BuddhaSasana Home Page
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times font


Tương Ưng V

Tương Ưng Tỷ-kheo-ni


Sau đây là 10 bài kinh ngắn ghi lại các đối đáp giữa Ác ma (Mara) và 10 vị đại đệ tử Tỳ kheo ni của Ðức Phật.

Tương Ưng 5

Tương Ưng Tỷ-kheo-ni

Samyutta Nikaya 5

Connected Discourses with Bhikkhunis

1. Alavika (S.i.128)

Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi, Jetavana, tại vườn ông Anàthapindika.

Tỷ-kheo-ni Alavikà, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Sàvatthi để khất thực. Khất thực ở Sàvatthi xong, sau buổi ăn, trên con đường khất thực trở về, Tỷ-kheo-ni đi đến rừng Andha để tìm sự yên tĩnh viễn ly.

Ác ma muốn làm Tỷ-kheo-ni Alavikà run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn nàng từ bỏ yên tĩnh viễn ly, nên đi đến Tỷ-kheo-ni Alavikà và nói lên bài kệ:

Ðời không có xuất ly,
Sống viễn ly làm gì?
Hãy trọn hưởng dục lạc,
Chớ hối hận về sau.

Tỷ-kheo-ni Alavikà suy nghĩ: "Ai đã nói lên bài kệ này? Người hay không phải người?" Tỷ-kheo-ni Alavikà suy nghĩ: "Chính Ác ma muốn làm ta run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn làm ta từ bỏ yên tĩnh viễn ly nên đã nói lên bài kệ đó".

Tỷ-kheo-ni Alavikà biết được: "Ðấy là Ác ma", liền nói lên bài kệ:

Ở đời có xuất ly,
Nhờ trí tuệ, ta chứng.
Này Bà con phóng dật,
Biết sao được pháp ấy?

Ái dục như kiếm thương,
Ðài chém đầu các uẩn.
Ðiều Ông gọi dục lạc,
Ta gọi là bất lạc.

Ác ma biết được: "Tỷ-kheo-ni Alavikà đã biết ta", nên buồn khổ, thất vọng, liền biến mất tại chỗ ấy.

1. Alavika

Thus have I heard. On one occasion the Blessed One was dwelling at Savathi in Jeta's Grove, Anathapindika's Park.

Then, in the morning, the bhikkhuni Alavika dressed and, taking bowl and robe, entered Savathi for alms. When she had walked for alms in Savathi and had returned from her alms round, after her meal she went to the Blind Men's Grove seeking seclusion.

Then Mara the Evil One, desiring to arouse fear, trepidation, and terror in the bhikkhuni Alavika, desiring to make her fall away from seclusion, approached her and addressed her in verse:

"There is no escape in the world,
So what will you do with seclusion?
Enjoy the delights of sensual pleasure:
Don't be remorseful later!"

Then it occurred to the bhikkhuni Alavika: "Now who is it that recited the verse - a human being or a non-human being?" Then it occurred to her: "This is Mara the Evil One, who has recited the verse desiring to arouse fear, trepidation, and terror in me, desiring to make me fall away from seclusion."

Then the bhikkhuni Alavika, having understood, "This is Mara the Evil One," replied to him in verses:

"There is an escape in the world
Which I have closely touched with wisdom.
O Evil One, kinsman of the negligent,
You do not know that state.

Sensual pleasures are like sword stakes;
The aggregates, their chopping block.
What you call sensual delight
Has become for me non-delight."

Then Mara the Evil One, realizing, "The bhikkhuni Alavika knows me," sad and disappointed, disappeared right there.

2. Soma (S.i.129)

Nhân duyên ở Sàvatthi. Rồi Tỷ-kheo-ni Somà vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Sàvatthi để khất thực.

Khất thực ở Sàvatthi xong, sau bữa ăn, trên con đường khất thực trở về, Tỷ-kheo-ni đi đến rừng Andha để nghỉ ban ngày. Sau khi đi sâu vào rừng, nàng ngồi dưới một gốc cây để nghỉ ban ngày.

