Phật giáo ngày nay có
nhiều tông phái với các truyền thống khác
nhau. Tuy nhiên, chúng ta thường phân biệt hai
tông phái chính: Phật Giáo Ðại thừa - Mahayana, và
Phật Giáo Nguyên thủy - Theravada. Phật Giáo Mahayana
thịnh hành ở các nước Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Hoa,
Triều Tiên, và Nhật Bản. Trong khi đó, Phật Giáo
Theravada được lưu truyền rộng rãi ở Tích Lan
(Sri Lanka), Miến Ðiện, Thái Lan, Lào và Cam
Bốt.
Riêng Việt Nam có lẽ là
một quốc gia Á Châu đầu tiên mà cả hai tông phái
lớn nầy đều được chính thức thừa nhận và đã
cộng tác hoạt động trong nhiều thập niên qua.
Tông phái Ðại thừa có một truyền thống lâu
đời và đã có mặt tại Việt Nam do các tu sĩ
Ấn Ðộ truyền sang vào cuối thế kỷ
thứ II C.N [10, t. 47]. Tông phái Nguyên thủy cũng có
mặt tại vùng đất nầy qua nhiều thế kỷ
trong các cộng đồng người Khơ me (Cao Miên) tại
miền Nam Việt Nam, và được truyền bá
đến các Phật tử người Việt trong thập niên
1940 [11, t. 15]. Trong những năm gần đây lại có
những dự án dịch thuật các kinh điển của cả hai
truyền thống, từ các văn bản gốc tiếng Hán
và tiếng Pali, sang tiếng Việt hiện
đại.
Trong bài viết ngắn dưới
đây, tôi xin mạn phép trình bày sơ lược về
nguồn gốc của Mahayana và Theravada, lồng trong bối
cảnh lịch sử phát triển của đạo Phật tại
Ấn Ðộ trong khoảng 1000 năm đầu tiên sau khi
Ðức Phật nhập Niết Bàn. Tiến trình đó
được tạm chia làm ba thời kỳ: thời kỳ nguyên thủy
(100 năm), thời kỳ bộ phái (400 năm), và thời kỳ
chuyển hóa (500 năm).
1. Thời
kỳ nguyên thủy
Trong 45 năm truyền dạy
đạo pháp, Ðức Phật đã để lại rất nhiều
bài giảng, trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, cho
nhiều người thuộc mọi tầng lớp trong xã hội.
Các bài giảng nầy thường được các vị tu sĩ
đệ tử ghi nhớ, sắp xếp lại, truyền khẩu
cho nhau, và dùng để giảng lại cho người khác.
Khi được phân phối đi hoằng dương đạo pháp ở
các vùng khác nhau, các bài giảng nầy thường được
chuyển dịch ra tiếng địa phương và điều
nầy được Ðức Phật chấp nhận và khuyến khích
[1, t. 42].
Có một lần, hai vị đại đức
Yamelu và Tekula xin phép Ðức Phật để ghi chép
và chuyển dịch những bài giảng của Ngài sang
tiếng Vedic, vốn là văn tự của giới quý tộc
dùng để phúng tụng kinh Vệ Ðà, để bảo
đảm tính nhất quán và chính xác của các bài kinh,
nhưng Phật không đồng ý. Ngài cho rằng các bài
giảng của Ngài phải được phổ biến đến
mọi người qua ngôn ngữ địa phương để
họ có thể nghe, hiểu và thực hành được
[1, t. 43]. Cũng vì vậy mà dù rằng Ðức Phật dùng
tiếng Magadhi (Ma Kiệt Ðà) để giảng pháp,
nhưng các bài giảng đã được truyền khẩu bằng
nhiều thứ tiếng khác nhau.
