THIÊN THỨ
MƯỜI BA (d)
NHỮNG
CHUYỆN LẠ XẢY RA TRONG BỐN MƯƠI LĂM NĂM
TRUYỀN ÐẠO CỦA ÐỨC PHẬT TỔ CỒ ÐÀM (tt)
-ooOoo-
HÓA ÐỘ
PHẠM THIÊN TÀ KIẾN PHAKÀ
DUGGÀHADITTHIBHUJAGENA
SUDATTHA- HATTHAM
BHRAHMAM VISUDDHIJUTIMIDDHIBA KÀBHID- HÀNAM.
NÀNÀGADENA VIDHINÀ JITAVÀ MUNINDO
TANTEJASÀ BHAVATU TE JAYAMANGALÀNI.
Nghĩa: Ðức Phật cảm
thắng Phạm Thiên tên Bá Ca (Phakà) người tự cho mình là
cao thượng vì đức trong sạch có thần thông và chấp hẳn
tà kiến. Ðức Chánh Biến Tri đã cảm thắng được vị Ðại
Phạm Thiên ấy. Do nhờ Phật lực nầy, xin cho sự hạnh
phúc phát sanh đến người.
CHUYỆN TÍCH
Lúc nọ đức Ðại
Giác ngự tại Kỳ Viên tịnh xá của Trưởng giả Cấp Cô
Ðộc gần thành Thất La Phiệt. Ngài gọi chư Tỳ khưu Tăng
đến và dạy rằng: Nầy các thầy Tỳ khưu, có lúc nọ Như
Lai ngự dưới cội cây to tại rừng Subhavana. Khi ấy tâm của
vị Phạm Thiên tên là Bá Ca sanh tà kiến nghĩ rằng: Không
có già, không có chết, cũng không có Niết Bàn. Nầy chư Tỳ
khưu khi ấy Như Lai hiểu rõ ý nghĩ của vị Phạm Thiên, đứng
lên, trong nháy mắt Như Lai ở trong cõi Phạm Thiên, cũng ví
như người duỗi tay ra và co vào.
Khi Phạm Thiên Bá Ca thấy
Như Lai từ xa ngự đến; liền tỏ lời thỉnh cầu Như Lai
ngự vào tòa lầu đài của y. Xong mới bày tỏ ý tưởng, và
sự tin tưởng của ông ta.
Khi ấy Như Lai liền dạy
rằng: Nầy Phạm Thiên, ta lấy làm kinh sợ dùm ngươi, vì
ngươi đã bị vô minh che ám, làm tối mê, nói lời tà kiến.
Những vật gì không thường ngươi cho là thường, vật gì
bị hư hại ngươi lại cho là bền vững. Hơn nữa ngươi lại
có ý kiến si mê lầm lẫn rằng: Vật nầy không già, không
chết, không thay đổi, không sanh. Ngươi lại nói: Vật gì rất
cao quí là nhân diệt khổ, vật ấy không bao giờ có. Nầy
Bá Ca những lời của người nói toàn là lời tà kiến. Vì
nguyên nhân bởi Ma vương theo bên ngươi và tìm thế phá hoại
đời ngươi. (Ma vương nơi đây đức Thế Tôn ngụ ý dạy
là Phiền não Ma vương).
Nầy các thầy Tỳ khưu,
Như Lai biết rõ rằng: Ma vương đã ngự trị trong tâm của
Phạm Thiên tên Bá Ca, nên Phạm Thiên Bá Ca mới nói với Như
Lai như vậy. Khi ấy Như Lai liền dạy rằng: Nầy Ma vương,
ngươi là hạng ác quỉ. Chắc ngươi tưởng rằng: Như Lai
không biết: ngươi đang tàng ẩn trong thâm tâm của Phạm
Thiên Bá Ca để làm cho Phạm Thiên Bá Ca phải bị dưới
quyền sai khiến của ngươi. Ngươi lầm tưởng rằng:
Ngươi là thiện nhân, Như Lai là đấng tối cao trong tam giới
không ở dưới quyền kiểm soát của ngươi. Như Lai đã tạo
ra Trí tuệ Ba la mật đến bờ cao thượng. Nầy các thầy Tỳ
khưu khi Như Lai dạy như vậy Phạm Thiện Bá Ca mới nói với
Như Lai rằng: Nầy người giải thoát kia, không có vật gì
hoàn toàn an vui giải thoát khỏi bốn cái khổ vĩ đại đâu.
Như Lai liền dạy rằng:
Như Lai đã biết rằng: Ngươi có thần thông quảng đại. Rồi
Như Lai bảo cho Phạm Thiên biết rằng: Trí tuệ của Như
Lai có thể hiểu thông những gì trong tam giới mà không có
nhân vật nào hiểu rõ được. Như Lai có trí tuệ hiểu rõ
quả của chúng sanh thọ hưởng đã làm trong kiếp trước và
đời vị lai, Như Lai biết rõ việc trong tam thế của tất
cả chúng sanh như hiểu rõ có bao nhiêu nước của đại
dương. Như Lai là đấng có trí tuệ vô lượng vô biên hơn
tất cả nhân vật trong tam giới. Như Lai được hồng danh là
đấng Cao thư?ng hơn tất cả chư Thiên, Phạm Thiên và nhân
loại bởi Như Lai là đấng có trí tuệ vô lượng vô biên.
Phạm Thiên liền nói:
Nầy người tìm cõi chết kia ơi, người đến khoe với ta rằng:
Thấy rõ quả tội phước của chúng sanh, ta vẫn chưa tin, vậy
ông không nên nói lời ấy với ta nữa, ông là người tà
kiến đáng lẽ ra phải bị đọa vào địa ngục.
Như Lai liền bảo rằng:
Nầy Phạm Thiên, ngươi dùng câu ấy nói với Như Lai có
ích chi cho ngươi. Tất cả chư Phật quá khứ hằng có tâm
từ bi thuyết pháp độ tín đồ đắc đạo quả nhiều không
số kể. Như Lai cũng thuyết pháp độ đời như các vị
quá khứ. Nầy Phạm Thiên, ngươi không nên theo về tà kiến.
Không phải tà kiến chỉ xấu không thôi mà nó lại là
nguyên nhân làm hại cho người làm những điều tội ác. Nầy
Phạm Thiên, ngươi hằng tự khoe mình là bực có thần
thông quảng đại không ai bằng. Vậy ngươi hãy tàng hình
cho ta xem ta mới khen ngươi.