Ác ma muốn làm Tỷ-kheo-ni Somà run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn nàng từ bỏ Thiền định, liền đi đến Tỷ-kheo-ni Somà; sau khi đến, nói lên bài kệ với Tỷ-kheo-ni Somà:

Ðịa vị khó chứng đạt,
Chỉ Thánh nhân chứng đạt,
Trí nữ nhân hai ngón,
Sao hy vọng chứng đạt?

Tỷ-kheo-ni Somà suy nghĩ: "Ai đã nói bài kệ này? Người hay không phải người?" Tỷ-kheo-ni Somà suy nghĩ: "Ðây là Ác ma muốn làm cho ta run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn ta từ bỏ Thiền định, nên đã nói lên bài kệ đó".

Tỷ-kheo-ni Somà biết được : "Ðây là Ác ma", liền nói lên bài kệ với Ác ma:

Nữ tánh chướng ngại gì,
Khi tâm khéo Thiền định,
Khi trí tuệ triển khai,
Chánh quán pháp vi diệu?

Ai tự mình tìm hỏi:
"Ta, nữ nhân, nam nhân,
Hay ta là ai khác?"
Xứng nói chuyện Ác ma,
Ác ma thật cân xứng.

Ác ma biết được: "Tỷ-kheo-ni Somà đã biết ta", nên buồn khổ, thất vọng, liền biến mất tại chỗ ấy.

2. Soma

Setting at Savathi. Then, in the morning, the bhikkhuni Soma dressed and, taking bowl and robe, entered Savathi for alms.

When she had walked for alms in Savathi and had returned from her alms round, after her meal she went to the Blind Men's Grove for the day's abiding. Having plunged into the Blind Men's Grove, she sat down at the foot of a tree for the day's abiding.

Then Mara the Evil One, desiring to arouse fear, trepidation, and terror in the bhikkhuni Soma, desiring to make her fall away from concentration, approached her and addressed her in verse:

"That state so hard to achieve
Which is to be attained by the seers,
Can't be attained by a woman
With her two-fingered wisdom."

Then it occurred to the bhikkhuni Soma: "Now who is this that recited the verse - a human being or a non-human being?" Then it occurred to her: "This is Mara the Evil One, who has recited the verse desiring to arouse fear, trepidation, and terror in me, desiring to make me fall away from concentration."

Then the bhikkhuni Soma, having understood, "This is Mara the Evil One," replied to him in verses:

"What does womanhood matter at all
When the mind is concentrated well,
When knowledge flows on steadily
As one sees correctly into Dhamma.

One to whom it might occur,
'I'm a woman' or 'I'm a man'
Or 'I'm anything at all' -
Is fit for Mara to address."

Then Mara the Evil One, realizing, "The bhikkhuni Soma knows me," sad and disappointed, disappeared right there.

3. Gotami (S.i.129)

Nhân duyên ở Sàvatthi. Tỷ-kheo-ni Kisà Gotamì, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát đi vào Sàvatthi để khất thực.

Khất thực ở Sàvatthi xong, sau bữa ăn, trên con đường đi khất thực trở về, Tỷ-kheo-ni Kisà Gotamì đi đến rừng Andha để nghỉ ban ngày; sau khi đi sâu vào rừng Andha, đến ngồi dưới một gốc cây để nghỉ ban ngày.

Ác ma muốn làm cho Tỷ-kheo-ni Kisà Gotamì run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn khiến nàng từ bỏ Thiền định, liền đi đến Tỷ-kheo-ni Kisà Gotamì; sau khi đi đến, liền nói lên bài kệ với Tỷ-kheo-ni Kisà Gotamì:

Sao nàng như mất con,
Một mình, mặt ứa lệ.
Hay một mình vào rừng,
Ðể tìm đàn ông nào?