Sau khi Ðức Phật nhập
diệt, ngài Ma Ha Ca Diếp triệu tập một hội
đồng gồm khoảng 500 tu sĩ tại vùng đồi núi ngoại
thành Vương Xá (Rajagaha) để kết tập kinh
điển, sau nầy được gọi là Ðại Hội Kết
Tập Lần Thứ Nhất. "Kết tập" có nghĩa
là thu góp, tập hợp lại, ôn lại, đừng để cho
tán thất. Tiếng Phạn là "sangiti", có
nghĩa là cùng nhau tụng lại (chanting together). Trong
Ðại Hội nầy, ngài Ma Ha Ca Diếp là chủ quản,
ngài A Nan Ða đọc lại các bài kinh giảng và
ngài Ưu Ba Ly đọc lại các điều luật. Sau
lần kết tập đầu tiên nầy, bộ Luật Tạng và bộ
Kinh Tạng được đúc kết [2, t. 69]. Lúc ấy, Kinh
Tạng được chia ra thành 4 bộ chính: Trường Bộ,
Trung Bộ, Tương Ưng Bộ, và Tăng Chi Bộ.
2. Thời
kỳ bộ phái
Sau đó, nhiều phái đoàn
truyền giáo được gửi đi các nơi để hoằng
dương đạo pháp, từ miền Trung Ấn đến
mạn Nam và mạn Tây xứ Ấn Ðộ. Trong thời kỳ nầy
có nhiều biến động, thay đổi bố cục chính
trị giữa các vương quốc trong vùng, và vì thế
có nhiều thay đổi trong sinh hoạt xã hội, tạo
ảnh hưởng đến các sinh hoạt tăng đoàn, nhất
là tại những nơi mà Phật giáo còn mới, chưa vững
mạnh. Nhiều tu sĩ trẻ trong những vùng nầy bắt
đầu cảm thấy có nhu cầu cần sửa đổi giới luật và
lề lối sinh hoạt để phù hợp với đời sống
địa phương.
Một trăm năm sau ngày Ðức
Phật nhập diệt thì có một Ðại Hội Kết Tập
Lần Thứ II tại thành Vaisali với 700 tu sĩ, mục đích
chính là để giải quyết các tranh chấp về
10 điều luật căn bản, trong đó có luật cấm các
tu sĩ thu nhận vàng bạc do dân chúng cúng dường [2,
t. 80]. Nhưng thêm vào đó, Ðại Hội cũng duyệt
lại các kinh điển, và kết tập một số bài
kinh giảng không được đúc kết lúc trước. Ðó
là những cơ sở để thành hình bộ kinh thứ 5,
Tiểu Bộ, về sau nầy [3, t. 50-56].
Vì Ðại Hội quyết định
giử nguyên 10 điều giới luật căn bản mà không
sửa đổi, một số tu sĩ trẻ không hài lòng và bắt
đầu có khuynh hướng ly khai. Ðây là mầm mống đưa
đến sự phân chia đầu tiên trong tăng đoàn: bộ
phái Trưởng Lão Thuyết Bộ (Sthaviravada) gồm các
tu sĩ có khuynh hướng bảo thủ, và Ðại Chúng Bộ
(Mahasanghika) gồm các tu sĩ có khuynh hướng cải cách
[2, t. 81].
Một trăm năm sau đó, một
Ðại Hội Kết Tập Lần Thứ III được triệu
tập dưới thời vua A Dục (Asoka), 268-232 T.C.N. (Trước
Công Nguyên). Dưới sự chỉ đạo của ngài Mục
Kiền Liên Tu Ðế (Moggaliputta Tissa), Ðại Hội
nầy gồm khoảng 1000 tu sĩ đúc kết Kinh Tạng và
Thắng Pháp Tạng. Kinh Tạng (Sutta Pitaka) giờ đây gồm
5 Bộ Kinh: Trường Bộ, Trung Bộ, Tiểu Bộ, Tương
Ưng, và Tăng Chi [2, t. 109]. Thêm vào đó, tổ chức
tăng đoàn theo truyền thống Trưởng Lão
Thuyết được chấn chỉnh lại theo đúng các giới
luật.
