Trang gốc

Trang web BuddhaSasana

VU Times font

 

Tạng Luật - Bộ Phân Tích Giới Bổn
Vinaya Pitaka -
Suttavibhanga

Phân Tích Giới Tỳ-khưu Ni
(Bhikkhunivibhanga)

Tỳ-khưu Indacanda Nguyệt Thiên dịch

Lưu ý: Ðọc với phông chữ VU Times (Viet-Pali Unicode)


IV. CHƯƠNG PĀCITTIYA (ƯNG ĐỐI TRỊ) (tt)

PHẦN SẢN PHỤ - ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT:

[364] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tiếp độ người nữ mang thai. Cô ấy đi khất thực. Dân chúng đã nói như vầy:

- Hãy bố thí đồ khất thực cho ni sư. Ni sư mang bào thai nặng nề!

Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Tại sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ người nữ mang thai?

Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ người nữ mang thai?

...(như trên)...

- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tiếp độ người nữ mang thai, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ người nữ mang thai vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ người nữ mang thai thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

[365] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...

Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Người nữ mang thai nghĩa là có sanh mạng đã thành tựu được đề cập đến.

Tiếp độ: cho tu lên bậc trên. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn (ācarinī), hoặc là bình bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[366] Người nữ mang thai, nhận biết là người nữ mang thai, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

Người nữ mang thai, có sự hoài nghi, vị ni tiếp độ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).

Người nữ mang thai, (lầm) tưởng là người nữ không mang thai, vị ni tiếp độ thì vô tội.

Người nữ không mang thai, (lầm) tưởng là người nữ mang thai, phạm tội dukkaṭa (tác ác).

Người nữ không mang thai, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).

Người nữ không mang thai, nhận biết là người nữ không mang thai thì vô tội.

[367] Vị ni tiếp độ người nữ mang thai (lầm) tưởng là không mang thai, vị ni tiếp độ người nữ không mang thai (khi) nhận biết là không mang thai, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN SẢN PHỤ - ĐIỀU HỌC THỨ NHÌ:

[368] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tiếp độ người nữ còn cho con bú. Cô ấy đi khất thực. Dân chúng đã nói như vầy:

- Hãy bố thí đồ khất thực cho ni sư. Ni sư còn có người thứ nhì!

Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Tại sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ người nữ còn cho con bú?

Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ người nữ còn cho con bú?

...(như trên)...

- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tiếp độ người nữ còn cho con bú, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ người nữ còn cho con bú vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ người nữ còn cho con bú thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

[369] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...

Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Người nữ còn cho con bú nghĩa là người mẹ hoặc là người vú nuôi.

Tiếp độ: cho tu lên bậc trên. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[370] Người nữ còn cho con bú, nhận biết là người nữ còn cho con bú, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

Người nữ còn cho con bú, có sự hoài nghi, vị ni tiếp độ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).

Người nữ còn cho con bú, (lầm) tưởng là người nữ không cho con bú, vị ni tiếp độ thì vô tội.

Người nữ không cho con bú, (lầm) tưởng là người nữ còn cho con bú, phạm tội dukkaṭa (tác ác).

Người nữ không cho con bú, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).

Người nữ không cho con bú, nhận biết là người nữ không cho con bú thì vô tội.

[371] Vị ni tiếp độ người nữ còn cho con bú (lầm) tưởng là người nữ không cho con bú, vị ni tiếp độ người nữ không cho con bú (khi) nhận biết là người nữ không cho con bú, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN SẢN PHỤ - ĐIỀU HỌC THỨ BA:

[372] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tiếp độ cô ni tu tập sự chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Các vị ni ấy ngu dốt, không có kinh nghiệm, không biết việc được phép hay không được phép. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ cô ni tu tập sự chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm?

...(như trên)...

- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tiếp độ cô ni tu tập sự chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ cô ni tu tập sự chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…

Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:

- Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đến cô ni tu tập sự. Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Cô ni tu tập sự ấy nên đi đến nơi hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu ni, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:

Bạch chư đại đức ni, tôi tên (như vầy) là cô ni tu tập sự của đại đức ni tên (như vầy) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm.”

Nên được thỉnh cầu lần thứ nhì. Nên được thỉnh cầu lần thứ ba.

Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ năng lực:

 “Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni này tên (như vầy) là cô ni tu tập sự của đại đức ni tên (như vầy) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đến cô ni tu tập sự tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.

Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni này tên (như vầy) là cô ni tu tập sự của đại đức ni tên (như vầy) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Hội chúng ban cho sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đến cô ni tu tập sự tên (như vầy). Đại đức ni nào đồng ý việc ban cho sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đến cô ni tu tập sự tên (như vầy) xin im lặng; vị ni nào không đồng ý có thể nói lên.

Sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đã được hội chúng ban cho đến cô ni tu tập sự tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

Cô ni tu tập sự ấy nên được nói rằng: “Cô hãy nói như vầy:

1. Tôi xin thọ trì việc tránh xa sự giết hại mạng sống không vi phạm trong hai năm.

2. Tôi xin thọ trì việc tránh xa sự lấy vật không được cho (trộm cắp) không vi phạm trong hai năm.

3. Tôi xin thọ trì việc tránh xa điều phi Phạm hạnh (hành dâm) không vi phạm trong hai năm.

4. Tôi xin thọ trì việc tránh xa sự nói dối không vi phạm trong hai năm.

5. Tôi xin thọ trì việc tránh xa sự dễ duôi uống chất say là rượu và chất lên men không vi phạm trong hai năm.

6. Tôi xin thọ trì việc tránh xa sự ăn sái thời không vi phạm trong hai năm.

Sau đó, đức Thế Tôn đã khiển trách các tỳ khưu ni ấy bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ cô ni tu tập sự chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

[373] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...

Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Hai năm: (thời hạn) hai năm.

Chưa thực hành việc học tập nghĩa là việc học tập chưa được ban cho hoặc là việc học tập đã ban cho bị hư hoại.

Tiếp độ: cho tu lên bậc trên. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[374] Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).

Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).

Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[375] Vị ni tiếp độ cô ni tu tập sự đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN SẢN PHỤ - ĐIỀU HỌC THỨ TƯ:

[376] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tiếp độ cô ni tu tập sự đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội chúng chấp thuận. Các tỳ khưu ni đã nói như vầy:

- Này các cô ni tu tập sự, hãy đi đến. Hãy nhận biết việc này, hãy bố thí vật này, hãy mang lại vật này, có sự cần dùng với vật này, hãy làm vật này thành được phép.

Các cô ni ấy đã nói như vầy:

- Này các ni sư, chúng tôi không phải là các cô ni tu tập sự. Chúng tôi là các tỳ khưu ni.

Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ cô ni tu tập sự đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội chúng chấp thuận?

...(như trên)...

- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tiếp độ cô ni tu tập sự đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội chúng chấp thuận, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ cô ni tu tập sự đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội chúng chấp thuận vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…

Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:

- Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho sự chấp thuận về việc tiếp độ đến cô ni tu tập sự đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Cô ni tu tập sự đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm ấy nên đi đến nơi hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu ni, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:

Bạch chư đại đức ni, tôi tên (như vầy), là cô ni tu tập sự của đại đức ni tên (như vầy) đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm, (giờ) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận về việc tiếp độ.“

Nên được thỉnh cầu lần thứ nhì. Nên được thỉnh cầu lần thứ ba.

Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ năng lực:

 “Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni này tên (như vầy), là cô ni tu tập sự của đại đức ni tên (như vầy) đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm, (giờ) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận về việc tiếp độ. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự chấp thuận về việc tiếp độ đến cô ni tu tập sự tên (như vầy) đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Đây là lời đề nghị.

Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni này tên (như vầy), là cô ni tu tập sự của đại đức ni tên (như vầy) đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm, (giờ) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận về việc tiếp độ. Hội chúng ban cho sự chấp thuận về việc tiếp độ đến cô ni tu tập sự tên (như vầy) đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Đại đức ni nào đồng ý việc ban cho sự chấp thuận về việc tiếp độ đến cô ni tu tập sự tên (như vầy) đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm xin im lặng; vị ni nào không đồng ý có thể nói lên.

Sự chấp thuận về việc tiếp độ đã được hội chúng ban cho đến cô ni tu tập sự tên (như vầy) đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

Sau đó, đức Thế Tôn đã khiển trách các tỳ khưu ni ấy bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ cô ni tu tập sự đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội chúng chấp thuận thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

[377] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...

Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Hai năm: (thời hạn) hai năm.

Đã thực hành việc học tập nghĩa là đã thực hành việc học tập về sáu pháp.

Chưa được chấp thuận nghĩa là sự chấp thuận về việc tiếp độ bằng hành sự với lời thông báo đến lần thứ hai chưa được ban cho.

Tiếp độ: cho tu lên bậc trên. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[378] Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).

Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).

Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[379] Vị ni tiếp độ cô ni tu tập sự đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (và) đã được hội chúng chấp thuận, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN SẢN PHỤ - ĐIỀU HỌC THỨ NĂM:

[380] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tiếp độ người nữ đã kết hôn khi chưa đủ mười hai tuổi. [1] Các cô ấy không có khả năng chịu đựng sự lạnh, sự nóng, sự đói, sự khát, các sự xúc chạm bởi ruồi, muỗi, gió, nắng, và các loài bò sát, các lối nói lăng mạ công kích, có khuynh hướng không cam chịu các cảm thọ khổ, nhức nhối, khốc liệt, sắc bén, gay gắt, không chút thích thú, khó chịu, chết người thuộc về cơ thể đã sanh khởi. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ người nữ đã kết hôn khi chưa đủ mười hai tuổi?

...(như trên)...

- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tiếp độ người nữ đã kết hôn khi chưa đủ mười hai tuổi, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ người nữ đã kết hôn khi chưa đủ mười hai tuổi vậy? Này các tỳ khưu, bởi vì người nữ đã kết hôn khi chưa đủ mười hai tuổi không có khả năng chịu đựng sự lạnh, sự nóng, sự đói, sự khát, các sự xúc chạm bởi ruồi, muỗi, gió, nắng, và các loài bò sát, các lối nói lăng mạ công kích, có khuynh hướng không cam chịu các cảm thọ khổ, nhức nhối, khốc liệt, sắc bén, gay gắt, không chút thích thú, khó chịu, chết người thuộc về cơ thể đã sanh khởi. Này các tỳ khưu, người nữ đã kết hôn khi đã đủ mười hai tuổi có khả năng chịu đựng sự lạnh, sự nóng, sự đói, sự khát, các sự xúc chạm bởi ruồi, muỗi, gió, nắng, và các loài bò sát, các lối nói lăng mạ công kích, có khuynh hướng cam chịu các cảm thọ khổ, nhức nhối, khốc liệt, sắc bén, gay gắt, không chút thích thú, khó chịu, chết người thuộc về cơ thể đã sanh khởi. Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ người nữ đã kết hôn khi chưa đủ mười hai tuổi thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

[381] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...

Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Chưa đủ mười hai tuổi nghĩa là chưa đạt đến mười hai tuổi.

Người nữ đã kết hôn nghĩa là đề cập đến người nữ đã đi đến ở chung với người đàn ông.

Tiếp độ: cho tu lên bậc trên. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[382] Khi chưa đủ mười hai tuổi, nhận biết là khi chưa đủ mười hai tuổi, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

Khi chưa đủ mười hai tuổi, có sự hoài nghi, vị ni tiếp độ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).

Khi chưa đủ mười hai tuổi, (lầm) tưởng là đã tròn đủ, vị ni tiếp độ thì vô tội.

Khi đã tròn đủ mười hai tuổi, (lầm) tưởng là chưa đủ mười hai tuổi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).

Khi đã tròn đủ mười hai tuổi, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).

Khi đã tròn đủ mười hai tuổi, nhận biết là đã tròn đủ thì vô tội.

[383] Vị ni tiếp độ (người nữ đã kết hôn) khi chưa đủ mười hai tuổi (lầm) tưởng là đã tròn đủ, vị ni tiếp độ (người nữ đã kết hôn) khi đã tròn đủ mười hai tuổi (với sự) nhận biết là đã tròn đủ, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN SẢN PHỤ - ĐIỀU HỌC THỨ SÁU:

[384] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tiếp độ người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Các vị ni ấy ngu dốt, không có kinh nghiệm, không biết việc được phép hay không được phép. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm?