Tỷ-kheo-ni Kisà Gotamì suy nghĩ: "Ai đã nói lên bài kệ này? Người hay không phải người?" Tỷ-kheo-ni Kisà Gotamì suy nghĩ: "Ðây là Ác ma muốn làm ta run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn khiến ta từ bỏ Thiền định nên đã nói lên bài kệ đó".

Tỷ-kheo-ni Kisà Gotamì biết được: "Ðây là Ác ma", liền nói lên bài kệ với Ác ma:

Con hại, đã qua rồi,
Ðàn ông đã chấm dứt,
Ta không sầu, không khóc,
Ta sợ gì các Ông?

Khắp nơi hỷ, ái đoạn,
Khối mê ám nát tan,
Chiến thắng quân thần chết,
Vô lậu, ta an trú.

Ác ma biết được: "Tỷ-kheo-ni Kisà Gotamì đã biết ta" nên buồn khổ, thất vọng, liền biến mất tại chỗ ấy.

3. Gotami

Setting at Savathi. Then, in the morning, the bhikkhuni Kisagotami dressed and, taking bowl and robe, entered Savathi for alms.

When she had walked for alms in Savathi and had returned from her alms round, after her meal she went to the Blind Men's Grove for the day's abiding. Having plunged into the Blind Men's Grove, she sat down at the foot of a tree for the day's abiding.

Then Mara the Evil One, desiring to arouse fear, trepidation, and terror in the bhikkhuni Kisagotami, desiring to make her fall away from concentration, approached her and addressed her in verse:

"Why now, when your son is dead,
Do you sit alone with tearful face?
Having entered the woods all alone,
Are you on the lookout for a man?"

Then it occurred to the bhikkhuni Kisagotami: "Now who is this that recited the verse - a human being or a non-human being?" Then it occurred to her: "This is Mara the Evil One, who has recited the verse desiring to arouse fear, trepidation, and terror in me, desiring to make me fall away from concentration."

Then the bhikkhuni Kisagotami, having understood, "This is Mara the Evil One," replied to him in verses:

"I've gotten past the death of sons;
With this, the search for men has ended.
I do not sorrow, I do not weep,
Nor do I fear you, friend.

Delight everywhere has been destroyed,
The mass of darkness has been sundered.
Having conquered the army of Death,
I dwell without defiling taints."

Then Mara the Evil One, realizing, "The bhikkhuni Kisagotami knows me," sad and disappointed, disappeared right there.

4. Vijaya (S.i.130)

Nhân duyên ở Sàvatthi. Tỷ-kheo-ni Vijavà vào buổi sáng đắp y... và ngồi xuống dưới một gốc cây để nghỉ ban ngày.

Ác Ma muốn làm cho Tỳ-kheo-ni Vijaya sợ hãi ... muốn khiến nàng từ bỏ Thiền định, liền đi đến Tỳ-kheo-ni Vijaya; sau khi đến, nói lên bài kệ với Tỳ-kheo-ni Vijaya:

Nàng vừa trẻ, vừa đẹp,
Ta vừa trẻ, vừa xuân,
Với cung đàn năm điệu,
Nàng cùng ta vui hưởng.

Tỷ-kheo-ni Vijaya suy nghĩ : " Ai đã nói lên bài kệ này? Người hay không phải người?" Tỷ-kheo-ni Vijaya suy nghĩ : " Ðây là Ác ma... nói lên bài kệ đó."

Tỷ-kheo-ni Vijaya suy nghĩ : "Ðây là Ác ma", liền nói lên bài kệ với Ác ma:

Sắc, tiếng, vị, hương, xúc,
Làm cho ý đam mê,
Ta nhường lại Ác ma,
Ta đâu có cần chúng.

Với thân bất tịnh này,
Dễ hư hoại mong manh,
Ta bực phiền, tủi hổ,
Dục ái được đoạn tận.

