Trang gốc

Trang web BuddhaSasana

Times (Unicode) font

 

TRÚ QUÁN QUA ĐÊM
 (Từ có nhà đến không nhà)
Tự Truyện của một Tăng Sĩ Hoa Kỳ
[1]
[Bản điện tử lần thứ ba với tu chính]

Tỳ kheo Yogagivacara Rahula
(Bhavana Society, 2005 )
 Chơn Quán dịch Việt


Chương 14

SRI LANKA

Lịch sử của Sri Lanka khá lạ lùng và ngộ nghĩnh. Theo truyền thuyết, Đức Phật trước khi nhập diệt có tiên đoán rằng Phật pháp sẽ được thừa truyền trọn vẹn qua Lanka và Lanka sẽ là nơi chu toàn. Ngài có nguyện cầu Thần Hindu Vishnu gia hộ cho xứ sở này. Ngày Đức Thế Tôn nhập diệt có hoàng tử Ấn Độ tên Vijaya đổ bộ lên Lanka cùng sáu trăm thuộc hạ với sứ mạng đem văn minh đến các bộ lạc sống trong rừng và đem đàn bà sang để gầy dựng một dân tộc. Hai trăm năm sau, một đệ tử trung thành của Đức Phật, Hoàng Đế Asoka của miền Bắc Ấn gởi sang đây Hoàng Tử Bồ Tát Mahinda để truyền bá Phật pháp và ứng nghiệm lời tiên tri của Đức Phật.

Từ đó Phật giáo trở thành tôn giáo chính và là lực lượng đoàn kết của dân tộc Tích Lan mà họ rất hãnh diện. Trong nhiều thế kỷ qua, họ thỉnh thoảng có bị Nam Ấn đô hộ nhưng luôn luôn được giải thoát nhờ biết tập trung sau lưng vua mình. Dân viễ­n chinh Tamil có đem sang Tích Lan Ấn giáo nhưng đạo này chỉ phát triển giới hạn. Vào đầu thế kỷ thứ 16, Bồ Đào Nha thôn tính Tích Lan để độc chiếm thị truờng gia vị và vơ vét tài nguyên. Họ là người phương Tây đầu tiên tới đây và gọi hải đảo này là Ceilao, có thể là tên đọc trại của Sri Lanka. Hòa Lan đánh đuổi Bồ Đào Nha vào giữa thế kỷ 17 và đặt lại tên Ceylan cho d­ễ gọi. Vào đầu thế kỷ 19, Anh Quốc đuổi Hòa Lan và đổi ra tên Ceylon.

Trong suốt thời gian Tích Lan bị Tây Âu xâm chiếm, Phật giáo bị các nhà truyền giáo Thiên Chúa tị hiềm và phá hoại nhưng vẫn tồn tại. Đạo Phật phát triển mạnh trở lại vào đầu thế kỷ 20 và xứng danh là đại đạo của đa số người Tích Lan. Các đạo khác như Hindu (Tamil), Muslim, và Chúa còn tự do hoạt động nhưng thuộc thiểu số. Các đạo chung sống tương hòa và tương kính. Những xung đột nội bộ đôi khi xảy ra, nhứt là trong lúc gần đây, không phải vì tôn giáo mà vì những yếu tố kinh tế và chánh trị.

Tàu SS Ramanujan cập đầu dưới của cầu Talimannar lúc xế chiều và chỉ có một nhúm nhỏ người ra đón. Hành khách hạng nhứt và nhì xuống trước, kế tới khách ngoại quốc hạng ba và sau cùng là khách hạng ba Ấn và Tích Lan. Trật tự phân hạng như vậy giúp chúng tôi có dịp đến quầy di trú/hải quan trước khi 'đám dân đi buôn' với núi hành lý ùa vô.

Viên sĩ quan di trú hỏi có phải tôi qua Tích Lan học Phật? Tôi nghĩ có lẽ ông thấy tôi cắt tóc ngắn, choàng khăn Benares và đeo chuỗi Tây Tạng nên mới có câu hỏi đó. Nghe tôi trả lời đúng vậy, ông rất vui và chúc tôi mọi điều tốt đẹp. Ông cấp tôi chiếu khán một tháng, tiêu chuẩn dành cho du khách ngoại quốc, và cho biết tôi có thể gia hạn dễ­ dàng ở Colombo.

Sau giờ tàu đò đến, có chuyến xe lửa đêm đi xuống nhiều nơi dưới miền Nam tới thủ phủ Colombo. Rất tiện lợi. Vừa xong mọi thủ tục nhập cảnh, Chris và tôi ra đổi tiền rúp Tích Lan rồi mua vé đi Anuradhapura. Xe sẽ chạy lúc 10:00 giờ đêm, tức còn tới bốn tiếng nữa. Chúng tôi qua bên kia đường rầy, vô các hàng quán bán thức ăn thử món egg hoppers and string hoppers của Tích Lan.

Cội bồ đề ở Anuradhapura là một nhánh của cây mẹ ở Bodhgaya được Công Chúa Sanghamitta thuộc triều đại Asoka đưa sang hồi thế kỷ thứ 2 trước công nguyên. Công chúa tu Phật và đạt quả vị A La Hán. Người được phái đến Tích Lan với báu vật để thực hiện chương trình hoằng dương Phật pháp ở lân bang. Như đã kể trên, Hoàng Đế Asoka cũng đã gởi Hoàng Tử A La Hán Mahinda đến đảo này trước đó để xây dựng đạo pháp cho các sắc dân bản xứ.

Lúc trời hừng sáng, Chris và tôi bách bộ tới khu thiêng liêng xưa và ở lại đây trọn ngày vãng cảnh như du khách. Tôi cảm thọ niềm vui vô biên khi biết được lòng mộ đạo tuyệt vời từng thúc đẩy vua chúa và thứ dân Tích Lan tôn tạo trung tâm Phật giáo đầu tiên to lớn này. Tôi l­ễ bái cổ thụ Sri Maha Bodhi ba lạy rồi ngồi xuống gần đó thiền định ba mươi phút trong lúc Chris đi xem xung quanh một mình.

Trong vườn thiêng còn có tháp Ruvanveliseya vĩ đại, một nguồn cảm hứng khác. Tháp do vua Dutugemunu dựng cách nay hai ngàn năm để thờ xá lợi Phật như hầu hết các tháp đươc xây lúc bấy giờ. Cũng có người nói rằng tháp này thờ thánh tích của hằng trăm vị A La Hán. Dầu thờ ai, tháp vẫn đứng sừng sững trên một trăm năm chục bộ cao và được bao bọc bởi một tường đá chạm voi đứng sát nhau quanh một khuông viên lớn. Trong hai ngàn năm qua tháp nhiều lần bị dày xéo bởi quân xâm lược, nhưng rồi lại được trùng tu và nay trở lại rạng ngời qua lớp vôi sáng phản chiếu ánh nắng mai. Tôi kính cẩn đi ba vòng nhiễu thường lệ rồi ngồi xuống một góc thành quán chiếu luật vô thường.

Trọn khu linh thiêng của thủ đô xưa khá rộng, phải cần hai ngày mới mong đi giáp hết. Mặc dầu Sri Lanka hôm nay theo tôn phái Theravada, vào thuở xa xưa đảo Phật giáo này có cả Mahayana và Hinayana với nhiều tu viện và đông đệ tử. Di tích tháp cũng như chùa chiền của hai phái còn nhan nhản khắp mọi nơi. Chánh quyền Sri Lanka và nhiều tổ chức văn hóa thế giới đang khai quật một số điểm để thâu thập thêm chứng tích của một thời vàng son; kết quả rất ư ngoạn mục.

Bây giờ là cuối tháng Ba không phải thời điểm du lịch nên ở đây có vẻ hoang vắng. Đi bộ dưới cây cao bóng mát trong hoa viên được chăm sóc tươm tất và qua ngôi bảo tàng lộ thiên thiên nhiên đây thật là an lành và thư giãn. Do đó, tôi và Chris quyết định lưu lại nơi này thêm một ngày nữa mong được tận hưởng an lạc. Chúng tôi trải nóp xuống thảm cỏ êm dưới một tàn cây to để ngủ qua đêm. Nhơn dịp, tôi dạy Chris ngồi thiền, bắt đầu bằng thuật quán hơi thở đơn giản. Thật là đúng nơi và đúng lúc. Hôm sau, tiếp tục dạo trong công viên, chúng tôi gặp một hồ sen và có xuống ngâm đôi chân mỏi của mình. Nắng xế nóng ran.

Chung chung, chúng tôi được làm quen với một nền văn hóa và lịch sử rất kỳ thú. Và hai ngày đầu tiên ở nơi đây làm tôi hứng khởi và rất thỏa mãn với Sri Lanka, đất nước mà tôi sẽ chọn làm nhà trong lúc xa quê hương trong nhiều năm tới.

Lật bản đồ ra xem, Chris và tôi chọn theo con đường dọc biển đi về hướng Nam, xuống Negombo để ghé thăm anh em của Fernando. Hai anh em này rất mừng. Tưởng rằng chúng tôi sẽ ở lại chơi nhiều ngày, họ lo dời hai em trai của họ để phòng cho chúng tôi nghỉ. Nhà rất khiêm tốn, gồm một ít phòng chưng dọn sơ sài, một nhà ngoài và cái giếng ở đằng sau. Ông thân họ đã qua đời, chỉ còn bà mẹ với hai em gái và hai em trai nói trên. Theo truyền thống Á Châu, hai anh trai lớn có nhiệm vụ lo cho nhà cửa và gia đình.

Sau khi cất đồ đạc xong, Chris và tôi thay phiên ra giếng tắm. Bà con chung quanh, nhứt là con nít, xúm xít đằng xa đứng dòm và cười hai thằng "sudik", cái tên mà dân địa phương gọi khách da trắng. Họ hỏi nhà chớ chúng tôi là ai, ở xứ nào, vân vân. Tôi hơi khó chịu vì bị dòm ngó trong lúc tắm nên phải lấy chiếc khố màu cam quấn che. Bên châu Á, các giếng đều được xây lộ thiên trong khu đông dân cư nên có chút bực mình là tắm giếng phải bận đồ. Như vậy, không thể nào kỳ cọ khắp châu thân được và phải phơi đồ sau khi tắm. Nhưng tắm giếng cũng có cái thú của nó, nhứt là trong vùng nhiệt đới. Hai anh em nói là hàng xóm muốn nhìn vì ít khi được thấy người ngoại quốc. Dầu bị quấy rầy, tôi không sao giận hay nỡ khoác tay cho họ đi được, vì sắc mặt của họ rất ngây thơ và nụ cười của họ rất hồn nhiên.

Đêm ấy chúng tôi được đãi một bữa ăn thịnh soạn gồm cơm, mấy thứ cà ri rau đậu, và cà ri cá nấu kiểu Tích Lan có nước cốt dừa và nhiều ớt đỏ. Hơi cay đối với tôi, nhưng rất ngon và khác với cơm cà ri thường ngày của Ấn Độ. Tối lại, hai anh em nói hai em gái của họ, 19 và 20, muốn học du già nhưng mắc cỡ không dám hỏi tôi dầu rằng họ biết chút đỉnh tiếng Anh. Hai cô hơi có da có thịt nên nghĩ rằng du già có thể giúp họ sụt ký. Theo cử chỉ của họ tôi có cảm tưởng hai cô muốn xem tôi biểu diển hơn là muốn học cho họ. Tuy nhiên tôi nghĩ đó là việc tối thiểu tôi cần làm để cám ơn lòng tốt của gia đình họ. Tôi nói sáng mai trước giờ điểm tâm tôi sẽ dạy vì đó là lúc tôi tập luyện hằng ngày.

Sáng dậy, tôi trình diễ­n một số thế du già. Gia đình tò mò theo dõi còn Chris thừa cơ học. Tôi không có cắt nghĩa khía cạnh tâm linh của du già biết rằng họ không thể hiểu nổi mà chắc họ cũng không thiết tha tìm hiểu. Tôi bắt hai cô tập xong bài trước rồi mới qua bài kế. Họ mắc cỡ và cứ cười khúc khích trong lúc tập lấy lệ các thế thông thường. Nếu tôi không buộc như vậy chắc hai cô chỉ lấy mắt ngó và cười chớ không ra sức đâu. Tôi tin rằng sau hôm nay họ sẽ quên hết. Để biể­u di­ễn chút chơi, tôi làm một số thế khó cho họ vui mắt. Sau màn du già, tôi và Chris được đãi một bữa ăn sáng gồm hai món truyền thống là hoppers và string hoppers trong nước dừa sambal rắc ớt bột; nước chấm làm bằng nước cốt dừa. Rất ngon miệng. Xế chiều, Chris và tôi xin phép tạm biệt đi Colombo, để tránh lạm dụng lòng tốt của gia đình.

Sau bữa cơm trưa cà ri cũng rất ngon, chủ nhà nói chúng tôi nên ngủ trưa một giấc đã. Ngủ trưa là lệ thường trong vùng nhiệt đới, nhứt là sau bữa cơm có cà ri cay thường làm thân tâm uể oải. Sau lối một giờ nghỉ ngơi, hai anh em cùng đi với hai chúng tôi ra bến xe đò trong trung tâm thành phố và cẩn thận đưa chúng tôi lên đúng xe đi Colombo. Chris và tôi cám ơn sự tiếp đón nồng hậu của họ. Họ mời chúng tôi ghé lại nữa nếu có dịp đi ngang qua đây.

Chúng tôi không biết tại sao phải đi Colombo sớm như vậy. Lúc ở Anuradhpura tôi có ý định đến thủ phủ của Kandy để viếng Đền Răng mà tôi từng nghe nói trước đây; thủ phủ nằm trên vùng đồi núi ở giữa đảo. Không biết vì lý do gì tôi đổi ý lấy đường dọc biển. Tất nhiên tôi có một vài vấn đề cần giải quyết ở Colombo nhưng không phải gấp lắm. Tôi xài gần hết năm trăm đô la nhận được hồi ở Athens rồi; tôi đang cần nhà gởi dùm thêm để đủ xài cho các tháng tới. Tôi có ý sẽ ở lại ít lắm là sáu tháng cho lần đầu tiên này, mà chánh phủ Tích Lan thời bấy giờ buộc mỗi du khách phải tiêu và có biên lai của nhà băng chứng nhận đã đổi tối thiểu sáu mươi đô mỗi tháng. Một lý do nữa để tôi đi Colombo là đăng ký với Aliens Registration Bureau của Criminal Investigation Department (CID), thủ tục mà mọi người không có quốc tịch Liên Hiệp Anh đều phải làm. Thủ tục này dùng để quản lý người ngoại quốc và xác định chổ ở của những thành phần bất hảo. Sau khi làm xong hai thủ tục thế sự đó, mà tôi đoán chắc chỉ cần một hai ngày, Chris và tôi dự tính đến trung tâm thiền minh sát Kanduboda và xin ở lại đó tu học. Tôi không biết khóa học sẽ kéo dài bao lâu.

Không biết làm gì và đi đâu trong Colombo, tôi nghĩ nên ghé qua địa chỉ mà anh bạn gặp trên đò cho hôm trước. Người mà tôi sắp viếng là anh Samararatna, gọi tắt là ông Sam. Anh ở ngoại ô Bambalapitya. Bằng cách hỏi thăm và lấy chuyến xe buýt đông dưới phố, chúng tôi tìm ra d­ễ dàng con đường tẽ từ lộ chánh Galle. Địa chỉ mà chúng tôi đến nằm trong cuối một ngõ hẹp đầy lỗ hang và chen chúc nhà. Nhà nhỏ, khiêm tốn, cất cách ngõ chừng sáu thước, có một ít cây ăn trái như chuối, đu đủ và một sân đất nhỏ với bờ viền trồng bông. Nghe tiếng gõ cửa, một người đàn bà ôm ốm đi ra; cô ngạc nhiên thấy hai người ngoại quốc chúng tôi. Cô liền trở vô rồi trở ra với một người đàn bà lớn tuổi hơn, mẹ của cô. Người mẹ nói được chút ít tiếng Anh. Tôi thưa là muốn gặp anh Samararatna. Đúng rồi. Bà mời Chris và tôi vào. Hai người tưởng chúng tôi có biết anh Sam trước nên lo đi pha trà đãi khách theo thông lệ. Anh Sam đi làm sắp về.

Anh Sam vô cửa, Chris và tôi đứng dậy chào. Anh hơi ngạc nhiên thấy chúng tôi trong nhà nhưng tươi cười chào hỏi và mời chúng tôi ngồi lại xuống ghế. Tôi liền tự giới thiệu và kể chuyện gặp bạn anh là Tissera trên tàu đi từ Rameswaram và được cho tên cùng địa chỉ của anh. Tôi nói tôi đến Sri Lanka để học thiền Phật giáo và hy vọng sẽ lên Trung Tâm Thiền Kanduboda trong vài ngày tới. Anh Sam không có dịp gặp lại Tissera từ lúc đi Ấn về nên không hay chuyện chúng tôi sẽ ghé thăm. Tuy nhiên anh rất vui được gặp chúng tôi và mừng nghe tôi nói muốn tập thiền. Dầu chúng tôi không nói ra và cũng chẳng mở hơi, nhưng anh sẵn sàng giúp chúng tôi trong khả năng của mình. Anh mời hai chúng tôi ở lại nhà anh bao lâu cũng được trong lúc viếng Colombo. Chúng tôi rất cảm kích và tôi có lời cám ơn anh đã đối đãi quá tốt với chúng tôi. Tuy nhiên chúng tôi không dám làm phiền anh. Anh khẳng định rằng không có gì phiền toái cả, trái lại anh rất hân hạnh được đón tiếp chúng tôi trong căn nhà đơn sơ này và được giúp chúng tôi trong lúc chúng tôi tìm học đạo. Anh và con anh bèn đi dọn chỗ chứa đồ ngoài nhà hiên. Ông trải tấm nệm lớn xuống sàn; nệm trông đủ rộng cho hai chúng tôi nằm thoải mái. Chừng ấy đủ cho chúng tôi rồi. Kinh nghiệm tôi mới học hồi gần đây cho thấy người Đông Nam Á rất thân mật và hậu hỷ với khách lạ, cái thân mật và hậu hỷ mà người phương Tây chỉ dành cho người thân. Tôi khâm phục ảnh hưởng lâu đời của truyền thống đạo giáo Đông phương.

Tối hôm đó, chúng tôi dùng bữa cơm cà ri do chị Sam và mẹ của chị nấu. Như lúc ở nhà Fernando, anh Sam mời chúng tôi ăn trước. Tình cờ có Tissera đến và anh mời anh ấy ăn với anh sau khi chúng tôi xong bữa. Sau đó, chúng tôi ngồi chuyện trò trong phòng khách, phòng chưng dọn đơn sơ. Có thêm anh Tilak, bạn học cũ của anh Sam đang ở trọ trong phòng nhỏ ở đằng sau. Anh Tissera vui mừng thấy Chris và tôi đến tìm Sam, bạn của anh. Cũng như anh Sam, anh hiếu kỳ muốn biết tại sao chúng tôi quan tâm đến Phật pháp. Ba anh, như hầu hết người Sinhalese, được 'sanh lại là con Phât', rất thích luận bàn Phật giáo. Tuy nhiên, kiến thức của họ chỉ giới hạn trong sách vở và gia tài văn hóa của họ. Họ không có chánh thức tu tập thiền. Họ theo đạo như là người biết lễ­, làm điều lành, sống trong khuôn mẫu của năm giới cấm, đi chùa thỉnh thoảng, tụng vài câu kinh mộ Phật truyền thống, và đọc một ít sách dư về thiền hay triết lý Phật giáo. Họ nói rằng tu như vậy giúp họ tạo phước để rồi lần hồi giải khỏi cái chấp vật chất và giải nghiệp. Họ mong trong kiếp sau họ sẽ được thành tu sĩ và đạt đến niết bàn. Anh Tilak giải thích rằng hầu hết người thường không thể thoát nghiệp để lên niết bàn trong kiếp này. May ra họ chỉ có thể được tái sanh trong thời kỳ của Đức Di Lặc, vị Phật tương lai sẽ xuất thế trong vòng hai ngàn năm trăm năm tới. Đó cũng là niềm tin của đa số Phật tử Tích Lan, kể cả nhiều tu sĩ.

Thái độ tu hành thư thái và không câu nệ vừa nói làm tôi rất ngạc nhiên. So sánh, tôi thấy tôi có khuynh hướng xem Tứ Diệu Đế quan trọng quá và tôi luôn quan tâm mong muốn chấm dứt khổ đau càng sớm càng tốt. Thì ra vì tôi chịu nhiều ảnh hưởng của Lạt Ma Zopa và Thầy Goenkaji trong các khóa tu học trước đây. Có thể tôi đã nghĩ sai rằng tất cả Phật tử, nhứt là người theo Theravada, đều ngồi thiền hai ba giờ liên tiếp mỗi ngày. Tôi tưởng như là họ đã ngồi lủng nhiều gối thiền lắm rồi; họ cố ngồi hầu đạt giác ngộ trước khi cuộc sống của họ trên cõi Ta Bà này chấm hết.

Sáng hôm sau, tôi lấy buýt xuống phố Fort, nơi có tất cả các nhà băng và công sở. Thoạt tiên tôi tới bưu điện mua bưu tín viết về cho ba má tôi. Tôi mô tả tỉ mỉ lộ trình và những điều tai nghe mắt thấy từ sau thư chót và nói tôi đang ở Sri Lanka và sẽ ở lại đây một thời gian để học thiền. Tôi nhờ mẹ tôi rút năm trăm đô trong số một ngàn đô còn nơi mục tiết kiệm và chuyển dùm qua tôi bằng thư tín. Tôi cho bà địa chỉ của sở kiều hối trong Bank of Ceylon. Tôi nói thêm rằng tôi có thể sẽ ở lại Sri Lanka ít nhứt là sáu tháng nếu đổi được chiếu khán; sau đó thì chưa biết thế nào. Từ bưu điện tôi đi vòng qua tòa nhà CID để lên lầu tư làm thủ tục đăng ký cho du khách không phải là công dân Liên Hiệp Anh. Khách phải điền đúng theo chi tiết ghi trong hộ chiếu, chỗ tạm trú tại Sri Lanka và mục đích đến đây. Vì định sẽ tham dự khóa tu học ở Kandubola, tôi ghi địa chỉ này và mục đích là học thiền. Khách còn phải nộp một hình hộ chiếu, nếu có sẵn. Tôi còn dư vài tấm nên đưa ra liền cho ông nhân viên phụ trách vui lòng. Trên đường đi dạo phố, tôi có ghé Văn Phòng Du Lịch lấy tập san du khách mỏng tựa đề 'Những gì xảy ra ở Colombo trong tháng này' để có gì đọc cho tối nay.

