BuddhaSasana Home Page

Vietnamese, with Unicode Times font


Phật Giáo, Nhìn Toàn Diện
"The Spectrum of Buddhism"

Hòa thượng Piyadassi
Phạm Kim Khánh dịch

Trung tâm Narada, Seattle, Hoa Kỳ, xuất bản, 1995.


-12.a-

NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG VĂN HỌC PHẬT GIÁO

Lời Mở Ðầu - Vị Trí Của Hàng Phụ Nữ Trong Phật Giáo

Khi Ðức Phật Siddhattha Gotama (Sĩ Ðạt Ta Cồ Ðàm) thị hiện ở Ấn Ðộ cách nay hơn 2,500 năm về trước, người phụ nữ có một địa vị rất thấp kém và đê hèn trong xã hội Ấn Ðộ. Vào thời bấy giờ, trong phần còn lại của thế giới văn minh, trải dài từ Trung Hoa đến Hy Lạp, vị trí của người phụ nữ vẫn khiêm nhường và hạ cấp. Ngày nay, cùng khắp nơi ai ai cũng nhìn nhận rằng Ðức Phật là người đã sáng lập một tôn giáo được truyền bá sâu rộng trên thế gian, phổ cập đến những hang cùng hóc hẻm của quả địa cầu, đã ban truyền một triết lý huy hoàng và vĩ đại nhất trong lịch sử tư tưởng loài người.

Nhưng vai trò phục hưng xã hội và cách mạng văn hóa của Ðức Phật, rất kỳ diệu và phi thường, đôi khi bị các sử gia Phật Giáo lãng quên.

Quan trọng nhất trong các đổi mới mà Ngài đem lại cho cơ cấu xã hội loài người vào thời bấy giờ là sự phá tan hệ thống giai cấp rất tai hại và giải phóng hàng phụ nữ. Với lòng quả cảm hiếm có đáng được lưu ý Ngài chỉ vạch tánh cách vô lý và điên rồ của những ràng buộc nghiêm khắc trong sự phân chia giai cấp và tình trạng nô lệ của người phụ nữ. Ngài phục hưng hai vấn đề tối trọng yếu ấy trong tập tục và tư tưởng con người mà vào thời bấy giờ đã thấm nhuần tận xương tủy người Ấn. Ngài biến chuyển một xã hội đã lún sâu trong thành kiến mù quáng và lòng mê tín ẩn tàng trở thành lành mạnh, dũng cảm và có nền đạo đức trong sạch.

Từ xa xưa trước thời Ðức Phật, giai cấp Bà la môn (brahmin) vẫn giữ toàn thể dân Ấn trong bàn tay sắt của họ, dìm thấp người phụ nữ xuống hàng tôi đòi hay nô lệ. Người đàn bà không có quyền gì của mình, không tự do ăn nói, mà phải tự giam hảm trong bốn bức tường của nhà mình và được xem là không xứng đáng được hưởng bất luận gì cao hơn là hàng tôi tớ của chồng, của cha hay của anh. Nữ giới không bao giờ được sắp ngang hàng với nam giới trong xã hội.

Theo sách Manusmrti, The Laws of Manu, một quy luật để hướng đạo số phận của cuộc sống trong xã hội Ấn Ðộ thời xưa mà nhà làm luật nổi tiếng Manu đã ban hành, hôn nhân là tăng cường những ràng buộc cột trói người đàn bà trong vòng nô lệ, siết chặt trọn cuộc đời vào người đàn ông -- là một phần của chồng, là người làm công, người giúp việc để phục vụ chồng.

Vâng dạ phục tùng chồng, thi hành những gì chồng sai bảo, luôn luôn làm theo ý muốn của chồng, chỉ bấy nhiêu đó cũng có đủ tư cách cho người vợ vượt qua cánh cổng của cảnh trời. Không như người nam, người nữ không cần phải tế lễ hay thực hành những nghi thức lễ bái hoặc cúng kiếng nào, cũng không cần đọc tụng kinh và dâng cúng thần linh để dọn đường lên cảnh trời. Một lòng trung thành với chồng và lúc nào cũng tuân hành lời sai khiến của chồng là cái chìa khóa mở cổng vào hạnh phúc thiên đàng [1]. Theo quy luật Manu hàng phụ nữ không được quyền học kinh Vedas (Phệ Ðà). Ðó là lý do tại sao trong nghi thức lễ bái dành cho người nữ không có phần đọc chú Veda. Quan kiến về nữ giới như vậy là một sĩ nhục cho người phụ nữ Ấn Ðộ.

Lòng trung thành của người vợ không phải chỉ được bày tỏ trong khi chồng còn sống mà còn tiếp tục cho đến khi hỏa táng ông chồng. Một người vợ Ấn Ðộ được trông đợi phải theo chồng sang thế giới bên kia bằng cách tự quyên sinh, nhảy vào ngọn lửa bừng cháy của giàn hỏa đang thiêu chồng. Mặc dầu các tập tục man rợ ấy đã được hoàn toàn bãi bỏ và chấm dứt và không còn được duy trì để bôi xấu gương mặt tươi đẹp của nền văn hóa Ấn Ðộ, tuy nhiên thói quen ấy đã được lan rộng trong xã hội Ấn Ðộ cổ xưa, và ngày nay thỉnh thoảng vẫn còn sống dậy trong xứ Ấn Ðộ tân tiến, cho thấy rõ vị trí thấp hèn của người phụ nữ trong xã hội Ấn vào những ngày xa xưa và có thể còn được ứng dụng đến một mức độ nào. Xã hội thời bấy giờ tin rằng sinh con gái là một điều bất hạnh -- còn hơn vậy nữa -- là một đại họa. Không phải chỉ người dân thường mà chí đến hàng vua chúa cũng không tránh khỏi bị quan kiến hẹp hòi và lầm lạc ấy gây nhiễm độc. Chuyện thuật rằng một ngày nọ Vua xứ Kosala (Câu Tát La) đến hầu Phật như thông thường vua vẫn đến và đàm đạo với Ngài. Vào lúc ấy có tin báo là Hoàng Hậu Mallika hạ sanh con gái. Nghe tin này vua ngẩn ngơ khó chịu, sắc mặt trở nên ủ dột âu lo và phiền muộn. Nhìn thấy vậy đấng Toàn Giác mở lời khuyên:

"Không nên băn khoăn, tâu Ðại Vương,
Một bé gái có thể
Còn tốt hơn con trai,
Vì lớn lên em có thể thông minh và đức hạnh,
Là một người vợ hiền, mẹ chồng em sẽ yêu quý.