Họ sanh hưởng sắc giới,
Chúng vọng vô sắc giới,
Thiền chứng an tịnh ấy,
Mọi nơi, mê ám diệt.

Ác ma biết được: "Tỷ-kheo-ni Aijayà đã biết ta", buồn khổ, thất vọng, liền biến mất tại chỗ ấy.

4. Vijaya

Setting at Savathi. Then, in the morning, the bhikkhuni Vijaya dressed ... she sat down at the foot of a tree for the day's abiding.

Then Mara the Evil One, desiring to arouse fear, trepidation, and terror in the bhikkhuni Vijaya, desiring to make her fall away from concentration, approached her and addressed her in verse:

"You are so young and beautiful,
And I too am in the bloom of youth.
Come, noble lady, let us rejoice
With the music of a fivefold ensemble."

Then it occurred to the bhikkhuni Vijaya: "Now who is this...? This is Mara the Evil One ... desiring to make me fall away from concentration."

Then the bhikkhuni Vijaya, having understood, "This is Mara the Evil One," replied to him in verses:

"Forms and sounds, tastes and odours,
Tactile objects that delight the mind:
I offer them right back to you,
For I, O Mara, do not need them.

I am repelled and humiliated
By this foul, putrid body,
Subject to break up, fragile:
I've uprooted sensual craving.

As to those beings who fare amidst form,
And those who abide in the formless,
And those peaceful attainments too:
Everywhere darkness has been destroyed."

Then Mara the Evil One, realizing "The bhikkhuni Vijaya knows me," sad and disappointed, disappeared right there.

5. Uppalavanna (S.i.131)

Nhân duyên Sàvatthi. Rồi Tỷ-kheo-ni Uppalavannà vào buổi sáng đắp y... và đứng dưới gốc cây tala có trổ hoa.

Ác ma muốn làm cho Tỷ-kheo-ni Uppala-vannà run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn khiến nàng từ bỏ Thiền định, liền đi đến Tỷ-kheo-ni Uppalavannà. Sau khi đến, Ác ma nói lên bài kệ này với Tỷ-kheo-ni Uppalavannà:

Này nàng Tỷ-kheo-ni,
Dưới gốc cây tala,
Ðang nở nụ trăm hoa,
Nàng đến đứng một mình,
Nhan sắc Nàng tuyệt đẹp,
Không ai dám sánh bằng!
Tại đây Nàng đã đến,
Trong tư thế như vậy,
Nàng ngu dại kia ơi,
Không sợ cám dỗ sao?

Tỷ-kheo-ni Uppalavannà suy nghĩ: "Ai đã nói lên bài kệ này? Người hay là không phải người?" Tỷ-kheo-ni Uppalavannà suy nghĩ: "Ðây là Ác ma... đã nói lên bài kệ đó."

Tỷ-kheo-ni Uppalavannà biết được : "Ðây là Ác ma", liền trả lời với bài kệ:

Trăm ngàn người cám dỗ,
Có đến đây như Ông,
Mảy lông ta không động,
Ta không gì sợ hãi
Ác ma, ta không sợ,
Ta đứng đây một mình,

Ta có thể biến mất,
Hay vào bụng các Ông.
Ta đứng giữa hàng mi,
Ông không thấy ta được.

Với tâm khéo khiếp phục,
Thần túc khéo tu trì,
Ta thoát mọi trói buộc,
Ta đâu có sợ Ông?
Này Hiền giả Ác ma!

Ác ma biết được: "Tỷ-kheo-ni Uppalavannà đã biết ta", buồn khổ, thất vọng, liền biến mất tại chỗ ấy.

5. Uppalavanna

Setting at Savathi. Then, in the morning, the bhikkhuni Uppalavanna dressed ... she stood at the foot of a sala tree in full flower.

Then Mara the Evil One, desiring to arouse fear, trepidation, and terror in the bhikkhuni Uppalavanna, desiring to make her fall away from concentration, approached her and addressed her in verse:

"Having gone to a sala tree with flowering top,
You stand at its foot all alone, bhikkhuni.
There is none whose beauty can rival your own:
Foolish girl, have you no fear of rogues?"

