật là đáng tiếc. Ở khía cạnh này, mong rằng những người phụ nữ nên chuẩn bị cho mình đầy đủ những kiến thức trước khi làm vợ, làm mẹ để vào đời, như tục ngữ Việt Nam có câu: “Cái nết đánh chết cái đẹp”, việc chưa có hay thiếu “nết” thì tài và sắc của người vợ vẫn còn rất xa trong việc thành công ở gia đình cũng như ngoài xã hội.

Từ năm điều về bổn phận của người vợ trên đây chúng ta thấy rằng theo lời dạy của Đức Phật thì điều căn bản lớn nhất mà người vợ phải thực hiện là công việc đối nội. Đó là lãnh vực, là chức năng chính yếu của người phụ nữ - người vợ. Nếu vì một lý do nào đó mà họ phải tham gia nhiều hoạt động xã hội, gánh vác nhiều trọng trách xã hội gồm cả việc mưu sinh là chính yếu, thì đó có thể chưa phải là việc không tốt. Và hẳn nhiên là người phụ nữ như thế là có khả năng, có tài nhưng ở đây họ chỉ làm công việc của người khác mà chưa làm đúng công việc của mình mà đang làm những công việc ngoài chức năng. Như vậy thì ít nhiều gì điều đó cũng gây ra những rối loạn cho tự thân và ảnh hưởng một phần đến xã hội. Cho nên ngày xưa, dưới thời nhà Lý nước ta, Lý Chiêu Hoàng đã nhường ngôi cho Trần Cảnh (Trần Thái Tông) không phải là không có đạo lý. Và ngày nay các vị nữ nguyên thủ quốc gia như nữ hoàng, nữ thủ tướng... các phóng viên rất thường hỏi các việc liên quan đến sinh hoạt đời sống gia đình bên cạnh những câu hỏi liên hệ đến địa vị xã hội đương nhiệm của họ. Nhưng đối với các vị nam nguyên thủ quốc gia thì tình hình đó rất hiếm diễn ra. Và chúng ta cũng hiểu tại sao các vị nữ tổng thống, nữ thủ tướng không đưa chồng theo khi đi công vụ. Trái lại, các nam nguyên thủ quốc gia lại rất hãnh diện khi mang phu nhân của mình theo cùng. Một điền căn bản nữa là tất cả tấm lòng chân tình đều dành hết cho chồng. Đức tính này làm nên sự thiêng liêng trong quan hệ vợ - chồng, làm nên vẻ đẹp cao quý muôn thuở của người phụ nữ. Người vợ chính họ có trân trọng được họ hay không và đời có ca tụng họ hay không là ở đức tính này. tất nhiên chất liệu này từ ngàn xưa luôn là hương thơm cho niềm hạnh phúc lứa đôi, hạnh phúc gia đình và trên tất cả chất liệu này giúp người chồng có đủ niềm tin, nghị lực... để vượt qua những sóng gió giữa biển đời. Đó cũng là lý do tại sao con người luôn cần và luôn đi tìm một mái ấm gia đình để trở về và sống như được sống. Theo Đức Phật, thực hiện được như trên là người vợ làm đúng, làm đủ bổn phận với chồng.

2.1.2.2. Chồng đối với vợ

Trong chiều quan hệ này, đạo lý tiêu biểu nhất mà người chồng dành cho người vợ là lòng kính ái. Theo Đức Phật đó là tính chất cơ bản, cốt lõi làm nên bản sắc của một người chồng, là điểm rất đặc biệt trong giáo lý của đạo Phật. Nó bao hàm một giá trị nhân văn thật sâu sắc trong quan hệ giữa con người nói chung và người chồng đối với vợ nói riêng. Ngài dạy, người chồng có năm bổn phận, trách nhiệm đối với người vợ: “Này gia chủ tử, có năm cách người chồng phải đối xử với vợ như phương Tây: (a) kính trọng vợ, (b) không bất kính đối với vợ; (c) trung thành với vợ; (d) giao quyền hành cho vợ; (c)sắm đồ nữ trang với vợ.

 a. Kính trọng vợ

Thật là một lời tuyên bố làm chấn động tất cả các nền văn hoá, tôn giáo, đạo đức... ở phương đông cũng như phương tây ! Vì đối tượng được kính trọng luôn luôn phải là một điều gì đó hay một con người nào đó thuộc bậc trên và rất thiêng liêng, như cha mẹ với con cái hoặc như vị thánh của một tôn giáo đối với tín đồ... Sự nhấn mạnh này của Đức Phật thật có ý nghĩa biết bao khi mà thực trạng của hàng ngàn, hàng vạn người vợ, người phụ nữ vốn đã và đang bị xem nhẹ, coi khinh trong một số tôn giáo và một vài nền luân lý đạo đức trên thế giới. Ở đó họ như chiếc bóng mờ của người chồng, thậm chí chỉ là một đối tượng tiêu khiển hay công cụ của người chồng không hơn không kém. Lời dạy này của Đức Phật đã mở ra cho người vợ, người phụ nữ nói chung một chân trời cao vọng bao la. Ít ra là hàng triệu tín đồ Phật giáo trên thế giới đang trân trọng và tuân thủ lời dạy này. Nhờ đó, địa vị người vợ, người phụ nữ được thay đổi rất nhiều và rất cao góp phần hữu ích trong việc trả lại nhân phẩm cho người phụ nữ trên thế giới bị khước từ trong mấy ngàn năm qua. Cơ sở lý luận và thực tế cho việc tôn trọng người vợ, người phụ nữ và con người nói chung được tìm thấy rất rõ trong hệ thống giáo lý của đạo Phật.

b. Không bất kính đối với vợ

 Sự ghi nhận ở đây là: Ở các mối quan hệ giữa con người nói chung thì chỉ có một mối quan hệ của chồng đối với vợ là có đến hai điều khoảng đòi hỏi sự kính trọng, trân quý. Trong lúc đó, mối quan hệ của vợ đối với chồng lại không có một điều khoảng nào nhấn mạnh đến tính chất trân trọng này cả. Do đó, chúng ta có thể nói rằng, trong đạo Phật, vai trò của người vợ rất được đề cao và được tán thán rất nhiều. Người chồng không chỉ kính trọng mà còn phải giữ lễ đối với vợ. Cho nên, trong đời sống gia đình những người chồng nào muốn xây dựng, vun bồi cuộc sống hạnh phúc, đầm ấm thì phải hết sức lưu tâm đến lời dạy này của Thế Tôn. Và những người chồng là Phật tử lại càng phải giữ gìn nhiều hơn, nhất là những ai thật sự trông mong có được “một người bạn đời” xứng đáng, một quan hệ vợ- chồng sâu sắc, đơm hoa để cùng nhau đi suốt đoạn đường đời của kiếp người. Và theo Đức Phật thì ngay trong đời sống gia chủ nói chung, ai cũng có thể thực hiện được hạnh phúc đời này và cả đời sau.[13, 119].