Rồi đứa con trai mà em sẽ sanh ra
Có thể làm nên đại sự
Trị vì một lãnh thổ rộng lớn, đúng vậy, con trai
Của bà vợ cao quý trở thành người lãnh đạo quốc gia."
[2]

Trong Phật Giáo, sự khác biệt giữa nam và nữ không phải là một trở ngại để thành tựu mức độ toàn hảo cao thượng nhất. Ðề cập đến Bát Chánh Ðạo mà Ngài ví như một cổ xe, Ðức Phật dạy:

"Dầu là người nữ, dầu là người nam
Cổ xe cũng vẫn chờ đợi, cùng một chiếc xe ấy
Sẽ đưa vào tận Niết Bàn."
[3]

Thấu hiểu lòng thù nghịch hiểm độc và thái độ ác cảm đối với hàng phụ nữ trong các hệ thống tôn giáo và xã hội của thời Ngài, Ðức Phật phát huy một cuộc cách mạng trong tư tưởng và trong lối cảm xúc của đại chúng bằng cách công khai và can đảm tuyên bố rằng người nữ không có gì là thấp kém hơn người nam, và trên con đường đức hạnh toàn hảo và trí tuệ thâm sâu dẫn đến Niết Bàn, vừa khó khăn vừa khổ nhọc, nam và nữ vẫn ngang nhau. Bên trong mỗi người nữ, cũng như bên trong mỗi người nam, đều có tiềm ẩn khả năng để trở thành A La Hán, tiềm lực để trở nên bậc thánh nhân.

Tuyên ngôn này của Ðức Phật, cũng như sự phủ nhận hệ thống giai cấp của Ngài, đã gây nên một biến động lớn lao trong giới tôn giáo thời bấy giờ vì đó là trực tiếp đương đầu với niềm tin đã ăn sâu vững chắc trong dân gian. Tuy nhiên, những thành trì chánh thống ấy sớm sụp đổ trước giáo lý vẻ vang của Ðức Phật.

Ðức Phật chỉ rằng người đàn bà là mẹ của đàn ông. Không ai xứng đáng cho ta kỉnh mộ tôn sùng bằng mẹ của mình, và phận làm con không thể trả hết món nợ của mẹ mà mình phải mang trong lòng. Như thế Ngài nâng cao vị trí của hàng phụ nữ.

Trong kinh sách Phật Giáo, đôi khi vì lòng sùng kính và tôn trọng, hàng phụ nữ được nhắc đến dưới danh nghĩa là xã hội các bà mẹ (màtugàma). Về sau, người hiểu biết ở Ấn nghe theo lời khuyên dạy của Ðức Phật về giá trị của bà mẹ, tuyên ngôn rằng: "Bà mẹ và lãnh vực của mẹ phải được tôn trọng hơn là cảnh trời. [4]" Ðức Phật cũng ghi sâu vào tâm não của dân chúng thời bấy giờ nhu cầu phải kính nể và tôn trọng nữ phái. Ngài dạy người nam nên xem người nữ như chị, như em gái và hết lòng bảo vệ họ, nên đối xử hiền hòa, dịu dàng với vợ, xem vợ là ngang hàng với mình, và cho con gái những cơ hội thăng tiến giống như con trai. Hơn nữa, trong kinh Sigàlovàda Sutta, toát yếu đạo lý cho người cư sĩ, Ðức Phật ban hành đường lối chỉ đạo về bổn phận người làm chồng nên: lễ độ, luôn luôn nhã nhặn thanh tao với vợ; không tỏ ý khinh thường; trung thành với vợ, trao quyền hành trong nhà, và mua sắm nữ trang cho vợ.

Cũng trong bài kinh ấy Ðức Phật khuyên dạy bổn phận người làm vợ nên đối xử với chồng thế nào. Phải bày tỏ lòng thương kính chồng bằng năm cách: làm tròn phận sự của mình; ân cần đón tiếp thân bằng quyến thuộc bên chồng; trung thành với chồng; cẩn thận giữ gìn tiền bạc của cải mà chồng đem về; luôn luôn siêng năng, không bao giờ tháo trúc công việc.

Vài người chỉ trích vội vã đi đến kết luận rằng Ðức Phật không biết và không quan tâm thích nghi đến bổn phận và lý tưởng của hàng phụ nữ cư sĩ. Những vị ấy chỉ cần đọc các bài thuyết giảng của Ðức Phật, nhất là những bài trong bộ Anguttara Nikàya (Tăng Nhứt A Hàm) [5] và Samyutta Nikàya (Tạp A Hàm) [6] để nhận định đến mức nào đấng Toàn Giác đã chú trọng đến tình trạng an lành của "xã hội các bà mẹ." Theo Ðức Phật, tất cả mọi tiến bộ và mọi thành tựu, tại thế cũng như siêu thế, đều nằm trong tầm khả năng của người phụ nữ cư sĩ sống với nếp sống trong gia đình và theo những khuynh hướng đạo đức của người tại gia, miễn là người ấy thực hành đúng theo lời dạy của Ðức Phật.

Những phẩm hạnh đem lại tình trạng an lành cho người phụ nữ trong cả hai, thế gian này và cảnh giới về sau, đã được Ðức Phật ban hành như sau:

1) Tâm đạo nhiệt thành,
2) Biết hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi,
3) Không dể duôi buông xuôi theo chiều hướng độc hiểm, thù oán và sân hận,
4) Không ganh tỵ,
5) Không keo kiết bỏn xẻn mà quảng đại rộng rãi,
6) Ðức hạnh trong sạch,
7) Sống cuộc đời đạo đức và thích hợp với thuần phong mỹ tục,
8) Trau giồi học vấn và kiến thức thâm sâu,
9) Hăng say và nhiệt thành,
10) Cảnh giác và lanh trí,
11) Sáng suốt và khôn ngoan. [7]

Một thiếu phụ mà có những phẩm hạnh như trên đã vững chắc tiến bước trên con đường an lành và hạnh phúc. Như nhà viết kịch vĩ đại người hy lạp, Euripides, đã lưu ý: "Không có gì tệ hại hơn là một người đàn bà xấu và không có gì cao cả hơn một người đàn bà tốt." Cũng vì Ðức Phật tin chắc vào khả năng của người phụ nữ để tiến đạt đến mức tiến bộ tuyệt đỉnh mà con người có thể thành đạt nên Ngài chấp nhận thỉnh nguyện khẩn cấp của bà di mẫu Pajàpati Gotami và thành lập Giáo Hội Tỳ Khưu Ni. Làm điều này Ðức Phật là người đầu tiên trong lịch sử tôn giáo nhân loại đã nâng cao vị trí của hàng phụ nữ đến mức quan trọng nhất. Ðây là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong rất nhiều hệ thống tôn giáo và trường phái tư tưởng được biết, trước và trong thời Ðức Phật. Ðây là một sự canh tân bất ngờ đã làm cho những nhà lãnh đạo xã hội và tôn giáo thời bấy giờ hoàn toàn kinh ngạc. Ðây là một canh tân mới lạ phi thường vì nó chấp nhận cho hàng phụ nữ đặc quyền tiếp thụ một bản chất cao quý, một sức mạnh kiên cố vững chắc trong nền đạo lý, một khả năng thấm nhuần trí tuệ thâm sâu ngang hàng với nam giới.