Nhìn qua lịch trình tối hôm đó, tôi thấy có lớp huấn luyện yoga 1-tháng của Tiến sĩ Swami Gitananda ở Pondicherry, Nam Ấn Độ. Khóa bắt đầu hôm qua ở chỗ cách nhà anh Sam chừng một dặm. Tôi liền có ý tương tự như hồi tôi nghe nói tới khóa thiền Tây Tạng. Mắt tôi sáng ra. Không ngờ tôi lại có dịp mong đợi--là được học du già với một bậc thầy kinh nghiệm. Thật là cái duyên may. Tôi liền đưa tin cho Chris coi, anh mừng lắm. Chúng tôi chưa có bị kẹt với Kanduboda chuyện gì hết, trừ đã khai báo là đến đó nhưng chắc không có gì hệ trọng lắm. Tôi nghĩ chắc cảnh sát không kiểm tra đâu. Khóa do một thầy du già Ấn Độ chính thống giảng dạy; ông còn là một tiến sĩ nữa. Dẫu khóa đã bắt đầu nhưng tôi hy vọng chúng tôi có thể được nhận bởi trễ chỉ mới có hai ngày. Chris và tôi quyết định sẽ đến hỏi ngay vào sáng sớm mai.

Tối đó tôi không thể ngờ mình có duyên số tốt như vậy. Tôi cứ nghĩ phải chăng nhờ tôi đã vô tình đến Colombo sớm và như có sao chiếu mạng mách bảo. Khi anh Sam đi làm về, tôi vui mừng đưa tin và nói ý muốn theo học. Anh đồng ý đây là một cơ hội rất tốt. Anh có nghe một người bạn nói về thầy Swami. Hình như Tiến sĩ Swami Gitananda có viết một bài gây nhiều tranh luận về sự từ bỏ các lý tưởng và thực hành tâm linh xưa để ôm lấy những suy đồi của nền văn minh Âu Tây. Bài ấy đăng trong bản tiếng Anh của tờ nhựt báo Ceylon Daily News.

Chúng tôi đến Ashram Yoga Ananda ở thành phố Havelock lúc 9:00 giờ sáng, trong lúc khóa đang nghỉ giải lao. Một phụ nữ người Mỹ tên Meenakshi tiếp chúng tôi. Bà là vợ của Tiến Sĩ Swami. Sau khi nghe chúng tôi phân trần, Bà cho biết khóa học đã đầy. Thường thì Thầy Swami không nhận học viên đi tr­ễ, tuy nhiên để bà vô hỏi thử thầy xem sao. Vài phút sau bà trở ra và bảo chúng tôi vô thưa thẳng với Thầy Swamiji. Tôi hơi lo khi phải đối diện với Thầy và đang nghĩ tới phép xã giao đúng mức để lễ­ một Guru Ấn Độ. Tôi không có hoa quả để kính dâng như thông lệ và không biết l­ễ bái có được hay không. Tôi nghĩ sẽ thi lễ­ bằng cách chấp tay cúi đầu rất kính cẩn. Tôi đến gõ cửa và được mời vào. Chúng tôi đẩy cửa bước vô và kính cẩn chấp tay cúi đầu lễ Thầy. Ông đáp lại bằng nụ cười thân mật và chỉ tấm thảm dưới sàn mời chúng tôi ngồi. Thầy Swami ngồi ch­ễm chệ trên ghế xem như một nhà du già Ấn Độ mà tôi đã hình dung. Ông có mái tóc bạc bồng bềnh ngang vai rất hợp với bộ râu rậm và mặc chiếc áo màu cam của sannyassin. Thân to lớn và vạm vở chiếm trọn chiếc ghế trông ông như ông già Noel trong y phục màu cam. Da ông mịn và trắng hồng, có một hình xâm trên một tay. Ông nói tiếng Anh không pha chút giọng Ấn Độ nào hết. Tôi hết sức ngạc nhiên nhưng tôi liền biết mình còn óc so sánh và phê phán.

Chris theo dõi mọi cử động của tôi trong lúc tôi nói, nói hầu hết mọi chuyện lúc đàm thoại với ông. Mặc đầu biết rằng bà Meenakshi đã trình bày rồi, tôi lập lại ý định xin theo học. Ông thật tình cho biết nguyên tắc của ông là không nhận người đến trễ­ sợ làm đảo lộn hiện trạng và vì chúng tôi đã mất một số chỉ dẫn quan trọng lúc ban đầu. Tuy nhiên, ông đồng ý thâu nhận chúng tôi nếu chúng tôi hứa sẽ học đến ngày cuối và đi đứng đúng giờ kể từ buổi học tới sắp bắt đầu trong chốc lát đây. Tôi thưa là chúng tôi xin tuân theo các điều lệ rất dễ­ hiểu vừa nêu. Ông hỏi chúng tôi có biết gì về du già chưa. Tôi thưa là có biết chút ít qua sách vở. Ông xem ra không để ý tới lắm và nói rằng du già chính thống cần phải được dạy bởi một thầy có kinh nghiệm, mà thầy bà như vậy thời này hiếm lắm. Tôi đồng ý với ông ngay và thưa vì vậy nên chúng tôi mới đến tìm ông. Sau đó, ông gọi bảo bà Meenakshi giải thích cho chúng tôi biết thời khóa biểu và nhiều chi tiết khác và thâu học phí.

Học phí là ba mươi đô la mà Chris cũng như tôi không có sẵn trong túi nên chúng tôi xin đem tới vào xế nay. Thật tình, chúng tôi phải chạy ra nhà băng đổi chi phiếu du khách mới có đủ. Bà Meenakshi giải thích rằng học phí không bao gồm tiền ăn vì khóa học không có ở lại. Chúng tôi ăn uống ở ngoài và phải thu xếp để tới đây đúng giờ học lúc sáng cũng như chiều đến tối. Lớp đầu tiên trong ngày học hatha yoga và điều tức bắt đầu từ 6:00 đến 7:45 giờ sáng. Sau đó là ăn sáng. Lớp kế tiếp học từ 10:00 đến 12:00 giờ trưa; lúc bấy giờ Thầy Swami nói về sức khỏe theo du già và dạy cách thư giãn theo du già. Từ ngọ tới 3:30 xế là cơm trưa. Lớp chiều học về thuật chữa trị tư thế và cách thở. Lúc 5:00 giờ chiều có nửa tiếng tụng kinh. Sau đó là cơm chiều. Tối, từ 7:00 giờ học viên tham gia buổi satsangha. Satsangha có nguyên nghĩa là 'cộng đồng của hành giả tìm sự Thật' và được hiểu như buổi tham vấn với Thầy Swamiji hay là một buổi luận đàm về một đề tài tâm linh liên hệ nào đó. Bà Meenakshi cho biết chúng tôi có thể đến sớm hơn lúc 5:00 giờ để thiền hay ngồi không cũng được. Chúng tôi có thể ở lại viện trong những giờ cơm nếu chúng tôi không muốn đi ăn hay ra ngoài. Thứ Hai không có lớp để học viên có thì giờ lo việc riêng hoặc muốn đi đâu tùy ý, như đi biển chẳng hạn.

Lối mười lăm phút trước khi lớp 10:00 giờ bắt đầu, học viên đi ăn sáng về lục tục kéo vô. Có nhiều người Mỹ, một ít người Âu, số còn lại là người Tích Lan. Khi mọi người vào ngồi hết trên tọa cụ mình, Thầy Swamiji đi ra từ cửa sau và lên ngồi trên thảm riêng trải dưới sàn. Ông bắt đầu giảng về bản tính của thư giãn thân và tâm, mô tả sự liên hệ giữa chúng và giải thích rằng cả hai phải được xem như một nếu muốn thư giãn có kết quả. Tiếp theo, tất cả chúng tôi nằm ngửa xuống sàn trong lúc Thầy hướng dẫn phương pháp thư giãn tỉnh giác. Chúng tôi được dạy phải dùng tỉnh thức để biết nơi nào trên thân thể bị căng thẳng hầu chỉ thị tâm tỉnh thức đến giải tỏa. Bà Meenakshi tới từng học viên, nắm tay họ lên thả xuống, quan sát cánh tay rơi để xem họ có thật sự thư giãn chưa hay còn cần được chỉ vẽ thêm. Sự giải thích và thực tập có vẻ rất khoa học và hợp lý. Tôi có thể thư giãn hoàn toàn. Phải công nhận thiền minh sát giúp tôi rất nhiều.

Bài giảng buổi chiều nói về sức khỏe tổng hợp theo quan niệm du già. Thầy Swamiji giải thích rằng con người, nhứt là người phương Tây, 'tự hành xác mình' vì ăn uống không đúng phép dinh dưỡng, thở không khí bị ô nhiễm, sinh hoạt trong tư thế không tự nhiên, vân vân. Những sai trái ấy làm sức khỏe suy giảm và gây nên nhiều chứng bịnh kinh niên--bệnh do lối sống cá nhân và cộng đồng. Thầy nói thân thể con người là một sinh vật phức tạp nhưng tuyệt vời có thể sống khỏe mạnh một thời gian dài nếu được chăm sóc đúng mức theo phương pháp thực tiễn của du già. Thầy kể ví dụ của một số nhà du già Ấn Độ sống trên trăm tuổi, sự việc mà sách báo Phật giáo cũng từng đề cập. Thầy Swamiji không nói suông mà luôn luôn dẫn chứng và đặt câu hỏi nên bài giảng của Thầy có tánh cách khoa học và cập nhựt. Trước đây Thầy học y bên Anh và làm bác sĩ giải phẫu trong Hải Quân Hoàng Gia, nên những hiểu biết sâu về y và khoa học phối hợp với những hiểu biết rộng về du già làm các bài giảng của Thầy trong sáng, chân thực và hấp dẫn.

Trong thời kinh 5:00 giờ chiều, Thầy giảng nghĩa chữ ÁN (OM hay AUM) và chỉ cách tụng lời chú này trong bảy luân xa[1] từ gốc của sống lưng (xương cụt) lên đỉnh đầu. Theo kinh Vệ Đà cổ, ÁN là âm ba của lực sáng tạo không hiển thị của vũ trụ mà Du Già gọi nôm na là Tỉnh Thức Vũ Trụ[2] và truyền thống thần bí của Thiên Chúa Giáo gọi là Thiên Chúa[3]. Trong Phật học, ÁN có thể hiểu là Thiền na (Jhanas) vô sắc hay Niết Bàn trong nghĩa được giải thoát khỏi mọi ràng buộc và giới hạn của cái ngã, tương đương với sự tinh khiết hoàn toàn của tâm. Trì tụng chữ ÁN một cách đặc biệt qua mỗi huyệt được xem như giúp tịnh hóa các trung tâm năng lực tâm linh đó. Tôi phải lập lại nhiều lần mới định đuợc vị trí của các huyệt và trì tụng qua đó. Tuy nhiên tôi nhận thấy chỉ trì tụng không cũng đã rất lý thú rồi. Sau mười lăm phút tôi đi vào trạng thái tập trung và cảm thấy vô cùng hoan hỷ. Tôi có cảm giác mình đang cảm thọ một thứ từ tính giữa hai mi và một ánh sáng lợt lạt trong đầu. Tụng xong tôi tiếp tục ngồi kiết già, mong kéo dài cảm giác mô tả rồi vào thiền minh sát, trong lúc các bạn đồng khóa ra đi ăn cơm chiều. Tôi không ăn chiều nên có thì giờ thiền, như tôi từng làm trước đây.

Tới giờ tọa đàm Satsangha chúng tôi ngồi xuống sàn quanh ghế của Thầy Swamiji. Mớ tóc dài, bạc, và mới gội nổi bềnh bồng ngang vai Thầy. Bộ râu rậm che hết thân ngực của Thầy. Thầy mặc chiếc áo swami màu cam (áo dài tay kiểu Ấn Độ) và ngồi trong tư thế tham thiền. Sau khi các học viên tụng xong Bhajans (kinh hiến dâng--devotional songs) bằng tiếng Tamil, Thầy bắt đầu trả lời các câu hỏi về những gì vừa học hay về du già và tâm linh nói chung. Một bà Tích Lan, mặc sa ri trông rất chững chạc, hỏi về cách thở khí lực Thầy dạy hồi sáng (bài mà Chris và tôi không có dự). Thầy không chỉ trả lời mà còn giải thích cặn kẽ về thể chất và phạm vi của sinh lực prana. Thầy nói dưới nhiều góc độ và như thế trả lời câu hỏi bằng nhiều cách. Thầy giảng cả tiếng đồng hồ; đó là cái tật rất dễ­ nhận của Thầy. Thầy không có sắp xếp trước mà chỉ ứng khẩu. Tuy nhiên các dữ kiện, hình ảnh và sự hiểu biết du già thâm sâu của Thầy biến lời giải của Thầy rất d­ễ hiểu.

Sau ngày học kết thúc tôi biết tôi đã gặp đúng Thầy Du Già và tôi tin đó không phải là sự ngẫu nhiên. Chris rất khâm phục Thầy vì sự hiểu biết sâu rộng và lối dạy năng động của Thầy. Hai chúng tôi về đến nhà lúc 9:30 giờ tối. Anh Sam đang chờ và nóng lòng muốn biết. Chris và tôi thay phiên kể lại những gì xảy ra trong ngày rồi tôi xin anh cho chúng tôi được trọ lại đây một tháng, thời gian của khóa học, và chúng tôi xin được gởi tiền ăn ở để tránh tốn kém cho gia đình anh. Không cần suy nghĩ, anh thuận ngay và không nhận tiền bạc gì cả. Anh nói có giúp gì được trong phạm vi hạn hẹp của anh thì anh sẵn lòng vì đó là nhiệm vụ của người Phật tử. Anh còn nói thêm chúng tôi cứ xem đây như nhà của mình và tự do đi về sao cho hợp với thời khóa biểu thì thôi. Chúng tôi làm đúng y như vậy trong suốt bốn tuần.

Chris và tôi dậy lúc 5:00 giờ sáng, ngồi thiền tại phòng rồi lên ashram lúc 6:00 giờ. Trong hai giờ nghỉ điểm tâm chúng tôi cùng vài bạn Tây kéo nhau ra quán gần đó ăn sáng--tôi thích ăn chuối, đu đủ và sữa chua với hoppers hay string hoppers. Sau đó, chúng tôi theo đại lộ Galle, ra con đường tẽ đi qua rầy xe lửa, xuống biển ngồi chơi trên những tảng đá làm bờ chắn sóng, chờ vô lớp thứ hai trong ngày bắt đầu lúc 10:00 giờ. Trưa, chúng tôi về nhà. Trên đường chúng tôi hay mua trái cây và sữa chua cho 'bữa ăn trưa du già'. Chiều, vào giờ cơm, tôi ở lại viện ngồi thiền còn Chris đi ăn với các bạn. Chúng tôi về nhà sau khi xong phần tọa đàm. Thời khóa biểu này rất thuận, chỉ có điều là không tiện cho anh Sam, Chris và tôi gặp nhau. Đêm nào hai chúng tôi về tới nhà trước 9:30 hay 10:00 giờ thì mới có dịp chuyện trò với anh. Anh lên giường ngủ lúc 10:00 giờ tối và ra đi làm lúc 5:40 sáng. Giờ làm việc của anh là từ 8:00 giờ sáng đến 5:00 giờ chiều. Anh làm thư ký cho Bộ Tư Lịnh SLAF của Không Quân dưới phố.

Trong tuần l­ễ đầu chúng tôi học được rất nhiều phương cách tẩy độc kiểu du già, kể cả sự xổ toàn bộ hệ thống tiêu hóa bằng nước muối. Đó là 'sự tẩy độc mùa Xuân'. Tiếp theo là thời gian nhịn ăn. Theo Thầy Swamiji, sự tẩy độc và nhịn ăn định kỳ là sự tịnh hóa căn bản mà người luyện du già phải làm để thân trong sạch hầu tâm thiền hiệu quả. Phân nửa số bịnh tật là do đường tiêu hóa gây ra và ăn nhiều quà tạp là bệnh của người phương Tây. Thầy còn nói thêm rằng không ai có thể đạt đến trí tuệ thiền quán (thiền tuệ) cao còn gọi là Tỉnh Thức Vũ Trụ nếu ruột gan bị bào bọt. Lối giải thích của Thầy làm tôi buồn cười, nhưng nhìn chung thì rất khoa học và có lý. Tôi biết hệ tiêu hóa của tôi không ổn nên tôi muốn thử phương thức này. Trong vài ngày đầu, tất cả học viên phải theo một số thủ tục do bà Meenakshi và phụ tá Tây phương của bà chỉ dẫn.

Thử phương pháp mới học, tôi có cảm tưởng 'cái bẩn' trong tôi bị tống ra làm tôi thanh khiết và nhẹ nhàng hơn. Tôi hy vọng từ đây tôi sẽ không còn bị những bất ổn tiêu hóa như từng bị trong những năm vừa qua. Tôi không còn thèm những thức ăn như thịt, đồ hộp và quà vặt nữa. Dĩ nhiên tôi không nghĩ là tôi sẽ kiêng cữ tuyệt đối mà tôi chỉ hy vọng được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Có điều tôi được cái nhìn mới về mối liên hệ giữa thân và tâm. Tôi tẩy độc rồi nhịn ăn, chỉ uống nước. Do đó bộ tiêu hóa của tôi có dịp nghỉ ngơi và các tế bào có dịp thủ tiêu những thứ ngoại lai cùng mớ mỡ thừa.

Nhịn ăn là một cách tốt giúp thân thể tẩy các vật gây hại và thêm sức khỏe nếu được làm đúng mức. Thời gian nhịn ăn tùy theo nhu cầu của thân thể mỗi người mà Thầy Swami gọi là chu kỳ nhịp sinh học cá nhân. Chris phải nhịn ăn ba hôm theo chu kỳ 3 của anh. Còn tôi, bốn hôm. Tôi chưa lần nào tự mình nhịn đói (tôi có bỏ bữa một hai ngày vì bịnh), nên nhịn ăn bốn ngày liền là một vấn đề. Lúc ở Goa, tôi có ăn chỉ một bữa trong ngày với rau trái và có thấy nhẹ người, nhưng tôi không biết nhịn cả ngày có tốt hơn không--người ta thường nói 'càng nhiều càng vui càng thích' kia mà. Lời dạy của Thầy đến bất ngờ, phải thực hiện ngay trong ngày, nên tôi không có dịp tính toán hơn thiệt mà cũng không kịp lo mình sẽ không được ăn trong suốt bốn ngày. Khi nghĩ ra thì tôi đã làm xong thủ tục lạ kỳ kia và đã vào thời kỳ nhịn ăn rồi.

Ngày đầu tiên khổ sở nhứt vì tâm luôn nghĩ tới cơm và bụng bị đói cào, nhưng qua ngày thứ hai những khổ ấy không còn nữa. Tôi chỉ cảm thấy hơi yếu nên nằm nhà nghỉ một hai tiếng trong giờ cơm trưa là mọi việc đều ổn. Đến sáng ngày thứ tư khi thời gian nhịn ăn chấm dứt, tôi không thấy đói bụng và cũng không muốn ăn. Tôi có cảm tưởng mình có thể nhịn ăn lâu hơn.

Lúc ăn trở lại, chúng tôi được dạy nên ăn từ từ, bằng cách trong ngày đầu chỉ nên uống nước trái cây loãng hay ăn trái cây mềm tùy theo thời gian nhịn lâu hay mau. Sang ngày thứ hai, tôi bắt đầu ăn như thường lệ: sữa chua và rau trái--nhẹ theo lối du-già. Tôi thấy sự thèm khát có trở lại, nhưng tôi tự chế không ăn đồ ngọt cũng như quà vặt và không ăn tối. Tuy nhiên tâm có lý do chính đáng của nó: tôi phải ăn nhiều hơn để bù đắp cho thân thể đang thiếu thốn. Tôi chịu thua thành thử có lúc ăn thêm một hai miếng trái cây vào buổi tối, sau thời kinh và thiền.

Thầy Swamiji dạy thêm cách xổ mũi và các xoan mũi. Có thể hít nước muối rồi khạc ra đằng miệng hay hít không khí vô đầy phổi rồi khịt mạnh ra bằng một lỗ mũi theo cách chỉ dẫn. Thầy là người chuộng toàn hảo nên dẫn giải rất tỉ mỉ và muốn mỗi học viên phải làm đúng y các chi tiết Thầy dạy. Thầy nhấn mạnh điểm Du Già là một khoa học chính xác và là một tiến hóa tri thức. Thầy chỉ trích các sư du già rởm bên Âu Mỹ đã tự động đơn giản hóa du già để thích nghi rồi nói 'Chúng ta cần môn Du Già Tây phương'. Thầy gọi lối luyện tập bừa bãi đó là 'bhoga yoga' hay 'du già trên ghế bành'.

Vào tiết du già hatha và điều tức[4], chúng tôi học nhiều cách thở và thế mới. Theo giải thích khoa học của Thầy Swami thì nền tảng của mọi phép tu tập du già đều có nền tảng của khí lực prana. Thầy nói khí lực là sinh lực vô hình ở mọi nơi có khả năng duy trì mọi sinh thể--người, động vật, cây cỏ, và cả đất đá. Thầy gọi đó là 'plasma vũ trụ' hay là một thứ điện lực loãng kết dính tất cả các nguyên tố sáng tạo và cho chúng sự sống. Khí lực cần thiết cho thân thể được cung cấp hầu hết qua hơi thở và một ít qua sự ăn uống, nhứt là ăn thức ăn sống và uống nước lạnh. Khí lực di chuyển khắp châu thân trong một hệ thống khí lực lớn trong ấy có nhiều kênh siêu trần và vô hình gọi là huyệt[5]. Bình thường khí lực chảy trong huyệt theo mô hình định sẵn để thực hiện nhiều chức năng sinh học khác nhau, nhưng không như máu trong hệ tuần hoàn, khí lực có thể được hướng dẫn bởi tâm. Một sự tập trung lớn khí lực ở một nơi đau bịnh nào đó có thể chữa trị bịnh ở nơi đó. Do đó, điều tức là cách điều động khí lực có ý thức và được kiểm soát để làm thân tâm khỏe mạnh. Điều tức không chỉ đơn thuần là hô hấp sâu mặc dầu khí lực thâm nhập theo hơi thở, mà còn là sự nhận thức khí lực lúc năng lương ấy được hướng dẫn qua huyệt. Tôi say mê nghe Thầy Swami giảng mục điều tức này.