...(như trên)...

- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tiếp độ người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…

Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:

- Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đến người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi. Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi ấy nên đi đến nơi hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu ni, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:

Bạch chư đại đức ni, tôi tên (như vầy) thuộc về đại đức ni tên (như vầy) là người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm.”

Nên được thỉnh cầu lần thứ nhì. Nên được thỉnh cầu lần thứ ba.

Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ năng lực:

 “Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni này tên (như vầy) thuộc về đại đức ni tên (như vầy) là người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đến người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.

Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni này tên (như vầy) thuộc về đại đức ni tên (như vầy) là người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Hội chúng ban cho sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đến người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi tên (như vầy). Đại đức ni nào đồng ý việc ban cho sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đến người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi tên (như vầy) xin im lặng; vị ni nào không đồng ý có thể nói lên.

Sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đã được hội chúng ban cho đến người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

Người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi ấy nên được nói rằng: “Cô hãy nói như vầy:

1. Tôi xin thọ trì việc tránh xa sự giết hại mạng sống không vi phạm trong hai năm.

...(như trên)...

6. Tôi xin thọ trì việc tránh xa sự ăn sái thời không vi phạm trong hai năm.

Sau đó, đức Thế Tôn đã khiển trách các tỳ khưu ni ấy bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

[385] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...

Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Tròn đủ mười hai tuổi nghĩa là đã đạt đến mười hai tuổi.

Người nữ đã kết hôn nghĩa là đề cập đến người nữ đã đi đến ở chung với người đàn ông.

Hai năm: (thời hạn) hai năm.

Chưa thực hành việc học tập nghĩa là việc học tập chưa được ban cho hoặc là việc học tập đã ban cho bị hư hoại.

Tiếp độ: cho tu lên bậc trên. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[386] Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).

Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).

Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[387] Vị ni tiếp độ người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN SẢN PHỤ - ĐIỀU HỌC THỨ BẢY:

[388] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tiếp độ người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội chúng chấp thuận. Các tỳ khưu ni đã nói như vầy:

- Này các cô ni tu tập sự, hãy đi đến. Hãy nhận biết việc này, hãy bố thí vật này, hãy mang lại vật này, có sự cần dùng với vật này, hãy làm vật này thành được phép.

Các cô ni ấy đã nói như vầy:

- Này các ni sư, chúng tôi không phải là các cô ni tu tập sự. Chúng tôi là các tỳ khưu ni.

Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội chúng chấp thuận?

...(như trên)...

- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tiếp độ người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội chúng chấp thuận, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội chúng chấp thuận vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…

Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:

- Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho sự chấp thuận về việc tiếp độ đến người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi ấy đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm nên đi đến nơi hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu ni, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:

Bạch chư đại đức ni, tôi tên (như vầy) thuộc về đại đức ni tên (như vầy) là người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (giờ) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận về việc tiếp độ.”

Nên được thỉnh cầu lần thứ nhì. Nên được thỉnh cầu lần thứ ba.

Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ năng lực:

 “Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni này tên (như vầy) thuộc về đại đức ni tên (như vầy), là người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm, (giờ) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận về việc tiếp độ. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự chấp thuận về việc tiếp độ đến cô ni tên (như vầy) là người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Đây là lời đề nghị.

Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni này tên (như vầy) thuộc về đại đức ni tên (như vầy), là người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm, (giờ) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận về việc tiếp độ. Hội chúng ban cho sự chấp thuận về việc tiếp độ đến cô ni tên (như vầy) là người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Đại đức ni nào đồng ý việc ban cho sự chấp thuận về việc tiếp độ đến cô ni tên (như vầy) là người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm xin im lặng; vị ni nào không đồng ý có thể nói lên.

Sự chấp thuận về việc tiếp độ đã được hội chúng ban cho đến cô ni tên (như vầy) là người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

Sau đó, đức Thế Tôn đã khiển trách các tỳ khưu ni ấy bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội chúng chấp thuận thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

[389] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...

Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Tròn đủ mười hai tuổi nghĩa là đã đạt đến mười hai tuổi.

Người nữ đã kết hôn nghĩa là đề cập đến người nữ đã đi đến ở chung với người đàn ông.

Hai năm: (thời hạn) hai năm.

Đã thực hành việc học tập nghĩa là đã thực hành việc học tập về sáu pháp.

Chưa được chấp thuận nghĩa là sự chấp thuận về việc tiếp độ bằng hành sự với lời thông báo đến lần thứ hai chưa được ban cho.

Tiếp độ: cho tu lên bậc trên. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[390] Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).

Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).

Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[391] Vị ni tiếp độ người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (và) đã được hội chúng chấp thuận, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN SẢN PHỤ - ĐIỀU HỌC THỨ TÁM:

[392] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā sau khi tiếp độ người nữ đệ tử rồi không dạy dỗ cũng không bảo người dạy dỗ trong hai năm. Các vị ni ấy ngu dốt, không có kinh nghiệm, không biết việc được phép hay không được phép. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao ni sư Thullanandā sau khi tiếp độ người nữ đệ tử lại không dạy dỗ cũng không bảo người dạy dỗ trong hai năm?

...(như trên)...

- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā sau khi tiếp độ người nữ đệ tử rồi không dạy dỗ cũng không bảo người dạy dỗ trong hai năm, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā sau khi tiếp độ người nữ đệ tử lại không dạy dỗ cũng không bảo người dạy dỗ trong hai năm vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào sau khi tiếp độ người nữ đệ tử rồi không dạy dỗ cũng không bảo người dạy dỗ trong hai năm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

[393] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...

Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Người nữ đệ tử nghĩa là người nữ sống chung trú xá được đề cập đến.

Sau khi tiếp độ: sau khi cho tu lên bậc trên.

Hai năm: (thời hạn) hai năm.

Không dạy dỗ: không tự mình dạy dỗ bằng cách đọc tụng, bằng sự thẩm vấn, bằng sự giáo giới, bằng sự chỉ dạy.