c . Trung thành với vợ

 Người chồng không chỉ kính trọng, giữ lễ mà còn phải trung thành, thủy chung với vợ. Như chúng ta đã biết, những người chồng có đạo đức tốt, thì họ có thể rất trân trọng và giữ lễ đối với vợ. Thực tế này không phải là không có, không phải là hiếm ở xã hội Việt Nam xưa cũng như nay. Nhưng có thể về một nguyên nhân chính đáng nào đó mà họ không giữ được sự thủy chung, trung thành với vợ. Chẳng hạn như họ cần có một người con trai để nối dõi tông đường, nên phải cười thêm vợ hầu. Người chồng làm điều đó ngang qua sự đồng thuận và cho phép của người vợ lớn. Như thế, người chồng không phải là không trân trọng vợ, không phải không giữ lễ với vợ. Nhưng sự thủy chung, trung thành thì rõ ràng là không có, không được giữ gìn ở đây. Nhìn về lý, thì người chồng không sai, nhưng xét theo tình thì người vợ không thể không xót xa. Có lẽ sự yêu thương, trân trọng còn đó nhưng vẫn có cái gì không trọn giữa hai người. Còn xét về người vợ thứ ở đây thì họ có thể vui trọn một cuộc sống hạnh phúc lứa đôi như họ đang được hưởng khi mà trên họ và bên cạnh họ luôn “thừa” một người ? Hay rồi cũng than như nữ sĩ Hồ Xuân Hương: “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung...” ? Như thế không chỉ một hay hai mà cả ba người đều phải đau khổ, tạo mầm hệ lụy cho nhau. Phải chăng, để hạn chế tình cảnh: “Khóc hổ ngươi cười ra nước mắt” như vậy mà Đức Phật đã khuyên người chồng phải trung thành, thủy chung với vợ ? Nhờ đó, nỗi khổ làm người, làm vợ được giảm thiểu đến tối đa và hạnh phúc gia đình được tăng lên một mức độ nhất định. Nếu như những lời dạy trên của Đức Phật được áp dụng rộng rãi trong xã hội, thì trước hết cảnh “vũ phu” hay sự “yêu hoa”... sẽ giảm đi rất nhiều và đặc biệt là những hậu quả nhức nhối do nó gây ra cũng tan thành cát bụi, vùi sâu vào dĩ vãng. Rồi khi bớt đi một nỗi khổ là thêm được một niềm vui, và ngược lại. Tỷ lệ nghịch đó luôn là như vậy trong cuộc sống.

d.  Giao quyền hành cho vợ

Một cử chỉ, hành vi bao hàm ý vị tôn trọng và yêu quý vợ được thể hiện ở đây. Về quyền hành thực sự là chức năng “nội tướng” của người phụ nữ, của người vợ mà người chồng phải giao và nên giao cho họ để mỗi bên thực hiện chức năng của mình. Sự chuyển giao này xuất phát từ thực tế là: Người phụ nữ, người vợ do hạn chế về giới tính nên họ không nên và cũng không thể bôn ba nhiều trong việc mưu sinh hay trở thành người trụ cột về đời sống kinh tế gia đình. Thứ hai là do yêu cầu về chức năng của người vợ phải trông nom việc nhà... đặc biệt là việc sinh con và nuôi con nên họ không có nhiều thời gian và điều kiện để ra ngoài tiếp xúc, làm việc và thành đạt trong nhiều phương diện. Trái lại người đàn ông, người chồng không bị những hạn chế, những chức năng như vậy nên họ có đủ điều kiện, thời gian để thành đạt nhiều về mặt đối ngoại ở bên ngoài xã hội nói chung và kinh tế gia đình nói riêng. Từ đó, họ trở thành trụ cột, chỗ dựa cho gia đình trên mọi phương diện từ tinh thần đến vật chất, có thể nói rằng chính yếu là tài chánh. Nên “giao quyền cho vợ” cơ bản là giao vấn đề này. Chính vì thế trong các điều khoảng mà Đức Phật khuyên người vợ, Ngài dạy: “Phải biết giữ tài sản cho chồng”. Hơn nữa, khi người chồng là trụ cột gia đình trong nhiều lãnh vực, thì họ rất dễ bị rơi vào hai tình trạng không hay: Tính “gia trưởng” và thái độ “ban ơn”. Đó là căn bệnh rất dễ phát sinh nơi một người khi trở thành chỗ dựa, hay người chủ của gia đình.

Một điều nữa là, khi người chồng nắm toàn bộ kinh tế, tài chánh họ rất dễ hoang phí và có cơ sở để hoang phí. Vì thế “giao quyền hành cho vợ” một mặt là biểu lộ lòng yêu quý đối với vợ và mặt khác là hạn chế những sai lầm trên đây có thể xảy ra. Qua đây, chúng ta thấy rằng nếu người chồng có ưu thế về “đối ngoại”, thì người vợ lại có ưu thế về “đối nội”. Được như vậy quả thật là “trong ấm ngoài êm” trọn vẹn và chu toàn !

d. Sắm đồ nữ trang cho vợ

 Xưa nay đạo Phật vẫn được coi là lánh đời, tỵ thế... thì lời dạy này cho thấy Đức Phật quan tâm đến cuộc đời tinh tế biết bao! Điều thứ năm này mang tính chất hoàn toàn khác hẳn với 4 điều trước đó. Nếu như bốn điều trên là nói lên “chữ Lễ” trong quan hệ vợ chồng và sự phân công trách nhiệm trong gia đình, thì điều thứ năm còn lại hoàn toàn mang ý nghĩa tình cảm, thấm đậm tình người. Người chồng không chỉ giữ lễ với vợ mà còn thực hiện vai trò nuôi dưỡng tình cảm vợ chồng, tình cảm lứa đôi. Việc làm này là một cử chỉ rất tiêu biểu, một chất liệu tốt nhất để nuôi dưỡng tình cảm, bày tỏ sự quan tâm, yêu thương. Nhờ đó, tình cảm lứa đôi, tình yêu của hai người được ấm êm, hạnh phúc. Chúng ta thử nghĩ xem: Trong một buổi chiều cuối tuần hay cuối tháng nào đó, người chồng đi làm về và hân hoan mang tặng cho vợ một món quà xinh xắn. Người vợ đón nhận món quà đó, thì trong lòng họ sẽ cảm nhận ra sao khi biết rằng người chồng dù bận rộn việc mưu sinh, vẫn luôn nghĩ đến họ và quan tâm đến họ ! Người vợ có cảm động và vui lòng không nhỉ?! Người viết thực sự rất ngạc nhiên khi thấy Đức Phật lại có thể dạy những lời tinh tế, thiết thân đến như vậy.