Then it occurred to the bhikkhuni Uppalavanna: "Now who is this...? This is Mara the Evil One ... desiring to make me fall away from concentration."

Then the bhikkhuni Uppalavanna, having understood, "This is Mara the Evil One," replied to him in verses:

"Though a hundred thousand rogues
Just like you might come here,
I stir not a hair, I feel no terror;
Even alone, Mara, I don't fear you.

I can make myself disappear
Or I can enter inside your belly.
I can stand between your eyebrows
Yet you won't catch a glimpse of me.

I am the master of my own mind,
The bases of power are well developed;
I am freed from every kind of bondage,
Therefore I don't fear you, friend."

Then Mara the Evil One, realizing, "The bhikkhuni Uppalavanna knows me," sad and disappointed, disappeared right there.

6. Cala (S.i.132)

Nhân duyên ở Sàvatthi. Tỷ-kheo-ni Càlà vào buổi sáng đắp y... ngồi dưới một gốc cây để nghỉ ban ngày.

Ác ma đi đến Tỷ-kheo-ni Càlà; sau khi đến, nói với Tỷ-kheo-ni Càlà:

-- Này Tỷ-kheo-ni, Nàng không vui thích gì?

-- Này Hiền giả, ta không vui thích sanh.

-- Sao Nàng không vui thích sanh? Khi đã sanh, phải thọ hưởng các dục. Này Tỷ-kheo-ni, ai dạy cho nàng: "Chớ có vui thích sanh"?

-- Sanh ra rồi phải chết,
Ðã sanh thấy khổ đau,
Kiết sử trói gia hại,
Do vậy không thích sanh.

Ðức Phật thuyết giảng pháp,
Khiến vượt khỏi tái sanh,
Ðoạn trừ mọi khổ não,
Giúp ta trú chân thật.

Chúng sanh hướng sắc giới,
Họ vọng vô sắc giới,
Nếu không biết đoạn diệt,
Họ đi đến tái sanh.

Ác ma biết được: "Tỷ-kheo-ni Càlà đã biết ta", buồn khổ, thất vọng, liền biến mất tại chỗ ấy.

6. Cala

Setting at Savathi. Then, in the morning, the bhikkhuni Cala dressed ... she sat down at the foot of a tree for the day's abiding.

Then Mara the Evil One approached the bhikkhuni Cala and said to her:

"What don't you approve of, bhikkhuni?"

"I don't approve of birth, friend."

"Why don't you approve of birth? Once born, one enjoys sensual pleasures. Who now has persuaded you of this: 'bhikkhuni, don't approve of birth'?"

"For one who is born there is death;
Once born, one encounters sufferings -
Bondage, murder, affliction-
Hence one shouldn't approve of birth.

The Buddha has taught the Dhamma,
The transcendence of birth;
For the abandoning of all suffering
He has settled me in the truth.

As to those beings who fare amidst form,
And those who abide in the formless -
Not having understood cessation,
They come again to re-becoming."

Then Mara the Evil One, realizing, "The bhikkhuni Cala knows me," sad and disappointed, disappeared right there.

7. Upacala

Ở tại Sàvatthi. Rồi Tỷ-kheo-ni Upacàlà, vào buổi sáng, đắp y... và ngồi xuống một gốc cây để nghỉ ban ngày...

Ác ma đi đến Tỷ-kheo-ni Upaàlà; sau khi đến, nói với Tỷ-kheo-ni Upaàlà:

-- Này Tỷ-kheo-ni, Nàng muốn tái sanh tại chỗ nào?

-- Ta không muốn tái sanh tại một chỗ nào cả, này Hiền giả.