Cũng nên ghi nhận thêm rằng Ðức Phật cho phép thành lập Giáo Hội chư Tỳ Khưu Ni vào thời điểm và địa điểm mà người phụ nữ được xếp vào hạng rất thấp kém, khiêm tốn và có một địa vị nhục nhã trong xã hội. Và ta cũng có thể nói thêm rằng, mặc dầu 2,500 năm đã trôi qua từ thời Ðức Phật và mặc dầu nhiều hệ thống tôn giáo khác đã phát triển dồi dào thịnh vượng tại Ấn Ðộ, chí đến ngày nay không có tôn giáo nào thành lập một giáo hội cho hàng nữ tu sĩ. Không thể còn nhiều nghi ngờ nữa, rằng hàng phụ nữ trên thế giới vẫn chịu một món nợ trường cửu đối với Ðức Phật vì Ngài đã nâng cao họ lên hàng danh dự này. Sau khi Giáo Hội Tỳ Khưu Ni được thành lập, một số đông phụ nữ từ mọi từng lớp của đời sống gia nhập vào Giáo Hội và những hành động của các bà đã tô điểm vẻ vang những trang văn học Phật Giáo. Ðời sống của một số khá đông những vị tỳ khưu ni thánh thiện ấy, công trình kiên trì nỗ lực của các bà để thành đạt mục tiêu giải thoát và những khúc ca khải hoàn sau khi thành tựu mục tiêu, đã được mô tả một cách sống động trong Therigàthà (Psalms of the Sisters, Trưởng Lão Ni Kệ, những thánh thi của chư tỳ khưu ni).

Trong tích chuyện bà Pajàpati Gotami, được đề cập đến trong kinh sách, có tường trình việc thành lập Giáo Hội Tỳ Khưu Ni với đầy đủ chi tiết. Văn học Phật Giáo chứa đựng dồi dào những gương lành của người phụ nữ đã viên mãn nhiều thành tựu khác thường.

Bộ Anguttara Nikàya, Tăng Nhứt A Hàm, kể lại rất tận tường tiểu sử các bà Phật tử, tỳ khưu ni và cư sĩ tín nữ, không những đã thực hành tốt đẹp Giáo Pháp mà còn là giảng sư dạy Giáo Lý. Vị Tỳ Khưu Ni Kunđalakesà [8] là một trong các bà. Tích chuyện Tỳ Khưu Ni Somà đã nói lên bằng những danh từ không thể lầm lẫn rằng nữ tính không phải là trở ngại cho tiến bộ.

Tin tưởng lầm lạc thông thường ở Ấn Ðộ là cho rằng về phương diện tinh thần và đạo đức người phụ nữ thấp kém hơn người nam, được Tỳ Khưu Ni Somà [9] bác bỏ và giải rõ như sau: "Làm thế nào bản chất của người đàn bà được xem là thấp kém khi mà, với tâm an trụ, với tri kiến sáng tỏ và thanh tịnh đầy trí tuệ sâu sắc, người phụ nữ có thể vén lên bức màn vô minh đang bao trùm mình, thông suốt Giáo Pháp và nhận thấy đời sống đúng theo thực tướng của nó?"

Sự kiện Ðức Phật thông hiểu tiềm năng sâu ẩn và khả năng hoàn mãn những thành tựu vĩ đại và cao thâm của hàng phụ nữ không làm cho Ngài mù quáng không thấy những khuyết điểm và yếu mềm cố hữu trong tâm tánh người nữ, và đó là điểm đặc thù của phái này. Ngài có thể khuyến cáo cả hai, người nam và người nữ, nên cảnh giác lưu tâm đến các thiếu sót và suy kém ấy.

Ðề cập đến nữ phái, Ðức Phật nói: "Khuynh hướng không cương nghị và bẩm tánh kém đạo đức là tai hại lớn lao của nữ giới," [10] nhưng điều này không có nghĩa là bắt buộc họ phải chịu số phận như vậy. Ðiều này chỉ có nghĩa là người nữ cần phải hết sức thận trọng và tận lực gia công chiến đấu để vượt đến mức độ cao trổi hơn trong đời sống.

Dầu sao, Ðức Phật vạch rõ những yếu kém và khuyết điểm của hàng phụ nữ, không phải để chế nhạo và chê cười là thua sút, mà Ngài nhắm đến mục tiêu cao quý là giúp họ nhận định những khó khăn gây trở ngại cho những nỗ lực thành tựu mục tiêu của mình và khuyến khích họ thận trọng canh phòng các cuộc tấn công của những khát vọng và các cuộc đột kích của những cám dỗ.

Có lời dạy rằng những thích thú của năm giác quan -- sắc, thinh, hương, vị, xúc, vốn làm say mê và cám dỗ người nam -- đều tập trung và kết tinh trong hình dáng người đàn bà [11]. Với năng lực làm say đắm mê hồn ấy người đàn bà có thể nô lệ hoá và đặt người đàn ông dưới quyền thống trị của mình.

Người ta thường nói rằng người phụ nữ cám dỗ và lôi cuốn con người dể duôi buông lung bằng những cái liếc mắt, những nụ cười duyên, những dáng điệu yêu đương, bằng cách thân mến chăm nom chãi chuốt (dunni-vatthena) và bằng những lời quyến rũ dịu dàng dễ mến. [12]

Bộ kinh Angutara Nikàya, Tăng Nhứt A Hàm, mở đầu như sau:

"Này chư tỳ khưu, Như Lai không biết một hình thể nào khác chiếm đoạt quả tim người đàn ông như bóng dáng của người đàn bà. Này chư tỳ khưu, hình dáng của người phụ nữ làm cho tâm trí người nam đắm đuối say mê.

"Như Lai không biết một âm thanh ...
Như Lai không biết một hương thơm ...
Như Lai không biết một mùi vị ...
Như Lai không biết một sự đụng chạm nào ...
mà có thể làm đắm đuối say mê và giam cầm quả tim người nam như âm thanh, hương thơm, mùi vị và sự đụng chạm một người đàn bà. Tiếng nói, hương thơm, mùi vị và sự đụng chạm với người phụ nữ chiếm đầy tâm trí người nam.