Phạm Thiên tàng hình
liền, nhưng đức Thế Tôn dùng thần thông không cho y dùng
phép ấy được. Khi Ngài để cho ông ta tàng hình được Ngài
lại chỉ chỗ của ông ta đang ẩn trú nơi đầu non góc
núi nào cũng như là ở ngay trước mắt Ngài. Phạm Thiên tức
mình liền hóa ra một hột cát ở giữa đại dương. Ðức
Thế Tôn liền lượm hột cát ấy lên để trong lòng bàn
tay. Thật tam giới rộng lớn vô lượng vô biên nơi nào Phạm
Thiên cũng có thể đến được. Nhưng không có chỗ nào khả
dĩ gọi là trốn khỏi đức Thế Tôn được. Phạm Thiên
Bá Ca lấy làm hổ thẹn mới trở vào ngồi trong lầu của
ông ta. Khi đức Thế Tôn vừa ngự đến thì chư Phạm Thiên
hàng chánh kiến liền rủ nhau đến nơi Phật ngự để nghe
đức Thế Tôn thuyết pháp độ ông Phạm Thiên tà kiến ấy,
khi thấy ông Phạm Thiên Bá Ca không còn lối nào thoát khỏi
Tuệ giác Phật, nên đồng hoan hô đức Thế Tôn và cười
chê vị Phạm Thiên tà kiến kia.
Phạm Thiên Bá Ca không
thể chịu được lời cười chê của các vị Phạm Thiên
khác, nên ông lại nói với đức Phật rằng: Nầy ông Sa
môn, vậy ông hãy tàng hình đi, nếu ông tránh khỏi mắt ta
thì ta khen ông.
Nói dứt tiếng thì đức
Thế Tôn biến mất liền, chẳng những là ông Phạm Thiên
tà kiến ấy không thấy mà tất cả chư Phạm Thiên có mặt
nơi ấy cũng không ai trông thấy cả. Khi ấy các vị Phạm
Thiên đều nghe tiếng đức Thế Tôn thuyết pháp ở giữa
đám Phạm Thiên mà không sao thấy người. Thuyết xong thời
pháp Ngài liền hiện ra cho chư Phạm Thiên thấy.
Lại bị thất bại một
lần nữa nên ông Phạm Thiên Bá Ca cả thẹn đi một nơi xa
các vị Phạm Thiên khác. Ðức Thế Tôn nghĩ: Phạm Thiên
Bá Ca là người có thần thông hơn cả các vị khác, mà
tìm nơi ngồi yên như thế nầy, chắc chắn y buồn phiền lắm,
vậy ta phải làm sao hóa độ cho được. Rồi đức Thế Tôn
liền cố tình thuyết pháp những chuyện tích của ông Phạm
Thiên Bá Ca đã làm khi xưa mà chính bản thân ông ta cũng không
nhớ và biết được, nhờ đức Thế Tôn nhắc nên ông được
nhớ thêm năm trăm kiếp trước kiếp ấy, đến cùng năm
trăm kiếp ấy ông không còn biết được thêm. Ðức Thế
Tôn lại nhắc cho ông ta nhớ thêm một kiếp nữa là làm
cho ông nhớ thêm được năm trăm kiếp nữa. Ðức Thế Tôn
hành động như thế nhiều lần làm cho Phạm Thiên ấy cảm
phục trí tuệ vô lượng vô biên của đấng Ðại Giác và
ông ta tin chắc rằng: Ông ta không thể nào bằng đức Thế
Tôn được. Ông phát tâm trong sạch và kính mến đức Thế
Tôn nên ông bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn, Ngài là
đấng Ðại Từ Bi nên Ngài mới ngự đến cõi Phạm Thiên
nầy, dùng hào quang của Ngài sáng bao trùm cả cõi Phạm
Thiên, Ngài lại còn dùng ánh sáng giải thoát là Pháp bảo
đem tiền tích của tôi ra nhắc tôi. Nhờ nơi ấy mà làm
cho trí tuệ tôi phát sanh, suy nghĩ thấy vô số kiếp luân hồi
của tôi từ trước. Thật đức Thế Tôn là đấng siêu việt
cao cả nhứt trong tam thế. Tôi đã phá được lưới vô
minh và tà kiến.
Khi đức Thế Tôn biết
rằng: Phạm Thiên Bá Ca đã diệt được tà kiến nên Ngài
thuyết: Nầy Phạm Thiên, Như Lai là đấng cao cả, trưởng
thượng hơn hết trong tam giới nầy, là đấng mà chúng sanh
nương nhờ được. Hơn ấy nữa tâm của Như Lai không hề
rung động và bão tố. Rồi đức Thế Tôn thuyết Tứ Diệu
Ðế.
Sau khi dứt thời pháp
có một muôn vị Phạm Thiên đắc đạo quả và phát tâm
trong sạch với Tam bảo.
Riêng Ma vương cảm thấy
rất hổ thẹn vì nghĩ rằng: Nếu như thế nầy thì nền
móng của ta sắp bị sụp đổ. Vậy ta phải nhập vào làm
cho vị Phạm Thiên nầy chống lại với ông Sa môn Cồ
Ðàm. Nghĩ xong Ma vương liền nhập vào cho vị Phạm Thiên.
Vị Ðại Phạm Thiên ấy liền nói: Thưa ông Sa môn Cồ
Ðàm, Ngài đem pháp Tứ Diệu Ðế ra dạy tín đồ chắc chắn
sẽ không đem gì lợi ích lại cho đệ tử ông đâu. Vì họ
sẽ bị đọa vào bốn đường ác để chịu khổ thôi. Vậy
từ đây Ngài đừng bao giờ đem lý thuyết ra dạy đời nữa.
Tất cả Phạm Thiên có mặt nơi đây đều là nhờ cúng dường
thần lửa, nên được sanh vào cõi nầy.
Ðức Thế Tôn lại dạy
vị Ðại Phạm Thiên ấy một lần nữa và cho Ma vương biết
rằng: Nên chuẩn bị trốn đi là vừa.
Phạm Thiên Bá Ca hết
lòng trong sạch vâng giữ hành theo lời Phật dạy, hành theo
Vô thường, Khổ não, Vô ngã, nghĩa là dùng Minh sát tuệ nhớ
đến những pháp ấy không dám dễ duôi, và hết lòng ca tụng
công đức Tam bảo.
Ðức Thế Tôn biết
các vị Phạm Thiên ấy không còn tà kiến nữa nên Ngài trở
về cõi đời.
Ðây tôi (tác giả) sưu
tầm tám tích nầy để phối hợp tám câu kệ ngôn trong
kinh tụng của Ngài Ðại Ðức Hộ Tông. Và chỉ thêm hầu
quí vị thấy rằng: Ðây là những chuyện lạ trong thời kỳ
Phật còn tại thế và bốn mươi lăm năm thuyết pháp của
Ngài gặp những chuyện rắc rối như quí Ngài đã thấy.
CHUYỆN ÐỨC
VUA SUPPABUDDHA (THIỆN GIÁC)
Khi đức Thế Tôn ngự
tại chùa Nigrodha ở kinh đô Ca Tỳ La Vệ. Ðức vua
Suppabuddha (Tàu dịch Thiện Giác) cột oan trái với Phật rằng:
Sĩ Ðạt Ta bỏ con gái ta là Gia Du Ðà La đi xuất gia, con
trai ta là Ðề Bà Ðạt Ða cũng xuất gia theo, Sĩ Ðạt Ta cũng
chẳng ngó ngàng gì tới, trái lại còn oán thù ghét bỏ con
ta.