Theo Tiến sĩ Swami Gitananda, điều quan yếu của du già là phải biết rõ cách thở bằng ba buồng phổi. Có nghĩa là phải biết thở theo nhịp điệu và qua ba buồng chính của mỗi lá phổi, tức dưới, giữa và trên. Thầy cắt nghĩa sinh lý của cách thở ấy dựa trên dòng chảy của khí lực và của máu trong hai hệ thống tuần hoàn và hô hấp. Mỗi buồng phổi điều hành sự luân lưu của khí lực và máu của một khu vực trong thân thể. Nếu chúng ta không thở vào một buồng phổi nào đó thì khu vực tương ứng kia sẽ không có đủ khí lực, oxy, và máu để sanh sống bình thường. Thầy nhấn mạnh rằng nguyên nhân chính của bệnh tật và sự trục trặc của cơ quan có thể do sự điều phối không hữu hiệu của khí lực, máu và oxy bởi vì thở không đúng cách. Các tật bịnh này có thể chửa được bằng cách thở theo phép điều tức song song với sự tập luyện một số động tác du già và cách ăn uống.

Trong những ngày đầu khóa lúc tôi đang nhịn ăn, Thầy dạy cách thở và một số thế du già nhằm giúp đem không khí vô sâu tới ba buồng phổi. Thật tình, lâu nay tôi đâu có biết thế nào là thở sâu và phổi có tới ba buồng. Tôi nghĩ phổi chỉ là cái bị đàn hồi dùng để thở vô thở ra mà thôi. Âu là một khám phá mới của tôi, và tôi thấy khác biệt khi thực tập và thực chứng.

Thầy Swami cũng có nói nhiều về tầm quan trọng của cách thở nhịp nhàng theo các thế đứng ngồi và dạy chúng tôi một lô động tác liên hệ. Tôi có đọc qua một ít trong sách rồi nhưng chẳng có nghĩa lý gì so với những lời Thầy dạy hôm nay. Lúc ban đầu chúng tôi học những động tác d­ễ như đưa một chân rồi hai chân lên trong lúc nằm ngửa, nằm nghiêng và nằm sấp. Chúng tôi thực tập các thế cổ điển-- như thuyền, rắn, chào, cày, kiều, mộc và nhiều thế khác. Chúng tôi học thêm hai ba thế mới mỗi ngày. Thầy Swami cũng có dạy một ít cách thở phức tạp như mudras, bandhaskriyas, cạnh các phương pháp điều tức thông thường. Nhưng rất tiếc chúng tôi không đủ thì giờ để tập hết hầu thu đạt nhiều lợi lạc hơn.

Thời kinh chiều là thời gian tôi thích nhứt trong ngày. Thầy Swami dạy chúng tôi nhiều bài chú và cách trì. Mỗi ngày có một bài chú riêng ứng với một linh thần Ấn Độ. Tôi đắc ý nhứt với bài OM NAMA SHIVAYA. Theo Thầy, Shiva mà người ta thờ như một vị thần, chính ra có nghĩa là 'Tốt Lành' hiểu như sự trong trắng của tâm. Khi trì OM NAMA SHIVAYA chúng ta tỏ lòng kính trọng và làm phát khởi tính tốt lành ấy trong tâm ta. Như thế Shiva không khác Phật Tánh của Thiền Zen và Niết Bàn là mấy, theo tôi nghĩ. Tôi rất hoan lạc trong lúc trì chú và có thể ngồi lâu hơn trong thế kiết già để thiền định hầu hợp nhứt tâm với nội quang và cảm thọ bản chất vô biên hay tự tại.

Trong các bài giảng, Thầy Swami có nói phớt qua về sáu hay tám nhánh của khoa Du Già. Cách Thầy giải thích và kết hợp các khía cạnh của sự tịnh hóa thân tâm làm tôi nghĩ Thầy là một bậc sư rất am tường khoa học. Qua đó, tôi bắt đầu thấy sâu mối liên quan cơ bản giữa thân và tâm; chúng chỉ là hai mặt của một sự việc và cần phải được đề cập như vậy trong quá trình phát triển tâm linh và chứng ngộ. Tôi thử tìm hiểu các điểm dị đồng của Du Già và Phật giáo khi luận giải sự Giác Ngộ và sự Giải Thoát khỏi Luân Hồi. Không như Du Già, Phật giáo không quan tâm đến sự tịnh hóa trực tiếp và trước tiên của thân. Phật giáo đặc biệt chú trọng trước hết đến sự tận diệt trực tiếp các độc hại trong tâm bằng pháp hành thiền để diệt khổ và đạt Niết Bàn. Phật giáo không đề cập đến thần linh hay siêu nhân nào trong tiến trình diệt khổ. Du Già, trái lại, nhận Ngã Vô Thượng là nền tảng chính của Chơn Tánh và gọi Thương Đế dưới nhiều danh từ khác nhau như Brahma, Vishnu, Shiva, vân vân. Trên bề mặt, hình như có sự tương phản giữa thuyết Vô Ngã hay thuyết Không của Phật giáo và Giải Thoát của Du Già và Hồi giáo, nhưng thật ra cả hai đều hướng đến giải thoát khỏi nhục thể và đạt hạnh phúc vĩnh cửu. Tôi không biết giữa hai thuyết ấy có khác biệt nào quan trọng không. Làm thế nào có thể có hai Chơn Tánh hay hai Thực Tế Tối Hậu khác nhau? Hiểu biết của tôi lúc bấy giờ còn nông cạn lắm. Tôi không có tư cách để phê phán và tôi cũng không cần phải phê phán. Trong trường hợp nào tôi cũng còn phải đi một đoạn đường dài nữa mới mong thấu hiểu. Dầu có hay không những dị biệt quan trọng, thời gian và sự học tập chuyên cần của tôi sẽ giúp trả lời sau này. Trong hiện tại, tôi rất thỏa mãn với việc luyện du già để tịnh hóa và tăng cường thân tâm tôi và hành thiền để diệt trừ tâm độc, giải bớt chấp trước và phát sanh trí tuệ.

Vào tuần chót, tôi rất thích thú với nhiều thế du già mới, nhưng rất tiếc khóa học sắp mãn. Thời giờ quá ít trong lúc có nhiều thứ cần học quá. Do đó, tôi không tài nào nhớ hết các chi tiết của các phương pháp và của khối dữ kiện và kiến thức được dẫn giải hối hả vừa qua. Thầy Swami nói rằng khóa học chỉ là phần nhập môn cấp thời nói về sự đa dạng, phạm vi và áp dụng thực tiễn của các khía cạnh khác nhau của Du Già. Những tài liệu giảng dạy trong tháng qua được cô đọng từ một khóa thông thường dài sáu tháng mà Thầy dạy ở ashram Pondicherry mỗi năm. Cũng các tài liệu này cộng với một số nữa được giảng dạy chẫm rãi và chi tiết hơn để học viên có đủ thì giờ vừa học vừa tập các phương thế mới. Thầy Swami nói sáu tháng mới đủ cho học viên có căn bản vững chắc khả dĩ dạy lại được nếu muốn và nếu học tập chuyên cần. Và ai theo học hết khóa 6-tháng mới được Thầy cấp giấy chứng nhận dạy Du Già. Thầy khuyến khích chúng tôi lên Pondicherry theo học và khóa mới được tổ chức mỗi năm vào ngày 1 tháng Mười.

Cuối khóa, tôi quyết định đi Pondicherry theo học khóa 6-tháng vào ngày 1 tháng Mười. Tôi thưa với Thầy và Thầy vui vẻ tiếp nhận tôi. Chris rất phục Thầy Swami và cũng muốn theo học khóa 6-tháng. Hai người Âu mới biết Thầy Swami Gitananda cũng định đi. Còn tới năm tháng nữa, tôi ở lại Sri Lanka học thiền minh sát mà tôi vẫn còn thích, và tập du già cho khỏe để theo khóa 6-tháng sắp tới. Đó là dự tính của tôi cho trọn năm tới. Tôi thích thú biết tâm trí mình sẽ bận rộn trong thời gian tôi ở bên phương Đông này.

Đêm sau cùng được dành cho l­ễ Guru Dakshima còn gọi là 'l­ễ dâng Guru', một tập tục cổ truyền của du già. Trong buổi l­ễ học viên trình diện và dâng lên thầy một lễ­ vật để­ tỏ lòng biết ơn dạy dỗ. Thầy Swami thích hoa trái nhưng dĩ nhiên Thầy không thể dùng hết ba bốn mươi vật l­ễ chỉ toàn là hoa trái. Bà Meenakshi đề nghị dâng một ít tiền để Thầy có phương tiện chi tiêu đi về Ấn Độ. Bà cho biết học phí thu được chỉ đủ để mướn chỗ, mua thức ăn, trả tiền điện nước, vân vân. Thầy cần có một số tiền cho những chi tiêu cá nhân.  

Đề nghị của Bà Meenakshi rất thực tế và hữu lý, nhưng hiện giờ tôi chỉ còn có mười đô la vì tiền bên nhà gởi qua chưa tới. Tôi mang ơn Thầy rất nhiều vì đã được Thầy truyền cho nhiều kiến thức mới và động viên tinh thần, nên tôi muốn dâng Thầy trọn mười đô la rồi sẽ mượn Chris cho chi tiêu của tôi sau. Cái tánh ích kỹ dùng lý lẽ cạn tiền của tôi đang giằn co trong tâm tôi. Tôi phân vân không biết nên dâng bao nhiêu hay tôi chỉ cần mua một ít trái cây và vòng hoa dâng Thầy. Tôi rùng mình vì tính nhỏ nhen đó nhưng tôi không làm sao cản nó được. Sau cùng, tôi nhận thấy nên dâng hết mười đô; tôi nhẹ nhõm. Tình cờ, tiền gởi qua vừa tới ngày hôm sau.

Đêm đó, tôi theo dõi mỗi người khi lên trước Thầy Swami và quan sát sự cung kính của họ đối với Thầy. Một số, nhứt là người Tamil, chân thành tin tưởng và tùng phục bằng cách choàng vòng hoa lên Thầy rồi lạy xuống để tay đụng chân Thầy. Một số khác dè dặt hơn, có lẽ vì cái tôi, chỉ làm bộ chấp tay cúi đầu xá Thầy trong lúc đặt bao thư lên dĩa để gần đó. Một ít không cúi đầu, rõ ràng vì bị cái tôi kiềm hãm. Tôi thì đã quen rồi và vì luôn khiêm nhường trước guru nên tôi lạy Thầy theo lối Theravada canh cải[6] và đụng tay vào chân trần của Thầy. Nhưng dầu thành thật hay vô ngã như tôi nghĩ, tôi vẫn còn thấy một chút trình diễ­n khi cúi lạy. Lậu hoặc hãy còn núp bóng trong vùng sâu thẳm của tâm chưa giải thoát của tôi.

*

Chương 15

TRUNG TÂM THIỀN MINH SÁT KANDUBODA [7]

Khóa học đã mãn, Chris và tôi lại phải nghĩ tới việc làm sắp tới--đi Kanduboda. Tôi đã viết thư gởi Thầy Saviili báo tin chuyến viếng thăm và ý muốn thọ giáo ông về pháp thiền minh sát. Bây giờ chúng tôi phải xuống sở di trú xin gia hạn chiếu khán, việc mà chúng tôi không thể chần chờ. Với chút nói khéo chúng tôi được gia hạn ba tháng không khó khăn. Tiếp theo, chúng tôi ra nhà băng đổi một rrăm tám mươi đô la và đem trình họ biên nhận; may là tiền đến đúng lúc nên tôi không gặp trở ngại nào hết. Rồi tôi xuống phố mua hai sà rong trắng và vài áo thun trắng sát nách để đem theo. Nghe nói ở trung tâm thiền nguời ta thường mặc trắng, và nếu được, nên mặc y phục cổ truyền với sà rong dài chấm gót và áo có tay. Màu trắng, theo phong tục Đông phương, là biểu tượng của sự trong trắng, nên sà ri trắng cho nữ giới và áo dài trắng cho nam giới là trang phục thích hợp nhứt trong các lễ­ hội hay khóa tu học. Tuy nhiên, vì khí hậu ở đây quá nóng và ẩm tôi không thích mặc áo dài tay nên mua áo thun sát nách trắng thay thế; nghe nói mặc như vậy cũng được.

Vì biết tôi quan tâm đến thiền minh sát, tôi được mách cho hai tựa sách hay về môn này: 'Thiền Phật Giáo Căn Bản[8]' của Thầy Nyanaponika Thera, một sư người Đức sống ở Sri Lanka và 'Thiền Minh Sát Thực Hành[9]' của Thiền sư Miến Điện Mahashi Sayadaw. Một sáng chủ nhựt rỗi rảnh nọ tôi xuống phố và may mua được luôn cả hai quyển trong một nhà sách. Tôi bắt đầu đọc liền quyển Thiền Phật Giáo Căn Bản vì nghe nói khóa học Kanduboda không cho phép đọc sách bởi chương trình học rất nặng. Sách nói về sự cần phải có tỉnh thức trong đời sống hằng ngày vì tỉnh thức giúp khám phá những u tối sâu thẳm trong tâm não, nhổ tận gốc mọi phiền trược, làm phát sanh bình an nội tại, và dẫn đến giải thoát. Tôi rất thích những lời dạy trực tiếp và rõ ràng này nên bắt tay thực tập luôn. Thiền minh sát mô tả trong sách khác với 'thiền quét' của Thầy Goenka nhưng giống phương pháp tôi nghe Joseph nói qua lúc ở Bodhgaya; đó cũng là đề tài mà tôi sẽ học ở Kanduboya. Xong quyển Thiền Phật Giáo Can Bản, tôi định đem quyển Thiền Minh Sát Thực Hành theo lên Kanduboda để lén đọc khi có dịp. Tôi nghĩ chắc không sao bởi sách chỉ nói về phương pháp mà tôi sẽ thực tập chớ không phải là gì khác.

Trung Tâm Kanduboda Vipassana Bhavana nằm trong vùng quê xanh tươi, cách Colombo không xa, chừng muời lăm dặm; vậy mà chúng tôi mất cả tiếng đồng hồ, vì xe ngừng nhiều trạm và đường đầy ổ gà. Tới nơi, Chris và tôi đi thẳng vô phòng tiếp tân nơi chỗ cổng vào gặp thơ ký. Tôi cho biết tôi có viết thư trước rồi, nhưng ông nói chúng tôi phải gặp Thầy truớc đã và cho chú tiểu đưa hai chúng tôi đi. Lối đi và các sân đều lót cát và được chăm sóc tươm tất. Chúng tôi đi qua khu có nhiều nhà thấp quét vôi trắng, nhiều hàng dừa cao thấp khác nhau với trái nặng trĩu và nhiều bông hoa nhiệt đới đủ sắc đủ màu. Khuông viên đượm không khí tĩnh mịch, linh thiêng. Thầy Sivali đang ngồi một mình trên sàn thảo am, thấy chúng tôi tới, mời vô. Chúng tôi cởi dép, bước lên, vái Thầy ba lạy, rồi ngồi xếp bằng xuống bồ đoàn đặt trước mặt Thầy.

Thầy Sivali trạc tuổi trung niên nhưng trông rất trẻ. Thầy điềm đạm, khiêm tốn và định tâm. Khi nhìn thẳng vào tôi, mắt Thầy sáng hẳn lên tưởng chừng như có biết tôi rồi. Thầy bèn hỏi: "Anh có phải là anh Joseph không?" Nghe tôi trả lời rằng đúng, Thầy kể câu chuyện sau. Hai tuần lễ­ trước, CID có tìm tôi không biết có chuyện gì. Họ đến đây vì tôi đã khai Kanduboda là nơi tạm trú trong thời gian ở Sri Lanka. Viên công lực có trình hình tôi cho Thầy xem và có hỏi Thầy về tông tích của tôi. Thầy nói tôi có gởi thư nhưng chưa đến. Ông có vẻ bực và yêu cầu Thầy chuyển lời CID gọi tôi lên trình diện ngay. Bấy giờ, Thầy tỏ ra hơi lo âu và hỏi tôi việc gì đã xảy ra khiến cảnh sát phải tìm tôi. Tôi cũng bối rối như Thầy và thưa thật rằng tôi không biết. Tôi trình bày tự sự rằng tôi có đăng ký đến Kanduboda hồi tháng rồi, nhưng không đến liền được vì khóa du già mà không có khai báo lại. Thầy nói tôi phải trở lên Colombo để làm cho xong thủ tục mới có thể dự khóa thiền của Thầy được. Đã xế chiều song Thầy đề nghị tôi nên đi liền và ở lại Colombo tối nay. Tôi nghĩ đây chỉ là thủ tục thông thường và Thầy lo hơi xa, nhưng Thầy có lý riêng của Thầy. Chris không phải lên lại Colombo vì công dân Anh không cần đăng ký. Chris được Thầy cho phép ở lại và bắt đầu học. Tôi thưa với Thầy là tôi sẽ cố gắng làm xong thủ tục nhanh và trở về trong một hai hôm. Thầy bảo tôi phải xin cho có cái giấy của CID Thầy mới có thể nhận tôi. Tôi đành trở ra bến xe ở ngả tư Delgoda và lên buýt với tâm trạng không mấy an. Tôi đi thẳng tới nhà anh Sam và đợi sáng mai lên CID sớm.

Anh Sam đã có ở nhà rồi trước khi tôi đến. Anh ngạc nhiên thấy tôi trở về. Tôi kể lại câu chuyện, anh đồng ý chỉ là một thông lệ, nhưng tôi hơi lo âu. Sáng hôm sau, tôi lên văn phòng trên lầu tư của CID lúc 9:00 giờ và được bảo ngồi chờ trên ghế dài dọc tường. Sau chừng mười lăm phút tôi được gọi vào bên trong và phải ngồi đợi thêm mười phút nữa. Sau cùng, viên sĩ quan ra với tập hồ sơ và hình của tôi trên tay. Ông hỏi: "Anh có lần nào bị bắt vì tội đem lậu cần sa vô Afghanistan không?" Câu hỏi bất ngờ làm tôi sửng sốt và tôi phải mất mấy giây mới trả lời được. Tôi nghĩ ông đã được thông báo, nếu không làm sao ông biết, và do đó ông muốn gặp tôi. Trấn tỉnh, tôi hỏi lại sao ông hỏi tôi như vậy. Ông cho biết tên và tội danh tôi có trong danh sách Interpol của các người bị nghi buôn lậu ma túy. Tôi trả lời rằng: "Hồi năm qua tôi có thử cái trò điên khùng đó và bị bắt ở tù. Tôi đã học được bài học đích đáng." Chuyện ấy, tôi nói thêm, xảy ra hồi năm trước khi tôi còn là một tên ngu, còn bây giờ tôi đã sang trang, đang tu làm Phật tử và học thiền. Tôi nói một cách quả quyết rằng tôi đã bỏ thuốc và là người sạch. Nghĩ ông là Phật tử, tôi tin ông hiểu lời tôi và tha cho tội tôi trong quá khứ.

Viên sĩ quan có vẻ thỏa mãn với lời khai của tôi. Ông hỏi tôi chớ học thiền ở đâu? Tôi thưa tôi đang chuẩn bị theo khóa tu học của Thầy Sivali ở Kanduboda. Ông phản ứng ngay: "Ồ! Đó là chỗ ưa thích nhứt của người phương Tây." Ông nói bà nhạc của ông là một dyaka (người hỗ trợ) của trung tâm và thỉnh thoảng có tới đó thiền. Ông không có đề cập đến việc người của CID đến đó tìm tôi. Trong lúc ông thu xếp giấy tờ tôi hỏi ông chớ còn chi nữa không. Ông nói: " Thế là xong đối với chúng tôi. Tôi không nghĩ chúng tôi phải quan tâm đến vấn đề nữa và anh có thể ra về." Nhớ tới lời yêu cầu của Thầy Sivali, tôi xin ông cấp cho tôi một chứng từ để làm yên lòng Thầy, nhưng ông nói là không cần thiết. Tôi phải giải thích thêm cặn kẽ, ông mới thuận viết mấy chữ trong một miếng giấy rồi ký tên và đóng mộc cho tôi cầm về. Sự không quan tâm của ông đối với vần đề thật là kỳ lạ. Tôi ghi nhận một lần nữa lối sống thoải mái của người phương Đông. Tôi thầm cám ơn nhưng nghĩ rằng thái độ đó không tốt lắm đối với những tội phạm chính tông. Trên đường trở lại nhà anh Sam, tôi chiêm nghiệm luật nhân quả và nhận biết rằng hành động của tôi làm từ hơn một năm rưỡi nay vẫn luôn luôn đeo đuổi tôi.

Tôi về lại Kanduboda xế hôm ấy với văn thư giải oan trong tay. Sau khi đọc kỹ văn thư, Thầy Sivali nói tôi có thể ở trong ba tuần. Thời gian ba tuần được ấn định vì trung tâm cần chỗ cho học viên khác; trung tâm của Thầy luôn luôn đầy người phương Tây đến học. Chỉ trong trường hợp đặc biệt hay vào đôi lúc ngoài mùa du lịch, thời gian ba tuần mới được gia hạn với sự cho phép của Thầy. Tôi ngồi xuống bồ đoàn nghe Thầy Sivali giải thích các điều lệ phải theo: giữ mười giới như đả học ở Kopan, không được đến gần khu nữ; không được nói chuyện, viết thư hay đọc sách; và không nên tập yoga. Thầy nói những điều cấm ấy chỉ có gây xao lãng cho hành giả đang cần tu tập tỉnh thức thuần thành và liên tục theo phương cách mà Thầy sẽ giảng sau. Thầy dành thời giờ vào mỗi buổi chiều để học viên tham vấn hay hỏi về tiến triển của mình. Kanduboda không chỉ là một trung tâm dạy thiền cho cư sĩ tại gia mà còn là một tu viện với một số tăng sĩ theo học. Nam học viên sẽ ăn sáng và trưa chung với Thầy trong trai đường. Và theo giới luật của tu viện, chúng tôi không có cơm sau ngọ mà chỉ có trà đen vào lúc xế và tối.