-- Chư Thiên Ba mươi ba,
Dạ-ma, Ðâu-suất thiên,
Chư vị Hóa lạc thiên,
Tha hóa Tự tại thiên,
Nàng hãy hướng tâm này,
Ðến cảnh giới chư Thiên,
Rồi Nàng được tái sanh,
Hưởng an lạc cảnh ấy.

-- Chư Thiên Ba mươi ba,
Dạ-ma, Ðâu-suất thiên,
Chư vị Hóa Lạc thiên,
Tha hóa, Tự tại thiên,
Vì ái dục trói buộc,
Lại bị ma chinh phục.

Toàn thế giới cháy đỏ,
Toàn thế giới hỏa thiêu,
Toàn thế giới bùng cháy,
Toàn thế giới rung động.

Không rung, không dao động,
Không hệ lụy, phàm phu,
Chỗ nào ma không đến,
Chỗ ấy ta vui thích.

Rồi Ác ma biết được: "Tỷ-kheo-ni Upacàlà đã biết ta", buồn khổ, thất vọng, liền biến mất tại chỗ ấy.

7. Upacala

Setting at Savathi. Then, in the morning, the bhikkhuni Upacala dressed ... she sat down at the foot of a tree for the day's abiding.

Then Mara the Evil One approached the bhikkhuni Upacala and said to her:

"Where do you wish to be reborn, bhikkhuni?"

"I do not wish to be reborn anywhere, friend."

"There are TavatiÌsa and Yama devas,
And devatas of the Tusita realm,
Devas who take delight in creating,
And devas who exercise control.
Direct your mind there
And you'll experience delight."

"There are TavatiÌsa and Yama devas,
And devatas of the Tusita realm,
Devas who take delight in creating,
And devas who exercise control.|
They are still bound by sensual bondage,
They come again under Mara's control.

All the world is on fire,
All the world is burning,
All the world is ablaze,
All the world is quaking.

That which does not quake or blaze,
That to which worldlings do not resort,
Where there is no place for Mara:
That is where my mind delights."

Then Mara the Evil One, realizing, "The bhikkhuni Upacala knows me," sad and disappointed, disappeared right there.

8. Sisupacala (S.i. 133)

Tại Sàvatthi. Tỷ-kheo-ni Sisupacàlà vào buổi sáng đắp y... rồi ngồi xuống một gốc cây để nghỉ ban ngày.

Rồi Ác ma đi đến Tỷ-kheo-ni Sisupacàlà; sau khi đến, nói với Tỷ-kheo-ni Sisupacàlà:

-- Này Tỷ-kheo-ni, Nàng thích thú tà giáo của ai không?

-- Này Hiền giả, ta không thích thú tà giáo của ai cả.

-- Vì ai Nàng trọc đầu,
Hiện tướng nữ Sa-môn?
Nàng không thích tà giáo,
Vậy nàng tu cho ai,
Này kẻ ngu muội kia?

-- Những kẻ tin tà kiến,
Thuộc ngoại đạo tà giáo.
Ta không thích pháp họ,
Họ không biết Cháp Pháp.

Có dòng họ Thích-ca.
Ðản sanh Phật vô tỷ,
Ngài chinh phục tất cả,
Ngài đại phá chúng ma,
Tại mọi chỗ, mọi nơi,

Không ai chiến thắng Ngài.
Ngài giải thoát hoàn toàn,
Không bị gì triền phược.
Bậc Pháp nhãn thấy khắp;
Tất cả nghiệp đoạn diệt,
Giải thoát, diệt sanh y.
Thế Tôn, Ðạo Sư ta,
Ta theo giáo pháp Ngài.

Rồi Ác ma biết được: "Tỷ-kheo-ni Sisupacàlà biết ta", buồn khổ, thất vọng, liền biến mất tại chỗ ấy.

8. Sisupacala

Setting at Savathi. Then, in the morning, the bhikkhuni Sisupacala dressed ... she sat down at the foot of a tree for the day's abiding.