"Này chư tỳ khưu, Như Lai không biết sắc, thinh, hương, vị, xúc nào khác mà làm cho quả tim người đàn bà hoàn toàn đắm đuối say mê trước những quyến rũ và cảm xúc ấy."

Nơi đây có một thời pháp về sự thân cận nam nữ và năng lực không thể cưỡng của nó được diễn đạt trong một ngôn ngữ giản dị và không thể nhầm lẫn, chân lý mà không người biết lẽ phải nào có thể dám phủ nhận. Sự gần gủi giữa nam và nữ được Ðức Phật xem là dục vọng hùng mạnh nhất, là bản năng có sức mạnh hùng hậu nhất của con người. Nếu ta để cho tình dục lôi cuốn, trở thành người bị trói buộc, người nô lệ của những dục vọng, người hoàn toàn tự hảm mình trong cạm bẩy, tự hiến mình vào nanh vuốt của mê hoặc -- thì con người dũng mãnh nhất cũng trở thành như loài sâu bọ thế cô; một người thánh thiện sáng suốt cũng hành động như điên cuồng khờ dại; chí đến một hành giả đã thành đạt những từng thiền (jhàna) cao cũng có thể rơi xuống thâm sâu trong những khổ cảnh trần gian.

"Không có lửa nào như tham ái.
Khát vọng không tàn lụi, nó bừng cháy."
[13]

Ðó là lời của Ðức Phật về những cảm xúc của tình dục. Nhưng ta phải nhớ rằng Ðức Phật không khinh rẻ, không có ý làm tổn hại danh dự, suy giảm giá trị của nữ giới. Ngài chỉ nêu lên tâm tánh yếu mềm và tình trạng mỏng manh của người nữ và muốn cho họ cảnh giác đề phòng. Ðàng khác Ngài thấm nhuần và in sâu vào lòng họ bài học tự mình uốn nắn tâm tánh và sửa đổi tác phong để thành một nguồn an ủi và sức mạnh của nhân loại.

Nói về người phụ nữ, Ðức Phật vắn tắt phê bình: "Tác phong dể duôi hay kém đạo đức là ô nhiễm của người phụ nữ. [14]" Nhưng một lần nữa Ðức Thế Tôn khẳng định rõ ràng, "Người tốt nhất trong những bà vợ hiền là người làm vui lòng chồng, [15]" và ở một nơi khác Ngài ghi nhận, "Vợ là người bạn hiền tốt nhất. [16]" Goldsmith chỉ vang âm những lời của Ðức Phật khi ông viết:

"Một bà vợ toàn hảo giúp đỡ trong đời sống còn nhiều hơn người luôn luôn khoát chiếc áo triết gia, vổ ngực tự xưng anh hùng, hay những công nương gắt gỏng. Người làm cho chồng con hạnh phúc là một nhân vật vĩ đại hơn các thiếu nữ trong những câu chuyện tiểu thuyết mà trọn đời chỉ giết chóc nhân loại bằng những làn tên được phóng ra từ ống tên khoé mắt."

Một cách vắn tắt, đó là vị trí của nữ giới trong Phật Giáo. Người phụ nữ xứng đáng có một chỗ đứng danh dự ngang hàng với nam giới, về phương diện khả năng và thành đạt mục tiêu Niết Bàn, và trên nấc thang thành tựu của nhân loại, có khả năng trèo đến mức tột đỉnh mà người nam có thể đến.

Trong mọi lãnh vực nỗ lực của nhân loại, người nam không có gì hơn người nữ, nhưng cùng lúc Ðức Phật nhìn nhận những khuyết điểm dính liền theo nữ tính, khuynh hướng nhẹ dạ và thiên tánh yếu mềm của người phụ nữ dễ dàng rơi vào đường tội lỗi, dễ bị khuyến dụ đi trên con đường kém đạo đức, và vốn là một vị thầy luân lý vĩ đại -- là vị thầy vĩ đại nhất trong lịch sử loài người -- Ngài gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh, chỉ vạch những dấu hiệu hiểm nguy trên con đường tiến bộ của các bà.

Mối lo âu chánh của Ðức Phật là phục hưng tinh thần đạo đức và luân lý cho tất cả mọi người, nam và nữ; là giải thoát họ ra khỏi những trói buộc vô cùng tận của vòng luân hồi và đưa họ đến hạnh phúc trường cửu của Niết Bàn. Ðã như vậy, Ngài không mấy bận tâm đến những vấn đề của thế gian như cải cách xã hội và tiến bộ chánh trị. Ngài để những công việc ấy lại cho những ai có thẩm quyền -- những nhà cai trị dân, vua chúa, người có quyền thế, những người có nhiệm vụ gánh vác công chuyện quốc gia. Suốt đời Ngài không bao giờ xen vào những tổ chức của chánh quyền; Ngài không bao giờ nhúng tay vào những vấn đề chánh trị nhưng dầu sao, không thể phủ nhận và luận bàn, rằng trong khi tuyên ngôn bức thông điệp vĩnh cửu về sự giải thoát nhân loại, cùng lúc ấy, vì lý do cao cả của giáo huấn tuyệt luân, Ngài đã đem lại tiến bộ xã hội đáng ghi nhớ và sự giác ngộ chánh trị cho toàn thể nhân loại, duy nhất trong lịch sử thế giới. Những chuyện tích thuật lại dưới đây cho thấy rằng giáo huấn tuyệt vời của Ðức Phật đã có một ảnh hưởng thấm nhuần sâu xa vào đời sống của hàng phụ nữ trong thời Ngài. [17]

Hầu hết tất cả những tích chuyện này đều được phiên dịch từ kinh điển và các Bản Chú Giải Pali. Những câu kệ được viết lại theo văn xuôi để có thể rất trung thực, dễ thực hiện và dễ đọc.

-ooOoo-

Thành Lập Giáo Hội Tỳ Khưu Ni

Người Phụ nữ Vĩ Ðại Nhất - Mahà Pajàpati Gotami

Cuộc đời và tiểu sử Bà Mahà Pajàpati Gotami, sự xuất gia của bà và sau đó sự thành lập Giáo Hội Tỳ Khưu Ni (Bhikkhuni) là một trong những mẫu chuyện sáng chói và hấp dẫn nhất trong văn học Phật Giáo. Nó biểu lộ cùng lúc trí tuệ thấy xa và lòng nhân đạo của Ðức Phật Ðại Từ Ðại Bi. Hơn nữa nó cho thấy đến mức nào năng lực hùng mạnh của sự quyết tâm bất khuất và bất thối chuyển và lòng quả cảm của một thiếu phụ có thể gieo ảnh hưởng đến xã hội đương thời. Nó cũng cho thấy như thế nào một sự can thiệp làm trung gian để thỉnh cầu đầy lòng từ ái, có thể giúp làm mềm dịu lập trường cứng rắn nhất và dẫn đến tình trạng thân hữu và mềm dẽo hơn.