Không bảo người dạy dỗ: không chỉ thị cho người khác. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ không dạy dỗ cũng không bảo người dạy dỗ trong hai năm;” trong việc buông bỏ trách nhiệm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

[394] Khi có sự nguy hiểm, vị ni tầm cầu nhưng không đạt được, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN SẢN PHỤ - ĐIỀU HỌC THỨ CHÍN:

[395] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni không hầu cận ni sư tế độ đã tiếp độ cho trong hai năm. Các vị ni ấy ngu dốt, không có kinh nghiệm, không biết việc được phép hay không được phép. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỳ khưu ni lại không hầu cận ni sư tế độ đã tiếp độ cho trong hai năm?

...(như trên)...

- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni không hầu cận ni sư tế độ đã tiếp độ cho trong hai năm, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại không hầu cận ni sư tế độ đã tiếp độ cho trong hai năm vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào không hầu cận ni sư tế độ đã tiếp độ cho trong hai năm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

[396] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...

Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Đã tiếp độ cho: đã cho tu lên bậc trên.

Ni sư tế độ nghĩa là vị ni là thầy tế độ được đề cập đến.

Hai năm: (thời hạn) hai năm.

Không hầu cận: không tự mình hầu cận. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ không hầu cận trong hai năm;” trong việc buông bỏ trách nhiệm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

[397] Vị ni sư tế độ là vị ni ngu dốt hoặc không có liêm sỉ, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN SẢN PHỤ - ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI:

[398] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā sau khi tiếp độ người nữ đệ tử rồi không cách ly (vị ni ấy) cũng không làm cho (vị ni ấy) được cách ly. Người chồng đã giữ lại. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao ni sư Thullanandā sau khi tiếp độ người nữ đệ tử lại không cách ly (vị ni ấy) cũng không làm cho (vị ni ấy) được cách ly khiến người chồng đã giữ lại? Nếu vị tỳ khưu ni này đã ra đi thì người chồng không thể giữ lại được.

...(như trên)...

- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā sau khi tiếp độ người nữ đệ tử rồi không cách ly (vị ni ấy) cũng không làm cho (vị ni ấy) được cách ly khiến người chồng đã giữ lại, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā sau khi tiếp độ người nữ đệ tử lại không cách ly (vị ni ấy) cũng không làm cho (vị ni ấy) được cách ly khiến người chồng đã giữ lại vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào sau khi tiếp độ người nữ đệ tử rồi không cách ly (vị ni ấy) cũng không làm cho (vị ni ấy) được cách ly cho dầu chỉ là năm sáu do tuần thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

[399] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...

Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Người nữ đệ tử nghĩa là người nữ sống chung trú xá được đề cập đến.

Đã tiếp độ cho: đã cho tu lên bậc trên.

Không cách ly: không tự mình cách ly.

Không làm cho (vị ni ấy) được cách ly: không chỉ thị cho vị khác. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ không cách ly (vị ni ấy) cũng không làm cho (vị ni ấy) được cách ly cho dầu chỉ là năm sáu do tuần,” trong việc buông bỏ trách nhiệm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

[400] Khi có trường hợp nguy hiểm, vị ni tìm kiếm nhưng không có được vị tỳ khưu ni thứ hai, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

Phần Sản Phụ là phần thứ bảy.

*******

PHẦN THIẾU NỮ - ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT:

[401] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tiếp độ thiếu nữ chưa đủ hai mươi tuổi. Các cô ấy không có khả năng chịu đựng sự lạnh, sự nóng, sự đói, sự khát, các sự xúc chạm bởi ruồi, muỗi, gió, nắng, và các loài bò sát, các lối nói lăng mạ công kích, có khuynh hướng không cam chịu các cảm thọ khổ, nhức nhối, khốc liệt, sắc bén, gay gắt, không chút thích thú, khó chịu, chết người thuộc về cơ thể đã sanh khởi. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ thiếu nữ chưa đủ hai mươi tuổi?

...(như trên)...

- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tiếp độ thiếu nữ chưa đủ hai mươi tuổi, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ thiếu nữ chưa đủ hai mươi tuổi vậy? Này các tỳ khưu, bởi vì thiếu nữ chưa đủ hai mươi tuổi không có khả năng chịu đựng sự lạnh, sự nóng, sự đói, sự khát, các sự xúc chạm bởi ruồi, muỗi, gió, nắng, và các loài bò sát, các lối nói lăng mạ công kích, có khuynh hướng không cam chịu các cảm thọ khổ, nhức nhối, khốc liệt, sắc bén, gay gắt, không chút thích thú, khó chịu, chết người thuộc về cơ thể đã sanh khởi. Này các tỳ khưu, thiếu nữ đã đủ hai mươi tuổi có khả năng chịu đựng sự lạnh, sự nóng, sự đói, sự khát, các sự xúc chạm bởi ruồi, muỗi, gió, nắng, và các loài bò sát, các lối nói lăng mạ công kích, có khuynh hướng cam chịu các cảm thọ khổ, nhức nhối, khốc liệt, sắc bén, gay gắt, không chút thích thú, khó chịu, chết người thuộc về cơ thể đã sanh khởi. Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ thiếu nữ chưa đủ hai mươi tuổi thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

[402] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...

Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Chưa đủ hai mươi tuổi nghĩa là chưa đạt đến hai mươi tuổi.

Thiếu nữ nghĩa là đề cập đến vị sa di ni.

Tiếp độ: cho tu lên bậc trên. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[403] Khi chưa đủ hai mươi tuổi, nhận biết là chưa đủ hai mươi tuổi, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

Khi chưa đủ hai mươi tuổi, có sự hoài nghi, vị ni tiếp độ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).

Khi chưa đủ hai mươi tuổi, (lầm) tưởng là đã tròn đủ, vị ni tiếp độ thì vô tội.

Khi đã tròn đủ hai mươi tuổi, (lầm) tưởng là chưa đủ hai mươi tuổi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).

Khi đã tròn đủ hai mươi tuổi, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).

Khi đã tròn đủ hai mươi tuổi, nhận biết là đã tròn đủ thì vô tội.

[404] Vị ni (lầm) tưởng là đã tròn đủ rồi tiếp độ (thiếu nữ) chưa đủ hai mươi tuổi, vị ni nhận biết là đã tròn đủ rồi tiếp độ (thiếu nữ) đã tròn đủ hai mươi tuổi, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN THIẾU NỮ - ĐIỀU HỌC THỨ NHÌ:

[405] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tiếp độ thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Các vị ni ấy ngu dốt, không có kinh nghiệm, không biết việc được phép hay không được phép. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm?