Trong thời kỳ nầy, Ðại Chúng
Bộ bắt đầu phân chia ra thành nhiều tông phái.
Nhiều nhà sử học ghi nhận có tất cả bốn lần
phân chia, tổng cộng là 7 tông phái trong vòng 200
năm. Bên cạnh đó, Trưởng Lão Thuyết Bộ cũng
bị phân chia bảy lần, tạo ra mười một tông phái [2,
t. 111]. Vì vậy mà ngày nay có nhiều sách
viết về "mười tám tông phái", cộng
thêm với hai bộ phái đầu tiên [4, t. 123]. Tuy nhiên,
cũng có sách đã liệt kê đến 34 tông phái
[2, t. 115].
Vua A Dục là một vị vua rất
sùng bái đạo Phật, và đã đóng góp rất nhiều
trong công cuộc phát huy đạo pháp. Ngài đã gửi
nhiều phái đoàn đi truyền giáo nhiều
nơi. Trong đó có Ðại đức Mahinda, một trong những
người con của ngài, cùng với 4 vị tu sĩ được gửi
sang đảo Tích Lan để truyền bá đạo Phật.
Một mặt khác, đạo Phật cũng được phát triển
rộng rãi ở mạn Tây Bắc, và trung tâm Phật giáo ở
Kashmir trở thành một trong những trung tâm chính thời
đó. Trong thời kỳ nầy, các tư tưởng Ðại thừa bắt
đầu thành hình, và thâm nhập vào một vài tông
phái của Ðại Chúng Bộ, chẳng hạn như tông
Thuyết Xuất Thế Bộ (Lokottaravadin).
3. Thời
Kỳ Chuyển Hóa: Theravada
Khi Ðại đức Mahinda và phái
đoàn truyền giáo sang Tích Lan, ngài được vua
Tích Lan giúp xây cất một ngôi chùa lớn, gọi là
Ðại Tự Viện (Mahavihara), và từ đó thành lập
tông phái Ðại Tự Viện ở xứ nầy. Một trăm năm
sau thì một ngôi chùa khác, tự viện Vô Úy Sơn
(Abhayagiri), được xây cất và các tu sĩ ở chùa nầy
bắt đầu tạo ảnh hưởng lớn mạnh ở Tích Lan. Thêm
vào đó, cũng có nhiều nhóm tu sĩ với khuynh
hướng đại thừa từ Ấn Ðộ sang hoạt động tại
xứ nầy, nhưng không có ảnh hưởng sâu rộng. Sự
tranh giành ảnh hưởng giữa hai tông phái nguyên thủy
Ðại Tự Viện và Vô Úy Sơn kéo dài qua nhiều
thế kỷ, và chỉ chấm dứt vào khoảng thế
kỷ thứ 12, khi nhóm Ðại Tự Viện được vua
Parakkamabahu chính thức thừa nhận, kết tạo thành
tông phái Theravada như chúng ta thấy được ngày nay.
Vào những thập niên cuối cùng
trước công nguyên (29-17 T.C.N.), khoảng 500 tu sĩ
phái Mahavihara tập họp lại và bắt đầu cho
viết các bộ Kinh, Luật và Thắng Pháp trên một
loại giấy bằng lá bối đa. Lần đầu tiên, sau gần
500 năm truyền khẩu, ba bộ Tạng được ghi chép
hoàn toàn trên lá bối, và từ đó bộ Tam Tạng kinh
điển hệ Pali được tạo ra và lưu truyền
cho đến ngày nay. Ðó là Ðại Hội Kết Tập
Lần Thứ IV. Sở dĩ văn tự Pali được dùng vì đó
là ngôn ngữ chính thống miền Tây Ấn và là
ngôn ngữ sử dụng bởi ngài Mahinda. Nhờ tình trạng
xã hội tương đối ổn định và đảo Tích Lan tương
đối biệt lập nên các bộ Tam Tạng nầy đã
được gìn giữ nguyên vẹn, dù rằng trong khi sao chép
chuyển truyền từ đời nầy sang đời khác, có
thể có một vài sửa đổi, sơ sót. Nhưng đó chỉ
là các đoạn nhỏ, không quan trọng [3, t. 59-60].