Trên hết, đây là một giai đoạn đầy hiểm họa có những thành quả sâu xa nhất trong lịch sử giải thoát hàng phụ nữ. Hai ngàn năm trăm năm sau thời Ðức Phật, cuộc vận động để giải phóng nữ giới vẫn còn được mạnh mẽ tiếp diễn khắp nơi trên thế giới. Tuy nhiên, hơn hai mươi lăm thế kỷ về trước Ðức Phật đặc ân công nhận và cho phép hàng phụ nữ được xuất gia và gia nhập vào giáo hội, mặc dầu không khỏi phần nào do dự. Người trực tiếp đảm đang trách nhiệm đưa vượt qua khúc quanh lịch sử, giải phóng nữ giới, không ai khác hơn là Bà Mahà Pajàpati Gotami vĩ đại. Giữa nhóm các mạng phụ phu nhân đã có ảnh hưởng trên bước đường giải phóng nữ giới, bà trổi lên là vị nữ anh hùng nổi bật. Bà đứng hàng đầu các bà tín nữ của Ðức Phật. Ðức Phật chỉ định cho bà địa vị quan trọng nhất về tuổi tác cũng như về kinh nghiệm. Nhưng nếu không có lòng dũng cảm kiên trì và bất khuất của bà trước những bất trắc chồng chất, giới Phật tử không bao giờ biết có Giáo Hội Tỳ Khưu Ni. Bà sanh trưởng tại thị trấn Devadaha của xứ Ấn Ðộ cổ xưa, trong gia đình Suppabuddha. Bà là em của Hoàng Hậu Mahà Màyà, mẹ Thái Tử Siddhattha. Tên tộc bà là Gotami. Người ta gọi bà là Mahà Pajàpati Gotami bởi vì các nhà tiên tri đoán rằng về sau bà sẽ trở nên vị lãnh đạo của một nhóm người rộng lớn. "Mahà" có nghĩa lớn. "Pati" là người dẫn đầu và "Pajà" là một nhóm đông người có tổ chức. Vua Suddhodna, trị vì dân tộc Sakyan tại Kapilavattu, cưới luôn cả hai bà, Mahà Màyà và em là Gotami. Theo quan niệm xã hội của người thời bấy giờ, một cuộc hôn nhân như thế ấy không có chi là lạ và vẫn thích hợp với tập tục đương thời.

Bà Gotami sanh một gái tên Sundari Nandà và một trai tên Nanda. Về sau cả hai đều gia nhập vào Giáo Hội. Hoàng Hậu Mahà Màyà băng hà sau khi hạ sanh Hoàng Tử Siddhattha được bảy ngày. Trong một cử chỉ cao cả, hy sinh tình mẫu tử, bà Gotami giao con lại cho người khác nuôi dưỡng và lãnh lấy trọng trách thiêng liêng dưỡng dục và chăm sóc con của chị mình.

Dưỡng nuôi và chăm sóc vị Phật tương lai, bà không những được toàn thể Phật tử trên thế gian tri ân mà cũng đặt Thái Tử Siddhattha vào vị trí phải mang trọng ân đối với bà.

Lòng biết ơn không phải là phẩm hạnh chung của người tầm thường, nam cũng như nữ. Tuy nhiên, đó là dấu hiệu nổi bật của chư Phật. Ðó là một trong những đức hạnh chánh yếu và đặc thù của chư Phật. Cũng chính lòng tri ân này, trong số những lý do khác, đã thúc giục Ðức Phật cuối cùng tán thành lời thỉnh cầu khẩn thiết và bền dai của Bà Gotami và chấp nhận bà vào Giáo Hội Thánh Thiện của chư Tỳ Khưu Ni.

Khi Vua Suddhodana băng hà Bà Gotami, lúc ấy đã không còn chị, không còn chồng và con (con bà đã gia nhập vào Giáo Hội Tăng Già), quyết định từ bỏ thế gian và những gì rực rỡ sáng chói của kiếp nhân sinh phàm tục và trở về nương tựa trong cuộc sống không nhà cửa. Bà xin được xuất gia, nhưng Ðức Phật không chấp thuận.

Ngày kia Ðức Phật đến thành Kapilavattu để giảng hòa một cuộc tranh chấp dữ dội giữa hai dân tộc, Sakyan và Koliyan, đang dành quyền xử dụng nước của dòng sông Rohini. Sau khi cuộc cãi vã cay đắng đã được dàn xếp ổn thỏa và hai bên dịu giọng, như thường lệ, Ðức Thế Tôn mở lời thuyết giảng Giáo Pháp, và sau khi lắng nghe thời Pháp một số đông người trai trẻ Sakyan xin gia nhập vào Giáo Hội chư Tỳ Khưu. Các bà vợ của những vị ấy, do Mahà Pajàpati Gotami hướng dẫn, đến xin xuất gia với Ðức Bổn Sư. Các bà khẩn khoản van xin như sau: "Bạch Ðức Thế Tôn, thật là một đại hạnh cho nữ giới nếu hàng phụ nữ chúng con được chấp nhận gia nhập vào Giáo Hội Tỳ Khưu Ni để khép mình trong khuôn khổ của Giáo Pháp và Giới Luật mà Ngài công bố."

Tuy nhiên, Ðức Phật không sẵn sàng khích lệ thỉnh nguyện của Bà Gotami và trả lời, "Ðủ rồi, này Bà Gotami, Như Lai không thể làm vừa lòng Bà và chấp nhận như vậy." Lần thứ nhì, rồi lần thứ ba Bà Gotami lặp lại lời thỉnh cầu, nhưng mỗi lần đều bị từ chối. Sau đó Ðức Thế Tôn lần hồi sang thành Vesali và ngự trong một đền thờ trên đỉnh núi. Bà Gotami vẫn không nao núng, không ngã lòng vì những đợt thỉnh nguyện bất thành, mà bền gan cam chịu mọi khổ nhọc và đương đầu với nghịch cảnh, quyết định theo chân Ðức Thế Tôn đến Vesali cùng với một số mạng phụ phu nhân có niềm tin nơi bà. Nơi đây ta mục kích sự biểu dương tinh thần dũng cảm bất khuất của bà, đáng gợi lòng ngưỡng mộ và tôn kính của mọi người.