Ngày kia ông nghĩ rằng:
Ta sẽ không cho Sĩ Ðạt Ta đi thọ thực nơi nhà thí chủ
thỉnh cầu đến để cúng dường. Ngài liền truyền quân lấy
chướng ngại vật bít đường không cho đức Thế Tôn ngự
đi thọ thực. Còn Ngài thì ngự nơi giữa đường uống nước.
Khi đức Thế Tôn và
chư Tăng ngự đến nơi ấy không đi tới được, có người
đến tâu với Ngài rằng: Có đức Thế Tôn ngự đến ngang
qua nơi nầy.
Ngài bảo: Các người
hãy trở lại và bảo cho Thái tử Sĩ Ðạt Ta biết rằng: Sĩ
Ðạt Ta không lớn hơn ta, nên ta không nhường đường cho
Sĩ Ðạt Ta.
Mặc dầu những người
ấy hết lòng van xin cầu khẩn, Ngài cũng nhứt định không
bao giờ nhường đường cho đức Thế Tôn ngự qua. Ngài ngồi
tự nhiên và uống trà.
Ðức Thế Tôn bị chận
đường nên không đi được, Ngài liền ngự trở về. Ðức
vua Thiện Giác thấy đức Thế Tôn trở về Ngài liền cho mật
vụ của Ngài theo và dạy rằng: Ngươi hãy theo dò coi Sa
môn Cồ Ðàm có nói gì về việc ta cản đường không và
trở lại cho ta biết.
Khi đức Thế Tôn ngự
trở về Ngài không hề nói lời nào nhưng chỉ mỉm cười
thôi. Ðức Ananda lấy làm lạ vì vị Chánh đẳng Chánh
giác không bao giờ cười vì vui hay tỏ vẻ buồn. Nên Ngài
liền hỏi đức Thế Tôn: Bạch đức Thế Tôn có chuyện
chi lạ mà Ngài mỉm cười.
- Nầy Ananda , ngươi có
thấy đức vua Thiện Giác chớ?
- Bạch Ngài, có thấy.
- Ngài chận đường của
một đ?ng Giác Ngộ như Như Lai, Ngài sẽ bị đất rút chết
tại nơi chân thang lầu của Ngài vào ngày thứ bảy kể từ
ngày hôm nay. (Nghĩa là bỏ hôm nay còn sáu ngày nữa).
Mật thám của nhà vua
nghe vậy liền về báo cho Ngài biết. Ðức vua nghe vậy mới
phán rằng: Lẽ thường, nếu cháu ta nói điều nào thì chắc
chắn là không sai chạy, vậy lần nầy ta phải làm sao cho
cháu ta thành ra kẻ nói dối mới được. Nó nói ta bị đất
rút tại chân cầu thang. Vậy thì kể từ hôm nay tới ngày
thứ bảy ta sẽ không xuống nơi chân cầu thang; thì làm gì
có chuyện ấy. Ðến khi quá bảy ngày thì ta lại bêu xấu
chuyện nầy.
Ðức vua liền truyền
đem những vật mà Ngài thường cần dùng hết lên từng lầu
thứ bảy, rồi Ngài ngự trên từng lầu ấy, xong Ngài dạy
đem thang lầu đi nơi khác; Ngài định không có thang thì
Ngài không thể quên mà xuống đất được. Nơi cửa phòng
Ngài để một đô vật thật tài; và mỗi từng lầu đều
có để đô vật ở nơi ấy. Ngài dạy rằng: Khi nào thấy
ta ra cửa nên đẩy vào, và khi nào ta đến thang lầu nên
ném ta vào, hay ta xuống tới từng dưới thì các ngươi hãy
ném ta lên. Sự sắp đặt của Ngài thật chu đáo, thời
gian lặng lẽ qua sáu ngày rồi không có chuyện gì xảy ra.
Ðức Thế Tôn nghe sự
canh phòng cẩn mật của nhà vua Ngài mới thuyết rằng: Nầy
các thầy Tỳ khưu, đức vua Thiện Giác ở trên từng lầu
bảy như vậy cũng còn chưa đủ, dầu cho Ngài có ngự trên
tảng đá giữa hư không, hay ngồi trên hư không, hoặc đi
thuyền ra giữa đại dương hay là ngồi trong hòm kín.
Một khi mà đức Chánh
đẳng Chánh giác đã nói thì lời nói ấy không bao giờ sai
chạy. Ðức vua sẽ bị đất rút như lời của Như Lai đã
tiên tri. Ðức Thế Tôn liền thuyết câu kệ:
NA ANTALIKKHE NA
SAMUDDAMAJJHE
NA PABBATÀNAM VIVARAM PAVISSA
NA VIJJATI SO JAGATIPPADESO
YATTHATTHITO MUCCEYYA PAPAKAMMA.
Nghĩa: Người ở trong
hư không không tránh khỏi tử thần. Người giữa đại
dương cũng chẳng tránh khỏi tử thần. Người vào ẩn
trong hang núi cũng chẳng tránh khỏi tử thần. Trong vũ trụ
nầy không có nơi nào có thể tránh khỏi tay tử thần được.
Chú giải: Ý câu nầy
đức Phật dạy người mà muốn trốn tử thần nơi nào
trong tam giới nầy đều không thể thoát khỏi. Sau khi dứt
câu kệ có rất nhiều vị đắc Tu-đà-hườn quả.
Ðến ngày thứ bảy, bỗng
dưng con ngựa của đức vua Thiện Giác lại sút chuồng. Con
ngựa nầy hung dữ như sư tử khi sút chuồng ra gặp ai cắn
nầy, ngoại trừ đức vua ra thì không còn ai trị nó được.
Khi ấy đức vua đang ngự trên từng lầu thứ bảy, nghe tiếng
huyên náo ở dưới, Ngài mới ngự ra nơi hành lang để xem
coi chuyện gì. Quan hầu cho Ngài biết rằng: Ngựa sút chuồng
đang cắn giết người.
Ðức vua nghe vậy lật
đật chạy ra cửa xuống lầu để bắt ngựa. Những đô vật
mà Ngài cắt để canh Ngài, thầy Ngài ra liền ôm lấy Ngài
liệng xuống từng lầu sáu thay vì đẩy vào phòng. Các đô
vật từng lầu sáu lại ôm Ngài thảy xuống từng lầu năm
nhưng họ nghĩ rằng: Thảy trở lên lầu bảy. Cứ tuần tự
như vậy đức vua tới từng dưới hết và nơi chân cầu
thang là nấm mộ của Ngài.
Ngài bị đất rút và
chết lại sanh vào A tỳ địa ngục là do nơi nghiệp của
Ngài là cản đường không cho Phật đi thọ thực.