Từ đó, Ðại Tạng Kinh được truyền bá sang các
nước lân cận như Miến Ðiện, Thái Lan, Lào,
và Cam Bốt. Ngoài ra, một số các bài luận thuyết
của các danh sư trong thời kỳ nầy, như bộ Thanh Tịnh
Ðạo (Visuddhimagga) của ngài Phật Âm (Buddhaghosa)
trước tác trong thế kỷ 4 C.N., bộ Thắng Pháp
Tập Yếu Luận (Abhidhammattha Sangaha) của ngài
Anuruđha, ... cũng được quý trọng, gìn giữ
và lưu truyền cho đến ngày nay.
Danh từ Theravada là tiếng
Pali, đồng nghĩa với chữ Sthaviravada của tiếng
Sanskrit, có nghĩa là giáo thuyết của các vị
trưởng lão (Doctrine of the Elders). Sách Tàu thường
dịch là Trưởng Lão Bộ, có khi dịch là Thượng
Tọa Bộ, nhưng dịch sát nghĩa là Trưởng Lão
Thuyết Bộ, là một trong hai bộ phái chính từ
thời kỳ nguyên thủy. Tuy nhiên, danh từ Theravada ngày
nay thường được dùng để chỉ truyền thống
Phật giáo Nam tông, bắt nguồn từ Tích Lan, chịu
nhiều ảnh hưởng của nhóm Ðại Tự Viện
(Mahavihara), do Ðại đức Mahinda và các tu sĩ thuộc
tông phái Phân Biệt Thuyết Bộ (Vibhajyavada),
một nhánh của Trưởng Lão Thuyết Bộ, truyền
bá vào Tích Lan khoảng 200 năm trước Công nguyên.
Có sách cho rằng thật ra, ngài Mahinda thuộc
truyền thống Xích Ðồng Diệp Bộ (Tamrasatiya),
bộ phái của các tu sĩ mặc y màu đồng đỏ và là
một nhánh nhỏ của Phân Biệt Thuyết Bộ [12,
t.17-18]. So với các tông phái khác vẫn còn hoạt
động ngày nay, truyền thống Theravada có thể
được xem như là một truyền thống tương đối
lâu đời nhất, tương đối gần với thời kỳ nguyên
thủy nhất.
4. Thời
Kỳ Chuyển Hóa: Mahayana
Khoảng 200 năm sau ngày Phật
nhập Niết Bàn, phái Ðại Chúng Bộ bành trướng
tại nhiều vùng của xứ Ấn Ðộ và bắt đầu
phân hóa thành nhiều tông phái, trong đó có
tông phái Lokottaravada (Thuyết Xuất Thế). Tuy
nhiên, trong thời kỳ đầu, các tông phái đều sử
dụng kinh điển A hàm (Agama) bằng ngôn ngữ
Sanskrit, mặc dù đã có một vài sửa đổi để
hàm chứa tư tưởng đại thừa. Cho đến nay, các
sử liệu đều chỉ rằng kinh điển đại
thừa bắt đầu xuất hiện trong những năm cuối
cùng trước Công nguyên, lúc đầu là một vài bài
kinh ngắn, về sau được bổ sung thêm và bành
trướng, kết tập lại thành những bộ kinh lớn.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa
biết đích xác là danh xưng Mahayana - Ðại Thừa
bắt đầu được sử dụng vào lúc nào, bắt nguồn từ
tông phái nào trong thời kỳ bộ phái. Ðầu tiên, danh
xưng Bồ Tát Thừa được dùng, rồi dần dần về
sau, danh xưng Ðại Thừa xuất hiện trong các bộ
kinh mới. Bộ kinh đầu tiên có đề cập đến
danh xưng nầy là bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Có
lẽ đó là kết tụ của những tiến hóa tư
tưởng trong mấy trăm năm sau khi có sự phân hóa
tăng đoàn lần đầu tiên. Có học giả cho rằng
Mahayana bắt nguồn từ Ðại Chúng Bộ vì cùng có
những ý niệm phóng khoáng trong giới luật. Tuy
nhiên các ý tưởng của tông phái Thuyết Nhất
Thiết Hữu Bộ (Sarvastivadin), một tông chính của
Trưởng Lão Bộ, cũng được thu dụng và hàm chứa
trong kinh điển Mahayana. Có học giả cho rằng
Mahayana phát nguồn từ các tu sĩ có tư tưởng cải
cách từ nhiều tông phái khác nhau, như tông Nhất
Thuyết Bộ (Ekavyavaharika), Thuyết Xuất Thế
Bộ (Lokottaravadin), Kế Dẫn Bộ (Kaukutika), v.v...