Tuy nhiên thực trạng khá phổ biến hiện nay của nhiều cặp vợ chồng lại thiếu vắng hay không còn tình yêu sau hôn nhân. Vì sau khi nên vợ nên chồng, họ bận rộn với cuộc sống mới, hàng loạt trách nhiệm được đặt ra cho cả hai người. Một mặt là dấn thân vào đời sống mưu sinh vốn dĩ rất vất vả không dễ gì thành công. Việc kiếm sống làm cho họ chịu nhiều lao nhọc. Bên cạnh đó họ còn phải gánh vác các trách nhiệm, bổn phận khác của đại gia đình như cha mẹ (của chồng, của vợ). Nhìn bên ngoài, vợ chồng tất nhiên cùng sống, cùng lo cho một gia đình nhưng lại như xa. Từ đó tình cảm hay tình yêu giữa hai người bị lãng quên, phai nhạt hay thiếu sự chăm sóc, nếu không muốn nói là không còn nữa. Đồng thời trong cuộc sống hàng ngày cạnh nhau mà không khéo cũng có thể là yếu tố làm cho tình cảm bay khỏi tầm tay. Để vượt qua thực trạng này hay giữ mãi được tình cảm lứa đôi, người viết nghĩ rằng lời dạy hay lời khuyên của Đức Phật thật rất nhiều hữu ích cho việc duy trì hạnh phúc lứa đôi. Đặc biệt là vai trò của người chồng lại càng phải lưu tâm nhiều hơn đến lời khuyên này của Ngài: “Sắm đồ nữ trang cho vợ”. Thực hiện đầy đủ năm bổn phận, trách nhiệm như trên là người chồng xây dựng tốt mối tương giao đối với vợ, là làm tròn bổn phận. Nhờ đó, người chồng đã góp phần vun đắp thêm cho sự đầm ấm, hạnh phúc gia đình.

  Từ năm bổn phận trên, chúng ta thấy rằng trong quan hệ với người vợ thì điều thiết yếu nhất mà người chồng phải thực hiện là sự tôn trọng, giữ lễ. Có thể nói rằng đó là bổn phận, trách nhiệm căn bản nhất của người chồng. Điều căn bản tiếp theo mà người chồng phải cư xử với vợ là “nuôi dưỡng” tình cảm. Tính chất quan hệ như vậy quả thật là hiện đại, mới mẻ. Giống như Đức Phật dạy lời dạy này để dành riêng cho quan hệ vợ chồng ở thế kỷ hôm nay.

Tiểu kết:

Như trên đã nêu, Đức Phật khuyên người chồng có năm bổn phận đối với vợ và ngược lại người vợ cũng có năm bổn phận đối với chồng. Mỗi cương vị có năm điều khoảng như vậy đã được Đức Phật sắp đặt theo một trật tự nhất định trước sau, sự liên hệ chặt chẽ trong từng điều một không phải là ngẫu nhiên mà có một dụng ý hết sức tinh tế, từng vấn đề tương ứng nhau, cho ta thấy sự cân bằng trong đời sống giữa hai người, và tạo ra một đạo luật mà chúng ta có thể gọi đó là đạo phu thê, là đạo vợ chồng theo quan điểm của Phật giáo. Nếu cả hai bên thực hiện tốt đẹp bổn phận trách nhiệm của mình, thì mối quan hệ giữa vợ chồng sẽ trổ hoa an lạc, hạnh phúc gia đình đầm ấm, vui tươi. Đức Phật gọi điều đó là: “Phương tây được che chở, trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi”. Ngược lại, nếu vợ chồng không được “trong ấm, ngoài êm”, thì điều đó không chỉ người đương cuộc khổ đau mà có gây ra cho xã hội biết bao cảnh đau lòng, xót xa, nhất là con cái của họ. Trong một cuộc điều tra mới đây từ thành phố hồ Chí Minh về nguyên nhân của trẻ em vị thành niên phạm pháp, luật sư Trương Thị Hòa cho biết nguyên nhân từ sự bất hòa... của cha mẹ, của gia đình chiếm tỷ lệ rất lớn. Bà cho biết tiếp là có một số em sau khi chịu hình phạt xong tiếp tục đi lang thang mà không muốn về nhà. Vì các em không muốn thấy cảnh cha mẹ bất hòa...[14, 6]. Do tính chất nghiêm trọng của tai hại, người viết rất mong đạo phu thê mà Đức Phật đã dạy rất hữu ích cho đời, cho xã hội, nhất là các bậc cha mẹ.

Một điều có ý nghĩa nữa là, đạo phu thê theo quan điểm của Phật giáo rất khác với đạo phu thê theo quan điểm của Nho giáo. Điểm khác biệt cơ bản là: Với đạo Phật, thì trước hết và trên hết là người chồng luôn kính trọng vợ. Trong khi đó, Nho giáo giới thiệu một chuẩn mực quan hệ vợ chồng ngược lại, theo thuyết Tam Cương: “Phu vi thê cương” Nghĩa là người vợ tuyệt đối phục tùng chồng. Chuẩn mực quan hệ này mở đường cho việc tôn vinh người chồng nói riêng và vị trí người đàn ông nói chung trong xã hội. Người vợ phải luôn là: “Phu xướng phụ tùy” và người phụ nữ phải tuân thủ Tam Tòng: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” Người vợ, người phụ nữ luôn là cái bóng của người chồng. Nói như dân gian “Chồng chúa vợ tôi”. Đạo lý Nho giáo như vậy, dù một thời là “Khuôn vàng thước ngọc” ở nước ta, nhưng hiện nay đã qua đi thời vàng son đó. Không những thế mà đạo lý này còn bị lên án rất nặng và bị xem là quá lỗi thời, phi nhân bản. Giáo sư tiến sĩ Trần Ngọc Thêm cũng nhận xét cách quan hệ như thế là: “Loại bỏ hạt nhân dân chủ”[19, 514]. Đến lượt tính chất dân chủ trong nền văn hoá phương Tây đã và đang là mẫu mực trong các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ vợ chồng nói riêng. “Tư tưởng dân chủ” thế chỗ cho quan niệm: “Phu vi thê cương” và đưa địa vị người phụ nữ bình đẳng với nam giới và người vợ ngang hàng với chồng. Có thể nói rằng tư tưởng dân chủ là nét tiến bộ đặc trưng của thế giới hiện nay và của xã hội Việt Nam chúng ta.