GIẢNG
HÒA QUYẾN THUỘC
Lúc nọ lúa sắp chín
mà trời hạn làm cho hai nước dòng Thích Ca và dòng Koliya
(họ ngoại của đức Thế Tôn) lấy làm lo ngại cho số phận
ruộng lúa của mình. Nên hội cả hai nước lại để nghị
định sử dụng nước của con sông Rohinì. Giòng sông nầy
là ranh giới của hai nước.
Người dòng Koliya nói:
Sông Rohinì đã nhỏ lại nhằm lúc hạn hán nên nước rất
là ít, nếu đem chia ra làm hai bên thì không bên nào được
nước đủ để cung cấp cho ruộng lúa. Vậy xin quí vị nhường
nước ấy cho chúng tôi.
Dòng Thích Ca nói: Nếu
vậy thì vựa lúa của qúi quốc sẽ đầy, còn chúng tôi
thì có gì. Vậy xin qúi vị nhường nước ấy lại cho chúng
tôi.
- Chúng tôi không thể
nào nhường được.
- Chúng tôi cũng vậy.
Hai bên cãi nhau bằng lời
hết sức không phân được nên dùng đến võ lực. Dòng
Koliya mới nói: Bọn chúng bây đem những đứa trẻ con xứ
Ca Tỳ La Vệ đến đây, cái bọn lấy em gái mình làm vợ,
bọn ấy ví như bầy chó rừng. Tượng binh, xa binh, mã binh,
và khí cụ của bọn ấy có làm gì được chúng ta.
Còn những người dòng
Thích Ca thì nói rằng: Các người nên về gọi những đứa
bị bịnh cùi mà người ta đã ruồng bỏ; những kẻ ấy sống
cách cô đơn không nơi nương tựa, sống trong bọng cây như
những con thú ở hang thì tượng binh, xa binh, mã binh và khí
giới của bọn ấy lại làm gì được chúng ta.
(Quí vị muốn biết tại
sao hai bên chưởi mắng nhau như vậy xin xem Tiểu sử Thái tử
Sĩ Ðạt Ta cùng một tác giả).
Những người đã gây
sự với nhau toàn là quan quân chớ không có một vị hoàng
tộc nào nơi đây. Khi trở về, những người ấy thuật lại
những câu chưởi nhau làm cho hai dòng có tình quyến thuộc
nóng giận.
Bên dòng Thích Ca hội
nhau lại bàn với nhau rằng: Chúng ta phải tỏ cho họ biết
rằng: Tài của những người lấy em gái làm vợ ra thế
nào? Rồi truyền chuẩn bị quân mã chỉnh tề kéo ra nơi bờ
sông Rohinì .
Dòng Koliya cùng hội
nhau lại và bảo nhau rằng: Chúng ta phải cho bọn nầy biết
uy lực của những kẻ ở trong bọng cây ra sao? Rồi cũng
đưa binh mã ra trận nơi mé sông Rohinì .
Sáng ngày hôm ấy, đức
Thế Tôn dùng tuệ nhãn xem coi chúng sanh nào có duyên để
Ngài tế độ. Ngài thấy quyến thuộc bên cha và mẹ Ngài sắp
đánh nhau. Ngài liền nghĩ nếu ta không đến nơi ấy thì cả
hai bên đều bị tiêu hoại. Ðức Thế Tôn liền ngự đi trên
hư không và đến nơi con sông Rohinì là nơi hai bên đã
giàn mặt trận sáp chiến với nhau. Ngài liền ngự trên hư
không nơi giữa con sông Rohinì .
Cả hai dòng Thích Ca cũng
như Koliya đều trông thấy đức Thế Tôn ngự trên không giữa
lòng sông thì lấy làm hổ thẹn nên lật đật để đồ giết
người xuống.
Khi ấy đức Thế Tôn
mới phán hỏi rằng: Tâu nhị vị Ðại vương, chẳng hay quí
vị tranh giành chi nơi đây?
Một trong những vị
hai bên đều bạch Phật: Bạch đức Thế Tôn chúng tôi
không biết.
Ðức Thế Tôn hỏi: Vậy
ai là người biết rõ nguyên nhân chuyện nầy.
Hai vị chúa tể của
hai dòng liền bắt đầu điều tra thì mới biết rõ rằng:
Sở dĩ mà có trận giặc nầy nguyên lai là giành nước ở
con sông Rohinì .
Khi ấy mới bạch với
đức Thế Tôn: Bạch đức Thế Tôn nguyên lai vì nước con
sông Rohinì mà ra.
- Tâu Ðại vương, vậy
nước có giá trị tới bực nào?
- Bạch đức Thế Tôn nước ấy có giá trị rất
ít.
- Tâu Ðại vương, vậy
dòng hoàng tộc có giá trị tới độ nào?
- Bạch đức Thế Tôn
đã gọi là dòng hoàng tộc thì giá trị vô lượng vô
biên.
Nếu vậy quí vị vịn
vào nước kia giá trị rất nhỏ mà lại làm cho hàng hoàng
tộc giá trị vô lượng vô biên kia phải tiêu diệt chăng?
Tất cả quyến thuộc
hai bên lấy làm thẹn không ai trả lời. Ðức Thế Tôn liền
gọi quyến thuộc cả hai bên lại mà dạy rằng: Tâu chư Ðại
vương, tại sao quí vị làm những chuyện hồ đồ như thế
nầy. Nếu không có Như Lai thì tức nhiên con sông Rohinì nầy
sẽ đẫm máu trong ngày hôm nay rồi. Thật quí vị làm việc
không nên làm. Quí vị là người nhiều oan trái. Còn Như
Lai là người vô oan trái. Quí vị là người đa mang nhiều
phiền não, nên bị phiền não ấy thiêu đốt nóng nảy đau
khổ, còn Như Lai là người mát mẻ thanh tịnh vì không bận
mọi việc nhứt là không còn phiền não. Quí vị là người
còn ham mê theo ngũ trần. Như Lai lại là người không còn
tí mến tiếc những nhơ bẩn ấy. Ðức Thế Tôn thuyết
câu kệ:
SUSUKHAM VATAJIVÀMA
VERINESU AVERINO
VERINESU MANUSSESU
VIHÀRÀM AAVERINO v.v...
Nghĩa: Khi tất cả mọi
người có oan trái ta không có. Khi mọi người đều có oan
trái ta không có gọi là ta sống an vui.
Khi mọi người bị
đau khổ ta không có (bị đau khổ). Khi mọi người bị đau
khổ, ta không có gọi là ta sống an vui.
Khi tất cả mọi người
đều tìm kiếm (sự khoái lạc của trần dục) ta không có
(tìm kiếm trần dục) gọi là ta sống an vui.
Chú thích: Ý câu Phật
ngôn nầy dạy người có oan trái, bị đau khổ, chạy theo tìm
kiếm Tài, Sắc, Lợi, Danh. Những điều ấy hằng đem lại
sự khổ đau trong luân hồi của con người. Ta là người không
có những điều ấy nên ta sống một đời nhàn hạ an vui
không buồn rầu đau khổ vì được hay mất những vật ấy.