Cắt lìa những chùm tóc đẹp đẽ một thời nào, vứt bỏ những đồ trang điểm giàu sang tráng lệ, và khoác lên mình tắm y vàng thô thiển, các bà cam chịu khổ nhọc đi bộ, trải qua đoạn đường dài 150 dặm đến Vesali. Vốn chưa từng quen thuộc với những thử thách quá cam go dường thế ấy trong quá khứ, các bà chiến đấu và vất vả khổ nhọc trăm bề trên cuộc hành trình. Dài theo đường, nhiều người thấy vậy rất cảm kích, sẵn lòng hào hiệp nhường chỗ trên xe, nhưng các bà lễ độ khước từ và tiếp tục nhọc nhằn lê bước. Cảnh tượng quả thật não nề và rất đáng thương tâm. Cuối cùng các bà đến Vesali, suy yếu và kiệt quệ, đứng trước cổng chùa, mình mẩy lắm lem cát bụi -- y phục nhăn nhó tả tơi, chân cẳng sưng vù đau nhức.

Ðại Ðức Ànanda, vị thị giả trung thành và rất tận tụy, người hầu cận thân tín và cần mẫn siêng năng của Ðức Phật, thấy cảnh tượng khổ đau như vậy, động lòng trắc ẩn, đến gần Ðức Bổn Sư và bạch như sau: "Kính Bạch Ðức Thế Tôn, Bà Gotami cùng với đoàn tùy tùng đang đứng phía trước điện, vẻ mặt hốc hác mệt nhọc, sức lực kiệt quệ. Các bà ấy phải đi đường xa tìm đến gặp Ðức Thế Tôn để khẩn khoản thỉnh nguyện. Kính bạch Ðức Thế Tôn, xin Ngài từ bi cho phép nữ giới được xuất gia tỳ khưu ni, trong khuôn khổ của Giáo Pháp và Giới Luật mà Ðức Thế Tôn đã công bố. Ðây sẽ là một đại hạnh, bạch hóa Ðức Thế Tôn, nếu Ngài cho phép hàng phụ nữ được gia nhập vào Giáo Hội." Ba lần Ðại Ðức Ànanda cố nài xin, nhưng Ðức Phật một mực chối từ.

Tuy nhiên, Ðại Ðức Ànanda không nãn lòng. Khi một người thành thật và kiên trì cầu khẩn cho người khác và tập trung cố gắng nhằm làm mềm dịu một thái độ cứng rắn thì không có lý do gì để từ bỏ triển vọng. Lúc bấy giờ Ðại Ðức Ànanda áp dụng đường lối khác, kính cẩn bạch đấng Toàn Giác như sau: "Bạch hoá Ðức Thế Tôn, người phụ nữ có chăng khả năng thành đạt những mức sống cao thượng trong đời sống tinh thần -- bốn tầng thánh [18]-- một khi họ từ bỏ cuộc sống tại gia, tiến đến đời sống không nhà cửa, tự khép mình vào khuôn khổ của Giáo Pháp và Giới Luật của Ðức Thế Tôn?" "Có, này Ànanda, họ có đủ khả năng làm được vậy, [19]" Ðức Phật trả lời.

Tiến được một bước vững chắc trong chiều hướng thuận lợi, được khích lệ, Ðại Ðức Ànanda thiết tha khẩn bạch, "Bạch hoá Ðức Thế Tôn, nếu hàng phụ nữ có đủ khả năng đạt thành thánh quả, như vậy Bà Mahà Pajàpati Gotami mà trước kia đã nuôi Ðức Thế Tôn bằng sữa của bà, đã bồng bế Ngài trong lòng sau khi hoàng hậu thăng hà và sau đó dưỡng nuôi chăm sóc Ngài cho đến lúc trưởng thành, vậy, bạch Ðức Thế Tôn, hàng phụ nữ có thể được phép gia nhập vào nếp sống không nhà cửa, trong khuôn khổ của Giáo Pháp và Giới Luật mà Ðức Thế Tôn đã công bố." Ðến đây Ðại Ðức Ànanda đã chạm đến một điểm rất tế nhị. Ðại Ðức đã đề cập đến vấn đề biết ơn, và biết ơn là một đức tính được chư Phật hết lời tán dưong và thâm sâu thấm nhuần. Trước lời khẩn cầu nồng nhiệt của Ðại Ðức Ànanda, Ðức Phật không thể làm gì hơn là thuận lòng.

Tuy nhiên, với trí tuệ nhìn xa và hiểu rộng, Ðức Thế Tôn có thể thấy những hiểm họa và những khuyết điểm không thể tránh trong việc điều hành song song hai Giáo Hội Tăng Già cùng một lúc. Do đó Ngài ban hành một vài điều kiện và quy định vài giới luật cho Giáo Hội chư Tỳ Khưu Ni nhằm giữ gìn và bảo vệ tương lai cho cả hai Giáo Hội. Những điều kiện được ban hành là:

1. Một vị tỳ khưu ni, dầu có trăm tuổi hạ do sự thọ trì cụ túc giới (upasampadà) phải chào hỏi một vị tỳ khưu, đứng dậy trước mặt vị tỳ khưu, đảnh lễ và thực hành tất cả những bổn phận thích nghi đối với vị tỳ khưu, mặc dầu vị này mới thọ cụ túc giới trong ngày hôm nay.

2. Một vị tỳ khưu ni không thể nhập hạ (vassa) ở một nơi mà không có tỳ khưu.

3. Vào mỗi ngày sám hối (một tháng hai lần), vị tỳ khưu ni phải hỏi Giáo Hội chư Tỳ Khưu ngày giờ nào một vị tỳ khưu đến hành lễ phát lồ (uposatha). [20]

4. Khi mãn thời gian an cư kiết hạ mỗi vị tỳ khưu ni phải thọ lễ tự tứ (pavàrana) [21] trước cả hai Giáo Hội, tỳ khưu và tỳ khưu ni (để kiểm thảo xem trong ba điểm: thấy, nghe và hoài nghi, mình có làm điều chi lỗi lầm không)

5. Một vị tỳ khưu ni đã phạm một trọng tội phải chịu hình phạt manatta [22] trước cả hai Giáo Hội, Tỳ Khưu và Tỳ Khưu Ni.

6. Một nữ giới tử (sikkhamànà, trong thời gian học tập) đã có tu tập sáu giới trong thời gian hai năm, có thể thọ trì cụ túc giới với cả hai Giáo Hội, Tỳ Khưu và Tỳ Khưu Ni.

7. Bất cứ trong trường hợp nào một vị tỳ khưu ni không quyền khiển trách hay nặng lời một vị tỳ khưu.

8. Kể từ hôm nay tỳ khưu ni không được phép làm lễ sám hối cho tỳ khưu nhưng tỳ khưu thì có thể hành lễ sám hối cho tỳ khưu ni.