Nếu xét trong các mối quan hệ xã hội nói chung thì tư tưởng đó rất đáng tự hào. Nhưng nếu xét riêng trong quan hệ vợ chồng thì vẫn nghe có cái gì đó là lạ đối với truyền thống dân tộc. Ngay trong xã hội Việt Nam chúng ta hiện nay, những người vợ có học thức, đạo đức và có tư cách, họ có thể cảm thấy tự hào, vinh dự khi được xã hội ca tụng là vì bình đẳng với chồng, là ngang hàng với chồng không nhỉ ? Và tại sao các cô gái hiện nay vẫn luôn ao ước lựa chọn một tấm chồng hơn mình “một cái đầu”, điều này nói lên ý nghĩa về khả năng, sự hiểu biết của người chồng, làm điểm tựa tinh thần và cuộc sống cho người phụ nữ rất quan trọng mà ai trong chúng ta cũng không thể phủ nhận được. Như thế, cái cũ thì đã sang trang, còn cái mới vẫn chưa phải phù hợp với người Việt Nam cho lắm. Trong bối cảnh đó, người viết mong rằng, đạo phu thê mà Đức Phật giới thiệu trên đây sẽ góp phần không nhỏ cho việc xây dựng một chuẩn mực, một đạo lý vợ chồng của người Việt Nam, cho người Việt Nam trong thời đại mới. Một đạo lý vợ chồng đậm đà tính dân tộc, phù hợp với đà tiến bộ trên thế giới. 

2.2. Ý nghĩa của các mối quan hệ ngoài xã hội

Trong xã hội có nhiều mối quan hệ khác nhau, rất đa dạng và phong phú. Ở đây người viết căn cứ trên những lời dạy của Đức Phật làm điểm xuất phát để phân chia các mối quan hệ xã hội như:quan hệ thầy – trò, thứ hai là quan hệ bạn bè, thứ ba là quan hệ chủ - tớ, và thứ tư là quan hệ xuất gia- tại gia. Sự phân chia như thế cũng có tính tương đối mà thôi. Chủ yếu người viết là nhằm giới thiệu trong mỗi mối quan hệ như thế, Đức Phật khuyến khích mỗi bên cần thực hiện những gì để cho mối quan hệ đó được tốt đẹp thăng hoa, ít ra là theo cách nhìn của Đức Phật. Như đã nói ở phần giới hạn của đề tài, người viết chỉ trình bày mối quan hệ giữa nhữ vị xuất gia – tại gia

2.2.1. Quan hệ giữa tại gia – xuất gia

  Có thể nói rằng, hầu hết các dân tộc trên thế giới đều có tôn giáo và mỗi tôn giáo đều có những đặc trưng khác nhau tùy lúc, tùy nơi và tùy theo từng tôn giáo cụ thể. Nhưng chức năng và vai trò chung nhất của các tôn giáo là làm nơi nương tựa về tinh thần tâm linh, làm chuẩn mực về luân lý, đạo đức... cho người tín đồ, người dân. Các tôn giáo có thể còn có những chức năng vai trò đặc trưng khác nữa. Cho dù khác nhau hay đồng nhất thì tôn giáo vẫn là một nhu cầu rất cần thiết cho người tín đồ, hay cư sĩ và người dân nói chung từ thời tiền sử cho đến thời hiện đại hôm nay. Từ thực tế đó, Đức Phật khuyên các vị tu sĩ của các tôn giáo nói chung cần thực hiện năm điều đối với tín đồ, với người dân. Tóm lại, Ngài cũng khuyến khích các tín đồ, người dân thực hiện năm điều đối với các vị tu sĩ. Và Đức Phật dạy rằng nếu mỗi bên, Tu sĩ - Cư sĩ, thực hiện theo năm điều mà Ngài chỉ dẫn, thì cả đôi bên đều làm tròn bổn phận trách nhiệm của mình. Và mối quan hệ giữa Tu sĩ - Cư sĩ sẽ trở nên tốt đẹp, hoàn thiện.

2.2.1.1. Tu Sĩ Đối Với Cư Sĩ (Tín Đồ)

  Trong chiều quan hệ này, Đức Phật khuyên các tu sĩ cần thực hiện trách nhận của mình thông qua năm điều. Ngày dạy: “Này gia chủ tử,... Các vị sa môn, bà la môn. có lòng thương vị thiện nam tử theo năm cách sau đây: (a) Ngăn họ làm điền ái ;(b) khuyến khích họ làm điều thiện; (c) thương xót họ với tâm từ bi, dạy họ những điều chưa nghe; (d) làm cho thanh tịnh những điều được nghe; (e) chỉ bày con đường đưa đến cõi trời”. Có thể nói rằng, tôn giáo có tác dụng và ảnh hưởng rất lớn đối với tín đồ cũng như xã hội trên nhiều phương diện. Vì vậy, họ phải làm như thế nào đó để tác dụng, ảnh hưởng tốt đẹp đến cho tín đồ và xã hội.

a.  Ngăn họ làm điều ác

Như chúng ta đã biết, sự đấu tranh lớn nhất của loài người từ xưa tới nay là nhằm loại trừ cái ác, cái bất thiện trong chính mỗi người và trong toàn xã hội. Đó là ranh giới chia hai giữa người tốt và người xấu, thậm chiù là giữa người với những gì không phải là người. Cuộc chiến muôn thuở này trước hết, và trên hết là trọng tâm, là trách nhiệm hàng đầu của các tu sĩ. Họ phải tìm mọi cách để ngăn chặn cái ác xảy ra. Cho nên khi nào cái bất thiện còn nhởn nhơ, còn tồn tại giữa tín đồ nói riêng và giữa xã hội nói chung thì các tôn giáo, các tu sĩ còn trách nhiệm, còn bổn phận. Đó là điều mà các tôn giáo, các tu sĩ không thể không quan tâm một cách sâu sắc nhất. Một điểm nữa cần phải nêu là tiêu chuẩn để đánh giá cái ác, cái bất thiện. Đây là một vấn đề hết sức tinh tế, nó tùy thuộc vào quan điểm đạo đức của mỗi tôn giáo. Người viết xin đưa ra một tiêu chuẩn về cái ác theo tinh thần của đạo Phật: Điều ác là điều hại mình, hại người, hại cả hai trong hiện tại và tương lai. Đó là tiêu chuẩn để đánh giá một hành vi, một lời nói, ý nghĩa ác, bất thiện theo quan điểm của Đạo Phật.