Sau khi dứt thời pháp
có nhiều người đắc Tu-đà-hườn quả. Xin nhắc quí vị
thấy: Khi ta thấy có kim thân Phật đứng hai tay xòe ra và
đưa ra trước, hay tay dựng đứng lên, đó là hình hiện tượng
đức Thế Tôn khuyên quyến thuộc tại con sông Rohinì .
MA VƯƠNG
Khi đức Thế Tôn ngự
tại làng Bà la môn tên Paĩcasàlà. Ngày nọ Ngài thấy có năm
trăm cô thiếu nữ có duyên đắc quả Tu-đà-hườn, nhân muốn
độ năm trăm cô ấy nên đức Thế Tôn ở lại nơi ấy.
Theo thường lệ, đến ngày lễ năm trăm cô ấy xuống tắm
ở sông rồi mới trở về làng. Cũng trong ngày ấy, đức
Thế Tôn ngự đến khất thực trong làng ấy.
Ma vương thấy Phật
đi khất thực, muốn phá Phật nên nhập vào tất cả người
trong làng làm cho họ không để bát cho Phật dầu một muỗng
cơm. Ma vương liền đến cổng làng đợi đức Thế Tôn ra
về, hiện ra nói với đức Thế Tôn rằng: Nầy ông Sa môn,
ông không được vá cơm nào sao?
- Nầy Ma vương tâm dẫy
đầy tội lỗi kia, chẳng phải chính ngươi làm cho người
không dâng cúng cho Như Lai sao?
- Thưa ông Cồ Ðàm, vậy
xin mời ông trở lại.
Sự thật thâm tâm của
Ma vương định rằng: Nếu thầy Cồ Ðàm trở vào, ta sẽ
nhập vào những người trong xóm ngạo báng ông ta.
Vừa khi ấy năm trăm cô
thiếu nữ ấy cũng vừa về đến cổng làng. Trông thấy đức
Thế Tôn liền đảnh lễ rồi đứng nép vào một nơi phải
lẽ.
Ma vương nói: Thưa ông
Cồ Ðàm, khi mà ông được cơm ít thì ông sẽ bị đói,
cái ấy nó sẽ hành hạ khó chịu lắm.
Ðức Thế Tôn liền dạy
rằng: Nầy Ma vương tâm đầy tội ác kia, mặc dầu hôm nay
ta chẳng có được một hột cơm; nhưng ta cũng vẫn được
an vui vì quả của phỉ lạc cũng ví như Phạm Thiên ở cõi
Phạm Thiên. (Không biết đói khổ vì vật thực).
Ðức Thế Tôn liền
thuyết câu kệ:
SUSUKHAM VATA JÌVAMA
YESAM NO NATTHI KÌNCANAM
PITIPHAKKHA BHAVISAMA
DEVA ABHASSARAM YATHA.
Nghĩa: Ta không có sự
rung động (vì các sự việc) thì sống cách an nhàn. Ta có
phỉ lạc là vật thực cũng như Phạm Thiên ở cõi Phạm
Thiên tên Abhassara vậy.
Chú giải: Khi tâm
không rung động vì còn phiền não, thì sống nơi nào cũng
an nhàn sống với phỉ lạc như Phạm Thiên không cần vật
thực.
Dứt thời pháp năm
trăm cô thiếu nữ đắc Tu-đà-hườn quả. Ma vương hổ thẹn
trốn đi.
TIỀN KIẾP
CỦA ÐỨC PHẬT
Trước kia xứ Vesàlì
rất thịnh vượng, đến lúc nọ hạn hán làm ruộng thất
mùa lúa cao gạo kém, nhân dân nghèo đói; kẻ nghèo không chịu
nổi sự đói rét nên chết, người chưa chết đem những
người đã chết bỏ trong bãi tha ma. Nạn đói kém gió rét
càng kéo dài, người chết càng nhiều đến đổi không ai
chôn ai được, vì vậy nên trong những thôn xóm làng mạc
vì người người chết quá nhiều không ai chôn nên mùi hôi
thúi rất khó chịu. Nhân cơ hội ấy A tu la, Ngạ quỉ đến
ăn những tử thi hôi thúi ấy hiện ra làm cho người kinh sợ
bỏ trốn đi xứ khác làm ăn, và nhân vì sự hôi thúi ấy
khiến sanh ra bịnh ôn dịch. Khi ấy trong thành Vesàlì có ba
điều tai hại mà nhân dân lấy làm kinh sợ là: Ðói kém, Bịnh
tật,và ma quỉ khuấy quá.
Dân chúng còn sống
sót hay ở nơi xa hơn liền hội lại để vấn nạn nhà vua.
Khi ấy thỉnh nhà vua lâm trào xong, nhân dân hỏi: Tâu Ðại
vương nay ba điều kinh khủng đã sanh trong thành nầy. Trước
đây bảy triều đại không có sự kinh khủng như thế nầy
bao giờ. Ðến triều đại của Ðại vương lại phát sanh.
Nếu Ðại vương là vị minh quân hành đúng theo thiện pháp
thì không khi nào có sự kinh khủng như thế nầy được.
Ðức vua liền truyền
cho hội hết tất cả các quan và các vị bô lão lại nơi
tiếp dân của nhà vua xong. Ðức vua liền dạy: Nay những
điều kinh khủng đã sanh làm khổ cho nhân dân vậy chư hiền
khanh cùng các vị bô lão hãy rán nghiên cứu coi trẫm có
làm điều gì phi pháp mà trời hành dân lành như thế nầy
chăng? Chư hiền khanh và quí vị nên thật tình trình bày
cho trẫm rõ.
Khi ấy các quan cùng
các vị bô lão cố hết sức tìm coi nhà vua có phạm vào những
điều tối quan trọng nào chăng, không hề thấy dầu một lỗi
rất nhỏ của nhà vua, nên mới tâu rằng: Tâu Ðại vương,
chúng thần đã tìm hết, nhưng không thấy Ðại vương có lỗi
gì. Thật ra Ngài là người vô tội.
Rồi các quan và các vị
bô lão mới bàn với nhau rằng: Vậy tại sao tai nạn kinh khủng
lại đến với chúng ta như vầy. Trong nhóm các vị ấy có
người có ý kiến là: Phải tế thần. Có vị nói: Phải tế
thần lửa. Có người bảo: Phải làm lễ cầu xin với các
đấng Thiên thần. Có người bảo: Phải thỉnh sáu vị Tổ
sư của sáu tôn giáo lớn nhất đến đây. Khi các Ngài đến
là tai qua nạn khỏi vì các vị ấy là người có đức hạnh
cao thượng. Có người nói: Hiện nay đã có đức Chánh đẳng
Chánh giác trong thế gian nầy rồi. Ngài là đấng có oai đức
vô lượng vô biên, Ngài là Thiên Nhơn Sư, ngài là đấng Ðại
từ bi, Ngài là đấng cứu độ nhơn sanh thoát khỏi trầm
luân. Nếu mà Ngài ngự đến đây, tức nhiên những tai nạn
kinh khủng thảy đều phải tiêu diệt.