[2, t. 261].
Kinh điển Ðại thừa bắt
đầu xuất hiện nhiều hơn, có hệ thống
hơn, từ thế kỷ 1 C.N. trở về sau. Tiếc
rằng các bộ kinh đầu tiên, như Kinh Duy Ma Cật, Liễu
Ba La Mật, Bồ Tát Tạng, Tam Pháp Kinh, v.v... nay không
còn nguyên bản Sanskrit, mà chỉ còn dịch bản chữ
Hán và Tây Tạng, nên không thể đối chiếu,
truy tầm nguồn gốc [2, t. 276]. Tuy nhiên các bộ kinh
đại thừa quan trọng khác như Ðại Bát Nhã, Pháp
Hoa, Hoa Nghiêm, A Di Ðà vẫn còn các bản gốc
tiếng Sanskrit [2, t. 275-295].
Sự xuất hiện các bộ kinh
đại thừa và sau đó là các quyển luận
thuyết của các ngài Mã Minh, Long Thọ, Long
Trí, Ðề Bà, Vô Trước, Thế Thân trong bốn
thế kỷ đầu Công nguyên đánh dấu sự thành
hình và bành trướng nhanh chóng của Phật giáo
Mahayana trong toàn xứ Ấn Ðộ. Ảnh
hưởng nầy đã dần dần lan rộng sang Trung Hoa, và từ
đó có những phong trào truyền bá, chuyển
dịch kinh điển ở Trung Hoa qua nhiều thế
kỷ, từ thế kỷ 1 đến thế kỷ 7
C.N., qua ba ngõ giao thông chính: đầu tiên là qua
miền Trung Á, qua ngõ Nepal - Tây Tạng, và bằng
đường biển.
5. Cùng
một cỗ xe: Pháp thừa (Dhammayana)
Tóm lại, trong 100 năm sau khi
Ðức Phật tịch diệt, giữa Ðại Hội Kết Tập
Lần I và II, Ðạo Phật được xem như là ở trong
thời kỳ nguyên thủy, với một tăng đoàn tương đối
còn ít, có nhiều liên hệ chặt chẻ, giới
luật thuần nhất, dưới sự lãnh đạo của các cao
tăng vốn đã xuất gia và thọ giới khi Ðức Phật
còn tại thế.
Sang thời kỳ bộ phái, kéo dài
khoảng 400 năm từ sau Ðại Hội II cho đến đầu
Công nguyên, các mầm mống phân hoá đã bắt đầu
xuất hiện, với sự phân chia thành hai Bộ, và sau
đó tiếp tục phân hóa thành 18 tông. Qua Ðại
Hội III được tổ chức dưới triều vua A Dục,
việc kết tập Kinh Tạng và Thắng Pháp Tạng xem
như đã hoàn tất. Mặc dù trong thời kỳ nầy các kinh
A Hàm và giới luật nguyên thủy vẫn được các tông
phái tôn trọng - với những cách diễn dịch khác
nhau - các ý tưởng canh tân, đại chúng hóa đạo
pháp bắt đầu thành hình, nhất là trong thế
kỷ cuối cùng trước Công nguyên.