b. Khuyến khích họ làm điều thiện

 Người tu không chỉ ngăn chặn tín đồ và người dân làm việc ác mà họ còn phải động viên khuyến khích tất cả mọi người tích cực làm việc thiện, hữu ích. Nỗ lực đó cũng là một cách hiệu quả nhất để ngăn ngừa cái ác xẩy ra. Nó là mục đích cao đẹp mà nhân sinh từ xưa đến nay hướng đến. Mọi nỗ lực của con người dù âm thầm hay công khai đều nhằm bênh vực cho cái thiện, cho điều tốt đẹp được tồn tại, thăng hoa giữa cuộc đời. Đôi lúc họ hy sinh không phải nhỏ, thậm chí là cả sinh mạng cho đồng loại, cho người thân được sống thiện lương, được sinh tồn với cái thiện. Nhân cách cao quý của con người tùy thuộc chủ yếu vào giá trị phẩm chất này. Đó là lý do tại sao các tôn giáo được cuộc đời kính trọng và sự tồn tại của họ có ý nghĩa thực sự đối với con người là ở chức năng khuyến thiện này. Khi nào con người cần cái thiện, cần được khuyến khích làm điều thiện, thì khi đó tôn giáo vẫn còn có giá trị, tác dụng để tồn tại. Và một khi, các tu sĩ chưa làm cho cái thiện, hữu ích tồn tại, thăng hoa giữa cuộc đời, thì sự có mặt của họ mất đi ý nghĩa và giá trị. Nói khác đi, cái hữu ích cho con người chưa có mặt trọn vẹn, thì mục tiêu phấn đấu của người tu sĩ vẫn còn phía trước, và tiêu chuẩn đánh giá điều thiện cũng như điều ác, tùy thuộc vào quan điểm của mỗi tôn giáo và nhiều lý do khác nhau. Ở đây, người viết xin nêu cái thiện theo quan điểm của Đạo Phật. Với Đức Phật, tất cả lời nói, ý nghĩ, hành động đem lại lợi ích cho mình, cho người, cho cả hai trong hiện tại và tương lai là thiện, là tốt đẹp. Dĩ nhiên đây là quan điểm riêng của Đạo Phật được nêu ra để tham khảo, suy nghiệm.

c. Thương xót họ với tâm từ bi

 Người viết nghĩ rằng, đây là tiêu chí rất có ý nghĩa. Các tu sĩ của các tôn giáo thực hiện việc ngăn chận tín đồ làm ác, khuyến khích họ làm thiện hay làm cho họ bất cứ điều gì không ngoài động cơ duy nhất là vì thương họ, có từ tâm đối với họ. Cho nên việc làm của người tu sĩ nếu không xuất phát từ động cơ này, thì mọi việc đều cần phải xét lại. Cho dù họ nhân danh điều gì, ngay cả việc làm gọi là ngăn điều ác, khuyến khích làm điều thiện. Nói khác đi, bất cứ một việc làm nào đem lại cho tín đồ sự đau khổ về thân và tâm đều nằm ngoài quỹ đạo của tôn giáo, đều không phải xuất phát từ lòng thương thật sự của người tu sĩ. Trái lại khi họ làm một điều gì đó có ích cho tín đồ, cho cuộc đời, từ tình thương thật sự, thì dù không nhân danh gì cả vẫn chân chính là hành vi của người tu sĩ. Đây là một tiêu chí đáng được trân trọng.

d. Dạy họ những điều chưa nghe và làm cho thanh tịnh điều đã được nghe.

 Có thể nói rằng, đây là điều làm cho đạo với đời có một cái gì đó dị biệt, bất đồng bên cạnh sự đồng nhất, hổ tương. Như chúng ta đã biết, các tôn giáo nói chung đều có chức năng hướng dẫn người tín đồ làm tròn trách nhiệm, bổn phận của họ đối với tự thân, gia đình và xã hội. Làm thế nào để người tín đồ có thể đạt được điều tốt đẹp, an vui nhất trong cuộc sống đời thường, ngay nơi địa vị hay vai trò mà họ đang gánh vác là mục đích không thể thiếu được của các tôn giáo. Bên cạnh đó, tôn giáo hay đạo còn phải chỉ dẫn cho người tín đồ một điều gì đó vượt lên trên đời thường hay đạo, thuần túy về tôn giáo. Đó là vai trò sau cùng của tôn giáo. Nếu không như thế người ta không có lý do gì để phân hai đạo và đời khác biệt. Và một khi người tu sĩ giới thiệu điều vượt lên trên cuộc đời như vậy gọi là nói cho tín đồ những điều mà họ chưa được nghe. Chẳng hạn như trong đạo Phật, sau khi giảng về bố thí, giữ giới ( không làm điều ác, làm tất cả hạnh lành... ) và quả báo tốt đẹp của bố thí..., Đức Phật mới giới thiệu con đường thoát ly sanh tử hoàn toàn. Đó là Tứ Thánh Đế hay Đạo Đế. Tất nhiên cái gọi là “dạy cho họ điều chưa nghe” tùy thuộc vào quan điểm riêng của từng tôn giáo. Nhưng cốt lõi là người tu sĩ phải giảng dạy cho tín đồ nghe điều đó. Sau khi nói cho họ điều vượt lên trên cuộc đời, thì việc tiếp theo mà người tu sĩ phải thực hiện là:

e. Làm cho thanh tịnh điều đã được nghe

Nói khác đi. Khi người tu sĩ giới thiệu đạo cho tín đồ không phải là để nghe chuyện lạ, hay nghe để chỉ mà nghe. Cơ bản là khiến cho họ khởi lòng tin và thực hành áp dụng. Như trong đạo Phật mỗi khi ngài thuyết giảng cho ngoại đạo hay người đời ; sau khi nghe xong họ bỏ tà quy chánh, xuất gia học Đạo và nguyện thọ trì giới pháp thanh tịnh đã được nghe. Đó gọi là “Làm cho thanh tịnh điều đã được nghe” mà người tu sĩ phải thực hiện cho được yêu cầu này. Và điều vượt lên trên cuộc đời, hay giảng đạo theo yêu cầu cụ thể ở đây là gì? Đó là: “Chỉ bày con đường đưa đến cõi trời”, hay con đường sinh thiên, cũng chính là bổn phận thứ năm của người tu sĩ phải làm cho người tín đồ. Theo Đức Phật, đó là mục đích chung nhất mà các tôn giáo phải đảm trách và thực hiện. Cũng có thể có tôn giáo không chỉ nhằm mục đích giới thiệu con đường sinh thiên mà còn hướng tín đồ đến mục đích hơn nữa như đạo Phật chẳng hạn. Và phương thức để thực hiện con đường sinh thiên là tùy theo quan điểm của mỗi tôn giáo. Với Đạo Phật, Ngài giảng dạy con đường sinh thiên rất kỳ diệu: Ngay trong cuộc sống của một người vợ, người phụ nữ có thể thực hiện con đường sinh thiên, con đường đưa đến cõi trời, như Kinh Tăng Chi đã nêu:

 “Khéo làm các công việc,
Thân thiếp người phục vụ
Sở hành vừa ý chồng 
Giữ gìn của cất chứa,
Đầy đủ tín và giới, 
Bố thí, không xan tham,
Rửa sạch đường nội tâm,
Đến đời sau an lành.
Như vậy là tám pháp, 
Nữ nhân có đầy đủ,
Được gọi bậc có giới, 
Trú pháp nói chân thật,
Đủ 16 hành tướng, 
Thành tựu tám chi phần,
Nữ cư sĩ như vậy, 
Với giới hạnh đầy đủ,
Sanh làm vị Thiên nữ, 
Với thân thật khả ái
[13, 111].