Phần đông các quan và
các vị bô lão đều tán thành ý kiến của người ấy. Rồi
hỏi nhau rằng: Ai biết hiện giờ đấng Ðại Từ Bi cứu
khổ cứu nạn ấy đang ngự ở đâu?
Khi ấy lại cận ngày
nhập hạ, và đức Thế Tôn đã thuyết pháp độ được đức
Bình Sa Vương đang ngự tại Trúc Lâm tịnh xá. Trong nhóm
ấy có vị hoàng thân xứ Vesàlì và ông Mahàlì là vị đắc
Tu-đà-hườn quả một lượt với đức Bình Sa Vương.
Khi ấy đức vua xứ
Vesàlì và các quan cùng các vị bô lão đồng ý là cử ông
Mahàlì là vị quan Ðại thần đem chiếu thỉnh cầu đức
Thế Tôn với những lễ vật quí báu. Ðức vua dạy, trước
hết phải vào chầu đức vua Bình Sa Vương trước cho Ngài
biết rằng đến thỉnh đức Thế Tôn xong rồi hãy vào thỉnh
đức Thế Tôn.
Hai vị vâng chiếu chỉ
ra đi. Khi đến Vương Xá thành vào triều kiến đức vua Bình
Sa Vương và bày tỏ tự sự. Ðức vua Bình Sa Vương liền
phán: Vậy quí Ngài hãy tùy tiện vào hầu Phật và thỉnh cầu
Ngài.
Hai vị liền vào hầu
Phật và bạch: Bạch hoá đức Ðại Từ Bi, ba điều tai nạn
kinh khủng đã phát sanh tại thành Vesàlì. Quốc vương của
chúng tôi cùng triều thần và dân chúng đồng lòng ngưỡng
cầu thỉnh đức Thế Tôn ngự đến cứu độ chúng tôi.
Khi đức Thế Tôn ngự đến thì tất nhiên tất cả nạn
tai kinh khủng thảy đều tiêu diệt.
Khi Ngài nghe lời thỉnh
cầu ấy, Ngài liền dùng trí tuệ quan sát coi và Ngài thấy
rõ rằng: Khi ta thuyết bài kinh Rattanasutta tại thành Vesàlì
thì oai đức bài kinh ấy sẽ phổ biến sâu rộng đến cả
muôn ngàn người hưởng hương vị của Thánh quả và tai nạn
kinh khủng ấy sẽ tiêu diệt. Ðức Thế Tôn liền nhận
yêu cầu.
Ðức vua Bình Sa Vương
hay tin đức Thế Tôn nhận lời ngự đến xứ Vesàlì ,
Ngài liền ra lịnh truyền cho dân chúng biết và chính mình
Ngài vào hầu đức Thế Tôn và bạch hỏi rằng: Bạch đức
Thế Tôn, Ngài đã nhận lời thỉnh cầu ngự đến thành
Vesàlì rồi phải chăng?
- Tâu Ðại Vương, phải
vậy.
- Nếu vậy xin đức Thế
Tôn đình chỉ lại. Rồi Ngài về truyền lịnh phải sửa
chữa đường cho thật bằng thẳng từ Vương Xá thành đến
bờ sông Ganga là năm do tuần; mỗi một do tuần đều có
nhà mát để đức Thế Tôn nghỉ và thọ thực; và cũng cho
dân chúng hay biết ngày giờ nào đức Thế Tôn ngự đến
đâu, để dân chúng tiếp đón rất trọng thể. Trên đường
đi của đức Thế Tôn phải trải bông đủ năm màu và rất
thơm mà phải cao cho tới đầu gối. Hai bên đường phải
treo cờ phướn làm cho mát cả đường. Mỗi một vị Tỳ
khưu đều có một cây lọng một tầng che. Còn đức Thế Tôn
thì phải che lọng hai từng. Ðức Thế Tôn ngự tới bờ
sông Ganga là đúng năm ngày. Ðức vua Bình Sa Vương đã
trang bị thuyền rất đẹp ở bên bờ sông bên nầy. Ngài
liền cho quan hầu cho tin đức vua Licchavì hay tin và chuẩn bị
tiếp rước đức Thế Tôn.
Dân thành Vesàlì cùng
đức vua và cả hoàng tộc hội nhau lại bàn về bố thí của
đức vua Bình Sa Vương, và định phải làm cao hơn gấp đôi.
Liền truyền cho nhân dân làm đường rộng từ bờ sông
Ganga đi ba do tuần đến thành Vesàlì. Làm cây lọng có bốn
tầng dành che cho đức Phật, còn lọng hai tầng che cho chư
Tăng.
Khi thuyền cập bến,
đức vua Bình Sa Vương, Ngài truyền kéo màn từ thuyền đến
bờ không cho nắng r?i vào thân hình đức Thế Tôn và chư Tỳ
khưu, chung quanh tấm màn che nắng đều kết hoa lạ thơm. Bảo
tọa để Phật ngự làm bằng vàng và nạm bảy thứ ngọc
quí. Ðức Thế Tôn ngự trên bảo tọa có chư Thánh Tăng ngồi
hầu chung quanh. Khi đức vua Bình Sa Vương đưa đức Thế Tôn
xuống thuyền, Ngài lần đi xuống nước, khi nước sâu tới
cổ đức vua mới bạch đức Thế Tôn rằng: Bạch đức Thế
Tôn, trẫm sẽ ở đợi đức Thế Tôn nơi nầy đến khi đức
Thế Tôn trở lại. Rồi Ngài mới truyền cho thủy thủ
chèo thuyền đi.
Thuyền đi đến một
do tuần mới đến ranh giới hai nước Ma Kiệt Ðà và
Vesàlì. Vua và hoàng tộc cùng dân chúng xứ Vesàlì tiếp rước
rất trọng thể. Ðức vua bận đồ triều phục đi lần xuống
nước khi nước tới cổ đến bên thuyền đức vua đỡ
mũi thuyền từ từ dìu vào bờ, chính Ngài đỡ cây đòn
dài. Khi đức Thế Tôn vừa đứng dậy để bước đến be
thuyền thì trời kéo mây đen kịch, tiếp theo là trận mưa
xối xả. Ðã lâu không mưa nên trận mưa nầy là trận mưa
đầu tiên thật to, có nơi nước ngập tới bắp vế tới
lưng quần. Những tử thi vô chủ bị nước lũ trôi xuống
sông Ganga chảy ra biển cả. Ðất được thấm nước mùi
hôi thúi hết hẳn.