Thầy tiếp mô tả phương thức thiền. Thầy giải thích động tác phồng xẹp của bụng khi thở bình thường. Tôi phải tự nói 'phồng, phồng' lúc hít vô và 'xẹp xẹp' khi thở ra. Đó là mục tiêu cần chú ý đầu tiên trong lúc ngồi. Giữa hai hơi thở hoặc lúc nhận thấy hơi thở hơi yếu, phải biết chỗ hai gối và mông chạm sàn để tự nói 'chạm sàn, chạm sàn'. Nếu tâm bị dấy niệm, không thể ngồi và thở tỉnh thức nữa, lúc bấy giờ phải tự nhắc 'nghĩ, nghĩ' rồi trở về tỉnh thức bằng cách lập lại 'phồng, phồng' và 'xẹp, xẹp'. Nếu bị khuyấy động bởi tiếng ồn, tự nói 'nghe, nghe' cho đến lúc không còn nghe tiếng động nữa mới trở lại 'phồng, xẹp'. Sự ghi nhận trong tâm thức vừa mô tả có thể áp dụng cho các cảm giác khác như thị giác, xúc giác, khứu giác, và vị giác. Trong việc thực tập này, chỉ thuần túy ghi nhận chớ không phân tách hay luận bàn sự việc xảy ra. Chúng tôi ngồi thiền với tư duy sâu lắng như vậy suốt một tiếng và nhiều lần trong ngày. Giữa các thời tọa thiền, chúng tôi tập thiền hành, một hình thức tiếp nối của thiền tọa trong đó động tác phồng xẹp của bụng được thay thế bởi động tác của chân đi. Mỗi khi dở chân lên, tự nói 'dở, dở', đưa chân bước nói 'bước, bước', và đặt chân xuống nói 'đạp, đạp'. Tỉnh thức này áp dụng cho mỗi buớc trong khi chân đi liên tục và chẫm rãi. Để chế ngự tâm buông lung, chúng tôi áp dụng những gì đã học cho thiền tọa. Và đặc biệt nên nhớ chỉ ghi nhận hiện tuợng cảm nhận thô tiên khởi chớ không có phân tách hay bàn luận.

Những chỉ dẫn căn bản nói trên trùng hợp với những gì tôi đọc trong sách Thiền Phật Giáo Căn Bản và được mô tả tỉ mỉ trong Thiền Minh Sát Thực Hành. Thầy Sivaili bảo tôi nên ngồi thiền một giờ rồi đi thiền nửa giờ, thay phiên các thời tỉnh thức ấy càng nhiều càng tốt, từ sáng đến tối. Thầy khuyên tôi làm chậm lại các công việc hằng ngày như ăn uống, tắm rửa, đi cầu, vân vân; Thầy sẽ giải thích tại sao sau này. Để trả lời câu tôi hỏi về phép quán hơi thở bằng cách nghe hơi thở qua chót mũi mà tôi học với Thầy Goenka, Thầy nói theo dõi sự phồng xẹp của bụng là một cách của sổ tức quán và cách này giúp hành giả phát huy tỉnh thức nội tại dễ­ dàng hơn. Thầy nói thêm rằng không cần tập thêm gì khác nữa, chỉ nên bắt đầu chầm chậm, thư giãn, và để mọi việc đến tự nhiên. Tôi cảm thấy hữu lý và thỏa mãn. Sau đó, Thầy, vị thầy rất ôn tồn và nhỏ nhẹ, đưa tôi qua khu nam sinh, cấp cho tôi một phòng nhỏ ở đó, và chỉ tôi nơi vệ sinh cùng giếng tắm giặt.

Tôi dành một giờ để xếp đặt chỗ ở mới của mình. Có hai mươi đơn vị xếp dọc hai bên trong một kiến trúc vuông dài với hành lang chạy quanh. Trong hành lang, dùng làm lối thiền hành, tôi thấy Chris và một yogi phương Tây đang bước đi chầm chậm, mắt nhìn về phía trước xuống đầu chân mình. Họ trông như hai xác không hồn lửng thửng đi rất chậm. Mỗi đơn vị chỉ rộng chừng 5x7 bộ có một bệ xi-măng cao sát vách dùng làm giường ngủ với tấm nệm bằng xơ dừa, gối, và vải trải giường. Có thêm cái ghế thấp bằng cây tôi kê vô góc phòng để làm bàn thờ. Trên bàn thờ tôi trải chiếc khăn linh Benares rồi đặt lên đó bức hình vẽ Đức Thích Ca Mâu Ni theo lối Tây Tạng và ảnh của Lạt Ma Zopa tôi thỉnh ở Kopan. Tôi làm lư nhang bằng cách đổ cát vô cái ly nhỏ tìm gặp trong góc phòng. Nhang tôi có đem theo trong xách, còn đèn cầy và diêm quẹt có sẵn trong phòng, phòng bị những lúc không có điện. Đoạn tôi trải xuống sàn cái mền mỏng và áo jalaba lên nệm và bồ đoàn bằng rơm tôi đem theo. Tôi xếp bàn chải, kem đánh răng, sà bông, và khăn tắm ngay ngắn dưới chân giường. Và tôi dấu quyển Thiền Minh Sát Thực Hành dưới nệm. Tôi biến căn phòng nhỏ buồn bèo và ảm đạm thành một cốc khá tươi sáng và ấm cúng.

Bây giờ tôi đã sẵn sàng, tôi ngồi xuống giường để thiền. Ngay lúc ấy, Chris tới và lặng lẽ đứng dựa bên cánh cửa lưới. Tôi ngoắc vô và thì thầm kể lại chuyện ở CID, còn Chris cho biết một số điểm đặc biệt của thời khóa biểu. Có ba thời thiền tập thể hằng ngày, mỗi thời dài một tiếng, vào lúc 8:00-9:00 giờ sáng sau điểm tâm, 12:00-1:00 giờ trưa ngay sau ngọ thực, và 6:00-7:00 giờ tối. Lúc thiền các học viên yoga ngồi ngoài hành lang trước cửa cốc mình, và Thầy Sivali sẽ đến ngồi chung với mọi người. Mỗi sáng khi kiểng báo thức lúc 3:00 giờ khuya, mọi học viên thức dậy, rửa mặt nếu muốn, rồi ra hành lang bắt đầu tập ngồi và đi tỉnh thức. 5:00 giờ, có chú tiểu xách vò cháo đến mỗi phòng rót cho mỗi học viên một chén đầy. Chén dĩa do trung tâm phát và mỗi người tự giữ để đem theo lên trai đường ăn ngọ. 10:00 giờ có nước dừa; xế và tối có trà. Chris cho biết thêm là cơm rất ngon. Giữa câu chuyện có chú tiểu đem đến cho tôi chén dĩa, Chris rút lui êm và tiếp tục đi tỉnh thức. Cũng sắp tới giờ trà giải lao rồi giờ thiền tập thể, tôi phải hoãn ngồi thiền.

Trong thời ngồi tập thể, tôi bắt đầu làm quen với cái mới--sự chú ý nơi bụng. Nhờ biết cách thở sâu của yoga với sự chuyển động cách mô của du già, tôi thấy động tác phồng xẹp của bụng không khó lắm. Tuy nhiên sự chú ý của tôi không liên tục vì tâm còn nghĩ đến những chuyện xảy ra hôm nay, chuyện mà tôi cố gạt bỏ bằng cách tự nói 'nghĩ', nghĩ'; các niệm dấy lên có vơi phần nào. Lúc kiểng báo chấm dứt, tôi tự ngồi lại cho đến giờ đi ngủ quy định là 11:00 giờ đêm. Ngủ từ 11:00 đến 3:00 giờ tức chỉ có bốn tiếng; tôi hơi lo và không biết có chịu nổi không. Tôi có đọc sách thiền minh sát và biết rằng thành tâm tu tập tỉnh thức sẽ làm mất ngủ. Nhưng được biết Đức Phật chỉ ngủ có hai tiếng mỗi đêm, tôi an tâm. Vả lại, Chris có cho biết thêm không ai kiểm soát mình ngoài mình nên học viên có thể tăng giảm giờ giấc tùy ý.

Giờ đây tôi đang nôn nóng muốn tập thiền hành. Tôi ra hành lang đứng qua một bên để không cản trở năm sáu học viên khác đang đi thiền. Tôi cẩn thận và chầm chậm vừa dở chân mặt lên cách mặt sàn chừng năm phân vừa nói 'lên, lên', rồi 'dở, dở', và 'đạp, dập'. Tôi lập lại với chân trái và đi chầm chậm tới[10]. Tôi hơi bỡ ngỡ lúc đầu và cố giữ thăng bằng trong lúc đi quá chậm như vậy. Cố gắng, tôi thấy lần lần dễ­ ra và tôi có thể chú tâm mình vô đó rồi như quên hết thời gian. Phải mất rất nhiều phút mới đi hết một vòng hành lang, và sau hai vòng đi chân bắt đầu mỏi. Tôi bèn vô phòng lên giường ngồi tiếp tục chú ý tới bụng phồng xẹp, nhưng 'tâm viên[11]' không định nữa và giấc ngủ ùa đến. Chỉ mới là ngày đầu nên tôi dễ­ viện lý do là đã chạy đôn chạy đáo ở Colombo suốt buổi sáng này. Tôi nằm duỗi ra định tiếp tục tập thở phồng xẹp, nhưng ngủ hồi nào không hay. Lúc ấy mới 9:00 giờ.

Tiếng kiểng lọt vô tai nghe văng vẳng làm tôi tỉnh giấc. Tiếp theo là ba tiếng chuông của chiếc đồng hồ treo ngoài hành lang. Tôi quan sát cái tâm say ngủ đang nắm bắt tiếng kiểng 3:00 giờ và đang phản ứng lại sự phải dậy sớm. Tôi nghĩ tôi có thể nằm lại và tỉnh thức theo dõi sự 'phồng xẹp' nhưng rất tiếc, tôi đã ngủ lại. Tôi giựt mình nghe chuông đồng hồ đổ bốn tiếng và bật ngồi dậy với chút ân hận đã ngủ quá giờ. Sau khi tắm rửa, tôi tập vài thế yoga thư giãn với hô hấp sâu để thật tỉnh giấc rồi xếp gối làm bồ đoàn ngồi bắt đầu buổi tập căn bản sáng. 5:00 giờ: tôi nghe tiếng chú tiểu phát cháo. Tâm tôi theo chú từ phòng này tới phòng khác và bị chế ngự bởi dục trông chờ và tưởng tượng. Sau vài phút tôi mới biết mình đã xa rời tỉnh thức và lạc trong dòng suy tư. Tôi vội nói ' lạc rồi, lạc rồi' và trở về 'phồng, phồng', 'xẹp, xẹp'. Tôi để chén đựng cháo gần cửa như Chris dặn để khỏi phải đứng dậy trong lúc thiền. Khi chú tiểu mở cửa lưới múccháo vô chén tôi nói 'nghe, nghe'. Mắt tôi nhắm nhưng tôi hình dung rất rõ và tôi nói 'nghĩ, nghĩ'.

Canda là tiếng Sinhalese chỉ một loại nước uống xanh đặc, làm bằng gạo, nước dừa, rau mùi, và đuờng được dùng trong các thiền viện trước bữa ăn sáng. Hôm nay tôi nhấm canda lần đầu tiên và cảm thấy mình bị 'cám dỗ' ngay vì khá ngon miệng. Sau khi cạn ly tôi rất thỏa dạ và có cảm tưởng như đã dùng sáng xong. Tôi nảy ra ý không ăn sáng nữa mà chỉ ăn ngọ thời. Tuy nhiên khi nghe kiểng đổ tôi xách chén dĩa ra đi.

Tất cả các học viên du già cư sĩ xếp hàng một sau hai tăng sĩ Tây phương cũng dự khóa này. Mắt nhìn xuống tới gót chân của người đứng trước, chúng tôi bước chầm chậm và tỉnh thức trên thềm xi măng vô trai đường. Các tăng Tích Lan trú ở khu vực khác trong thiền viện đã vào bàn ngồi dọc theo tường, với Thầy Sivali ngồi đầu bàn. Hai tăng Tây phương vô ngồi đầu dưới của hàng tăng sĩ. Cư sĩ chúng tôi ngồi vào hàng ghế đối diện. Thức ăn đã bày sẵn trên bàn. Trong lúc chờ đợi, mọi người ngồi yên lặng, ngó xuống hay nhắm mắt. Ăn cũng là hành thiền nhưng tôi chưa được chỉ dẫn chi tiết ngoại trừ phải ăn chậm. Tôi ngồi chú ý tới động tác phồng xẹp của bụng trong lúc cố gắng cưỡng lại thị dục muốn biết hôm nay ăn món gì.

Trai thời của Kanduboda do một số thí chủ cung cấp và chiêu đãi. Họ đi quanh bàn múc thức ăn vô dĩa của học viên hay bình bát của tăng sĩ; mọi người hoan hỷ chấp nhận, không chọn lựa mà cũng không ưu tư. Khi thấy vừa đủ cho mình, chỉ cần đưa tay lên dĩa hay bát là thí chủ sẽ ngưng và quay sang tiếp người kế bên. Vì chưa biết thủ tục, tôi để dĩa mình đầy nhóc thức ăn mà tôi chắc không thể nào ăn hết. Vả lại, tôi không thấy đói lắm vì ly canda lớn một giờ trước đó. Nhưng không thể bỏ mứa và muốn thử vì hiếu kỳ, tôi ăn mọi thứ. Tiếp theo, chuối, đu đủ, thơm, và xoài xắt miếng được bưng ra. Mắt tôi hoa lên vì tôi đã no tới cổ rồi. Vậy mà tôi không thể không ăn nên ăn thêm trái chuối và miếng đu đủ. Tiếp theo, mỗi người được trao cho một tô nước để rửa tay mặt mình bị dính thức ăn; nước dơ được đổ bỏ trong thùng/ống nhổ do thí chủ mang tới. Sau khi mọi người đều xong, Thầy Sivali đi đầu dẫn các vị tăng ra trước rồi tới các học viên chúng tôi.

Trong giờ thiền tập thể lúc 8:00 giờ tôi nghe bao tử làm việc, kêu ọt ọt, và cảm thấy buồn ngủ chắc tại tôi ăn no quá. Tôi xem những vấn đề này như những kinh nghiệm giúp tìm hiểu phân lượng đúng cho bữa ăn, giấc ngủ và thời thiền. Sau thời thiền tập thể chúng tôi được tự do cho tới 11:00 giờ, lúc tất cả sẽ tập họp cho bữa ăn trưa. Chúng tôi có thể đi tắm, hay giặt đồ, hay tiếp tục ngồi và đi thiền. Thầy Sivali chỉ mới cho tôi biết đại khái nên tôi mong được hiểu rõ chi tiết; do đó tôi dùng khoảng thời gian này để đóng cửa phòng lén đọc tiếp quyển Thiền Minh Sát Thực Hành..

Sách dạy nhiều phương pháp cụ thể kèm theo một ít lý thuyết. Quan sát bụng phồng xẹp là cách đưa tỉnh thức và vô thường vào một nhịp điệu chung: chu kỳ hít thở tượng trưng cho vòng sanh diệt của các hoạt động thân tâm. Áp dụng tỉnh thức vào hoạt động căn bản của đời sống, ta tự dưng nhìn thấy được nhiều hiện tượng khác rõ ràng. Sự chú tâm giữ tâm thức linh hoạt trong tình huống hiện tại và giúp phá trừ chấp trước một cách khách quan. Sự chú ý 'đơn thuần' ấy rất hữu hiệu trong việc thiết lập khoảng không gian tâm linh khả dĩ làm tiêu tan nhiều phản ứng tự phát thông thường của thân và tâm, và như thế, làm vơi nhiều khổ đau tương ứng. Đó là một phép tự chữa bịnh bằng tâm lý vậy.

Nói về 'ghi nhận', sách đề cập đến hầu hết các sinh hoạt của thân xảy ra hằng ngày. Lúc quay cổ, nói 'quay, quay'; nháy mắt, nói 'nháy, nháy'; bưng lên, để xuống, dang tay, co chân, nói 'lên, lên', 'xuống, xuống', dang, dang', 'co, co', vân vân. Mỗi động tác cần được thực hành trong tỉnh giác, và như vậy bị kéo chậm lại rất nhiều. Khi động tác làm vừa đủ chậm và tỉnh thức, buớc đầu và bước cuối của động tác, cũng như thời gian hành động, được phân biệt minh bạch. Và mỗi động tác có chủ đích luôn luôn được tâm thức điều động. Ai cũng biết cái thân tứ đại không thể hành động nếu không được tâm chỉ huy. Lúc ăn, ta cũng có thể tập tỉnh giác. Lúc nhìn thức ăn, nói 'nhìn, nhìn'; vo thức ăn trong tay, nói 'vo, vo'; đưa thức ăn lên miệng, há miệng, bỏ thức ăn vô miệng, nhai, thưởng thức, và nuốt, ta ghi nhận các hành động riêng rẽ ấy theo như cách tỉnh thức nói trên. Cùng lúc, nếu có sự thích hay không thích, ham muốn hay mong cầu điều gì khác, đừng quên ghi nhận.

Sách còn liệt kê nhiều tâm trạng có thể thấy dấy lên trong lúc hành thiền; cũng phải quan sát và ghi nhận tất cả. Sau đây là một số thông thường: tưởng tượng, băn khoăn, lo âu, ham muốn, ghét, giận, chán, mệt, nản, hiếu kỳ, so sánh, phê phán, hãnh diện, tự cao, thèm, ghen, sợ, nghi hoặc, ngã lòng, hỗn loạn, bực mình, bằng lòng, hoan hỷ, an tịnh, trắc ẩn, thương, vân vân. Nếu chúng phát sanh, phải quan tâm xác định chúng bằng phương pháp ghi nhận khách quan cho đến lúc chúng ra đi. Làm vậy là để trưởng dưỡng sự quán chiếu vào thực thể của sự phối hợp giữa thân với tâm và vào các yếu tố bao hàm hầu hiểu rõ tính vô thường, duyên khởi và vô ngã. Trong lúc tôi say mê đọc sách, chú tiểu đến đem cho nước dừa của giờ giải lao sáng. Tôi lật đật dấu sách và giả bộ đang thiền. Khi chú đi khỏi, tôi định tỉnh ghi nhận ý muốn uống chất nước ngon ngọt đó và làm các động tác vói bưng ly, đưa lên miệng, đổ vô, thưởng thức vị ngon ngọt, nuốt, để ly xuống--và lập lại tiến trình này cho đến khi ly cạn.

Biết thêm một số chi tiết, tôi hăm hở vào cử thiền trước thời quá đường. Tôi đứng lên, duỗi chân cho máu lưu thông rồi ngồi xuống trong thế hoa sen và bắt đầu thở sâu theo lối du già. Lúc trở lại hô hấp bình thuờng, tôi bắt đầu chú ý đặc biệt đến lúc khởi, khoảng thời gian ngắn và lúc kết của cử động phồng xẹp của bụng. Tôi nhận biết tỉnh thức giúp giữ tâm linh hoạt, và tôi cũng ghi nhận được rõ ràng cảm xúc của nhiều phần thân thể khác; chúng đến rồi đi cũng như các tiếng động bên ngoài. Khi tôi phóng tâm, tôi cũng ghi nhận được ngay nên không bị lạc. Lúc tôi thấy gối, mông và mắt cá mỏi bởi thế ngồi kiết già, tôi không thèm quan tâm mà chỉ ghi nhận 'đau, đau', như sách đã dạy.

Tôi hầu như thành công hầu trọn vẹn trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên sau khoảng nửa giờ ngồi kiết già, tôi phải kéo một chân xuống, ngồi lại thế bán già. Tôi theo sách và cố làm chầm chậm trong lúc ghi nhận mỗi động tác riêng biệt. Vì chưa quen với cách chuyển thế và vì còn lật đật, tôi ghi nhận thiếu nhiều chi tiết. Ngoài ra, tôi đang nghĩ tới cơm trưa nên khi kiểng đổ tôi không kịp nói 'nghe, nghe'. Nhưng trễ còn hơn không, tôi liền nói 'nghĩ, nghĩ', 'mong, mong' và 'nghe, nghe'. Tôi biết tôi còn phải học nhiều, nhưng tôi thích thú và tin tưởng nơi khả năng của phương pháp ấy và của sự tu học nói chung.

Tất cả xếp hàng và tiến chầm chậm vô trai đường như hồi sáng. Lúc đi ngang bàn giữa, tôi không thể không ngó qua các nồi, chảo, tô, dĩa để đầy trên đó. Có tới hai ba thứ cơm, đủ thứ rau và cá, cộng với cả đống chuối và trái cây xắt miếng, cùng nhiều thau đậu hũvà nhiều dĩa bánh ngọt. Tôi thấy mình đang toan tính, nhưng cố làm ngơ. Tôi chưa thấy đói bởi bữa điểm tâm quá nặng. Tôi cũng không muốn làm lại lỗi lầm hồi sáng. Tuy nhiên, vì đang tập hành động chậm trong chánh niệm, tôi không kịp đưa tay ngăn đám đông thí chủ đứng múc thức ăn vô dĩa tôi đầy vun. Tôi cố không để ý tới những gì nối tiếp xảy ra; nhưng tôi lại nhận thấy sự cần liếc trộm. Tôi đặc biệt chú ý đến cách tập ăn theo lối thiền tả trong sách và thấy kết quả tốt. Tôi ăn thật chậm, và như thế phải ăn ít lại. Dầu đã biết rồi, tôi vẫn còn tham chọn ăn món tôi thích hay lạ nhứt và vẫn cân nhắc chừa bụng để ăn trái cây, tàu hũ và bánh ngọt, trong lúc miễ­n cưỡng ghi nhận 'muốn, muốn'. Cơm tôi ăn không hết được trút vô thùng lớn mà các thí chủ xách đi quanh bàn; cơm thừa sẽ đem cho súc vật ăn.

Trong vòng mười lăm phút trở về phòng tôi lật đật đánh răng để còn ra hành lang ngồi dọc theo vách thiền tập thể. Tôi biết tôi đã ăn nhiều nên cảm thấy nặng nề và không còn nhanh nhẹn; tôi sẽ phải chống lại sự buòn ngủ như đám mây đen đang xâm chiếm tâm tôi. Chỉ ít phút sau đầu tôi theo trọng lực gục xuống; trước khi tôi giựt mình, cằm tôi đã chấm ngực và tôi đã ngủ gục rồi--buồn cho hình ảnh của một thiền giả du già. Tôi phải mất vài phút để nhận diện sự hôn trầm và tập trung ý chí gượng dậy để rồi lại gục xuống liền theo đó. Tôi cứ gượng lên gục xuống trong suốt thời gian ngồi thiền và buổi tọa thiền ấy chẳng đem lại cho tôi lợi lạc nào cả. Đấy mới biết tại sao hôn trầm được liệt kê là một trở ngại lớn của thiền quán.