Những giới luật và điều kiện trên đây phải được tôn trọng, khâm sùng, kính cẩn tuân hành, và nghiêm túc thọ trì suốt đời, không được vi phạm dầu bất cứ trường hợp nào.

Giờ đây Ðại Ðức Ànanda đã học nằm lòng với Ðức Thế Tôn tám giới chủ yếu ấy, đến gặp Bà Mahà Pajàpati Gotami và trao truyền lại bà. Bà Gotami hoan hỷ lãnh giáo, chấp thuận nghiêm trì tám giới chủ yếu ấy và nguyện trọn đời không vi phạm [23]. Sau đó Bà Gotami xuất gia. Bà đến trước Ðức Phật và đảnh lễ. Ðức Bổn Sư thuyết giảng cho bà một thời Pháp và ban truyền cho bà một đề mục hành thiền. Bà Gotami, vị đệ tử có tâm đạo nhiệt thành, thực hành đúng theo lời giáo huấn, hành thiền, khai triển tuệ minh sát (vipassanà) và chứng đắc Ðạo Quả A La Hán cùng với bốn patisambhidà [24], tri kiến phân tách. Về sau các vị đệ tử của bà cũng đắc Quả A La Hán khi Ngài Trưởng Lão Nandaka [25] chấm dứt một thời Pháp giảng cho các bà. Trong khi cư ngụ tại Vesali, Bà Gotami nhận biết rằng cuộc đời của bà sắp kết liễu, đến đảnh lễ từ giả Ðức Phật và viên tịch -- lúc ấy bà được một trăm hai mươi tuổi thọ.

Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử tôn giáo một Giáo Hội Nữ Tu Sĩ được thành lập và nữ giới được chấp nhận vào đời sống tu viện. Cánh cửa đã rộng mở để cho hàng phụ nữ xuất gia, đặc ân cho phái nữ gia nhập vào một Giáo Hội Nữ Tu Sĩ đã được ban hành. Giáo Hội Tỳ Khưu Ni sớm được thành lập, tốt đẹp và vững chắc. Nhiều bà ở lứa tuổi lớn khôn, các bà khác giữa độ thanh xuân và những bà khác nữa tuổi hạc đã cao đến mức hoàng hôn của cuộc sống, tất cả đều gia nhập vào Giáo Hội Tỳ Khưu Ni. Họ đến thật đông -- hạng người giàu sang sung túc và những người nghèo khổ bần cùng, người dốt nát và người có trình độ văn hóa sâu rộng, người chất phác thật thà và người nhiều học thức -- họ đến từ các nẻo đường của đời sống và xin gia nhập vào Giáo Hội Thánh Thiện của chư vị Tỳ Khưu Ni. Giáo Hội tồn tại trong nhiều trăm năm. Những vị tỳ khưu ni này, sau khi đã gia nhập vào Giáo Hội và thành đạt giải thoát cuối cùng, bắt đầu thốt ra những lời tán dương và những khúc ca khải hoàn hay thánh thi, như người ta gọi, được góp nhặt trong một quyển sách có tên là Therìgàthà (những bài Thánh Thi của các Trưởng Lão Ni, hay Trưởng Lão Ni Kệ). Những bài thánh thi này nói lên mức độ phỉ lạc mà các bà đã kinh nghiệm trong khi xuất gia và sau đó khi thành đạt thánh quả.

Câu hỏi đôi khi được nêu lên là Ðức Phật có đặt Ni Bộ dưới quyền của Tăng Bộ chăng. Câu hỏi thật sự không cần được nêu lên, bởi vì Ðức Phật khai sáng hai giáo hội riêng biệt tách rời và sinh hoạt song song, và không có ý định làm cho giáo hội nào sẽ kiểm soát giáo hội nào. Giáo Hội chư Tỳ Khưu có những vị tăng trưởng, hai vị đại đệ tử ấy là nhị vị Trưởng Lão A La Hán, Sàriputta và Mahà Moggallàna. Cùng thế ấy, bên Ni Bộ cũng có hai vị Ni Trưởng, tức hai vị A La Hán Khemà và Uppalavannà. Sự kiện Ðức Phật không bao giờ có ý định đặt Giáo Hội Tăng Già, tăng bộ hay ni bộ, dưới quyền kiểm soát của một người hay một nhóm người, được lời dạy của Ngài trong kinh Ðại Niết Bàn, Mahàparinibbàna Sutta, cho thấy tỏ rõ. Nơi đây Ngài tuyên bố không bao giờ có ý rằng Ngài, là vị Phật, phải kiểm soát Tăng Già (Sangha). Theo Ðức Phật, Tăng già không bao giờ có nghĩa là một cơ cấu được hàng ngủ hóa, được tổ chức thành đoàn, phải sùng bái và trung thành phục tùng một vị giáo chủ duy nhất. Nhưng đây phải là một tập đoàn của những người nam và những người nữ tự do, nhiệt thành dấn thân vào nhiệm vụ cao cả là thành đạt Niết Bàn, giải thoát cuối cùng cái tâm. Và những vị này có đủ tự do tư tưởng và hành động trong một cơ cấu gồm những người trang nghiêm, thấm nhuần những lý tưởng cao thượng, cố gắng bắt tay vào công trình cao cả là phá vỡ những xiềng xích của vòng luân hồi, samsàra, những kiếp sống triền miên lặp đi lặp lại.

Câu hỏi thường được nêu lên là Ðức Phật do dự, không sẵn sàng cho phép nữ giới gia nhập vào Giáo Hội, có phải vì Ngài xem nữ giới là thấp kém hơn nam giới và nghĩ rằng họ không thích hợp với một khuynh hướng cao cả như vậy không. Giải đáp cho câu hỏi là không bao giờ, không có lần nào, Ðức Phật công bố rằng người nữ thua kém người nam, bất luận trên phương diện trí thức hay cương nghị hay khả năng thành đạt Niết Bàn. Chỉ có thể giải thích sự do dự của Ðức Phật trên căn bản là Ngài có thể nhận thấy rằng nếu người phụ nữ gia nhập vào đời sống tự viện thì phẩm hạnh cốt yếu của người sống độc thân, vốn dĩ rất cần thiết cho sự điều hành suôn sẻ của một tự viện, sẽ bị ảnh hưởng và tổn thương. Và cũng vì điều này mà Ngài ban hành tám giới hay điều kiện bảo vệ. Chính tám giới này tạo điều kiện để điều hành tốt đẹp hai cơ quan trong tinh thần trang nghiêm và thích đáng với bản tánh tự nhiên. Nó giữ chư ni trong vị trí thích hợp với tâm tánh người nữ. Cũng chính tám giới này đã hỗ trợ trạng thái điều hoà và thuận thảo và đem lại tình giao hảo thích nghi giữa tỳ khưu và tỳ khưu ni.