Ðức vua Licchavì truyền
dừng bước khi đi hết một do tuần; vì nơi ấy có chỗ để
đức Thế Tôn an tọa và nhà vua cùng hoàng tộc với dân
chúng cúng dường Phật bảo và Tăng bảo vật thực. Từ bờ
sông Ganga đến thành Vesàlì phải đi ba ngày đường. Ðức
vua cùng dân chúng làm lễ cúng dường thật là long trọng gấp
đôi đức vua Bình Sa vương đã cúng dường.
Thiên vương Ðế Thích
và nhiều chư Thiên đến nơi Phật ngự hầu Phật. Vì
Thiên vương Ðế Thích và các vị chư Thiên đức trọng đến
hầu Phật, nên loài Ngạ quỉ, A tu la lấy làm kinh sợ bỏ
trốn hết không dám ở gần.
Ðến chiều lại, đức
Thế Tôn ngự nơi cửa thành Vesàlì gọi Ðại Ðức Ananda
đến dạy rằng: Ananda nầy, ngươi nên học thuộc lòng bài
kinh tên RATTANASUTTA nầy, rồi cùng đi với một vị Hoàng
thân Licchavì , đọc bài kinh quanh thành Vesàlì ba vòng.
Ðại Ðức Ananda học
xong bài kinh của đức Thế Tôn dạy, lấy bát của đức Thế
Tôn để đầy nước xong đứng tại cửa thành Vesàlì niệm
tưởng đến công đức Phật. Kể từ khi phát nguyện thành
bực Chánh đẳng Chánh giác là tu theo mười pháp ba la mật.
Mười pháp ba la mật đến bờ trên và mười pháp ba la mật
đến bờ cao thượng.
Năm pháp Ðại thí là:
1/Thí con. 2/ Thí vợ. 3/ Thí của. 4/ Thí thân thể. 5/ Thí
sanh mạng.
Ba pháp Hành là: 1/
Hành cho lợi kỷ. 2/ Hành cho lợi tha. 3/ Hành hầu chứng quả
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Tư cách giáng sanh vào
lòng mẹ trong kiếp chót. Tư cách ra đời. Tư cách xuất
gia. Tư cách tu khổ hạnh. Tư cách cảm thắng Ma vương dưới
cội Bồ đề. Tư cách chứng quả Chánh Biến Tri trên Bồ
đoàn. Tư cách Chuyển Pháp Luân và chín pháp Thánh là (bốn
Ðạo, bốn Quả và một Niết Bàn). Khi quán tưởng xong rồi
Ðại Ðức Ananda mới vào thành đi cả ba vòng thành đọc
kinh Rattanasutta trọn cả đêm. Nước thánh của Ðại Ðức
Ananda rải làm cho kinh động bọn ma quái. Bọn ấy khi bị nước
thánh của đức Ananda vừa đọc ba câu đầu là Yànidha Bhưtàni
samàkatàni là không thể nào ở lại nơi ấy được đồng
cùng nhau chạy trốn. Nước thánh mà Ðại Ðức Ananda rải
ra xem như là những tràng ngọc trắng trong thật là xinh đẹp,
trong khi ấy những người bịnh chưa chết đều được lành
mạnh.
Dân chúng trong thành lo
tạo ra Tăng đường để trai Tăng giữa kinh thành. Tại Tăng
đường có treo những hoa thơm để cúng dường đức Thế Tôn
và chư Thánh Tăng. Ðức Thế Tôn ngự giữa Tăng đường có
chư Tăng ngồi hầu và có nhà vua cùng hoàng tộc với dân
chúng thật là cảnh trang nghiêm, những vết tích chết chóc
và sự kinh khủng hãi hùng tiêu diệt hết. Ðức Thiên Vương
Ðế Thích và các vị chư Thiên ngự trên không trung. Ðại
Ðức Ananda đọc kinh Rattanasutta ấy cả đêm không nghỉ. Ðến
sáng ngày mới vào hầu Phật.
Khi ấy dân chúng và
hoàng tộc cùng nhà vua mới cúng dường vật thực cho chư
Thánh Tăng có đức Thế Tôn làm tọa chủ. Ðức Thế Tôn cũng
thuyết bài kinh Rattanasutta như Ðại Ðức Ananda đọc khi đêm.
Ðức Thế Tôn ngự tại thành Vesàlì bảy ngày, Ngài cũng vẫn
thuyết bài kinh Rattanasutta luôn cả bảy ngày. Ngài biết rằng:
Sự tai hại hãi hùng trong thành Vesàlì đã hết. Nên Ngài
liền kiếu từ đức vua trở về Vương Xá thành. Ðức vua
cùng dân chúng tiễn đưa Ngài thật là long trọng. Khi đến
bờ sông Ganga, đức vua Licchavì và dân chúng cầu xin đức
Thế Tôn ngự tại bờ sông để cúng dường thêm ba ngày nữa.
Các vị Long vương ở
bờ sông Ganga thấy sự cúng dường của hai vị vua trọng
thể như vậy mới nghĩ rằng: Người đ?i làm lễ cúng dường
đến Như Lai thật là trọng thể. Vậy chúng ta phải làm
gì đây? Chư Long vương liền hóa ra ba thứ thuyền là một
thứ bằng vàng, một thứ bằng bạc và một thứ bằng ngọc.
Trên mỗi chiếc đều có bảo tọa, ghe bằng thứ gì thì bảo
tọa cũng bằng thứ ấy. Trên thuyền trang điểm bằng hoa
sen đủ năm màu tươi đẹp lạ thường. Rồi đến thỉnh cầu
đức Thế Tôn ngự trên thuyền của mình để trở về
Vương Xá thành.
Khi ấy, người và chư
Thiên cùng Long vương tranh nhau làm lễ cúng dường đến
chư Tăng và đức Thế Tôn thật là trọng hậu. Chư Thiên
Phạm Thiên đến nơi đang bố thí dựng cờ phướn lợp trời.
Cờ và phướn cao tận hư không, thật là một cảnh huy
hoàng trang nghiêm không từng có bao giờ.
Sau cùng vì lòng từ bi
đức Thế Tôn liền ngự lên một chiếc thuyền bằng ngọc
của Long vương hiện ra. Còn mỗi vị Tỳ khưu cũng đi trên
một chiếc tùy thích của mình. Long vương liền đưa đức
Thế Tôn và chư Ðại Ðức Tăng về cõi Long vương cúng dường
rất trọng thể. Sau cùng, đưa về nơi đức vua Bình Sa Vương
đang chờ đón. Khi ấy, cũng có chư Thiên đợi tiếp rước
về Vương Xá thành. Thật là một chuyến đi vô cùng long trọng.
Khi về đến Vương Xá
thành thì ngày hôm sau chư Tỳ khưu còn phàm mới hội nhau nơi
pháp đường để bàn về chuyến đi lạ lùng và oai đức của
đức Thế Tôn làm cho ba điều tai hại kinh khủng tiêu diệt.