Tò mò nhìn quanh xem các bạn thế nào, tôi hơi yên tâm khi thấy hầu hết gục gặc như con do do--cả Thầy Sivali ngồi đằng đầu hành lang. Tôi không hiểu tại sao phải thiền ngay sau bữa ăn và chợt mừng khi nghe đồng hồ gõ một tiếng báo giờ thiền đã vãn. Tôi chú ý làm từng động tác một, lúc đứng lên và bước đi, động tác giúp tôi xả bỏ sự mệt mỏi thể xác lẫn tinh thần.

Chiều giữa 3:00 và 5:00 giờ, như thường lệ, Thầy Sivali lên ghế trong hành lang chính để bắt đầu buổi tham vấn hằng ngày. Đợi các bạn xong rồi tôi mới lên. Tôi l­ễ Thầy bằng các lạy thông thường trước khi ngồi vào bồ đoàn trước mặt Thầy. Thầy hỏi tôi chớ đã học được kinh nghiệm gì chưa. Tôi thưa rằng tôi đang trong vòng thích nghi, tâm còn lăng xăng quá, và buồn ngủ sau bữa ăn. Thầy cười và giải thích tại sao tâm viên cũng như tâm uể oải là hai trong năm trở ngại thông thường của người mới học. Thầy cho biết sự tập trung vào hơi thở sẽ giúp làm lặng tâm lăng xăng, còn muốn chống lại sự buồn ngủ sau bữa ăn thì phải gắng ngồi lâu. Sự cố gắng và quyết tâm giúp vượt qua những khó khăn này để đến trạng thái nhẹ nhàng và sáng sủa hơn. Thầy nói ăn quá no là nguyên nhân chánh của hôn trầm và Thầy để tôi tự giải quyết chuyện ấy.

Thầy giảng chi tiết của cách làm chậm lại và cách ghi nhận tất cả những gì xảy ra cho thân và tâm, hiểu theo lý vô thường và duyên khởi như tôi đã đọc qua. Thầy lặp lại rằng tôi phải trưởng dưỡng tâm tỉnh thức từ lúc mở mắt tới lúc đi ngủ, trong hành động đi, đứng, nằm, và ngồi. Đi cầu, rửa tay, đánh răng, và cả tắm giếng, Thầy nói, cũng là những dịp tốt để hướng về nội tâm. Thầy khuyên tôi nên tự nhiên trong lúc thực hành, bắt đầu chầm chậm rồi để việc gì tới sẽ từ từ tới, không nên quan tâm đến kết quả. Bấy giờ có một số hiểu biết lý thuyết rồi, tôi chỉ cần thời gian thực tập và cố chuyên cần. Không còn gì để hỏi, tôi bái tạ Thầy và đi xuống trong tỉnh thức.

GIA TĂNG NỘI QUÁN

Trong tuần lễ kế tiếp tôi đã quen với thông lệ và thấy sự tập trung/tỉnh thức của mình tăng dần. Tôi bắt đầu hiểu sâu thế nào là vô thường. Khi lưu ý tới sự phồng xẹp của bụng, tôi nhận biết mỗi phồng xẹp bao gồm nhiều động tác riêng biệt, như động tác bắt đầu, động tác ngưng và thời gian giữa hai động tác đó. Quán xét như vậy, tôi chia cái tổng thể xem chừng như bất khả phân thành nhiều phần nhỏ riêng biệt. Sự tỉnh thức cao giúp tôi nhận biết nhiều cảm giác khác nữa khi chúng đến và đi; có khi chúng đến và đi rất bất ngờ. Vào thời điểm bận rộn, tôi không kịp ghi nhận hết bởi chúng vụt qua quá nhanh. Tôi bực bội đôi khi. Rồi tôi chú ý làm chậm lại bằng cách trở về với 'phồng xẹp' của bụng và để cho các tác nhân kích thích tiếp tục dồn đống theo đà của chúng.

Với tất cả chuyện xảy ra đó, tôi nhận biết thế nào là bản tánh của tâm khởi, cái tâm nhận vô, xác định và phản ứng với một số tác nhân kích thích quen thuộc và lờ bỏ cho số tác nhân kích thích còn lại trôi qua. Khi tâm chọn một cảm quan nào đó, tác nhân kích thích đó trở thành trọng tâm chú ý và đảm nhiệm vai trò chủ đề. Quán chiếu như vậy và sâu thêm, tôi biết ra rằng tất cả trong thế giới vật lý chung quy chỉ là cảm giác hay vi ba năng lượng--màu sắc, âm thanh, mùi vị, và xúc giác--mà tâm khởi tưởng tượng dựng lên để nhận thế giới đó là thật. Theo cùng một tiến trình tâm linh như vậy, các niệm thích/không thích, khoái lạc/đau khổ, tốt/xấu đều có bản chất tương tợ. Do nơi được giáo dục từ tấm bé, chúng ta có thói quen dính mắc và phản ứng với một số cá thể đặc biệt, tức nhóm người và vật mà tâm ta quen mặt. Cuộc sống của chúng ta thiệt sự chỉ xoay quanh những cảm thọ tâm linh được xác định trước đó; tâm thức của chúng ta tìm cách nhận và giữ những gì ưa thích hay tốt lành và gạt bỏ những gì không hạp, khó ưa, hay xấu xa. Lúc quán chiếu tổng thể tiến trình ấy, tôi nhận biết rằng quan niệm chẳng qua là do ảo giác tạo tác chớ vật thể tự nó không có thật. Từ đó, tôi hiểu lời nói của Du Già và Phật Giáo rằng: "Thế giới là ảo ảnh do tâm tạo." Tôi cũng hiểu thêm thế nào là Không.

Những quán xét nội tâm ấy còn giải lộ đặc tánh vô ngã (anatta) của tiến trình. Tôi không quyết định được chuyện gì xảy ra cả; cảm giác cũng như hoạt động tâm linh tự đến rồi tự đi, để lại dấu vết tương ứng--không được tôi đồng ý mà còn nghịch ý tôi nữa. Tôi chỉ muốn theo dõi hơi thở mình một cách tĩnh lặng, nhưng tôi kinh ngạc thấy máy chiếu phim trong tâm tôi cứ chiếu hết tuồng này tới tuồng khác. Vài tấn tuồng xảy ra hằng ngày giúp chứng nghiệm sinh hoạt tâm linh và chứng thực tánh vô ngã. Một trong những tuồng đó không hay lắm nhưng cứ lập đi lập lại hoài là tuồng chú tiểu đem canda tới hồi sáng. Chỉ bằng vào tiếng động, tâm biết lúc nào chú đến, mở cửa, rót canda, rồi ra đi. Lắm lúc câu chuyện như là một chuỗi ý tưởng, lúc khác như cuốn phim màu sặc sỡ. Thường nó gây sự chờ đợi, mong muốn, nôn nóng, và phân vân. Tôi tự hỏi nên để canda đó, lờ sự thèm khát, hay ngắt thiền để uống trước khi nó trở lạnh.

Đồng hồ gõ cũng tạo nên hoạt động lập trình. Tôi hầu như luôn nghĩ tới lúc đó là mấy giờ và cùng đếm tiếng chuông hay thử tiên đoán. Nếu là 3:00 giờ sáng, tôi tự thuyết phục mình nằm chợp mắt thêm, hoặc vừa nằm vừa tập theo dõi hơi thở, và định bụng sẽ dậy đúng lúc 3:30. Nhưng tôi thường ngủ quên tới 4:00 giờ để rồi tự giận mình và tự nguyện sẽ không làm như vậy nữa. Lúc chuông đổ 5:00 giờ, tôi nghĩ tới canda và 5:30 lại nghĩ có nên đi ăn sáng không hay chỉ ăn cháo là đủ rồi. Nhiều lần tôi bỏ ăn sáng để tiếp tục ngồi thiền, nhưng tôi lại lý luận rằng mình đang ốm tong nên cần ăn để thêm ký lô--má tôi chắc thích tôi làm như vậy. Có lúc tôi muốn nhịn ăn ngọ hay nhịn ăn nguyên ngày để làm một chàng du già lý tưởng dưới mắt của các bạn đồng khóa. Nhưng vô ích, tôi luôn luôn đi ăn quá đường. Và, thay vì tập bỏ dính mắc, tôi vẫn tiếp tục chọn thứ rau đậu tôi thích nhứt (sống, luộc sơ sơ, và ít cay), tránh thịt và chừa bụng cho trái cây và đậu hũ tráng miệng. Tôi bào chữa mình bằng cách tự nói rằng tôi phải chọn thức ăn vì tôi ăn theo cách du già và muốn giảm sự hôn trầm trong lúc thiền sau bữa ăn. Tôi còn muốn, dầu chỉ là chút muốn khiêm nhường, làm mình hơn thiên hạ, kể cả Thầy, khi cố ngồi ngay ngắn với tâm tỉnh thức--kết quả rất như ý!

Một dịp tốt khác để quan sát phản ứng duyên khởi là lúc tôi bị ruồi muỗi vo ve bên tai hay đáp xuống quấy rầy; chúng ở quanh đây rất nhiều. Chỉ mới nghe tiếng chúng tới là còi báo động trong tôi ré lên rồi; và tấn tuồng được di­ễn ra như sau: "Con gì đó, mong rằng nó không đáp xuống tôi." Nếu là ruồi tôi sợ lây vi trùng. Nếu là muỗi, tôi sợ bị chích đau và bị lây sốt rét. Nếu nó đáp xuống, tôi tự hỏi nên đuổi hay cắn răng chịu cho nó cắn đến lúc nào nó chán thì thôi. Tôi thọ giới thứ nhứt nên cố tránh đập chúng chết, nhưng không phải lúc nào tôi cũng kiểm soát được mình. Nhứt là khi ruồi sà xuống môi hay khóe mắt tôi, hoặc nhiều muỗi đua nhau hút máu tôi cùng một lúc, tôi có thể đuổi nhẹ chúng đi. Tất cả những niệm ấy dấy lên chỉ vì thính giác hay xúc giác của tôi bị xúc tác!

Tôi cố quan sát các chuyện ấy với tâm càng ít chấp trước càng tốt và dùng phép ghi biết khi thuận tiện; kết quả rất khả quan. Đôi lúc tôi không khỏi cười thầm cái vô lý, sợ hãi và phản ứng của mình. Lúc khác tôi chán ghét sự ti tiện và đần độn của tôi trong nhiều dằn co nội tâm. Tỉnh thức thâm sâu ấy làm phơi bày nhiều khía cạnh của tâm lý mà tôi chưa hề ý thức và nghĩ cần phải giải quyết. Lâu nay tôi chỉ xem chúng là tự nhiên và không có suy tư nào cả. Nhưng bây giờ tôi bắt đầu biết rằng các tập quán đó do yếu tố tâm linh thiếu lành mạnh tạo nên và nuôi dưỡng để rồi con người bị giầy vò bởi những bâng khuâng, lo lắng, sợ hãi, vân vân.

Với tôi, kẻ quậy phá nhứt là "cái-tôi-thân-yêu" rất ương ngạnh luôn luôn hiện diện với nhiều ma thuật tinh vi. Nhận diện được nó, tôi lần hồi hiểu rõ hơn thế nào là Khổ Đế và Tập Đế. Mọi chứng nghiệm của chúng ta trong thế giới vật chất và tinh thần đều liên tục đổi thay và vượt ngoài vòng kiểm soát của chúng ta; nắm bắt chúng với ham muốn ích kỷ và thiếu hiểu biết, chúng ta chỉ chuốt lấy phiền não. Khi nắm bắt được, cái được đã thay đổi rồi hay có khi không còn nữa. Và, cái tâm không kiên định đã hết ham thích cái bắt được rồi và muốn có cái gì khác để thay thế. Túi tham không bao giờ có đáy! Tập quán ung đúc bởi tham, sân, si tác tạo biết bao hành động hạ tiện và ác độc khiến đau khổ chồng chất. Đó là Khổ (Dukkha) mà Đức Phật đã nói tới trong Tứ Diệu Đế. Khám phá và quán xét Khổ là việc làm sáng suốt cũng như hấp dẫn, nhưng nhận Khổ thuộc nội tâm thật rất khó và đáng sợ.

Bây giờ tôi thấy được một cách sâu thẳm hơn những gì tôi phải đương đầu với. Tôi không biết tri kiến của con nguời có giới hạn nào không. Tôi cũng nhận biết giữa hai phương pháp minh sát thông thường có sự khác biệt. So với những gì tôi đang theo học tại đây, thiền quét của Thầy Goenka được xem như là một chương mở đầu vào đại trí tuệ của nhà Phật. Trong lúc thiền quét đặt trọng tâm nơi vô thường, điều tôi đang thực tập (với sáu căn tỉnh thức trong bốn thế đi, đứng, nằm, và ngồi) đi thẳng vào và phát hiện tất cả ba đặc tánh vô thường, duyên khởi và vô ngã, nhứt là hai tánh sau. Đức tin và niềm tin của tôi vào Phật pháp ngày càng lớn mạnh. Hứng khởi, tôi quyết lập lại các chú nguyện Tây Tạng mà tôi xao lãng từ lúc rời Goa, với cảm và ứng mới.

Nơi cuối hành lang là một điện thờ nhỏ, trong ấy có tượng Đức Thích Ca, nhang, đèn dầu, đèn cầy, và diêm quẹt để ai muốn tới lễ­ tùy ý. Lúc đi thiền ngang qua, tôi thoang thoáng thấy có người phương Tây đang thiền hay làm lễ­ puja gì đó. Với tín tâm mới phục hồi, tôi về điện mỗi đêm: tôi khêu sáng đèn lu, thay mới nhang tàn, và đảnh l­ễ Phật. Khi mồi đèn, tôi cầu nguyện 'Mọi chúng sanh nhóm lên đốm lửa trí tuệ trong tâm mình để xua bóng tối vô minh, như tôi đang thắp ngọn đèn này.' Lúc đốt nhang, tôi nguyện 'Như khói hương đẩy lùi ô uế trong phòng này, mọi chúng sanh và tôi xa lìa tam độc và trưởng dưỡng đức hạnh của Thế Tôn.' Rồi tôi lạy Phật; số lạy thay đổi tùy theo tâm tư tôi lúc bấy giờ, hay số niệm tiêu cực của tôi trong ngày, hay thấy ngã chấp mình còn quá nặng. Tôi lễ­ bái với tâm nguyện xả bỏ bản ngã và chấp trước, mong tới gần bờ giác, và cũng xin hồi hướng công đức mình. Tôi chấp tay quỳ nguyện quy y Tam Bảo và hành Ngũ Giới. Kế, tôi ngồi kiết già và xướng toàn bộ lời nguyện Tây Tạng mà tôi còn nhớ trong lúc chiêm nghiệm sự tái sanh. Không khí làm tôi hồi tưởng Kopan-- sự hồi tưởng sống động và đầy cảm xúc đến đỗi tôi phải bật khóc đôi khi. Tôi kết thúc lễ­ bằng sự rải tâm Từ đến ba má tôi, các vị sư Goenkaji, Swami Gitananda và Lạt Ma Zopa, và tôi hồi hướng công đức tới mọi chúng sanh. Trước khi rời điện Phật, tôi cúi đầu xá rồi ra đi thiền chầm chậm.

Mỗi đêm, sau lối một giờ phát tâm tỉnh giác trong điện Phật, tôi cảm thấy mình ngập tràn suối nguồn sinh lực an bình và cảm thọ linh hoạt. Tôi có thể tiếp tục kinh hành và tọa thiền d­ễ dàng trong sự tỉnh thức cao độ. Tôi về lại cốc khoảng giữa 10:00 và 11:00 giờ đêm. Tôi nằm nghiêng bên mặt theo 'thế nghỉ sư tử' của Phật, chú tâm tỉnh giác cho tới lúc chợp mắt. Kiểng đổ 3:00 giờ sáng, tôi 'nghe, nghe', 'mở, mở' mắt và thức dậy ngay. Bằng những động tác riêng biệt rõ ràng, tôi ngồi dậy, vương vai, rồi đứng lên. Làm vậy, tôi xua đưổi sự buồn ngủ đang níu kéo tôi và tôi có thể giữ tâm tỉnh thức trong suốt buổi sáng.

Tôi sử dụng các thời tọa thiền để tập gia tăng thời lượng ngồi kiết già. Mục tiêu của tôi là phải ngồi cho được tư thế hoa sen trong suốt một tiếng đồng hồ sau ba tuần l­ễ tới. Mỗi thời tôi rán chịu tê ngồi thêm một hai phút. Điểm đau nhứt là chỗ hai xương ống chân tréo đè lên nhau; tôi bị nhức rang sau khi ngồi chừng ba mươi phút. Một điểm đau nữa là chỗ mặt chân trái đè lên vế mặt. Bị đau là một dịp để tôi tìm cách đối trị. Tôi thấy nếu tách rời được cái niệm đau khỏi tâm, tôi có thể vượt mọi đau đớn, kể cả sự tấn công của đám muỗi. Tôi liền 'thắt dây an toàn', cắn răng, và ráng chịu đau thêm một chút. Sau hai tuần tôi đạt được mục tiêu đề ra là ngồi liền một tiếng. Ít ngày sau đó tôi ngồi thoải mái trong suốt ba suất thiền tập thể, và tôi dùng các suất này để 'quyết tâm' kéo dài thời gian ngồi kiết già. Một chứng cớ cho thấy những gì trong tầm tay, tôi đều có thể nắm bắt nếu tôi trì chí. Hãnh diện, tôi nói với tâm vỗ nhẹ lên vai tự khen mình.

Tiếp tục đọc quyển Thiền Minh Sát Thực Hành, tôi bị thu hút bởi tiến trình từng bước làm thế nào để tới bờ giác ngộ[12]. Tiến trình mô tả gồm chín bước nội quán nối tiếp tuần tự, và bước thứ chín dẫn đến Niết Bàn. Chín bước ấy tương ứng với chín thiền tuệ[13] thấy và biết rõ (1) danh pháp và sắc pháp sinh diệt liên tục, (2) chúng tan hoại dễ dàng, (3) sự tan hoại của chúng thật đáng kinh sợ (Bố Úy Trí-Bhayanàna)), (4) chúng đầy tội chứng và là mối hiểm nguy (Quán Hoạn Trí-Ádinavanàna), (5) chúng đáng nhàm chán (Yếm Ly Trí-Nibbidànàna), (6) muốn giải thoát khỏi chúng (Dục Thoát Trí-Muncitukamyatànàna), cần minh sát trở lại, (8) có tâm xả hoàn toàn với chúng (Hành Xả Trí-Sankhàrupekkhànàna), (9) sự chứng ngộ Niết Bàn. (xem ghi chú IV). Trên lý thuyết, đường đi có vẻ trực tiếp và rõ ràng như một công thức hay một lộ trình tới bờ giác được vẽ sẵn trên họa đồ. Đã rành rành như vậy, thế mà tôi chưa thấy biết trong số sách Phật tôi đã đọc. Tôi bèn đọc đi đọc lại và nôn nóng muốn tập thiền quán ngay theo pháp chỉ dẫn. Dẫu chưa biết nhưng đã sẵn có chút kinh nghiệm trong một số bước, tôi nghĩ chắc không mấy khó thực hiện.

Trong suất ngồi thiền theo sau đó, tôi vừa chú tâm vào động tác phồng xẹp của bụng vừa từ từ nới rộng tâm tỉnh thức sang các cảm giác khác, đặc biệt để ý đến cái lúc mà cảm quan tác động. Tôi tò mò tìm xem có thể thật sự phát hiện khoảnh khắc mà một cảm thức xuất lộ như một hiện tượng riêng biệt rồi biến mất hoàn toàn, nhường cho cảm thức khác đến (như sách đã nói). Mỗi cảm thức có một khoảnh khắc riêng của mình, nhưng chuỗi cảm thức đến với tôi như một đoạn phim trong ấy các hình riêng biệt được chiếu liên tục. Sách có nói diễ­n tiến xảy ra cực kỳ nhanh, nhưng với tỉnh giác cao ta có thể nhận ra từng cảm thức đó lúc đến cũng như lúc đi. Bấy giờ tôi chưa nhận thức được như vậy một cách rõ ràng, nhưng tôi có cảm tưởng mình kinh nghiệm được một dòng với nhiều cảm thọ nối đuôi nhau hiện biến. Lúc không còn kiểm soát được nữa, tôi đổi qua bước thứ nhì và chú ý quán xét sự tan hoại của các pháp thế gian. Những tan biến tức khắc nối đuôi nhau từng loạt như những tràng đạn lửa mất hút trong đêm tối mà tôi nhớ đã thấy lúc tập bắn súng liên thanh M-60 hồi mới nhập ngũ. Cũng vậy, tôi đang chứng nghiệm một dòng cảm nhận nối đuôi tan biến trong tâm tôi. Tôi không thể phân biệt được đó là cảm thọ gì, xúc giác hay thính giác; chúng bay vù qua và mất hút nhanh đến đỗi tôi không đủ thì giờ phân biệt. Nhiều tư tưởng ngẫu nhiên (không mời mà tới) cũng có đến nhưng cũng biến nhanh.

Tuy chứng kiến thụ động nhưng tôi có cơ hội hiểu rằng các pháp ấy vô thường, bất toại nguyện và vô ngã. Rồi tôi chiêm nghiệm thấy trọn tiến trình (sinh diệt) không gì hơn là đau khổ, một mối nguy tiềm tàng đáng sợ (nếu ta bị dính mắc hay bám víu vào) như sách đã dẫn. Biết vậy rồi tôi sang bước nhàm chán. Tôi có thể nhận thấy tâm không còn ưa hay ghét sắc pháp hay danh pháp nào cả và cảm thấy chút thanh thản, nhẹ nhàng và hoan lạc vi tế. Một lần nữa, như sách đã đề cập, tôi chiêm nghiệm Niết Bàn như trạng thái an bình thật sự và hạnh phúc toàn vẹn trong ấy tâm không còn ao ước hay vương vấn bất kỳ sự việc gì trên thế gian này. Tôi cảm thấy vui hơn nữa. Ý tưởng Niết Bàn đối với tôi rất hấp dẫn, dầu chỉ mới nghĩ đến, nhứt là trong tâm trạng nhàm chán. Tới đây, tôi đi được năm bước trên chín bước thiền tuệ, tức khá xa và tôi rất thỏa mãn. Ngoài ra, tôi đã ngồi thiền hơn một giờ rồi. Chưa thật sự mệt mỏi nhưng tôi muốn xả thiền một đỗi. Chén trà xế chú tiểu đem đến đã nguội.