Then Mara the Evil One approached the bhikkhuni Sisupacala and said to her:

"Whose creed do you approve of, bhikkhuni?"

"I don't approve of anyone's creed, friend."

"Under whom have you shaved your head?
You do appear to be a recluse,
Yet you don't approve of any creed,
So why wander as if bewildered?"

"Outside here the followers of creeds
Place their confidence in views.
I don't approve of their teachings;
They are not skilled in the Dhamma.

But there is a scion of the Sakyan clan,
The Enlightened One, without an equal,
Conqueror of all, Mara's subduer,
Who everywhere is undefeated.

Everywhere freed and unattached,
The One with Vision who sees all,
Who attained the end of all kamma,
Released in the extinction of acquisitions:
That Blessed One is my Teacher;
His is the teaching I approve."

Then Mara the Evil One, realizing, "The bhikkhuni Sisupacala knows me," sad and disappointed, disappeared right there.

9. Sela (S.i.134)

Ở tại Sàvatthi. Tỷ-kheo-ni Selà vào buổi sáng đắp y... ngồi dưới một gốc cây để nghỉ ban ngày.

Ác ma muốn làm cho Tỷ-kheo-ni Selà run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn khiến nàng từ bỏ Thiền định, liền đi đến Tỷ-kheo-ni Selà. Sau khi đến, Ác ma nói lên bài kệ này với Tỷ-kheo-ni Selà:

Bởi vì bong bóng này,
Ðược tạo tác làm ra,
Ai là người sáng tạo,
Bong bóng như huyễn này?
Từ đâu bong bóng sanh?
Ði đâu bong bóng diệt?

Rồi Tỷ-kheo-ni Selà suy nghĩ: "Ai đã nói lên bài kệ này? Người hay không phải người? ...Ðây là Ác ma, muốn làm ta run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn khiến ta từ bỏ Thiền định, nên đã nói lên bài kệ ấy".

Rồi Tỷ-kheo-ni Selà được biết: "Ðây là Ác ma", nên trả lời Ác ma với bài kệ:

Bong bóng như huyễn này,
Không phải tự ngã làm,
Sự vật bạc phước này,
Không phải người khác làm.
Do nhân duyên quy tụ,
Sự vật được hình thành,
Do nhân duyên tán ly,
Sự vật bị tiêu diệt.

Hột giống gieo vào ruộng,
Ðược nẩy mầm, sinh lộc,
Khi nhiễm thấm cả hai,
Vị đất và khí ướt.

Cũng vậy uẩn và giới,
Cùng với sáu xứ này,
Do nhân duyên quy tụ,
Chúng sẽ được hình thành,
Do nhân duyên tán ly,
Chúng bị hoại, tiêu diệt.

Rồi Ác ma biết được: "Tỷ-kheo-ni Selà đã biết ta", nên buồn khổ, thất vọng, liền biến mất tại chỗ ấy.

9. Sela

Setting at Savathi. Then, in the morning, the bhikkhuni Sela dressed ... she sat down at the foot of a tree for the day's abiding.

Then Mara the Evil One, desiring to arouse fear, trepidation, and terror in the bhikkhuni Sela, desiring to make her fall away from concentration, approached her and addressed her in verse:

"By whom has this puppet been created?
Where is the maker of the puppet?
Where has the puppet arisen?
Where does the puppet cease?"

Then it occurred to the bhikkhuni Sela: "Now who is this...? This is Mara the Evil One ... desiring to make me fall away from concentration."

Then the bhikkhuni Sela, having understood, "This is Mara the Evil One," replied to him in verses:

"This puppet is not made by itself,
Nor is this misery made by another.
It has come to be dependent on a cause,
When the cause dissolves then it will cease.

As when a seed is sown in a field
It grows depending on a pair of factors:
It requires both the soil's nutrients
And a steady supply of moisture.

Just so the aggregates and elements,
And these six bases of sensory contact,
Have come to be dependent on a cause;
When the cause dissolves they will cease."