Đức Phật còn giới thiệu con đường sinh thiên cao hơn nữa: Đó là một người thực hiện đủ bốn pháp: Tín, Thí, Giới và Tuệ [13,123], thì chắc họ được sinh vào cảnh giới chư thiên, an lạc. khi người tu sĩ thực hiện được năm điều trên đây là họ làm tròn trách nhiệm của mình đối với tín đồ và cuộc đời nói chung.

Từ năm bổn phận trên đây, chúng ta thấy rằng, theo Đức Phật, một tôn giáo hay tu sĩ đúng nghĩa của nó là thực hiện việc loại trừ cái xấu ác để cho cái thiện, vươn lên trong cuộc sống. Bên cạnh đó còn giới thiệu cho tín đồ nói riêng và cuộc sống nói chung những điều gì cần phải làm để đạt được an lạc hạnh phúc trong đời sau hay được sanh lên thiên giới. Như thế, trách nhiệm cốt cõi của tôn giáo là chăm lo hạnh phúc cho con người ở đời nay và cả đời sau. Đó là trọng trách thiêng liêng của tôn giáo. Hay nói như Đức Phật là: “Ta ra đời vì hạnh phúc cho số đông, vì an lạc, vì lợi ích cho chư thiên và loài người”. Nói khác đi, tôn giáo tồn tại không phải để chăm lo cho mình mà để chăm lo cho đời. Nếu tôn giáo chưa thực hiện được hay không thực hiện được như vậy thì vai trò của người tu sĩ sẽ có ý nghĩa gì ?! Tuy nhiên, trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã có một số tôn giáo mà sau bước đi của họ hay nơi họ đến đã để lại nỗi đau cho đời, thậm chí là cả sinh mạng của tín đồ và người dân. Tôn giáo đã không tạo ra an lạc cho đời mà còn gây tai hoạ cho đời. Thật là một cảnh thương tâm !

2.2.1.2. Tín đồ đối với tu sĩ

Trong chiều quan hệ này người tín đồ cũng có năm bổn phận đối với giới tu sĩ. Theo Đức Phật thì năm bổn phận đó là: “Này Gia chủ tử, có năm cách vị thiện nam tử đối xử với các Sa môn, Bà la môn như phương trên (a) Có lòng từ trong hành động về thân; (b) có lòng từ trong hành động về khẩu; (c) có lòng từ trong hành động về ý; (d) mở rộng cửa để đón các vị ấy; (e) cúng dường các vị ấy các vật dụng cần thiết”. Đó là tất cả những gì gọi là bổn phận của người tín đồ đối với tôn giáo của họ.

a. Có lòng từ trong hành động về thân

Đức Phật cho rằng hoạt động của con người được chia thành ba loại mà hành động về thân là loại thứ nhất. Hành động tiêu biểu hơn hết là sự đối xử, cử chỉ, hành động... phải xuất phát từ lòng từ, tình thương, sự kính trọng... Người tín đồ phải đối xử tốt với người tu sĩ. Sự đối xử tốt đó được thực hiện ngang qua hành động của thân, theo đạo Phật có thể hiểu là người Tín đồ không được sát hại người tu sĩ, không được trộm tài sản của họ và không được làm tà hạnh đối với họ.Tóm lại, ngang qua hành động của thân, người tín đồ biểu lộ, bày tỏ lòng từ của họ đối với người tu sĩ.

b. Có lòng từ trong hoạt động về lời

Lời nói là loại hoạt động thứ hai của con người. Ngang qua lời nói người tín đồ biểu lộ lòng từ, sự trân trọng của họ đối với người tu sĩ. Lòng từ thể hiện thông qua lời nói có thể hiểu như Đạo Phật giải thích: Không nói dối, không nói lời độc ác, không nói lời phù phiếm, và không nói lời thêu dệt đối với vị tu sĩ. Cho nên tất cả những lời nói có hại cho người tu, kể cả sách vở, báo chí... đều không nên làm đối với người tu.

c.  Có lòng từ trong hoạt động về ý

Là loại hoạt động chủ yếu của mỗi người, tức là ý hay tâm ý. Người tín đồ phải có ý nghĩ, tâm niệm tốt, thiện lành đối với người tu sĩ, có tâm kính trọng, thương mến họ. Nói theo Đạo Phật là không khởi tâm tham lam bất cứ điều gì của người tu sĩ, của tôn giáo, không có tâm sân hận, độc ác với họ và không có si hay ngu muội đối với tu sĩ.

d. Mở rộng cửa để đón các vị ấy

 Ngoài việc đối xử tốt với người tu sĩ ngang qua hành động, lời nói, ý nghĩ, người tín đồ còn đón tiếp họ một cách hoan hỷ, trân trọng mỗi khi họ đến. Sự đón tiếp như vậy cho thấy, người tín đồ xem người tu sĩ như người thân, như một điều tốt lành. Nên những lúc họ đến đều mở rộng cửa để đón chào. Điều này cũng biểu lộ thái độ trân trọng đối với tu sĩ nói riêng và tôn giáo nói chung. Ngoài việc mở rộng cửa để đón chào mỗi chi người tu sĩ đến, người tín đồ còn thể hiện bổn phận của họ là

e. Cúng dường các vị ấy các vật dụng cần thiết.

Đó là bổn phận thứ năm của người tín đồ. Những vật dụng cần thiết ở đây theo đạo Phật có bốn loại: Thức ăn, y phục, y dược và sàng tọa . Tựu trung, tất cả những gì thuộc về vật chất của người tu sĩ đều do sự giúp đỡ, cung cấp của người cư sĩ, tín đồ. Điều này cho thấy rằng sự gắn bó thiết thân giữa đạo và đời là rất lớn, rất mật thiết. Nếu như đạo, hay tôn giáo, tu sĩ không thể hiện được vai trò hữu ích, tốt đẹp cho đời, thì trở thành gánh nặng cho đời, ít ra là về mặt kinh tế. Cũng chính vì vậy mà có lúc, có nơi xã hội đã không phải không có lời đám tiếu đối với tôn giáo, tu sĩ. Nhưng tại sao người tu sĩ lại cần sự giúp đỡ, ủng hộ đó? Một điều dễ hiểâu là, nếu các tu sĩ cũng lao vào cuộc mưu sinh bận rộn với nhiều trách nhiệm gia đình, xã hội... Thì họ không có đủ thời gian để chiêm nghiệm trần tư, và thấy rõ con đường tốt đẹp, hữu ích về tâm linh, tinh thần để giới thiệu cho tín đồ, cho đời. Và họ sẽ không thể làm tròn trách nhiệm tôn giáo của họ. Để cho làm tròn trách nhiệm tôn giáo, không gì tốt hơn là tạo cho họ có cơ hội toàn tâm, toàn ý với mục đích cao cả của tôn giáo. Thực ra, người tu sĩ được giúp đỡ mọi mặt là điểm mạnh của họ, chứ không phải là điểm yếu của tôn giáo. Trái lại, nếu họ làm được tất cả để chu toàn về vật chất mới là điều không mấy tốt lành! Tóm lại, người tín đồ đối với tu sĩ, tôn giáo phải có lòng kính trọng thương mến và trên hết là hỗ trợ cho họ về đời sống vật chất. Thực hiện được như thế là người tín đồ làm tròn bổn phận của mình đối với đạo, đối với tôn giáo.