Xế chiều, lúc vào tham vấn với Thầy Sivali, tôi cảm thấy không thể không hỏi Thầy về thiền tuệ. Dầu tôi không nêu đích danh nhưng Thầy có vẻ biết tôi muốn nói gì. Sở dĩ tôi không đề cập thẳng vì sợ Thầy sẽ hỏi tôi học ở đâu mà biết, trong lúc tôi muốn dấu chuyện đọc sách lén. Thầy hỏi tôi đã trải qua kinh nghiệm nào rồi. Tôi thưa có thấy thân mình như một tập hợp vật thể thay đổi liên tục liên tục và tâm mình như một dòng mảnh vụn cảm thọ, nhận thức, ký ức, cảm xúc, tư duy quen thuộc của bản ngã, vân vân. Tôi cũng có nói tôi nghĩ rằng bản ngã là nguyên nhân và cũng là chủ nhân của tất cả các tham ái, ghét bỏ, bâng khuâng, sợ hãi, vân vân. Đại để, tôi nói những gì mà tôi nghĩ Thầy muốn nghe hay làm Thầy nghĩ tôi đang đi đúng đường , dầu các chứng nghiệm toi đạt được đều thật. Nghe xong, Thầy điềm tĩnh gật đầu và khuyên tôi tiếp tục thực tập như vậy nhưng đừng kỳ vọng kết quả bởi mong cầu là một chướng ngại.

Trong nhiều thời thiền tiếp theo, tôi có thể quán xét năm bước đầu một cách nhanh chóng và tiếp tục qua bước giải thoát. Theo sách, tôi minh sát mọi pháp của thế gian khởi sanh[14] như một khối đau khổ đang bừng cháy, đáng sợ như một đống than hồng, và tôi mong được xả bỏ tất cả. Chiêm nghiệm như vậy giúp tôi xa lánh và cách ly tâm thiền quán của mình khỏi các cảm thọ ùa đến hằng loạt từ bên trong lẫn bên ngoài[15]. Tôi mặc nhiên không còn muốn dính dáng với chúng nữa và tâm tôi quay lưng tránh xa chúng. Ý thức về 'cái tôi' mờ lần sau hậu trường, làm suy giảm mối liên hệ giữa vật và chủ đối với tiến trình của thân và tâm. Bản ngã trở nên rất mong manh trong khi sự tỉnh thức còn đó rất rõ ràng. Tâm không còn bị lôi kéo hay uốn nắn bởi chủ thể kích thích nào hết. Tôi nghĩ đó là trạng thái bình thản hay gần bình thản. Trạng thái ấy, rất tiếc, không kéo dài lâu vì tâm tôi chưa đủ mạnh lúc bấy giờ. Tôi cần thiền nhiều thời nữa mới có thể làm quen với trạng thái tâm linh tinh vi và tế nhị đó. Trong trạng thái bình thản, bản ngã bắt đầu thoái hóa dần. Lúc nầy, thế giới quen thuộc của chủ/vật bị đảo lộn và rã rời như kẹo bơ (taffy) hiểu theo nghĩa bóng. 'Cái tôi' bị khủng hoảng bởi đất dụng võ của nó sụp đổ và giềng mối buộc giữ nó với cái thế giới duy nhứt mà nó biết bị cắt đứt. Nó rất lo. Nó sợ cái xa lạ nên lùi về cái quen thuộc. Đó là những gì tôi chứng nghiệm và hiểu được. Chứng nghiệm của tôi đạt được tới mức mà tôi có thể bước vô giai đoạn của tâm xả hoàn toàn đối với các pháp thế gian (tức bước thứ tám, Hành Xả) trong vòng 10 tới 15 phút. Tôi cũng có thể giữ tuệ hành xả này dễ­ dàng trong suốt buổi thiền 1-tiếng đồng hồ hay lâu hơn.

Theo sách, bước tới là chứng ngộ Niết Bàn. Tôi đoán biết Niết Bàn sẽ đạt được khi mối dây buộc 'cái-tôi-thân-yêu' với thế giới an toàn bị cắt đứt, khi có bước nhảy vọt lượng tử qua cái không biết, tức cõi Siêu Tam Thế[16]. Trong cõi nầy bậc chứng ngộ đầu tiên là Thánh Nhập Lưu (Sotapanna) có nghĩa là bậc đã thoát tục, vừa nhập vô dòng Tứ Thánh[17], và không quay lui mà tiến tới theo dòng đến mục tiêu tối hậu là Niết Bàn trong thời gian ngắn.

Dẫu đã được Thầy Sivali khuyến cáo chớ nên kỳ vọng, tôi vẫn có chút mong cầu được chứng quả, trong lúc bản ngã tôi lại có chút e dè. Mỗi khi tiến gần đến mức nhảy vọt, hình như sự do dự hay sợ hãi tiềm tàng ra tay ngăn cái bước nhảy vọt ấy lại. Có lúc tôi nghĩ 'cái tôi' như được cân bằng ở điểm nhảy vọt ấy, nhưng tôi không thể để nó mất. Phải chăng tôi cố gắng quá hoặc có nhiều kỳ vọng quá. Dầu sao đi nữa, tôi vẫn nghĩ rằng đó là phương pháp phát triển tốt nhứt mà tôi cần trì hành để hóa giải mọi nghi ngờ, sợ sệt và chấp trước vi tế tiềm tàng đang lôi kéo 'cái tôi' lại. Và tôi chấp nhận tôi cần thời gian. Tôi chiêm nghiệm luân hồi trong ấy con người từ vô thỉ vô chung phải qua sáu đường và đã tích tụ biết bao tạp nhiễm. Mong rửa sạch trong thời gian ngắn (sáu tháng) quả là một ảo tưởng. Đối với tôi bây giờ không có chọn lựa nào mà cũng không có gì cấp thiết nên nếu có phải chờ cả đời tôi để hoàn thành lộ trình đó, tôi vẫn cứ chờ.

Chiêm nghiệm lại sự tái sanh làm người của mình, tôi nghĩ rằng mình là một cá nhân mà nghiệp đạo đã chín muồi--hình như tôi chỉ có đường vô chớ không còn lối ra. Trong suốt thời kỳ tu học năng nổ qua, tâm tôi không sao tránh khỏi bị một ít tư lự lấn chiếm. Thỉnh thoảng tôi có nghĩ tới vài người bạn và tới chuyện về thăm nhà hay đi du lịch thêm. Tuy nhiên, đó chỉ là những tưởng nhớ vụn vặt sót lại trong ký ức hay tập quán mà thôi; chúng tan biến nhanh trước khi tôi lưu ý tới.

Đi thiền (thiền hành) và hoạt động chẫm rãi giúp tôi đạt kinh nghiệm nội tâm dưới một hình thức khác. Cử động với dụng ý thật chậm đòi hỏi sự chú ý mẫn cán và dĩ nhiên sự tỉnh thức cao độ. Mỗi lần dở chân lên, đưa chân tới trước và đạp chân xuống hay mỗi lần quay đầu, duỗi tay, vân vân, tôi có thể phân biệt lúc bắt đầu, lúc kết thúc và khoảng thời gian giữa hai lúc một cách rõ ràng. Tôi có để ý và nhận thấy cử động xảy ra cùng lúc với tâm thứcvận hành. Ít ra là có một lần, tôi chứng nghiệm tâm thức vận hành 'như nhảy theo' cử động. Nó lóe lên rồi mất ngay trong khoảng trống không của tâm. Đó cho thấy tỉnh thức vận hành như chiếu phim hát bóng, khúc phim là một dây liên tục gồm nhiều ảnh (tâm sở) riêng biệt mà mỗi ảnh riêng không có vai trò quan trọng nào hết.

Minh sát thâm sâu như vậy cho thấy bản chất rắn đặc của vật thể trong thế giới vật lý chỉ là ảo ảnh; thật sự chúng chỉ là cái rỗng không. Tôi thích thú nhớ lại và so sánh sự vận hành của thân/tâm với hoạt động của máy vi tính mà tôi có chút kinh nghiệm. Thân (phần cứng) chỉ có thể hoạt động nếu có hệ thống thần kinh chuyển vi ba (dữ liệu) từ giác quan (thiết bị nhập liệu) đến não (bộ nhớ); tại đây, dữ liệu được lập trình và xử lý (phần mềm); rồi thân được chỉ thị đi, ngồi, ăn, nói, vân vân (thiết bị xuất).

Sau chừng mươi ngày, sự cử động chậm vào sâu trong tiềm thức tôi; nó trở thành tự nhiên, liên tục và không cần cố gắng. Ngày ngày, bắt đầu từ lúc mở mắt đến lúc nhắm mắt, tôi luôn luôn tỉnh giác trong mỗi hành động và không cần vận dụng trí năng nữa. Một trong những sinh hoạt ưa thích hằng ngày của tôi là tắm giếng mà mỗi cử động sau đây đều được thực hành một cách khoan thai, chẫm rãi: nhìn thấy gàu, vói lấy, thả xuống giếng sâu, kéo nước lên, giơ cao khỏi đầu, xối, nghe ướt mát lạnh--lập lại tiến trình này nhiều lần cho đến khi toàn thân sũng ướt. Kế tiếp, theo cách tỉnh giác vừa nói, tôi thoa xà bông khắp châu thân, dội thêm nhiều gàu nước nữa cho trôi hết bọt, lấy khăn, lau khô, vận chiếc xà rong mới và giặt xà rong cũ nều cần. Như cái xác không hồn nhưng rất tỉnh thức, tôi nhận thấy mọi vật rõ ràng, trong sáng và sống động--gàu, nước, tường che với vết nứt có cây đơm rễ, xà bông trên người tôi, và lớp da của tôi. Rồi trong những sinh hoạt khác như đại tiểu tiện, đánh răng, dọn dẹp phòng, vân vân, tôi cũng làm bằng cách chẫm rãi tỉnh thức đó.

Tôi say mê theo dõi tiến trình. Tôi có cảm tưởng như mình đang xem ai đó trong phim chiếu bóng; nhiều lúc tôi như trong mơ dầu tỉnh thức. Cảm thọ mới này không khác gì mấy cảm thọ mà tôi trải nghiệm khi hút ma túy. Thực tập theo kiểu này là một phương cách hữu hiệu để đưa thiền vào mọi hoạt động lớn nhỏ hằng ngày. Nói cách khác, hành thiền không phải chỉ là trong lúc ngồi tĩnh lặng mà là trong mọi công việc chúng ta làm hằng ngày.

Tuy không được phép nhưng mỗi sáng tôi đều tập vài thế yoga. Tôi thuờng bắt đầu bằng năm mười phút thở sâu ba từng để đem oxy vô máu, rồi tiếp theo là thế gập nguời về phía trước và ngửa người ra phía sau để làm giãn sống lưng, một ít thế giãn thân, và một hai thế đứng một chân để tạo thăng bằng và chú ý. Tôi tập theo lối tỉnh thức nói trên nên không làm gián đoạn sự hành thiền minh sát. Tôi nghĩ chắc không có gì tai hại. Trái lại, tôi nhận thấy lề thói ấy rất có ích cho sự tuần hoàn và làm tăng năng lượng. Tôi còn lập lại hoặc tập vài thế mới vào buổi chiều trước giờ thiền tập thể. Dĩ nhiên tôi tập lén trong phòng lúc mà chú tiểu không có mặt.

Thỉnh thoảng, tôi không thể bỏ lỡ dịp tốt nên có thì thầm chuyện trò với Chris cũng như hai nhà sư phương Tây. Tôi muốn biết Chris nghĩ thế nào về khóa tu thiền đầu tiên của anh và anh đã chứng nghiệm được gì rồi. Anh nói anh đang cần cù theo học phần căn bản, cố dìm cái 'tâm viên' của anh, và thường thấy mệt mỏi. Tuy nhiên, anh thích khung cảnh tĩnh mịch, không khí vắng lặng, sự cô độc, cơm ngon, và các khám phá mới về anh. Với hai nhà sư, một nguời Anh và một người Gia Nã Đại, tôi được biết sự thọ giới ở Sri Lanka không khó lắm. Chánh quyền và dân chúng rất cảm thông tình trạng của khách ngoại quốc nên sẵn sàng hỗ trợ cho ai muốn thành tăng. Người muốn học Phật hay vừa học Phật học thiền lâu dài đều được cấp giấy tạm trú một năm. Tin này làm tôi phấn khởi và tôi ước ao được thọ giới để trở thành tăng sĩ sống đời khổ hạnh.

Khóa tu sẽ mãn trong ít ngày nữa, tôi bắt đầu nghĩ đến chương trình sắp tới. Tôi hơi ngứa chân và sẵn sàng thay đổi không khí. Tôi cảm thấy đã có chút kinh nghiệm và thỏa mãn với sự tu tập. Tôi nghĩ sẽ tiếp tục lối tu tập này và sẽ tự tập thêm yoga, có lẽ ở một bãi biển vắng nên thơ nào đó của Tích Lan. Một chương trình khác là xuống Kataragama dưới miệt Đông Nam của đảo Sri Lanka nơi nghe nói có ashram yoga của Đạo Sư Hindu Swami. Ashram nằm trên bờ con sông cái và Đạo Sư Swami có một số phòng và cốc cho người phương Tây.

Tuy nhiên, trước mắt Chris và tôi phải trở lại Colombo ở với Sam trong dịp l­ễ Vesak. Tôi muốn thấy tận mắt dân Sinhalese cử hành l­ễ Phật quan trọng nhứt này. Sam có kể rằng sẽ có pandal khổng lồ với màu sắc rực rỡ dựng trên nhiều đường phố và đèn Vesak treo trước mọi nhà mà Sam muốn chúng tôi xem cho biết. Sam mong chúng tôi sẽ về lại thủ đô ở với anh ít ngày để anh có dịp hướng dẫn chúng tôi đi xem lễ­ hội.

Hôm chia tay, tôi thu xếp đồ đạc, vào điện l­ễ Phật lần chót, đứng nhìn cảnh vật chung quanh, rồi mạnh dạn lên đường. Chris cùng đi với tôi đến liêu của Thầy Sivali để cám ơn về những chỉ dẫn minh triết và bổ ích cũng như thạnh tình và lòng kiên nhẫn mà Thầy đã dành cho. Tôi thưa rằng tôi đã học được nhiều phương pháp thâm sâu, thực tiễn và hữu ích mà bấy lâu nay tôi chưa từng biết có trong thiền Phật giáo. Với giọng ôn hòa và điềm đạm Thầy chúc hai chúng tôi mọi điều tốt đẹp trên đường học Phật. Chúng tôi bái Thầy, lui ra, và Thầy trở về thế giới tĩnh lặng riêng của Thầy. Theo thói quen, chúng tôi bước chậm và tỉnh thức, qua vòm ngọ môn, đi lối một phần tư dặm xuống bến xe buýt ở góc Delgoda--chúng tôi trở lại thế giới Ta Bà.

*

Chương 16

VỊNH UNAWATUNA

Chúng tôi không có báo cho Sam ngày trở lại, nhưng anh biết chúng tôi có thể về bất cứ lúc nào. Anh rất vui gặp lại hai chúng tôi và muốn biết kết quả của khóa tu học vừa xong. Thật rất khó cho tôi tường thuật đầy đủ chi tiết vì biết trình độ thiền của anh chưa đến mức chuyên sâu. Do đó tôi chỉ mô tả sơ lược để tránh cái lỗi lầm đi giảng tỉ mỉ môn vật lý nguyên tử bằng vài câu ngắn gọn cho người có trình độ toán học hạn hẹp. Chiều tối, vài bạn của Sam ghé chơi, theo thói thường trong những ngày lễ­ lạc. Mọi người có dịp chuyện trò và tôi được nghe biết thêm về Vesak và tục lệ Tích Lan.

Vesak là l­ễ Phật giáo tuơng tợ lễ­ Giáng Sinh của đạo Chúa. Đó là ngày vui nhứt của ba sự việc tốt lành xảy ra trong đời Đức Phật: đản sanh, thành đạo và nhập diệt hay đạt Vô Dư Niết Bàn (Paranibbana). Theo truyền thống Theravada ba sự việc trên đều xảy ra trong ngày trăng tròn tháng Năm của niên lịch Nguyên Thủy[18]. Vì vậy ngày trăng tròn tháng Năm, gọi là ngày Vesak, được xem như tam-l­ễ-nhựt và là một lễ­ quốc gia Sri Lanka nghỉ tới ba hôm.

Đúng ngày trăng tròn hầu hết Phật tử thuần thành đều dành thì giờ để suy nghiệm, lễ­ bái và thiền định. Họ đi chùa, vô lâm tự (chùa trong rừng) hay đến một địa điểm đặc biệt nào đó làm lễ­ 'sil '. Họ đến với y phục trắng cổ truyền gọi là 'bộ sil '. Họ bắt đầu từ lúc 6:00 giờ sáng, tham dự chương trình l­ễ cả ngày gồm nhiều tiết mục như: thọ Tam Quy và Ngủ/Bát/Thập Giới do sư trụ trì truyền, pháp thoại do sư của chùa hay khách (có thể là sư hay cư sĩ) mà chùa mời tới giảng, puja, tụng kinh, và thiền. Tại các trung tâm thiền có tiếng như Kanduboda và nhiều viện trong rừng xa, Phật tử chí tâm đến từ ngày hôm trước và ở lại hai ba hôm để lễ­ bái và nhứt là để thiền. Một số đông khác đến chùa địa phuơng vài tiếng để dưng bông, tụng kinh, viếng sư, và nghe bana. Số khác làm lễ­ puja hay ngồi thiền trước bàn thờ tại nhà. Sam cho biết thêm ở Sri Lanka, ngoài Vesak, Phật tử còn hành l­ễ tương tợ vào tất cả những ngày trăng tròn mà dân chúng gọi là ngày Poya .

Sau cơm tối, Sam cùng Tilak và hai bạn nữa đưa chúng tôi xuống đại lộ Galle Face xem pandals. Pandal là những kiến trúc bằng gỗ sơn phết sặc sỡ mô tả đời sống của Đức Phật hay tiền kiếp của Ngài (Kinh Jakata). Nhiều pandal rất to, cao tới ba mươi bộ, được kết đèn hoa chớp nháy muôn màu. Có thêm nhạc phát thanh inh ỏi nhằm thu hút sự chú ý của khách nhàn du. Đi xem pandal là một dịp để bà con ra khỏi nhà, dạo phố, gặp bạn, và chuyện trò. Trên đường đi dạo, tôi quan sát thấy không mấy người thật sự suy ngẫm về Tứ Diệu Đế dầu họ nhìn say mê các pandals trang hoàng lòe lẹt. Theo ý tôi, tiền dựng và trang trí đèn hoa cho pandals nên dành để nuôi người nghèo hay cho các công tác từ thiện thì hơn. Tôi thầm cười không biết Phật nghĩ thế nào khi thấy dân chúng kỷ niệm Ngài và lời dạy muôn thuở của Ngài như vậy. Từng quen sống với nội tâm và chiêm nghiệm vô thường, tôi không thể bỗng nhiên hướng ra ngoài để vui với các thú vui này. Tuy nhiên, đây là một dịp đi ra cho biết dân tình và văn hóa địa phương.

Hôm sau tôi và Chris đến một ngôi chùa lớn để viếng vị thầy uyên bác khả kính mà Sam có lần nhắc tới. Chùa có tên là Vajirarama và thầy là Sư Narada. Ông viết nhiều sách Phật, chu du khắp Đông Nam Á Châu, có công phát huy tông Theravada ở nhiều nơi. Ông vừa là vị sư, bực thầy và người bạn tâm linh rất được kính nể tại quê nhà ông. Lúc tới nơi, chúng tôi thấy ông ngồi trên chiếc ghế trước cửa thư viện chùa, đang nói chuyện với hai đạo hữu, nên đứng đợi đằng xa. Đến lượt mình, chúng tôi bước lại thi l­ễ. Thầy mời chúng tôi ngồi xuống chiếu trải dưới thềm. Thầy là vị sư già có nụ cười rất thân thiện. Bằng tiếng Anh lưu loát, Thầy hỏi ngay chớ chúng tôi từ đâu đến, ở Sri Lanka bao lâu rồi, và có tập thiền không.

Sau lời chào mừng, tôi thưa rằng đã gia nhập tông Mahayana ở Nepal, có học chút ít thiền minh sát với Thầy Goenka, và vừa xong khóa tu học ở Kanduboda. Thầy trầm tư theo dõi, mỉm cười nói 'Tiếp tục, Tiếp tục'. Tôi tiếp tục trình bày tại sao quán niệm tánh vô thường đã dẫn tôi đến nhận định bản chất Không và không thỏa mãn của ngũ uẩn và tại sao nay tôi không còn ý muốn theo đuổi trần thế mà muốn trở thành tu sĩ. Nghe tôi xong, Thầy nói 'Tốt, Tốt', với tia sáng trên khóe mắt. Thầy tặng tôi quyển kinh Pháp Cú Dhammapada của Thầy dịch ra Anh ngữ từ tiếng Pali. Lần đầu tiên tôi được đọc lời dạy minh triết, ngắn gọn và chính xác của Đức Phật, tôi rất vui mừng. Tôi chân thành cảm tạ Thầy.

Thầy Narada cho chúng tôi biết thêm có một sư người phương Tây tên Samitta đang lưu tại chùa Vajirarama trong vài hôm. Sư từng theo khóa học Kanduboda và đang chọn tu khổ hạnh. Tôi mong muốn được gặp sư để biết thêm về các tu sĩ Tây phương sanh sống tại đây; lúc ở Kanduboda tôi không có dịp nói chuyện tự do với hai thầy người phương Tây tại đó. Thầy Narada nói chúng tôi có thể gặp sư nếu sư rảnh và cho người vào mời sư ra. Trong lúc chờ đợi, Thầy bảo chúng tôi có thể vô xem qua thư viện nếu muốn.