Thời kỳ tiếp theo là thời
kỳ chuyển hóa, kéo dài khoảng 500 năm cho
đến đầu thế kỷ 6. Trong thời kỳ nầy,
Phật giáo bắt đầu có hai hướng phát triển khác
nhau, và kéo dài ảnh hưởng đến ngày nay. Từ
Ấn Ðộ, đạo Phật được truyền về hướng
Nam, sang đảo Tích Lan, và tạo lập một căn bản vững
chắc ở đó. Ðại Hội Kết Tập lần IV tại Tích
Lan đánh dấu việc ghi chép toàn bộ Tam Tạng Kinh
- Luật - Thắng Pháp trên lá bối, và được lưu
truyền cho đến ngày nay qua truyền thống
Theravada.
Cũng trong thời kỳ nầy, các
tư tưởng canh tân của Ðại thừa đã bắt đầu tạo
ảnh hưởng lớn mạnh, qua các bộ kinh điển mới
và qua các bộ luận thuyết của các danh tăng vào
giữa và cuối thời kỳ nầy. Các tông phái Ðại thừa
bắt đầu xuất hiện và tăng trưởng nhanh chóng.
Ðạo Phật truyền sang mạn Tây Bắc, tạo lập trung
tâm Phật giáo ở Kashmir, và từ đó truyền vào
Trung Hoa.
Khi đạo Phật bắt đầu bành
trướng ở Trung Hoa, tăng đoàn ở đó đã thu nhận
và chuyển dịch rất nhiều kinh điển, từ
nhiều nguồn gốc và tông phái khác nhau, và qua
nhiều thời kỳ lịch sử. Các bộ Tam Tạng nguyên
thủy được dịch ra chữ Hán từ hai, ba tông phái
khác nhau, chẳng hạn như từ tông Thuyết Xuất
Thế Bộ và Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ. Các
bộ kinh chính của Ðại thừa cũng thế, có
nhiều thay đổi theo thời gian, và được bổ sung,
sửa chữa nhiều lần. Có khi các bộ kinh nầy chỉ
được truyền khẩu bằng tiếng Phạn vào Trung
Hoa, rồi sau đó mới được dịch, giản lược, nhuận
sắc và ghi chép lại [5, t. 365-368]. Có khi các danh
tăng Trung Hoa du hành sang Ấn Ðộ học tập rồi
mang về các bộ kinh điển để phiên dịch
và phổ biến trong nước. Cũng có những bộ kinh
không có nguồn gốc rõ ràng và có lẽ đã được
trước tác tại Trung Hoa. Ngài Ðạo An trong thời
Ðông Tấn, thế kỷ thứ 4 CN, đã từng đặt
vấn đề "kinh nghi ngụy" để xác
định kinh thật, kinh giả. Cả hai truyền thống
chính -- Theravada và Mahayana -- đều có mặt tại
xứ nầy trong thời gian đó.
Ðể sắp xếp và thống
nhất nguồn gốc của các loại kinh điển, các tăng
sĩ thời đó đã đưa ra nhiều giả thuyết
khác nhau (các học thuyết "phán
giáo"). Trong đó, thuyết của ngài Trí Giả,
tông Thiên Thai , là phổ thông nhất và vẫn còn thấy
lưu dụng cho đến ngày nay trong một số sách Phật
giáo. Ngài cho rằng Ðức Phật đã giảng kinh pháp
trong 5 thời kỳ (ngũ thời phán giáo): Hoa Nghiêm, A
Hàm, Phương Ðẳng, Bát Nhã, và Pháp Hoa - Ðại
Niết Bàn [5, t. 442], và vì thế có nhiều
loại kinh điển từ nhiều tông phái khác nhau.