Then Mara the Evil One, realizing, "The bhikkhuni Sela knows me," sad and disappointed, disappeared right there.

10. Vajira (S.i. 135)

Ở tại Sàvatthi. Tỷ-kheo-ni Vajirà vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Sàvatthi để khất thực.

Khất thực xong, sau bữa ăn, trên con đường khất thực trở về, Tỷ-kheo-ni Vajirà đi đến rừng Andha để nghỉ ban ngày, đi sâu vào rừng Andha và ngồi dưới một gốc cây để nghỉ ban ngày.

Rồi Ác ma muốn làm Tỷ-kheo-ni Vajirà run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn khiến nàng từ bỏ Thiền định, liền đi đến, nói lên bài kệ với Tỷ-kheo-ni Vajirà:

Do ai, hữu tình này,
Ðược sanh, được tạo tác?
Người tạo hữu tình này,
Hiện nay ở tại đâu?
Từ đâu hữu tình sanh?
Ði đâu hữu tình diệt?

Rồi Tỷ-kheo-ni Vajirà suy nghĩ: "Ai đã nói lên bài kệ này? Người hay không phải người?"

Rồi Tỷ-kheo-ni Vajirà lại suy nghĩ: "Chính là Ác ma muốn làm ta run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn khiến ta từ bỏ Thiền định, nên đã nói lên bài kệ này".

Rồi Tỷ-kheo-ni Vajirà biết được: "Ðây là Ác ma", liền trả lời Ác ma với bài kệ:

Sao Ông lại nói hoài,
Ðến hai chữ chúng sanh?
Phải chăng, này Ác ma,
Ông rơi vào tà kiến?
Ðây quy tụ các hành,
Chúng sanh được hình thành,

Như bộ phận quy tụ,
Tên xe được nói lên.
Cũng vậy, uẩn quy tụ,
Thông tục gọi chúng sanh.

Chỉ có khổ được sanh,
Khổ tồn tại, khổ diệt,
Ngoài khổ, không gì sanh,
Ngoài khổ không gì diệt.

Rồi Ác ma biết được: "Tỷ-kheo-ni Vajirà đã biết ta", nên buồn khổ, thất vọng, liền biến mất tại chỗ ấy.

10. Vajira

Setting at Savathi. Then, in the morning, the bhikkhuni Vajira dressed and, taking bowl and robe, entered Savathi for alms.

When she had walked for alms in Savathi and had returned from her alms round, after her meal she went to the Blind Men's Grove for the day's abiding. Having plunged into the Blind Men's Grove, she sat down at the foot of a tree for the day's abiding.

Then Mara the Evil One, desiring to arouse fear, trepidation, and terror in the bhikkhuni Vajira, desiring to make her fall away from concentration, approached her and addressed her in verse:

"By whom has this being been created?
Where is the maker of the being?
Where has the being arisen?
Where does the being cease?"

Then it occurred to the bhikkhuni Vajira: "Now who is this that recited the verse - a human being or a non-human being?"

Then it occurred to her: "This is Mara the Evil One, who has recited the verse desiring to arouse fear, trepidation, and terror in me, desiring to make me fall away from concentration."

Then the bhikkhuni Vajira, having understood, "This is Mara the Evil One," replied to him in verses:

"Why now do you assume 'a being'?
Mara, have you grasped a view?
This is a heap of sheer constructions:
Here no being is found.

Just as, with an assemblage of parts,
The word 'chariot' is used,
So, when the aggregates are present,
There's the convention 'a being.'

It's only suffering that comes to be,
Suffering that stands and falls away.
Nothing but suffering comes to be,
Nothing but suffering ceases."

Then Mara the Evil One, realizing, "The bhikkhuni Vajira knows me," sad and disappointed, disappeared right there.

Hòa thượng Minh Châu dịch Việt

English translation by Bhikkhu Bodhi


[Trở về trang Thư Mục]