Sư Samitta đến. Ông trông rất thanh thản và tỉnh thức. Ông bước chẫm rãi ngang sân, đến ngồi trên chiếc ghế nhỏ. Thầy Narada giới thiệu chúng tôi với sư rồi để chúng tôi trò chuyện với nhau. Thầy đứng lên đi dạo quanh các tháp mới quét vôi trắng trong khu cổng vào, nơi có một số Phật tử đang tề tựu. Sư Samitta nói ông không thể nói chuyện lâu hay bàn thế sự vì không muốn bị phân tâm. Ông nói thêm rằng Phật pháp chơn chính phải được hành trì chớ không phải là những câu chuyện suông. Tôi hiểu và thầm cám ơn ông. Ba tuần tu học ở Kanduboda cho tôi thấy nói chuyện lâu với Sam và bạn anh chỉ thêm phiền và mệt. Sư Samitta thọ giới sáu tháng trước đây ở Kanduboda. Ông đang trên đường tìm những nơi hẻo lánh để tự tu một mình. Ông nói ông muốn đến những rừng có thú và rắn rít hầu thực tập chú tâm và trấn an. Tôi hỏi sư về số người Tây phương tu ở Tích Lan, sư trả lời không biết rõ vì họ đến rồi đi liên tục; sư đoán chừng hai muơi hai mươi lăm vị sống rải rác trên toàn đảo, trong những cốc nhỏ hay những chùa trong rừng. Sư nêu tên một tự viện nổi tiếng, Island Hermitage, và nói tu sĩ Tây phương thường trú tại đó hồi gần đây, có khi hai ba vị một lúc. Tự viện nằm trên hòn đảo nhỏ giữa đầm nước lớn, gần Galle, dưới chót đuôi bờ biển Nam.

Vì thấy tôi quá nhiệt tâm, sư Samitta tiếp tục câu chuyện lâu hơn dự định và cho biết thêm tin tức về một số tỳ kheo[19] ngoại quốc thuộc thế hệ gần đây. Đặc biệt, có một cố tỳ kheo người Anh, Nyanavira, được biết từng tu tới hàng thánh (Nhập Lưu[20], bậc đầu tiên của Bồ Tát giới). Ngài sống một mình một thời gian dài trong cái cốc nhỏ trong rừng gần làng Bundala trên bờ biển Nam. Dầu được xem như đã đến bờ giác nhưng Ngài lại tự hủy mình bằng cách dùng bao nylon trùm đầu cho đến chết ngộp. Nghe nói Ngài bị đau bao tử và không chịu nổi các cơn đau hoành hành. Hành động tự tử làm nhiều người nghi ngờ tánh giác của Ngài, bởi người đã nhập lưu không thể tự hủy mình--tự tử là phạm giới cấm thứ nhứt. Sư Samitta kể thêm trường hợp của một tỳ kheo người Mỹ sống ở cốc Nyanavira hai năm trước đây. Ngài đạp phải và bị rắn độc cắn lúc đi đêm trong rừng không có đèn bấm. Ngài chết ngay vài giờ sau đó. Cốc của ngài hiện do một tu sĩ người Pháp ở; sư Samitta có đến viếng ông vài lần. Ông chọn sống cuộc đời khổ hạnh của tỳ kheo nơi hoang dã để thử thách tâm và để cho những mối lo sợ sâu thẩm, bản ngã cũng như nhiều chướng ngại khác xuất lộ. Được nghe chuyện của các tu sĩ Tây phương chuyên tâm tu học và hiến thân cho Đạo pháp tôi rất phấn khởi. Đã nói khá đủ cho một ngày, sư Samitta xin kiếu về phòng ngồi thiền chiều. Tôi cám ơn sư đã dành cho nhiều thì giờ và đã đưa nhiều tin. Trước khi tạm biệt tôi xin đuợc gặp lại sư, và sư trả lời: 'Rất có thể.'

Hôm sau đúng là ngày trăng tròn Vesak. Chris và tôi ở lại nhà, vô phòng nhỏ của chúng tôi ngồi thiền và đọc sách. Chiều, chúng tôi theo Sam và gia đình anh đến chùa gần nhà để họ dâng hoa và l­ễ bái dưới cội bồ đề cũng như trong chánh điện. Tôi ngồi trên lối cát rộng, dưới gốc cây thiêng, quán niệm sự đấu tranh của Thái Tử Siddharta với Mara[21] lúc Ngài thiền định dưới cội bồ đề. Kế bên có thêm một ít bà lão ngồi đọc kinh hay âm thầm tham thiền. Một số khác, gồm nhiều phụ nữ mặc trắng và trẻ con, vừa đi nhiễu quanh cây vừa niệm chú hay xướng Sadhu, Sadhu, Sadhu.

Tôi cảm thấy mình có chút tự phụ 'thánh thiện hơn[22]' và mình đang cố ngồi kiết già cho thật chỉnh. Tôi biết ý nghĩ cho rằng mình hiểu đạo hơn nhờ thiền và yoga là một chướng ngại nhưng tôi không làm sao gội rửa sạch. Sau hơn hai mươi phút để tâm viên nhảy quanh như vuợn, tôi không biết ai hành trì đạo pháp chuyên chánh hơn ai. Có phải là tôi đang ngồi như vị thánh sống mà tâm trí bị nhiễ­m độc tố tự phụ hay là các bà đang đi nhiễu và xướng Sadhu, Sadhu, Sadhu với tâm chơn chất nhưng thành khẩn? Tình huống này tôi gặp phải rất nhiều lần rồi nhưng khó mà giải quyết một cách thật tình.

Chung chung, hôm ấy là một ngày yên lành và cũng là ngày giúp tôi hiểu thế nào là Phật giáo Tích Lan mà tôi sẽ có dịp tiếp xúc trực tiếp hơn về sau. Trước khi vào giấc ngủ, tôi mơ mình làm một tỳ kheo khổ hạnh, ở một mình trong rừng, sống đời lý tưởng của một nhà sư, và quay lưng lại thế giới bên ngoài. Tôi nào có biết đúng ngày Vesak này năm sau tôi thọ giới sa di (samanera).

Từ lúc rời không gian yên lành và thích hợp của Kanduboda, tôi tự nhiên mất dần sự tỉnh thức trong từng cử động một và quay lại trạng thái cảm thọ thông thường. Tuy nhiên, vẫn còn tiềm tàng trong tôi chút cảm quan về nội tại mà tôi có thể phản hồi dễ­ dàng để đưa tâm trở lại quán chiếu sự không vuớng bận bất kỳ những gì tôi nghĩ tới hay hành động. Khả năng này, tôi nghĩ, cần được gìn giữ, và nếu giữ được ngay trong lúc du lịch, sinh hoạt cộng đồng, hay sanh sống hằng ngày, thì là một thành đạt đáng kể.

Trong hai ngày ở Colombo, Chris và tôi có bàn chương trình sắp tới. Lúc ở Kanduboda Chris có quen một yogi người Anh tên Gordon, chính là anh chàng rời viện trước chúng tôi một tuần đó. Gordon mướn nhà sống với bạn gái trong vịnh Unawatuna. Vịnh có bãi cát dài hình liềm rất vắng lặng, cách Galle vài dặm về phía Nam. Nghe tả tôi có cảm tưởng đó giống Hồ Arambol, một nơi lý tưởng cho việc tự tu của tôi. Chris cũng nghĩ như vậy. Hai chúng tôi quyết định dến đó càng sớm càng tốt. Nhà của Sam hơi chật và không tiện cho việc tu tập của chúng tôi. Ngoài ra, chúng tôi không muốn làm phiền anh lâu hơn và muốn giữ tình chủ khách mãi đậm đà. Mỗi lần chúng tôi đến ở là nhà anh phải có một người--bạn, người thân, hay là người làm--phải trải chiếu ngủ ngoài phòng khách; tôi khó chịu dẫu Sam nhấn mạnh là ok. Tôi có thử đặt mình vào vị trí chủ của anh và có biết đâu là giới hạn.

Trước khi rời Colombo, tôi xuống nhà sách Lake House dưới phố tìm mua ít cuốn đem theo đọc. Tôi nghĩ chắc sẽ có nhiều thì giờ dư lắm. Ngoài ra, tôi cũng muốn biết thêm về Phật học và các môn liên hệ. Tôi muốn kiếm loại sách mỏng chuyên đề của Wheel viết về triết lý Theravada. Sau một hồi lục lọi và vài phút do dự, tôi chọn các đề tài Luân Hồi và Tái Sanh, Duyên Khởi, Kinh Satipatthana, Năm Yếu Tố Giác Ngộ, và Bát Chánh Đạo. Tôi còn mua thêm quyển Living by Zen[23] của D.T. Suzuki. Nhơn lúc ở dưới phố, tôi ghé qua Pettah mua thêm một sà rong mới. Quen với cách ăn mặc thoải mái này, bây giờ tôi thích vận sà rong và thấy không còn cần quần dài nữa. Thay vì sà rong thường, tôi để ý kiểu mà các tu sĩ hay mặc với ngoại y. Loại sà rong này, còn gọi là 'y trong' để mặc bên trong ngoại y, may theo lối vá quàng với nhiều ô vải màu vàng và cam mà tôi rất thích. Tôi không cần đắn đo có nên mặc sà rong tu sĩ hay không, dẫu có nhớ tới bộ râu xồm xàm còn trên cằm và mình chưa phải là thầy tu. Tôi vô tiệm hỏi, nguời bán hàng bán liền không thắc mắc gì ráo.

Chris và tôi cám ơn anh chị Sam và mẹ của chị đã tiếp đãi chúng tôi rất nồng hậu và cho chúng tôi ở không[24] những lúc chúng tôi cần. Anh Sam nói nhà anh sẵn sàng đón tiếp chúng tôi bất cứ lúc nào chúng tôi dến Colombo; chúng tôi hết lòng đa tạ anh. Thiệt rất tiện cho chúng tôi có được một chỗ dùng làm điểm liên lạc và gọi là nhà. Từ rày thư từ của tôi có thể đến đây thay vì phòng thư lưu ở sở bưu điện và tôi khỏi mất thì giờ đi xuống GPO[25]; ngoài ra, sách báo gởi tới tôi cũng khỏi sợ bị thất lạc. Nhưng điều quý nhứt là được ở với một gia đình trung lưu địa phương để có thể học hỏi về nếp sống và tình nghĩa của họ cũng như chia xẻ với họ kinh nghiệm xa lạ của chúng tôi.

Chạy khỏi Hikkaduwa vài dặm, xe buýt tới làng Dodanduwa. Vừa qua Dodanduwa tôi thấy đằng phía xa cái đầm lớn, giữa đầm có hòn đảo nhỏ với nhiều cây cối, đảo Hermitage. Trên đảo có mái ngói đỏ lờ mờ (mà sau này biết ra là mái thư viện của tu viện). Tu viện nằm trong khung cảnh lý tưởng mà tôi muốn viếng một ngày trong tương lai. Tôi tưởng tượng nơi đó có nhiều tu sĩ/yogi mặc sà rong ngồi dưới gốc cây tham thiền về vô thường hay sanh tử.

Tại Galle chúng tôi đổi xe đi xuống phía Nam chừng ba dặm để tới nhà của yogi Gordon ở Unawatuna. Theo bản đồ mà Gordon vẻ cho Chris, nhà nằm sâu vô trong, cách đường cái lối nửa dặm. Chúng tôi đi qua làng rợp bóng dừa, lòng vui thơi thới. Một đám trẻ con theo nhìn đăm đăm hai anh chàng 'sudik' mang xách lủng lẳng trên vai. Ra tới vịnh, mắt tôi hoa lên bởi làn nước màu ngọc thạch phẳng lặng như gương trải dài chừng một phần tư dặm tới mỏm đồi dừa đằng xa. Dưới chân đồi, trên chót bãi cát cong, nhiều nhà nhỏ màu vàng xếp thành một khu rộng sau bức tường rào. Khu nhà riêng biệt một mình, bãi cát mênh mông không một bóng người, quang cảnh yên lành khôn tả. Tôi như bị thôi miên, tuởng chừng đã có gặp cảnh nên thơ này đâu đó rồi và có cảm tưởng một mối dây liên hệ đang buộc chặt tâm tôi với nơi đây. Tôi chỉ còn biết đứng lặng nhìn cảnh mộng và thấy lòng mình say mê như phê thuốc.

Thấy Chris không bị chi phối nhiều và đang kiên nhẫn chờ tôi cùng đi đến nhà Gordon cách đây không xa, tôi nói Chris đi trước rồi tôi sẽ theo sau. Tôi muốn đi vòng cái vịnh nhỏ để nhìn cho rõ nhưng chợt tỉnh nên tới gặp bạn trước. Nhà của Gordon và Mona màu trắng, khá lớn, có sân rộng, nằm khuất sau con đường làng. Hai anh chị mừng gặp chúng tôi. Sau những lời chào hỏi thân mật anh chị mời chúng tôi vào nhà uống trà. Trong câu chuyện, tôi hỏi anh chị có biết khu tường bên kia là gì không. Mona trả lời hình như là một cái đền Hindu hay Phật giáo gì đó. Theo sự không rành của chị thì đó được gọi là kovil hay devale, nơi thờ thần Hindu, nhưng cũng có một tượng Phật lớn trong ấy. Đền không có người ở và thường được khóa chặt. Mona rất tiếc không biết hơn nên nói tôi có thể tìm hiểu thêm với dân làng mà có vài người nói sỏi tiếng Anh. Tôi kể lại cảm nghĩ của mình khi thấy khu đền ấy và nghĩ rằng nơi đó rất tốt cho tôi tạm trú trong lần tới đây.

Tôi chưa hết mê say với cảm giác ban đầu nên mong được sớm đi hỏi thăm. Tôi bèn xin kiếu, còn Chris chọn ở lại chơi với hai bạn mới. Tôi trở ra bãi. Vẻ đẹp thiên nhiên của đầm làm tôi mê say thêm lần nữa. Trọn bãi dài mênh mông, chỉ có vài ngư phủ đứng trên đám hoa đá dưới nước lắp xắp chưa tới đầu gối và một ít thuyền catamaran hai thân bản xứ phơi mình trên cát. Gió biển nhẹ thổi qua tàu dừa tạo âm thanh như nhạc reo. Tôi theo bờ cát đi lần tới điểm đến. Khu đền nằm ngay dưới chân mỏm đồi đá có nhiều bụi thấp và dừa rải rác. Cổng đền không có khóa. Tôi vô trong, nhìn quanh, rồi đến xem ba ngôi nhà mà cửa đóng chặt. Không một bóng người; lá rơi đó đây trên sân; hoang sơ in dấu trong nhiều gốc. Nhìn qua lỗ khóa vô trong tòa nhà lớn nhứt, tôi thấy tượng Phật to ngồi trong nội điện nhỏ không cửa sổ.

Ra bờ tường sau tôi đứng nhìn sóng Ấn Độ Dương xô về, cuộn vòng mỏm đá vô bờ. Dọc bờ vịnh có con đường xuyên làng với nhiều hàng dừa cao. Đường xa đây gần nửa dặm nên tiếng xe cộ không ồn ào mà âm ỉ hòa quện với tiếng sóng vỗ lên ghềnh. Tôi quanh quẩn trong khuông viên đền thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên xa lạ trong sự tĩnh mịch huyền bí 'siêu thực'; tôi chợt nhớ tới chuyện Robinson Crusoe trên đảo hoang nhiệt đới. Một luồng năng lực vi tế đặc biệt thấm nhập toàn khu. Mặt trời vừa lặn bên kia đồi. Ráng hồng lơ lửng bay. Không gian trở nên diễ­m ảo. Tôi 'được ban sủng hồng ân.'

Tôi quyết định dừng chân lại đây, ngay bên trong hay cạnh đền, để thiền định một thời gian. Tôi có thể luyện yoga trên ô cỏ gần cổng dựa mé nước và ngủ luôn trên bãi cũng đuợc. Nếu mưa, tôi có nền xi măng dưới mái hiên quanh chùa. Tôi hy vọng sẽ được phép mở cửa vô chánh điện l­ễ puja và ngồi thiền. Còn thiền hành, tôi xin đi trên những lối cát trong khu. Tôi toan tính hơi nhiều, có lẽ tôi phải bắt đầu từ chỗ khởi đầu. Trước tiên tôi phải tìm người giữ chìa khóa để hỏi xem phong tục địa phương về thờ tự có cho phép tôi ở trong hay gần đền chăng, chớ tôi không thể làm càng rồi xin phép sau. Ngoài ra, tôi cũng cần hỏi Chris vì rất có thể Chris cũng muốn ở đây với tôi để có anh có em và cùng nhau thiền. Bây giờ đã tối không làm gì hơn được, tôi sẽ nhận lời Gordon và Mona ở lại đằng nhà anh chị đợi sáng mai tính sau.

Để rút gọn câu chuyện, tôi xin nói ngay là sau đó tôi được vị sư trong làng cho phép sử dụng đền devale. Thầy đưa tôi cả chìa khóa vô chánh điện để chúng tôi vào ngồi thiền. Mỗi ngày chúng tôi lại nhà Gordon và Mona ăn cơm theo lời mời của anh chị. Trong vài ngày đầu Chris và tôi nhịn ăn để d­ễ vào lối tu khổ hạnh.

Thấy chúng tôi theo đường làng xuống vịnh, bà con ra cửa đứng tò mò nhìn, bởi không mấy khi có du khách Tây phương đến đây. Bãi biển và devale đều vắng vẻ như chiều hôm trước. Tôi mở cửa vô điện thờ Phật xem kỹ. Ngài ngồi thế kiết già với áo choàng màu cam đặc biệt của Tích Lan. Tượng được đúc bằng gạch và xi măng choáng hết khoảng không gian của điện thờ; đế tượng chỉ cách cửa chừng nửa thước. Trước tượng có chiếc bàn để đèn cầy, đèn dầu, nhang, và hoa. Trong góc có thùng phuớc sương. Chris và tôi bắt đầu làm l­ễ puja: lên đèn, thắp nhang, lạy ba lạy, quy y Tam Bảo bằng tiếng Pali, và đọc kinh Tây Tạng để động viên tâm linh và hồi hướng công đức đến mọi chúng sanh.

Lễ­ xong, Chris và tôi trải nóp ngoài hiên sau chùa khuất tầm nhìn của khách thập phương. Tôi vận chiếc xà rong tu sĩ vàng lần đầu tiên và cởi áo để được thoải mái hơn trong bầu không khí nóng ẩm của vùng nhiệt đới.

Chiều, hai chúng tôi dành trọn buổi đi xem vùng lân cận. Chúng tôi leo lên đồi nhìn quang cảnh rực rỡ chung quanh. Nơi chúng tôi đứng là mỏm đá của một dãy núi kéo dài hai dặm từ Galle, làm bờ chắn thiên nhiên ngăn sóng lớn từ biển Ấn Độ vô vịnh. Mỏm có biển bao quanh trừ dãi đất không quá năm mươi bộ nối với đất liền. Trong vịnh, bờ biển được viền bởi một rạng san hô khiến sóng đỗ ngoài khơi và tạo một làn nước êm màu ngọc thạch dọc bãi. Nước, nước trong ngần khắp nơi. Với ngọn dừa xanh du đưa trong gió và bãi cát trắng hình vòng cung trải dài xuống phía Nam. Thành phố Galle với thành lũy cổ do Hòa Lan xây từ thế kỷ 17 và hải đăng mới dựng có thể nhìn thấy đằng xa, cách đây lối một dặm. Nhìn chung, cảnh quang phô bày một nét đẹp khôn tả, nét đẹp vừa thiên nhiên vừa nhân tạo này sẽ chế ngự tâm tư tôi trong những tuần sắp tới.

Giấc mơ tôi đã thành sự thật. Tôi không thể không nghĩ duyên kiếp nào đã đưa đẩy tôi đến thiên đàng xa xôi này. Tôi đang ngồi đây, trên bãi biển vắng lặng, giữa vùng duyên hải tuyệt trần mà tôi chưa bao giờ biết; tôi mê say--không phải bằng ma túy. Tôi dừng chân nơi này, phải chăng để thăm xã giao hai bạn Gordon và Mona hay vì một nguyên nhân sâu xa hơn? Theo cách tôi bị mê hoặc, tôi nghĩ nơi này có lực vô tình thu hút tôi như khối nam châm to. Và, bây giờ đến rồi, tôi sẽ ở lại đây bao lâu? Vấn đề này cũng ngoài vòng kiềm tỏa của tôi, tôi xin phú cho trời vậy. Khi tôi đã học đủ những gì tôi cần đưọc truyền dạy, tôi sẽ ra đi theo duyên định đoạt bởi nghiệp số mà tôi đã tạo trong quá khứ và hiện tại. Tiếp tục suy tư, tôi nghĩ đến những biến chuyển trong đời, nhứt là trong những năm sau trung học, đã dẫn dắt tôi tới phương Đông này. Tôi có cảm tưởng bước đường trong quân ngũ với ma túy ảnh hưởng nhiều đến tiềm thức tôi để tôi bắt đầu đặt câu hỏi về giá trị của cái gọi là xã hội thông thường và sự mưu cầu hạnh phúc. Rồi từ đó, tôi bị cuốn hút vô Thiền Tiên Nghiệm và tiếp theo là đi Ấn Độ với nhiều vấn đề riêng tư (như giao du với Gail, buôn lậu ma túy, tù ở Afghanistan, vân vân) mà tôi rút tỉa kinh nghiệm cho mình. Từ ngả ba Kopan, tôi chuyển hướng sang tìm nội tâm hay sự Thật. Tôi thực sự muốn tìm với tất cả tâm huyết mình và cả sự thôi thúc tiềm tàng trong tâm tôi. Chuỗi biến chuyển này, tôi sẽ chiêm nghiệm nữa hầu hiểu rõ hơn thế nào là Tái Sanh Làm Người Toàn Hảo.

Chris và tôi thức dậy lúc rạng đông. Chúng tôi lên đèn, thắp nhang rồi ngồi thiền ngay trước cửa điện Phật chừng một tiếng đồng hồ. Lúc bấy giờ ánh nắng ban mai chiếu vô cửa và tiếng quạ đánh thức chúng tôi ra khỏi tham thiền hay giấc mơ ngày. Tới giờ tập yoga ngoài bãi, giờ tập mà chúng tôi luôn hằng mong. Thay quần ngắn, chúng tôi xách đệm ra trải trên đám cỏ gần bãi cát. Triều lên, nước lắp xắp dưới chúng tôi chừng vài bộ. Sau khi xướng AA-OO-MM vô ba buồng phổi như đã học, chúng tôi tập các thế hữu cực (polarity) trong vòng một tiếng. Chúng tôi không hối hả vì đã có ý định nhịn ăn hôm nay rồi. Nắng ấm sáng nhẹ chiếu lên toàn thân, tôi cảm thấy mình đang thấm nhập nguồn năng lượng thư giãn nhưng đầy sinh lực.