Vì sự trong sạch với Phật bảo, mà hai vị Quốc vương làm
ra con đường dài hằng tám do tuần theo ven bờ sông Ganga rất
bằng thẳng.
Khi các vị đang bàn
tán về việc ấy thì đức Thế Tôn đã ngự đến và hỏi
các Ngài đang bàn về việc gì? Các Ngài bạch đang bàn về
việc tiếp rước long trọng và sự cúng dường của chư
Thiên, Long vương, thật oai đức của Phật bảo vô lượng
vô biên.
Ðức Thế Tôn dạy rằng:
Nầy các thầy Tỳ khưu, sự cúng dường trọng thể như vậy,
không phải do nơi oai đức của Phật bảo hoặc Long vương
hay chư Thiên mà lại do nơi một quả bố thí rất nhỏ
riêng của cá nhân Như Lai trong kiếp quá khứ mà thôi.
Ðức Thế Tôn dạy
câu nầy không phải ý muốn phỉ báng Phật bảo, nhưng Ngài
muốn chỉ quả của sự cúng dường với tâm trong sạch.
Khi ấy chư Tỳ khưu yêu cầu đức Thế Tôn thuyết Túc Sanh
Truyện.
Ðức Thế Tôn dạy:
Trong kiếp quá khứ, tại xứ Takkasilà có một gia đình của
thầy Bà la môn tên là Sankha có một người con trai tên là
Susima. Khi người con ấy được mười sáu tuổi thưa với
cha rằng Thưa cha, con muốn xin cha cho phép con đi đến xứ Bàrànasì
để học phép mầu.
- Con ơi, cha có một người
bạn chí thân là vị Bà la môn rất thông về pháp mà con muốn
học, ông ta cũng ở xứ Bàrànasì ; vậy con đến học với
ông ta.
Người con vâng lời
cha đi đến thành Bàrànasì vào hầu người bạn của cha.
Khi ông Bà la môn biết là con của bạn cũ. Ông hết lòng săn
sóc và dạy thật là chu đáo. Cậu Susima thật là thông minh
phi phàm, học mau hiểu và hiểu rất chu đáo. Khi cậu học
không bao lâu kinh luật và tất cả mọi việc đều lão
thông. Cậu cảm thấy không được rốt ráo còn lắm chỗ
nghi ngờ liền vào hầu thầy và thưa rằng: Thưa thầy, con
đã học thuộc hết cả rồi, nhưng con cảm thấy hình như
chưa hoàn toàn tới nơi tới chốn, ý con muốn nói chưa đoạt
được hết lý lẽ trong lời mà con đã học.
Ông thầy bảo: Con ơi,
chính thầy cũng như con, không hiểu rõ hết lý của lời dạy
ấy.
- Thưa thầy, có chắc
rằng: Trong vũ trụ nầy cũng không còn ai thông hiểu nữa
chăng?
- Con ơi, chỉ có những
ông đạo sĩ ở trong rừng Isipatana mới là bực thông suốt
những lời kinh mà con đã học. Con nên đến nơi ấy hỏi
coi.
Cậu Susima liền đến
rừng Isipatana vào hầu chư Phật Ðộc Giác và hỏi những sự
nghi ngờ rằng: Thưa chư Ðại Ðức, Ngài có thông hiểu những
điều nầy chăng?
Chư Ðộc Giác Phật dạy:
Chúng ta thông hiểu ráo rốt mọi sự việc.
- Vậy cúi xin Ngài từ
bi chỉ dạy cho tôi.
- Rất tiếc là chúng
ta không thể dạy người không xuất gia.
Cậu Susima liền chịu
xuất gia để học những sự mình đang nghi ngờ. Xuất gia
không bao lâu ông cũng đắc quả Bích Chi Phật (là Ðộc
Giác Phật). Nhưng tuổi thọ Ngài không được trường thọ
nên lại nhập diệt trước khi về giáo hóa cha già.
Nói về ông Bà la môn
Sankha nhớ con nên đến thành Bàrànasì để thăm con. Khi ấy
người bạn mới cho biết là con ông muốn hiểu thông triệt
để những sự nghi ngờ mà từ xưa đến nay chưa có vị Tổ
sư nào giải nổi, nên đã đến rừng Isipatana học với các
vị đạo sĩ. Ông Bà la môn Sankha lật đật đến nơi ấy
để thăm con. Nhưng khi đến nơi chư Ðộc Giác Phật cho hay
rằng: Con ông đã nhập diệt và có dựng phù đồ thờ để
dân chúng đến cúng dường. Ông Bà la môn lấy làm đau khổ
vì mất đứa con yêu quí. Ông đến nơi chân phù đồ (là
Tháp) nhổ cỏ dại, cởi lấy khăn choàng của mình ra đi hốt
cát trắng sạch đem lại trải nơi chân phù đồ, bẻ hoa
thơm đến trải lên cúng dường, lấy vải làm lọng che
phù đồ và làm phướn treo quanh phù đồ, rồi ông mới ra
về.
Khi nhắc qua chuyện
quá khứ, Ngài lại dạy rằng: Nầy các thầy Tỳ khưu, Ông
Bà la môn tên Sankha ấy chính là Như Lai hiện tại đây. Như
Lai đã nhổ cỏ dại ở chân phù đồ của đức Ðộc Giác
Phật; do nhờ phước báu ấy nên đường đi của Như Lai
được dọn bằng phẳng. Quả của sự cúng dường hoa thơm
nên được trải hoa thơm theo đường đi. Làm lọng che phù
đồ và phướn nên được có lọng và phướn che mát theo
đường đi và chư Thiên cũng đem đến cúng dường rất trọng
thể.
Nầy các thầy Tỳ khưu,
sự cúng dường và vật cúng dường mà các ông đã thấy
không phải do nơi oai đức của Phật bảo mà do nơi sự cúng
dường của Như Lai khi là vị đại Bồ Tát.
Ðức Thế Tôn liền dạy
câu kệ:
MITTASUKHU PARICCAGA
PASSE CE VIPULMA SUKHAM.
CAJE MATTASUKHAM DHIRO.
SAMPASSAM VIPULAM SUKHAM.
Nghĩa: Nếu bực trí thức
trông thấy sự an vui vĩ đại vì sự dứt bỏ sự an vui vừa
phải. Dứt bỏ sự an vui vừa phải sẽ được an vui cao quí.
Chú giải: Ý nói bực
trí thức khi nhận thấy mình cúng dường của cải mà mình
đã có tùy theo sức mình trong kiếp hiện tại nầy thì sẽ
được an vui cao quí ngày vị lai, ý nói cúng dường vừa phải
là đồ cúng dường ấy tùy theo của mình đã có chớ
không phải đem hết của cải đã có ra cúng.
Sau khi dứt thời pháp
có rất nhiều vị đắc Tu-đà-hườn quả.
-ooOoo-
Trang
trước | Ðầu trang | Mục
lục | Trang kế |