Tuy nhiên, đây chỉ là một lối giải thích chủ quan
để tổng hợp, hệ thống hóa toàn bộ kinh
điển và biện minh sự siêu việt của Pháp
Hoa tông mà thôi. Giả thuyết nầy không có chứng
liệu lịch sử, và không được các nhà nghiên
cứu sử học Phật giáo ngày nay công nhận [5, t.
305-310; 6, t. 151-152].
Tại Tích Lan cũng thế,
trong những thế kỷ đầu tiên, cả hai
truyền thống Mahayana và Theravada đều có mặt
tại xứ nầy, mặc dù truyền thống Theravada có ảnh
hưởng mạnh hơn, như ngài Pháp Hiển đã ghi nhận
trong quyển Phật Quốc Ký [8, Ch. 2]. Ngài cũng
ghi nhận là có các nhóm tu sĩ phái Ðại Tự
Viện, tuy là Theravada nhưng có tinh thần đại
thừa rất cao [2, t. 275]. Còn tại Ấn Ðộ, các
ngài Huyền Trang [9] và Pháp Hiển đều ghi
nhận sự hoạt động hài hòa của nhiều tông phái
khác nhau trong nhiều thế kỷ.
Ở Việt Nam, cả hai tông
phái Mahayana và Theravada đều được công nhận
và cùng chung nhau hoạt động trong công tác hoằng
dương đạo pháp. Hiến chương Phật giáo Việt
Nam soạn ra năm 1963 đã chính thức xác nhận
điều đó [4, t. 394]. Tuy nhiên, để tránh
hiểu lầm, chúng ta không nên dùng chữ
"Tiểu thừa" để gọi tông phái
Theravada. Ðiều nầy thường gặp trong một số sách
báo và bài viết về đạo Phật. Thật ra,
"Tiểu thừa" là dịch từ chữ
"Hinayana" -- cỗ xe nhỏ -- một chữ dùng
rất nhiều trong kinh điển và luận thuyết
Ðại thừa, có hàm ý chê bai, khinh miệt. Có
lẽ đây là một dụng ý thâm sâu của các tu sĩ
luận sư Ðại thừa để chê bai các bộ phái
nguyên thủy, bởi vì nếu họ chỉ có ý
muốn diễn tả một cỗ xe nhỏ thì danh từ
"Culayana" có ý nghĩa chính xác và
nghiêm túc hơn.
Cũng cần ghi nhận ở đây là
các danh xưng Ðại thừa và Tiểu thừa chỉ thấy
đề cập trong kinh luận Mahayana xuất hiện
về sau, mà không thấy trong kinh điển nguyên
thủy. Trong hệ Pali Nikaya cũng như hệ Hán
tạng A-hàm, Ðức Phật có dạy ngài Ananda về một
cỗ xe Pháp duy nhất, Pháp thừa
(Dhammayana), đó là Con Ðường Tám Chánh
(Bát Chánh Ðạo), như đã ghi lại trong Tương Ưng
Bộ và Tạp A-hàm (SN XLV.4, SA 769):
"Này Ananda, Con
Ðường Tám Chánh nầy là đồng nghĩa với cỗ
xe tối thượng, là cỗ xe Pháp, là sự
chiến thắng vô thượng trong mọi chiến
trận nhiếp phục tham, sân, si."
Khi đọc kinh điển,
chúng ta cần phải hiểu rõ hoàn cảnh lịch sử xã
hội khi các kinh nầy được tạo ra. Các kinh Ðại
thừa được trước tác và xuất hiện vào cuối
thời kỳ bộ phái, nghĩa là khoảng 400-500 năm sau khi
Ðức Phật tịch diệt. Ðây là các tư tưởng cải
cách để đại chúng hóa đạo Phật, đối kháng
lại đường lối thủ cựu, giáo điều, chấp
kiến và vị kỷ của một số tu sĩ trong giới
lãnh đạo tăng đoàn của nhiều tông phái thời
bấy giờ, chứ không phải để ám chỉ riêng
biệt một tông phái nào cả [2, t. 257].