...(như trên)...

- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tiếp độ thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…

Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:

- Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đến thiếu nữ mười tám tuổi. Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Thiếu nữ mười tám tuổi ấy nên đi đến nơi hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu ni, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:

Bạch chư đại đức ni, tôi tên (như vầy) thuộc về đại đức ni tên (như vầy) là thiếu nữ mười tám tuổi thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm.”

Nên được thỉnh cầu lần thứ nhì. Nên được thỉnh cầu lần thứ ba.

Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ năng lực:

 “Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni này tên (như vầy) thuộc về đại đức ni tên (như vầy) là thiếu nữ mười tám tuổi thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đến cô ni tên (như vầy) là thiếu nữ mười tám tuổi. Đây là lời đề nghị.

Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni này tên (như vầy) thuộc về đại đức ni tên (như vầy) là thiếu nữ mười tám tuổi thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Hội chúng ban cho sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đến cô ni tên (như vầy) là thiếu nữ mười tám tuổi. Đại đức ni nào đồng ý việc ban cho sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đến cô ni tên (như vầy) là thiếu nữ mười tám tuổi xin im lặng; vị ni nào không đồng ý có thể nói lên.

Sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đã được hội chúng ban cho đến cô ni tên (như vầy) là thiếu nữ mười tám tuổi. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

Thiếu nữ mười tám tuổi ấy nên được nói rằng: “Cô hãy nói như vầy:

1. Tôi xin thọ trì việc tránh xa sự giết hại mạng sống không vi phạm trong hai năm.

2. Tôi xin thọ trì việc tránh xa sự lấy vật không được cho (trộm cắp) không vi phạm trong hai năm.

3. Tôi xin thọ trì việc tránh xa điều phi Phạm hạnh (sự hành dâm) không vi phạm trong hai năm.

4. Tôi xin thọ trì việc tránh xa sự nói dối không vi phạm trong hai năm.

5. Tôi xin thọ trì việc tránh xa sự dễ duôi uống chất say là rượu và chất lên men không vi phạm trong hai năm.

6. Tôi xin thọ trì việc tránh xa sự ăn sái thời không vi phạm trong hai năm.

Sau đó, đức Thế Tôn đã khiển trách các tỳ khưu ni ấy bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

[406] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...

Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Tròn đủ hai mươi tuổi nghĩa là đã đạt đến hai mươi tuổi.

Thiếu nữ nghĩa là đề cập đến vị sa di ni.

Hai năm: (thời hạn) hai năm.

Chưa thực hành việc học tập nghĩa là việc học tập chưa được ban cho hoặc là việc học tập đã ban cho bị hư hoại.

Tiếp độ: cho tu lên bậc trên. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[407] Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).

Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).

Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[408] Vị ni tiếp độ thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN THIẾU NỮ - ĐIỀU HỌC THỨ BA:

[409] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tiếp độ thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội chúng chấp thuận. Các tỳ khưu ni đã nói như vầy:

- Này các cô ni tu tập sự, hãy đi đến. Hãy nhận biết việc này, hãy bố thí vật này, hãy mang lại vật này, có sự cần dùng với vật này, hãy làm vật này thành được phép.

Các cô ni ấy đã nói như vầy:

- Này các ni sư, chúng tôi không phải là các cô ni tu tập sự. Chúng tôi là các tỳ khưu ni.

Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội chúng chấp thuận?

...(như trên)...

- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tiếp độ thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội chúng chấp thuận, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội chúng chấp thuận vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…

Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:

- Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho sự chấp thuận về việc tiếp độ đến thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi ấy đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm nên đi đến nơi hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu ni, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:

Bạch chư đại đức ni, tôi tên (như vầy) thuộc về đại đức ni tên (như vầy) là thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (giờ) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận về việc tiếp độ.

Nên được thỉnh cầu lần thứ nhì. Nên được thỉnh cầu lần thứ ba.

Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ năng lực:

 “Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni này tên (như vầy) thuộc về đại đức ni tên (như vầy) là thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (giờ) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận về việc tiếp độ. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự chấp thuận về việc tiếp độ đến cô ni tên (như vầy) là thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Đây là lời đề nghị.

Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni này tên (như vầy) thuộc về đại đức ni tên (như vầy) là thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (giờ) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận về việc tiếp độ. Hội chúng ban cho sự chấp thuận về việc tiếp độ đến cô ni tên (như vầy) là thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Đại đức ni nào đồng ý việc ban cho sự chấp thuận về việc tiếp độ đến cô ni tên (như vầy) là thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm xin im lặng; vị ni nào không đồng ý có thể nói lên.

Sự chấp thuận về việc tiếp độ đã được hội chúng ban cho đến cô ni tên (như vầy) là thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

Sau đó, đức Thế Tôn đã khiển trách các tỳ khưu ni ấy bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội chúng chấp thuận thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

[410] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...

Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Tròn đủ hai tuổi nghĩa là đã đạt đến hai mươi tuổi.

Thiếu nữ nghĩa là đề cập đến vị sa di ni.

Hai năm: (thời hạn) hai năm.

Đã thực hành việc học tập nghĩa là đã thực hành việc học tập về sáu pháp.

Chưa được chấp thuận nghĩa là sự chấp thuận về việc tiếp độ bằng hành sự với lời thông báo đến lần thứ hai chưa được ban cho.

Tiếp độ: cho tu lên bậc trên. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[411] Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).

Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).

Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[412] Vị ni tiếp độ thiếu nữ tròn đủ hai mươi tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (và) đã được hội chúng chấp thuận, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN THIẾU NỮ - ĐIỀU HỌC THỨ TƯ:

[413] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tiếp độ khi chưa đủ mười hai năm (thâm niên). Các vị ni ấy ngu dốt, không có kinh nghiệm, không biết việc được phép hay không được phép. Các vị ni đệ tử cũng ngu dốt, không có kinh nghiệm, không biết việc được phép hay không được phép. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ khi chưa đủ mười hai năm (thâm niên)?

...(như trên)...

- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tiếp độ khi chưa đủ mười hai năm (thâm niên), có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ khi chưa đủ mười hai năm (thâm niên) vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ khi chưa đủ mười hai năm (thâm niên) thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

[414] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...

Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Chưa đủ mười hai năm (thâm niên) nghĩa là chưa đạt đến mười hai năm (thâm niên).

Tiếp độ: cho tu lên bậc trên. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[415] Vị ni tiếp độ khi tròn đủ mười hai năm (thâm niên), vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN THIẾU NỮ - ĐIỀU HỌC THỨ NĂM:

[416] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tròn đủ mười hai năm (thâm niên) tiếp độ khi chưa được hội chúng đồng ý. Các vị ni ấy ngu dốt, không có kinh nghiệm, không biết việc được phép hay không được phép. Các vị ni đệ tử cũng ngu dốt, không có kinh nghiệm, không biết việc được phép hay không được phép. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỳ khưu ni tròn đủ mười hai năm (thâm niên) lại tiếp độ khi chưa được hội chúng đồng ý?

...(như trên)...

- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tròn đủ mười hai năm (thâm niên) tiếp độ khi chưa được hội chúng đồng ý, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni tròn đủ mười hai năm (thâm niên) lại tiếp độ khi chưa được hội chúng đồng ý vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…

Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:

- Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho sự chấp thuận về việc ban phép tiếp độ đến vị tỳ khưu ni tròn đủ mười hai năm (thâm niên). Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Vị tỳ khưu ni đã tròn đủ mười hai năm (thâm niên) ấy nên đi đến nơi hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu ni trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:

Bạch chư đại đức ni, tôi tên (như vầy) là tỳ khưu ni tròn đủ mười hai năm (thâm niên) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận về việc ban phép tiếp độ.

Nên được thỉnh cầu lần thứ nhì. Nên được thỉnh cầu lần thứ ba.

Hội chúng nên xác định vị tỳ khưu ni ấy rằng: “Vị tỳ khưu ni này có kinh nghiệm, có liêm sỉ.” Nếu là vị ni ngu dốt không có liêm sỉ thì không nên ban cho. Nếu là vị ni ngu dốt có liêm sỉ thì không nên ban cho. Nếu là vị ni có kinh nghiệm không có liêm sỉ thì không nên ban cho. Nếu là vị ni có kinh nghiệm có liêm sỉ thì nên ban cho. Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ năng lực:

 “Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị ni này tên (như vầy) là tỳ khưu ni tròn đủ mười hai năm (thâm niên) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận về việc ban phép tiếp độ. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự chấp thuận về việc ban phép tiếp độ đến vị ni tên (như vầy) là tỳ khưu ni tròn đủ mười hai năm (thâm niên). Đây là lời đề nghị.

Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị ni này tên (như vầy) là tỳ khưu ni tròn đủ mười hai năm (thâm niên) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận về việc ban phép tiếp độ. Hội chúng ban cho sự chấp thuận về việc ban phép tiếp độ đến vị ni tên (như vầy) là tỳ khưu ni tròn đủ mười hai năm (thâm niên). Đại đức ni nào đồng ý việc ban cho sự chấp thuận về việc ban phép tiếp độ đến vị ni tên (như vầy) là tỳ khưu ni tròn đủ mười hai năm (thâm niên) xin im lặng; vị ni nào không đồng ý có thể nói lên.

Sự chấp thuận về việc ban phép tiếp độ đã được hội chúng ban cho đến vị ni tên (như vầy) là tỳ khưu ni tròn đủ mười hai năm (thâm niên). Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

Sau đó, đức Thế Tôn đã khiển trách các tỳ khưu ni ấy bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tròn đủ mười hai năm (thâm niên) khi chưa được hội chúng đồng ý mà tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

[417] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...

Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Tròn đủ mười hai năm (thâm niên) nghĩa là đã đạt đến mười hai năm (thâm niên).

Chưa được đồng ý nghĩa là sự chấp thuận về việc ban phép tiếp độ bằng hành sự với lời thông báo đến lần thứ hai chưa được ban cho.

Tiếp độ: cho tu lên bậc trên. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[418] Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).

Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).

Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[419] Vị ni tiếp độ khi tròn đủ mười hai năm (thâm niên) và được hội chúng đồng ý, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN THIẾU NỮ - ĐIỀU HỌC THỨ SÁU:

[420] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Caṇḍakālī đi đến hội chúng và thỉnh cầu sự chấp thuận về việc ban phép tiếp độ. Khi ấy, hội chúng tỳ khưu ni đã xác định tỳ khưu ni Caṇḍakālī rằng: “Này ni sư, vẫn chưa phải lúc cho cô được ban phép tiếp độ” rồi đã không ban cho sự chấp thuận về việc ban phép tiếp độ. Tỳ khưu ni Caṇḍakālī đã trả lời rằng: “Tốt thôi!” Vào lúc bấy giờ, hội chúng tỳ khưu ni đã ban cho sự chấp thuận về việc ban phép tiếp độ đến các tỳ khưu ni khác. Tỳ khưu ni Caṇḍakālī phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Chằng lẽ chính tôi là kẻ ngu dốt, chính tôi là kẻ không có liêm sỉ hay sao? Bởi vì hội chúng ban cho sự chấp thuận về việc ban phép tiếp độ đến các tỳ khưu ni khác mà không ban cho đến chính tôi.

 Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao ni sư Caṇḍakālī khi được nói rằng: “Này ni sư, vẫn chưa phải lúc cho cô được ban phép tiếp độ” đã trả lời: “Tốt thôi!” sau đó lại tiến hành việc phê phán?

...(như trên)...

- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Caṇḍakālī khi được nói rằng: “Này ni sư, vẫn chưa phải lúc cho cô được ban phép tiếp độ” đã trả lời: “Tốt thôi!” sau đó lại tiến hành việc phê phán, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Caṇḍakālī khi được nói rằng: “Này ni sư, vẫn chưa phải lúc cho cô được ban phép tiếp độ” đã trả lời: “Tốt thôi!” sau đó lại tiến hành việc phê phán vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào khi được nói rằng: ‘Này ni sư, vẫn chưa phải lúc cho cô được ban phép tiếp độ’ đã trả lời rằng: ‘Tốt thôi!’ sau đó lại tiến hành việc phê phán thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

[421] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...

Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Này ni sư, vẫn chưa phải lúc cho cô được ban phép tiếp độ: Này ni sư, vẫn chưa phải lúc cho cô ban phép tu lên bậc trên. Khi đã trả lời rằng: ‘Tốt thôi!’ sau đó lại tiến hành việc phê phán thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

[422] Vị ni phê phán (hội chúng) đang hành động theo thói thường vì ưa thích, vì sân hận, vì si mê, vì sợ hãi; vị ni bị điên; vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN THIẾU NỮ - ĐIỀU HỌC THỨ BẢY:

[423] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có cô ni tu tập sự nọ đã đi đến gặp tỳ khưu ni Thullanandā và cầu xin sự tu lên bậc trên. Tỳ khưu ni Thullanandā đã nói với cô ni tu tập sự ấy rằng:

- Này cô ni, nếu cô sẽ dâng y cho ta, như thế thì ta sẽ tiếp độ cho cô.

Rồi không tiếp độ cũng không ra sức cho việc tiếp độ. Sau đó, cô ni tu tập sự ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao ni sư Thullanandā sau khi đã nói với cô ni tu tập sự rằng: “Này cô ni, nếu cô sẽ dâng y cho ta, như thế thì ta sẽ tiếp độ cho cô” lại không tiếp độ cũng không ra sức cho việc tiếp độ?

...(như trên)...

- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā sau khi đã nói với cô ni tu tập sự rằng: “Này cô ni, nếu cô sẽ dâng y cho ta, như thế thì ta sẽ tiếp độ cho cô” rồi không tiếp độ cũng không ra sức cho việc tiếp độ, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā sau khi đã nói với cô ni tu tập sự rằng: “Này cô ni, nếu cô sẽ dâng y cho ta, như thế thì ta sẽ tiếp độ cho cô” lại không tiếp độ cũng không ra sức cho việc tiếp độ vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào sau khi đã nói với cô ni tu tập sự rằng: ‘Này cô ni, nếu cô sẽ dâng y cho ta, như thế thì ta sẽ tiếp độ cho cô,’ vị ni ấy sau đó không có trở ngại gì vẫn không tiếp độ và cũng không ra sức cho việc tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

[424] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...

Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Cô ni tu tập sự nghĩa là người nữ đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm.

Này cô ni, nếu cô sẽ dâng y cho ta, như thế thì ta sẽ tiếp độ cho cô: như thế thì ta sẽ ban phép tu lên bậc trên cho cô.

Vị ni ấy sau đó không có trở ngại gì: khi không có sự nguy hiểm.

Không tiếp độ: không tự mình tiếp độ.

Không ra sức cho việc tiếp độ: không chỉ thị cho người khác. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ không tiếp độ cũng không ra sức cho việc tiếp độ,” trong việc buông bỏ trách nhiệm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

[425] Khi có sự nguy hiểm, vị ni tầm cầu nhưng không đạt được, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN THIẾU NỮ - ĐIỀU HỌC THỨ TÁM:

[426] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có cô ni tu tập sự nọ đã đi đến gặp tỳ khưu ni Thullanandā và cầu xin sự tu lên bậc trên. Tỳ khưu ni Thullanandā đã nói với cô ni tu tập sự ấy rằng:

- Này cô ni, nếu cô sẽ hầu cận ta hai năm, như thế thì ta sẽ tiếp độ cho cô.

Rồi không tiếp độ cũng không ra sức cho việc tiếp độ. Sau đó, cô ni tu tập sự ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao ni sư Thullanandā sau khi đã nói với cô ni tu tập sự rằng: “Này cô ni, nếu cô sẽ hầu cận ta hai năm, như thế thì ta sẽ tiếp độ cho cô” lại không tiếp độ cũng không ra sức cho việc tiếp độ?

...(như trên)...

- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā sau khi đã nói với cô ni tu tập sự rằng: “Này cô ni, nếu cô sẽ hầu cận ta hai năm, như thế thì ta sẽ tiếp độ cho cô” rồi không tiếp độ cũng không ra sức cho việc tiếp độ, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā sau khi đã nói với cô ni tu tập sự rằng: “Này cô ni, nếu cô sẽ hầu cận ta hai năm, như thế thì ta sẽ tiếp độ cho cô” lại không tiếp độ cũng không ra sức cho việc tiếp độ vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào sau khi đã nói với cô ni tu tập sự rằng: ‘Này cô ni, nếu cô sẽ hầu cận ta hai năm, như thế thì ta sẽ tiếp độ cho cô,’ vị ni ấy sau đó không có trở ngại gì vẫn không tiếp độ và cũng không ra sức cho việc tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

[427] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...

Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Cô ni tu tập sự nghĩa là người nữ đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm.

Này cô ni, nếu cô sẽ hầu cận ta hai năm: Nếu cô sẽ phục vụ hai năm (tròn đủ).

Như thế thì ta sẽ tiếp độ cho cô: như thế thì ta sẽ ban phép tu lên bậc trên cho cô.

Vị ni ấy sau đó không có trở ngại gì: khi không có sự nguy hiểm.

Không tiếp độ: không tự mình tiếp độ.

Không ra sức cho việc tiếp độ: không chỉ thị cho người khác. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ không tiếp độ cũng không ra sức cho việc tiếp độ,” trong việc buông bỏ trách nhiệm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

[428] Khi có sự nguy hiểm, vị ni tầm cầu nhưng không đạt được, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN THIẾU NỮ - ĐIỀU HỌC THỨ CHÍN:

[429] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā tiếp độ cô ni tu tập sự Caṇḍakālī là người thân cận với đàn ông, thân cận với thanh niên, là kẻ nhẫn tâm, là nguồn gây sầu khổ (cho người khác). Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao ni sư Thullanandā lại tiếp độ cô ni tu tập sự Caṇḍakālī là người thân cận với đàn ông, thân cận với thanh niên, là kẻ nhẫn tâm, là nguồn gây sầu khổ (cho người khác)?

...(như trên)...

- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā tiếp độ cô ni tu tập sự Caṇḍakālī là người thân cận với đàn ông, thân cận với thanh niên, là kẻ nhẫn tâm, là nguồn gây sầu khổ (cho người khác), có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā lại tiếp độ cô ni tu tập sự Caṇḍakālī là người thân cận với đàn ông, thân cận với thanh niên, là kẻ nhẫn tâm, là nguồn gây sầu khổ (cho người khác) vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ cô ni tu tập sự là người thân cận với đàn ông, thân cận với thanh niên, là kẻ nhẫn tâm, là nguồn gây sầu khổ (cho người khác) thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

[430] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...

Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Đàn ông nghĩa là người nam đã đạt đến hai mươi tuổi.

Thanh niên nghĩa là người nam chưa đạt đến hai mươi tuổi.

Thân cận nghĩa là thân cận bằng thân và khẩu không được đúng đắn.

Nhẫn tâm nghĩa là đề cập đến sự giận dữ.

Nguồn gây sầu khổ (cho người khác) nghĩa là người làm sanh khởi khổ đau, đem đến sự buồn rầu cho những người khác.

Cô ni tu tập sự nghĩa là người nữ đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm.

Tiếp độ: cho tu lên bậc trên. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[431] Vị ni trong lúc không biết rồi tiếp độ, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN THIẾU NỮ - ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI:

[432] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā tiếp độ cô ni tu tập sự không được cha mẹ và người chồng cho phép. Cha mẹ và người chồng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao ni sư Thullanandā lại tiếp độ cô ni tu tập sự không được chúng tôi cho phép?

Các tỳ khưu ni đã nghe được cha mẹ và người chồng phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao ni sư Thullanandā lại tiếp độ cô ni tu tập sự không được cha mẹ và người chồng cho phép?

...(như trên)...

- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā tiếp độ cô ni tu tập sự không được cha mẹ và người chồng cho phép, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā lại tiếp độ cô ni tu tập sự không được cha mẹ và người chồng cho phép vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ cô ni tu tập sự không được cha mẹ hoặc người chồng cho phép thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

[433] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...

Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Cha mẹ nghĩa là đề cập đến các bậc sanh thành.

Người chồng nghĩa là đã được đám cưới với người đó.

Không được cho phép: không có hỏi ý.

Cô ni tu tập sự nghĩa là người nữ đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm.

Tiếp độ: cho tu lên bậc trên. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[434] Vị ni trong lúc không biết rồi tiếp độ, vị ni sau khi xin phép rồi tiếp độ, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN THIẾU NỮ - ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI MỘT:

[435] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā (nghĩ rằng: “Ta sẽ tiếp độ cô ni tu tập sự” rồi đã triệu tập các vị tỳ khưu trưởng lão lại, sau khi nhìn thấy nhiều vật thực loại cứng loại mềm lại giải tán các vị tỳ khưu trưởng lão (nói rằng):

- Thưa các ngài đại đức, tôi sẽ không tiếp độ cho cô ni tu tập sự lúc này.

Rồi đã triệu tập Devadatta, Kokālika, Kaṭamorakatissaka con trai của Khaṇḍadevī, và Samuddadatto rồi tiếp độ cô ni tu tập sự. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao ni sư Thullanandā lại tiếp độ cô ni tu tập sự với việc ban cho sự thỏa thuận từ các vị (tỳ khưu) đang chịu hành phạt parivāsa?[2]

...(như trên)...

- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā tiếp độ cô ni tu tập sự với việc ban cho sự thỏa thuận từ các vị (tỳ khưu) đang chịu hành phạt parivāsa, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā lại tiếp độ cô ni tu tập sự với việc ban cho sự thỏa thuận từ các vị (tỳ khưu) đang chịu hành phạt parivāsa vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ cô ni tu tập sự với việc ban cho sự thỏa thuận từ các vị (tỳ khưu) đang chịu hành phạt parivāsa thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

[436] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...

Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Với việc ban cho sự thỏa thuận từ các vị (tỳ khưu) đang chịu hành phạt parivāsa: với tập thể đã bị cách ly.

Cô ni tu tập sự nghĩa là người nữ đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm.

Tiếp độ: cho tu lên bậc trên. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[437] Vị ni tiếp độ với tập thể không bị cách ly, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN THIẾU NỮ - ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI HAI:

[438] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tiếp độ hàng năm. Chỗ trú ngụ không đủ đáp ứng. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Tại sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ hàng năm khiến chỗ trú ngụ không đủ đáp ứng?

Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ hàng năm?

...(như trên)...

- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tiếp độ hàng năm, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ hàng năm vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ hàng năm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

[439] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...

Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Hàng năm: mỗi năm.

Tiếp độ: cho tu lên bậc trên. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[440] Vị ni tiếp độ cách năm, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN THIẾU NỮ - ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI BA:

[441] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tiếp độ hai người trong một năm. Như thế ấy, chỗ trú ngụ không đủ đáp ứng. Tương tợ như thế, dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Tại sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ hai người trong một năm; như thế ấy, chỗ trú ngụ không đủ đáp ứng?

Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ hai người trong một năm?

...(như trên)...

- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tiếp độ hai người trong một năm, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ hai người trong một năm vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ hai người trong một năm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

[442] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...

Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Trong một năm: trong (thời hạn) một năm.

Tiếp độ hai người: cho tu lên bậc trên hai người. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ hai người” rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[443] Vị ni tiếp độ một người cách năm, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

Phần Thiếu Nữ là phần thứ tám.

*******


[1] Ūnadvādasavassaṃ gihigataṃ: còn có thể dịch là “người nữ đã kết hôn chưa được 12 năm;” xin đọc thêm lời giải thích ở phần giới thiệu.

[2] Các vị tỳ khưu có tên ở trên có liên quan đến tội saṅghādisesa (tăng tàng) thứ 10 và 11 về việc chia rẽ hội chúng và xu hướng theo kẻ đã chia rẽ hội chúng.

-ooOoo-

Ðầu trang | Mục lục | 01 | 02 | 03 | 04a | 04b | 04c | 04d | 04e
Phân tích Giới Tỳ-khưu I | Phân tích Giới Tỳ-khưu II | Giới thiệu

 

Chân thành cám ơn Tỳ-khưu Indacanda Nguyệt Thiên đã gửi tặng bản vi tính
(Bình Anson, 06-2005)

[Trở về trang Thư Mục]
last updated: 01-06-2005