Tiểu kết:

Từ mối quan hệ tu sĩ - cư sĩ trên đây chúng ta có thể nhận xét rằng, tu sĩ hay tôn giáo phải thực sự đóng góp hữu ích cho tín đồ, cho cuộc đời về phương diện tâm linh, đạo đức. Và tín đồ phải hỗ trợ tôn giáo, tu sĩ về phương tiện vật chất đó một sự hỗ tương hữu ích. Thứ hai là không có một điều lợi ích tốt đẹp nào cho đời mà không phải là mục đích của tôn giáo. Nói khác đi, tôn giáo tồn tại chỉ duy nhất vì lợi ích cho cuộc đời. Trái lại những hỗ trợ của cuộc đời dành cho đạo thật sự có ích cho đời nhiều hơn, nếu không muốn nói là tự giúp. Cho nên làm hại cho đạo mà thật sự là làm tổn thương cho đời và tự hại. Thứ ba là đạo và đời như hai mặt của một thực thể thống nhất. Đúng ra là hai phần của một con người không hơn, không kém. Cuối cùng là trong quan hệ đạo-đời, tu sĩ-cư sĩ cho thấy rằng, sự cầu xin hay ban ân là một điều khá xa lạ trong tôn giáo, ít ra là theo quan điểm mà Đức Phật đã nêu ra trên đây.

Một vấn đề có tính chất lịch sử dân tộc mà người viết muốn nêu ở đây là: dân tộc chúng ta rất có lòng bao dung đối với các tôn giáo khi họ đến quê hương này, như Phật, Lão, Nho; kể cả Thiên Chúa Giáo và một số đạo giáo khác. Nói như Đức Phật là chúng ta: “Mở rộng cửa để đón các vị ấy”. Như Lê Anh Dũng đã nhận xét: “Qua bốn triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần hoàn cảnh lịch sử đã làm cho Việt Nam trở thành mảnh đất tốt để Tam giáo ( Nho, Thích, Lão ) lớn mạnh trong lòng bao dung của Việt Nam”. Nói khác đi là dân tộc Việt Nam đã làm tròn bổn phận đối với tôn giáo. Trái lại, tôn giáo cũng từng làm tròn trách nhiệm của họ đối với dân tộc rõ nét nhất là dưới thời Lý, thời Trần. Đặc biệt là Phật giáo đã từng là cốt lõi cho mọi phát triển xã hội lúc bấy giờ trong cả hai triều đại nhà Lý và nhà Trần. Và chỉ duy nhất hai triều đại đó là phú cường nhất, là thời đại vàng son nhất trong suốt thời kỳ phong kiến Việt Nam. Ngày nay người viết cũng hy vọng rằng, tôn giáo và dân tộc chúng ta cũng sẽ làm được những gì vẻ vang, phú cường cho quê hương Việt Nam như đã từng có trong lịch sử nước nhà.

*

PHẦN 3:  KẾT LUẬN

1. Khi được nghe vậy, Singàlaka, gia chủ tử bạch Thế Tôn: "Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Bạch Thế Tôn, nay con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và chúng Tỷ-kheo. Mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử, từ này trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.

2. Qua những gì vừa được trình bày trên, đạo hiếu của Phật giáo bao gồm đạo làm cha mẹ và đạo làm con cái. Năm nguyên tắc đạo đức của đạo làm cha mẹ và năm nguyên tắc đạo đức của đạo làm con trong kinh Thiện Sanh có thể được xem là những chuẩn mực, khuôn vàng thước ngọc cho các mối quan hệ của cha mẹ và con cái trong một xã hội tiến bộ và văn minh. Người viết nghĩ rằng đạo hiếu tích cực và toàn diện như vậy nên được đưa vào giảng dạy trong các cấp bậc của học đường để phục hưng và chấn chỉnh một nền đạo đức bị suy thoái hiện nay, do thiếu ánh sáng từ bi và trí tuệ của đạo Phật.

Nếu năm nguyên tắc đạo làm cha mẹ nên được phổ biến rộng rãi trong các hội bô lão và các hội phụ huynh thì năm nguyên tắc đạo làm con nên được truyền bá trong các câu lạc bộ thanh thiếu niên, trong các hội đoàn sinh viên học sinh, để các bậc làm cha mẹ xứng đáng là cha mẹ và để các người con xứng đáng là những người con.

2. Bên cạnh đó, trong mối quan hệ vợ – chồng, Đức Phật khuyên người chồng có năm bổn phận đối với vợ và ngược lại người vợ cũng có năm bổn phận đối với chồng. Mỗi cương vị có năm điều khoảng như vậy đã được Đức Phật sắp đặt theo một trật tự nhất định trước sau, sự liên hệ chặt chẽ trong từng điều một không phải là ngẫu nhiên mà có một dụng ý hết sức tinh tế, từng vấn đề tương ứng nhau, cho ta thấy sự cân bằng trong đời sống giữa hai người, và tạo ra một đạo luật mà chúng ta có thể gọi đó là đạo phu thê, là đạo vợ chồng theo quan điểm của Phật giáo. Nếu cả hai bên thực hiện tốt đẹp bổn phận trách nhiệm của mình, thì mối quan hệ giữa vợ chồng sẽ trổ hoa an lạc, hạnh phúc gia đình đầm ấm, vui tươi. Đức Phật gọi điều đó là: “Phương tây được che chở, trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi”. Ngược lại, nếu vợ chồng không được “trong ấm, ngoài êm”, thì điều đó không chỉ người đương cuộc khổ đau mà có gây ra cho xã hội biết bao cảnh đau lòng, xót xa, nhất là con cái của họ.

Ngay trong xã hội Việt Nam chúng ta hiện nay, những người vợ có học thức, đạo đức và có tư cách, họ có thể cảm thấy tự hào, vinh dự khi được xã hội ca tụng là vì bình đẳng với chồng, là ngang hàng với chồng không nhỉ ? Và tại sao các cô gái hiện nay vẫn luôn ao ước lựa chọn một tấm chồng hơn mình “một cái đầu”, điều này nói lên ý nghĩa về khả năng, sự hiểu biết của người chồng, làm điểm tựa tinh thần và cuộc sống cho người phụ nữ rất quan trọng mà ai trong chúng ta cũng không thể phủ nhận được. Như thế, cái cũ thì đã sang trang, còn cái mới vẫn chưa phải phù hợp với người Việt Nam cho lắm. Trong bối cảnh đó, người viết mong rằng, đạo phu thê mà Đức Phật giới thiệu trên đây sẽ góp phần không nhỏ cho việc xây dựng một chuẩn mực, một đạo lý vợ chồng của người Việt Nam, cho người Việt Nam trong thời đại mới. Một đạo lý vợ chồng đậm đà tính dân tộc, phù hợp với đà tiến bộ trên thế giới.