Khuynh hướng ngày nay là dùng
chữ Mahayana và Theravada nguyên ngữ để chỉ hai
tông phái chính nầy. Khi dịch sang Việt ngữ,
thường thì chúng ta dùng danh từ Phật Giáo Ðại
Thừa và Phật Giáo Nguyên Thủy, nhưng cũng có sách
dùng danh từ Phật Giáo Bắc Truyền (Bắc Tông) và
Phật Giáo Nam Truyền (Nam Tông) để chỉ hướng
truyền đạo của Phật Pháp trong thời kỳ
chuyển hóa [7, t. 202]. Gần đây lại thấy có sách
dùng danh xưng Phật Giáo Nguyên Thủy (Theravada) và
Phật Giáo Phát Triển (Mahayana) cho hai hệ phái
chính ở Việt Nam [13, t. 7].
Dù là tông phái nào đi nữa,
đó cũng chỉ là giáo pháp phương tiện giúp ta
tu tâm tịnh ý để được an lạc và giải
thoát. Cần phải hiểu rõ nguồn gốc và hoàn cảnh
lịch sử trong tiến trình phát triển các bộ
kinh điển và tông phái, để có được một
sự thông cảm, hòa đồng và tương kính. Trong kinh
Pháp Hoa, Phật có nói: "Chư Phật chỉ dùng
một cỗ xe duy nhất đưa đến giải thoát (Nhất
thừa Phật đạo), không có hai mà cũng chẳng có
ba", và trong Tiểu Bộ và Tăng Chi Bộ
của kinh tạng nguyên thủy, Ngài cũng dạy rằng: "Như
tất cả các đại dương đều có cùng một vị
mặn, các giáo pháp của Ta cũng chỉ có một vị duy
nhất, đó là vị giải thoát."
Bình
Anson,
Perth, Western Australia
Tháng 04, 1996
Hiệu đính: Tháng 10, 1999
Tham
Khảo
[1]. Thích Nhất Hạnh (1990),
Con đường chuyển hóa. NXB Lá Bối, San Jose.
[2]. Hirakawa Akira (1993), A history of Indian Buddhism.
Motilal Banarsidass, Delhi
[3]. Samanera Bodhesakho (1984), Beginnings: The Pali
Suttas. Buddhist Publication Society, Kandy.
[4]. Thích Ðức Nhuận (1983), Phật học tinh hoa.
Phật học viện Quốc tế, California.
[5]. Kenneth Chen (1964), Buddhism in China. Princeton
University Press, Princeton.
[6]. Noble R. Reat (1994), Buddhism - A history. Asian
Humanities Press, Berkeley.
[7]. Thích Minh Châu và Minh Chi (1991), Từ
điển Phật học Việt Nam. NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội.
[8]. Thích Minh Châu (1997), Pháp Hiển -- Nhà
chiêm bái. Viện Nghiên cứu Phật học
Việt Nam. Sài Gòn.
[9]. Thích Minh Châu (1988), Huyền Trang -- Nhà
chiêm bái và học giả. Phật học viện
Quốc tế, California.
[10]. Thích Minh Tuệ (1993), Lược sử Phật Giáo
Việt Nam. Chùa Xá Lợi. Sài Gòn.
[11]. Lê Minh Qui (1981), Hòa thượng Hộ Tông. Trung
tâm Narada, Seatle.
[12]. Thích Nhất Hạnh (1993), Kinh Người áo trắng.
NXB Lá Bối, San Jose.
[13]. Thích Thanh Từ (1999), Chánh tín và mê tín.
Nguyệt san Giác Ngộ, số 35, tháng 2-1999, Sài
Gòn.