Không nên diễn dịch bất cứ như thế nào sự chấp thuận muộn màng của Ðức Phật là Ngài chấp nhận tánh cách yếu đuối hay suy nhược của người phụ nữ. Theo một lối, đó là phương tiện để chỉ cho cả hai, chư tỳ khưu và chư tỳ khưu ni, hiểu rằng sự hình thành Giáo Hội Tỳ Khưu Ni từ giai đoạn sơ khởi đã mang theo với nó một vài yếu tố hiểm nguy, và nếu không có những phương sách dự phòng, trong tương lai có thể xảy ra những bất trắc khó lường. Sự chấp thuận cuối cùng biểu lộ trí sáng suốt thâm sâu của Ðức Phật và khả năng thấy xa trong tương lai hậu quả của bất cứ sinh hoạt nào. Nó cũng cho thấy sự biết ơn và lòng bi mẫn mênh mông như trời biển của Ngài bao gồm mọi tầng lớp và tất cả mọi loài chúng sanh. Nên ghi nhận rằng công trình nghiêm túc hành trì tám giới này có một vai trò tối trọng yếu và có rất nhiều ý nghĩa để gìn giữ tình trạng thanh khiết và thánh thiện của hai Giáo Hội trong một thời gian rất lâu dài. Chính tám giới trọng yếu này (được gọi trong tiếng Pali là garu-dhammas) là tảng đá vững chắc làm nền để xây dựng kiến trúc đồ sộ và công trình sinh hoạt chảy trôi suôn sẻ của hai Giáo Hội.

Cái quyền to lớn và đặc ân mà Bà Mahà Pajàpati Gotami đã tranh đấu và thành công, tức quyền của nữ giới được gia nhập vào Giáo Hội Thánh Thiện, quả thật là quan trọng trong lịch sử tôn giáo. Chí đến ngày nay còn nhiều hệ thống tôn giáo hưng thạnh trên thế giới vẫn chưa chịu nhượng quyền cho hàng phụ nữ thọ giới tu sĩ. Cũng có một số ít tôn giáo đã nhường cho nữ giới quyền xuất gia, bắt đầu hoài nghi rằng không biết nhân nhượng nhiều quyền như thế mình có sáng suốt không, và đặt câu hỏi có cần bước sang giai đoạn này không.

Ðức Phật nổi bật là một trong số ít các vị giáo chủ của nhân loại đã nâng cao hàng phụ nữ lên một vị trí xứng đáng trong đời sống, bằng cách cho phép nữ giới gia nhập vào Giáo Hội Tỳ Khưu Ni, và như vậy, mở ra một chương sách hoàn toàn mới trong lịch sử giải phóng của người phụ nữ.

(Xin xem tiếp phần 12.b)


Chú thích:

[1] Nàsti strìnàm prthagyajno
Na vratam napyuposatham
Patim susrusate yena
Tena svarge mahìyate (Manu, câu 153).

[2] Kindred Sayings, I, trang iii.

[3] Kindred Sayings, I, trang 45.

[4] Jananì janma bhùmis ca svargàdapi garìyasi.

[5] Anguttara Nikàya, 4: 265 và những trang tiếp.

[6] Anguttara Nikàya, Tăng Nhứt A Hàm. 4: 238 và những trang tiếp.

[7] i. saddho, ii. hirimà ottàpi, iii. akkodhano anupanàhi, iv. anissuki, v. amacchari, vi. anaticàri, vii. sìlavà, viii. bahussuto, ix. àraddhaviriyo, x. upatthita sati, xi. pannavà (Samyutta Nikàya, Tạp A Hàm, 4: 143)

[8] Xem phần sau, Kundala Kesa.

[9] Psalms of the Sistrers (Trưởng Lão Ni Kệ)

[10] Xem Dhammapada, kinh Pháp Cú, câu 242.

[11] Pancakàmagunà ete itthirùpasmim dissare -- rupà saddhà rasà gandhà photthabbà ca manoramà (Anguttara Nikàya, Tăng Nhứt A Hàm, 3: 69)

[12] Gradual Sayings, iii, trang 57.

[13 Xem Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 251.

[14] Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 242.

[15[ Samyutta Nikàya, Tạp A Hàm, I: 7

[16] Samyutta Nikàya, Tạp A Hàm, I: 37.

[17] Quý vị quan tâm đến vấn đề "Người Phụ Nữ Trong Phật Giáo" có thể đọc Women Under Primitive Buddhism của tác giả I.B. Horner; Women in Buddhist Literature của tác giả B.C. Law; và bài viết có nhiều tài liệu "Women and the Religious Order of the Buddha" của Jotiya Dhìrasekera, hiện nay là Ðại Ðức Dhammavuhàri (The Mahà Bodhi, May-June 1967, Calcutta).

[18] Tầng thánh đầu tiên là nhập lưu (sotàpatti, cũng gọi là Tu đà huờn); tầng thứ nhì là nhất lai (sakadàgàmi, Tư đà hàm); thứ ba là bất lai (anàgàmi, A na hàm); và thứ tư, bậc thánh cuối cùng, là A la hán (arahatta), giai đoạn mà tất cả mọi thằng thúc đều bị phá tan và mọi nhiễm ô đều được bứng tận gốc rễ.

[19] Anguttara Nikàya, Tăng Nhứt A Hàm, 4: 276; Vinaya, Tạng Luật 2: 254.

[20] Vào ngày rằm và ngày mồng một khi chư tăng cu hội để đọc Pàtimokkha hay Giới Bổn.

[21] Buỗi lễ cử hành nhằm chánh thức chấm dứt mùa nhập hạ.

[22] Một hình thức trừng phạt thuộc về giới luật.

[23] Anguttara Nikàya, Tăng Nhứt A Hàm, 4:274 ff.

[24] Sự hiểu biết có tánh cách phân tách về: i) ý nghĩa (attha), ii) kinh điển (dhamma), iii) ngữ nguyên (nirutti), và iv) thông hiểu rõ ràng ba điểm trên.

[25] Majjhima Nikàya, Trung A Hàm, 146, Bài giảng của Ðại Ðức Nandaka cho các bà tỳ khưu ni.

-ooOoo-

Ðầu trang | Mục lục | 01.a | 01.b | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 |
 10.a | 10.b | 10.c | 11 | 12.a | 12.b | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18.a | 18.b

Chân thành cám ơn Bác Phạm Kim Khánh đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 10-2002)


[Trở về trang Thư Mục]
last updated: 05-10-2002