4. Từ mối quan hệ tu sĩ - cư sĩ trên đây chúng ta có thể nhận xét rằng, tu sĩ hay tôn giáo phải thực sự đóng góp hữu ích cho tín đồ, cho cuộc đời về phương diện tâm linh, đạo đức. Và tín đồ phải hỗ trợ tôn giáo, tu sĩ về phương tiện vật chất đó một sự hỗ tương hữu ích. Thứ hai là không có một điều lợi ích tốt đẹp nào cho đời mà không phải là mục đích của tôn giáo. Nói khác đi, tôn giáo tồn tại chỉ duy nhất vì lợi ích cho cuộc đời. Trái lại những hỗ trợ của cuộc đời dành cho đạo thật sự có ích cho đời nhiều hơn, nếu không muốn nói là tự giúp. Cho nên làm hại cho đạo mà thật sự là làm tổn thương cho đời và tự hại. Thứ ba là đạo và đời như hai mặt của một thực thể thống nhất. Đúng ra là hai phần của một con người không hơn, không kém. Cuối cùng là trong quan hệ đạo-đời, tu sĩ-cư sĩ cho thấy rằng, sự cầu xin hay ban ân là một điều khá xa lạ trong tôn giáo, ít ra là theo quan điểm mà Đức Phật đã nêu ra trên đây.

Một vấn đề có tính chất lịch sử dân tộc mà người viết muốn nêu ở đây là: dân tộc chúng ta rất có lòng bao dung đối với các tôn giáo khi họ đến quê hương này, như Phật, Lão, Nho; kể cả Thiên Chúa Giáo và một số đạo giáo khác. Theo quan điểm của Đức Phật là chúng ta nên: “Mở rộng cửa để đón các vị ấy”. Dân tộc Việt Nam đã làm tròn bổn phận đối với tôn giáo. Trái lại, tôn giáo cũng từng làm tròn trách nhiệm của họ đối với dân tộc rõ nét nhất là dưới thời Lý, thời Trần. Đặc biệt là Phật giáo đã từng là “cốt lõi” cho mọi phát triển xã hội lúc bấy giờ trong cả hai triều đại nhà Lý và nhà Trần. Và chỉ duy nhất hai triều đại đó là phú cường nhất, là thời đại vàng son nhất trong suốt thời kỳ phong kiến Việt Nam. Ngày nay người viết cũng hy vọng rằng, tôn giáo và dân tộc chúng ta cũng sẽ làm được những gì vẻ vang, phú cường cho quê hương Việt Nam như đã từng có trong lịch sử nước nhà.

5. Từ những gì đã nêu ở trên cho thấy rằng, những chuẩn mực mà Đức Phật đưa ra trong những mối quan hệ này rất hữu ích và đầy tính nhân văn. Nếu xã hội tuân thủ những nguyên tắc đó thì sẽ làm giảm đi những xung đột, mâu thuẩn giữa đôi bên, đặc biệt là những thiệt hại cho chính bản thân mỗi người và cho cả xã hội.

THAM KHẢO

1. Bruce J. Cohen – Terri L. Orbuch (Nguyễn Minh Hòa dịch), Xã hội học nhập môn,Nxb Giáo Dục Hà Nội, 1995 trang 14.

2. Bùi Mộng Hùng, Đạo Phật có thể đem lại những gì cho giáo dục ngày nay?, trích trong Buddhist CD-ROM Library.

3. HT Nàrada, Hạnh phúc gia đình, (Phạm Kim Khánh dịch), Sài gòn 1967 trong Buddhist CD-ROM Library.

4. HT. K.Sri. Dhammananda, Các vấn đề của xã hội hôm nay- Human life and Problems, ( Thích Tâm Quang dịch) Buddhist CD-ROM Library, www.budsas.org.

5. HT. K.Sri. Dhammananda, Hôn nhân hạnh phúc – A happy married life,(Tỳ kheo Thiện Minh dịch) trong Buddhist CD-ROM Library.

6. HT. Thích Minh Châu, Đạo đức trong nếp sống người Phật tử, trích trong Buddhist CD-ROM Library.

7. HT. Thích Tâm Châu, Đạo Phật với con người, trích trong Buddhist CD-ROM Library.

8. HT. Thích Thiện Siêu, Người tại gia tu Phật, trích trong Buddhist CD-ROM Library.

9. HT. Walpola Rahula, Những gì Đức Phật dạy về thế giới ngày nay, ( do Quang Bảo dịch) trích trong Buddhist CD-ROM Library

10. Kinh Giáo Thọ Thi-Ca-La-Việt, (Trường Bộ Kinh ), bản dịch của HT Minh Châu, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, 1991, trang 542.

11. Nàrada Thera, Đức Phật và Phật pháp, (Phạm Kim Khánh dịch)

12. Tăng Chi tập II, HT. Thích Minh Châu dịch, Trường CCPH Việt Nam co8 sở II, 1988, trang 517.

13. Tăng Chi tập III, HT. Thích Minh Châu dịch, Trường CCPH Việt Nam co8 sở II, 1988, trang 107 -108, 111, 119, 123, 517.

14. Thanh Niên (báo), số 171 (959) ra ngày thứ bảy, 26 -10- 1996, trang 6.

15. Thích Minh Châu, Đạo Đức Phật giáo và hạnh phúc con người, Nxb Tôn giáo, 2002.

16. Thích Nhật Từ, Đạo hiếu của Phật giáo qua kinh Thiện Sanh, Ấn Độ, truy cập từ trang web www.buddhismtoday.com.

17. Thích Nữ Tâm Đoan, Đi tìm các mối quan hệ gia đình – học đường và xã hội trong kinh tạng Nikàya, luận văn tốt nghiệp trường Cao Cấp Phật Học khóa 3.

18. Tiểu Bộ Kinh tập 1, HT. Thích Minh Châu dịch, Tu thư Phật học Vạn Hạnh, 1982, trang 219.

19. Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Tp.Hồ Chí Minh, trang 514.

20. Trường Bộ Kinh II., bản dịch của HT Minh Châu, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, 1991. trang 542

21. Tỷ kheo Weragoda Sarada, Cha mẹ, con cái và phương tiện truyền thông (do Thích Nguyên Tạng dịch) trích trong Buddhist CD-ROM Library.

22. Venerable Pyinnyathiha, Phương pháp đưa đến sự hài hòa xã hội, (do Mỹ Thanh dịch) trích trong Buddhist CD-ROM Library

-ooOoo-

Nguồn: www.dentutraitim.com


[Trở về trang Thư Mục]
last updated:
10-08-2006