9:30 giờ sáng: nắng nóng. Tôi vô núp dưới hiên. Chris đang ngồi đọc sách ở đây. Tôi lục xách nhưng chưa biết phải lấy tập sách Wheel nào. Sau phút lưỡng lự ban đầu, tôi rút tập Kinh Satipatthana Sutra. Đây là kinh Phật dạy về cách phát triển và thực tập nội kiến/trí tuệ dưới hình thức bốn trụ cột của tỉnh thức (xem tr. 323, q.II). Được biết phương pháp đặc thù và thông dụng của minh sát được trích từ các lời dạy bao hàm này. Tôi theo Chris ngồi xuống dựa cột lật sách đọc; tôi rất mong đuợc biết nguyên bản của lời Phật dạy.

Sau một giờ đọc rất thích thú, hai chúng tôi vào thiền cũng một tiếng. Trước khi xả, tôi nghe có tiếng người vô devale. Tôi cố đẩy tiếng động ra khỏi tâm bằng 'nghe, nghe' nhưng vô hiệu. Họ theo lối lên điện Phật, đến gần chúng tôi, vừa thì thầm vừa bày biện gì đó lên bàn trong góc. Tò mò muốn biết họ làm gì, tôi hé mi và chạm phải ánh mắt họ chăm chú nhìn tôi. Tôi liền nhắm mắt lại và tiếp tục nghĩ. Có hai bà lớn tuổi, một ông và hai em bé với một vài giỏ xách để trên bàn. Rõ ràng họ muốn chúng tôi lưu ý; tôi nghì rằng mình sẽ thất l­ễ nếu làm lơ và thiền giã đò. Biết họ biết tôi thấy họ rồi, tôi mở mắt ngó Chris; anh đang đợi tôi hành động trước. Các bà con lay hoay lấy chén dĩa và hộp đựng thức ăn trong giỏ ra. Tôi biết ngay họ muốn đem cơm đến cho chúng tôi. Không ai nói được tiếng Anh, tôi phải dùng mớ Sinhalese tôi biết và ra dấu bảo chúng tôi nhịn ăn hôm nay. Đoán họ tưởng lầm chúng tôi là sư sãi nên cúng dường, tôi bèn chỉ râu tóc mình và nói 'Không phải sư, không phải sư.' Nhưng vô vọng. Các dân làng chất phác này không hiểu lời giải thích vô bổ của tôi hoặc họ không tin hay không cần biết. Đối với họ, chúng tôi chỉ phải ăn, sư hay không phải sư không cần biết, họ cứ múc cơm và cà ri vô đầy dĩa. Trễ­ rồi. Chris và tôi ngó nhau bối rối. Tôi nói chúng ta chắc phải ăn một chút để làm vừa lòng họ. Họ là những Phật tử thuần thành rất thật thà. Hai bà chuẩn bị lăng xăng nhứt. Và họ đang múc một dĩa nhỏ cúng Phật, cúng Phật trước rồi mới cúng tăng, tục lệ là như vậy. Kế, họ quỳ trước bàn Phật tụng một thời kinh cúng duờng[26].

Cúng xong, họ bưng tới chúng tôi hai ly nuớc để chúng tôi uống và rửa tay trước khi đem lại hai dĩa cơm vun chùn. Rồi hai bà bước trái ra sau đứng chấp tay chừng như đợi chúng tôi nói lời gì. Vì không rành lời nguyện cổ truyền của sư sãi, tôi nói "Bohoma stuti "(Rất đa tạ). Họ có vẻ khoái chí khi nghe tôi nói tiếng mẹ đẻ của họ, họ cười. Họ nhìn chúng tôi và chờ chúng tôi bắt đầu ăn. Tôi nhắm mắt và trải tâm Từ đến các vị hảo tâm trong nửa phút rồi quán chiếu một lúc lý do của sự ẩm thực (cho thân lành mạnh để tri hành Phật pháp) trước khi ăn trong tỉnh thức. Cà ry chay nhưng nhiều thứ, thứ nào cũng có ớt cay. Tôi biết rằng bữa cơm sáng nay sẽ làm tan cảm giác thanh thoát nhẹ nhàng mà tôi đang trải nghiệm nhờ không ăn sáng và có thể sẽ làm tôi buồn ngủ vào chiều nay.

Tôi không ăn nhiều cơm và chọn món ít cay. Tôi có trộm ngó Chris và thấy anh ăn ngon lành. Tôi cũng có liếc qua bàn và thấy bình tàu hũ với một dĩa chuối đầy mà tôi tin là để la sét; tôi chừa bụng vậy. Hai bà chăm sóc chúng tôi rất tận tình làm tôi cảm động nhiều. Tôi bèn muốn ăn nhiều để đáp lại công lao của họ đã xới bưng tới. Họ đứng dan ra nhưng luôn sẵn sàng đến để múc thêm thức ăn vô dĩa. Khi tôi ra dấu đã đủ, người đàn ông đứng bất động đằng kia nãy giờ bưng tới tô nước cho chúng tôi rửa mấy ngón tay dính thức ăn. Kế hai bà chia nhau bưng cho mỗi chúng tôi một chén tàu hủ đầy rồi chế nước đường[27] lên, và sau đó là chuối. Chưa đủ, người đàn ông còn đem ra một bình thủy với tách và dĩa. Tôi nói thầm 'Ối chào, trà hay cà phê nữa sao?' Vâng, họ rót cho mỗi chúng tôi một tách cà phê đen có đường; tôi nghĩ cà phê sẽ giúp tiêu hóa.

'Tiệc' xong, họ thu dọn thức ăn thừa và chén dĩa vô giỏ xách. Tôi có biết thông thường sư hồi hướng công đức cho giới đàn na thí chủ, nhưng tôi không biết phải làm sao. Thôi tùy cơ ứng biến vậy. Tôi chờ xem họ có đợi gì nơi chúng tôi không, nhưng hình như các bà không cần gì cả. Nghĩ chúng tôi là người ngoại quốc không rành phong tục của họ nên có thể cho chúng tôi, hai tên yogi đói khát, một bữa ăn no trong ngày là họ mãn nguyện rồi. Từ bi của họ tự nó tạo nên công đức chớ họ không cần được ai ban bố. Trước khi họ ra về, tôi chấp tay vái chào hai bà với lời Bohoma stuti nồng nhiệt. Các thí chủ chấp tay vái chào lại với ba tiếng quen thuộc Sadhu, Sadhu, Sadhu!

Sau khi các thí chủ ra về, Chris và tôi thử tìm hiểu câu chuyện. Chúng tôi chỉ có một giải đáp là ai đó đã đưa tin có hai yogi đến devale để luyện yoga và thiền. Và nghĩ rằng chúng tôi không có gì ăn nên các thí chủ này tự động đem cơm cho chúng tôi. Chúng tôi rất cám ơn thâm tình của họ dầu rằng chúng tôi định nhịn ăn. Chúng tôi không biết chuyện có xảy ra nữa không nhưng không dám mong.

Như đã biết trước, bữa cơm làm tôi buồn ngủ thiệt. Tôi không cưỡng lại như hồi ở Kanduboda và nằm xuống ngủ trưa. Thức dậy, tôi rút sách Foundations of Mindfulness đọc thêm vài trang. Sách mô tả sự chiêm nghiệm thân như gồm ba mươi hai phần bắt đầu từ tóc, móng, răng, da, xương, vân vân. Không nên nhìn thân là đàn ông hay đàn bà, đẹp hay xấu, mà như một tập hợp gồm nhiều thứ có thể vỡ, tan và hoại. Nên phân tích thân như được tạo bởi bốn yếu tố Đất, Nước, Gió, và Lửa. Như vậy, người yogi không còn ý niệm về các phần của thân và tránh dược sự chấp trước cũng như sự xác định thành phần của thân.

Ý tưởng này rất mới đối với tôi, tôi bèn ngưng đọc để chiêm nghiệm. Tôi nhìn thấy rõ ràng khía cạnh thực tiển của tâm lý sau các chiêm nghiệm đó. Nếu xem thân, hay một vật thể nào đó, là thật, cá biệt, đẹp, thích thú hay không thích thú, tâm sẽ còn phân biệt, vướng mắc, và tham ái. 'Cái-tôi-thân-yêu' sẽ còn bị mê hoặc bởi cái thân mình và khao khát các thân cũng như các đồ vật khác.

Tôi thử nghiệm các phương cách ấy trước tiên trong lúc đi thiền và sau đó bằng ngồi thiền dưới mé hiên khuất mọi người. Tôi tưởng tượng thân tôi chỉ là một bộ xương đi tới đi lui; thật rất hữu hiệu, nhứt là khi tôi đi với mắt nhắm. Bằng vào kết quả của các tia X tinh thần kia, tôi cảm khích vô biên Đức Phật Toàn Giác, Người đã dạy những phương pháp tinh tế khả dĩ đánh thức hành giả đang phiêu du những bước mộng mị trong cõi Ta Bà.

Xế chiều có anh dân làng tên Eustace đến thăm. Anh biết chúng tôi ở đây qua tin đồn. Anh đem cho một bình thủy trà mà chúng tôi rất hoan hỷ đón nhận. Anh nói trong làng không có mấy người nói được tiếng Anh nên anh muốn làm bạn với chúng tôi để thực tập; tiếng Anh của anh khá. Được dịp may, tôi liền hỏi anh bạn mới mình vì cớ gì dân làng đem cơm cho chúng tôi hồi sáng. Eustace nói họ nghe có hai người ngoại quốc mới đến dưới kovil vắng để thiền và luyện yoga nên họ rất quý. Dân quê phần đông là chất phác và rất mộ đạo nhưng chẳng mấy ai biết thiền thật sự là gì, họ chỉ hiểu lờ mờ rằng đó là con đường dẫn đến Niết Bàn vậy thôi.

Nghĩ rằng mình đang trong vòng tục lụy, dân thường không tin họ có thể lên Niết Bàn trong kiếp này. Nhưng là Phật tử, họ biết họ có bổn phận hộ trì ai tu học để đạt tới đích đó. Nếu người họ hộ đến được bờ giác, họ sẽ được vô lượng công đức. Tôi hỏi Eustace chớ họ có biết chúng tôi không phải là thầy tu không, anh nói họ không cần biết, chỉ thấy chúng tôi chú tâm thiền định là họ mừng rồi. Anh nói thêm, bây giờ họ thấy sư sãi của họ xa dần đường tu khổ hạnh của các tỳ kheo xưa để bon chen trong giới học giả, xã hội hay cả chính trường nên họ mất nhiều tin tưởng.

Eustace nói dân làng đặc biệt vui mừng thấy chúng tôi là người phương Tây, dám bỏ hết để đi nửa vòng trái đất tới chốn thôn dã này, theo chân Phật. Rất nhiều gia đình muốn làm đàn na thí chủ nên dọ hỏi nhau chớ chúng tôi có ăn chay không. Tôi nói với Eustace rằng riêng tôi, tôi có ước nguyện và tôi thích cơm gạo đỏ bản xứ với rau đậu luộc sơ và trái cây; và chúng tôi không thích ớt cay. Anh nói anh sẽ chuyển lời.  

Chiều, chúng tôi lại leo lên đồi nữa để ngắm măt trời lặn và thở vô ba buồng phổi. Hạt nước từ các ngọn sóng đập vô ghềnh theo gió biển bay lên tắm mát mặt tôi, tôi cảm thấy vô cùng phấn chấn. Trên trời, mây xám từ phía Tây Bắc lơ lửng bay về che khuất vầng thái dương vẽ một bức tranh vô cùng ngoạn mục. Lúc trời sụp tối chúng tôi leo xuống, về ngồi thiền trên bãi cỏ trước kovil. Cảnh nước yên sóng lặng trong vịnh và tiếng vi vu của lá dừa trong gió thoảng đưa tâm chúng tôi vào hoan lạc một thời gian dài cho đến lúc trời tối sẩm. Giờ trăng lên, tôi đi thiền chiêm nghiệm ba mươi hai phần và bốn yếu tố của cái ảo tưởng gọi là 'tôi'. Tôi nhận thấy ý thức ấy thật là sắc bén và hữu hiệu. Tôi tưởng chừng như thân tôi tự đi còn tâm tôi là một vùng trời thênh thang, trong sáng, tràn đầy hạnh phúc. Tầm hiểu biết của tôi như được rộng mở thêm.

Trước khi đi ngủ, tôi ngồi dưới chân Đức Phật. Tôi hình dung mẹ, cha và thầy tôi rồi gởi nhiều đợt sóng Từ tha thiết đến các bậc sanh thành dưỡng dục này. Tôi cũng nguyện trải lòng Từ đến mọi chúng sanh trong hoàn vũ hầu tâm phân biệt tan biến hết trong ánh hào quang của vũ trụ. Tôi chấm dứt một ngày với Từ tâm và nhận thấy cách này giúp phần thiền minh sát của tôi rất nhiều trong việc diệt tánh Nhị Nguyên.

Tôi không có hớt tóc sáu tháng nay, từ ngày duyên định ở Kopan. Tóc tôi bây giờ dài tới năm-sáu phân và làm tôi rất bực bội trong không khí nóng ẩm. Nhớ tới cảm giác nhẹ nhàng, mát mẻ của cái đầu mới hớt và sau một lúc phân vân, tôi quyết định đi hớt tóc. Cắt tóc ngắn giúp tôi dẹp bớt sự hãnh diện tiềm tàng trong đầu và làm tôi trông giống thầy tu hơn, nhứt là trong lúc tôi ở tại devale này. Còn râu, tôi không định cạo dầu tôi biết tôi còn chấp trước. Tôi lý luận, nếu cạo râu, mỗi ngày tôi phải mất công châm sóc nó. Chris cũng muốn đi hớt tóc vì bị ngứa đầu mấy ngày nay. Sau cơm trưa, hai chúng tôi lấy xe xuống Galle tìm tiệm hớt tóc. Lần đầu tiên ra khỏi ốc đảo của mình, chúng tôi ghé thăm Gordon và Mona. Anh chị mừng gặp lại chúng tôi. Anh chị nói muốn xuống devale thăm chúng tôi nhưng nghĩ rằng còn sớm nên để chúng tôi vui với cảnh tĩnh mịch một thời gian đã. Anh chị cho chúng tôi biết dân làng đồn rằng chúng tôi là 'yogi tốt' chỉ biết lo thiền và tập yoga, nên họ sẵn sàng giúp đỡ chúng tôi đi tới Niết Bàn. Sau tuần trà và mươi lăm phút chuyện vãn, Chris và tôi tiếp tục lên đường xuống Galle tới đường Matara. Bà con ra cửa đứng nhìn và tỏ vẻ như biết chúng tôi là ai. Họ thì thầm: 'Hai yogi ở devale.'

Chúng tôi tìm mãi mà không gặp tiệm hớt tóc. Tình cờ chúng tôi thấy cái chòi nhỏ bên đường có một cái ghế nằm chông chênh trên nền đất trước tấm kiến lớn trên vách, tôi nghĩ là chỗ hớt tóc. Tôi hỏi cậu trai vận sà rong trắng đứng trước cửa có phải là thợ không, bằng cách chỉ đầu tóc tôi và ra dấu kéo cắt với hai ngón tay nhấp nhấp. Anh cười, gật đầu và mời chúng tôi vô; chòi anh rất thấp. Chris nhường tôi hớt trước và ra ngoài đợi. Đồ nghề của anh thợ chỉ gồm có: một kéo, một lược và một dao cạo loại 'cắt cổ' mà tôi không muốn anh dùng để cạo đầu tôi. Tôi ra dấu cho anh xài kéo và cắt ngắn được chừng nào hay chừng nấy mà thôi. Tôi không muốn trọc như thầy chùa, vì cái đầu mới cạo lán bóng đi với y nửa sư nửa dân và bộ râu rậm màu hunh của tôi thế nào cũng làm dân làng 'không biết đâu mà rờ.'

Chris, trái lại, tẩy trọc cho hết gàu. Nhờ anh mặc áo banyan trắng và vận sà rong thường nên không có dáng dấp thầy tu. Tuy nhiên, lúc chúng tôi đi qua Galle đến xem Đồn cổ Hòa Lan và mua sắm chút ít vật dụng, nhiều người lấy làm lạ theo ngó chúng tôi hoài. Và lúc về ngang làng, bà con, nhứt là con nít vui tánh, theo chỉ chọc và cười khúc khích, chừng như hai chúng tôi thay hình đổi dạng lạ kỳ lắm. Chúng tôi lại ghé qua Gordon và Mona nữa để xin tắm giếng và châm nước cho đầy bình; anh chị cho rằng bộ vó mới của chúng tôi thích hợp hơn.

Trong sáu tuần lễ­ tiếp theo chúng tôi cứ hừng đông là tập yoga, rồi thiền, và chạng vạng làm lễ­ puja. Dân làng thay phiên nhau bưng cơm trưa mỗi ngày, có khi họ bưng cho ăn sáng nữa. Thật rất cảm động khi thấy dân quê nghèo lo cho nguời dưng. Sự bao dung của những người nghèo tiền nghèo bạc này làm tôi phải tự dừng, tự kiểm và tự thúc đẩy mình. Tôi có xứng đáng nhận sự chăm sóc tận tình này không? Tôi có khả năng vật chất hơn họ nhưng tôi đang ngửa tay nhận bố thí, chia miếng ăn của chính họ. Họ đang đầu tư tâm linh nơi chúng tôi, tin chúng tôi có thể lên Niết Bàn. Vậy tôi phải làm sao cho xứng đáng chớ không thể ích kỷ ăn bám họ. Bất giác tôi rơi vào tình huống khó xử nhưng tôi thức tỉnh--biết mình không thể đi lui và thể nghiệm sự tái sanh làm người toàn hảo. Dầu ý thức rõ như vậy mà tôi vẫn không an tâm. Tuy nhiên chúng tôi không thể làm khác bởi Eustace từng cho biết chúng tôi sẽ làm họ thất vọng nếu từ chối của họ cúng dường.

Mỗi ngày chúng tôi ngồi thiền một tiếng trước bữa cơm trưa và lúc 3:00 giờ chiều. Chúng tôi tập yoga lúc 5:00 giờ rồi lên đồi thở sâu và ngồi thiền lúc trời lặn. Sau đó chúng tôi ngồi ngoài bãi cát trước devale cho đến khi buồn ngủ. Trong thời thiền đêm, có một cụ già ở trong xóm gần xách tới cho chúng tôi bình trà nóng. Chương trình của chúng tôi đôi khi cũng phải thay đổi, nếu chúng tôi có khách hay có việc cần làm. Gordon và Mona thỉnh thoảng đến lúc chiều tà và ngồi thiền với chúng tôi. Còn Chris và tôi chia nhau thỉnh thoảng ra nhà anh chị để tắm và lấy nước uống. Chúng tôi không mấy khi bị quấy rầy bởi khách thập phương. Họ đến đây, có khi từng đoàn, để cầu nguyện hay làm lễ­ puja devale là đền công cộng. Khi gặp chúng tôi ngồi thiền, họ xì xào và tò mò tới gần ngó cho biết và chúng tôi trở thành lạ mắt đối với họ.

Tiếng đồn vang xa, tới Galle và Matara hai mươi dặm dưới phía Nam. Nhiều người đến chỉ nhằm mục đích để nói chuyện với hai nhà 'yogi ngoại quốc'. Họ luôn luôn tìm cách gặp chúng tôi nếu chúng tôi không ngồi thiền. Chúng tôi thích trò chuyện với những người lễ­ độ và có học về đạo pháp hay các đề tài tương tợ. Và chúng tôi có dịp gặp một ít vị hoạt bát, ý thức, rất hay, mà chúng tôi đàm đạo thích thú hằng giờ. Cũng có nhiều người dùng cơ hội để tập nói Anh văn. Chuyện họ chỉ quanh quẩn trong các câu thông thường như: Ông ở đâu, xứ nào? Ông có anh chị em không? Ông lập gia đình chưa? Tại sao ông chọn sống chỗ vắng vẻ này? Những câu như vậy cứ lập đi lập lại riết trở thành phiền toái và có khi lố bịch, nhưng chúng tôi học được sự kiên nhẫn và từ tâm.

Một vài lần chúng tôi bị đánh thức lúc nữa đêm vì có người vô đền l­ễ puja hay cúng giải tà. Ở Sri Lanka người ta tin có tà ma và ai bị tà ma nhập có thể tới devale để cúng giải[28]. Devale này lại nổi tiếng là nơi trừ tà linh nghiệm nên được bà con rất chiếu cố, nhưng không hiểu sao họ chỉ cúng lúc nửa đêm!

Tò mò, Chris và tôi có thức xem cúng giải tà vài lần. Người bị tà nhập luôn luôn tới với một pháp sư. Họ đem theo nào hoa, quả, nhang, đèn dầu dừa, và cả dừa trái nữa. Họ dâng bông và nhang lên Phật trước, có lẽ để cầu Ngài (nếu thực sự có thể cầu đuợc), trước khi cầu thần thánh. Kế họ ra đền chánh thần chuẩn bị lễ­ trừ tà. Họ mồi các đèn dầu dừa nhỏ rồi đem đèn đặt nhiều nơi trong khuông viên, đặc biệt là dưới chân tảng đá lớn mà họ tin là 'thần linh'. Tại đó, họ đập bể trái dừa để nước văng tung tóe ra. Sau đó, bịnh nhân trở vô đền thần và pháp sư bắt đầu giải tà. Pháp sư mặc lễ­ phục và đeo mặt nạ. Ông lắc lục lạc, rung chuông, và nhảy quanh trong lúc miệng đọc thần chú. Thỉnh thoảng ông nhắm bịnh nhân hét lớn hay quất nhẹ lên thân. Tôi cho tất cả là một trò dị đoan bịp bợm. Tuy nhiên sau khi nói chuyện với một số bịnh nhân tôi nghe họ nói bớt bịnh, cảm thấy nhẹ nhàng và thanh thản. Phải chăng mọi sự tại tâm?

Tiếp tục đọc các tập sách Wheel, tôi thấy thích thuyết Duyên Khởi. Lúc ở Kopan tôi có nghe thuyết về Mười Hai Nhân Duyên vần xoay đời người. Tôi cũng có đọc đâu đó rồi nhưng chưa biết rõ. Thuyết Mười Hai Nhân Duyên của Phật là thuyết duy nhứt thấy trong lãnh vực đạo giáo và là cốt lõi của Trí Tuệ thâm diệu của Đức Phật. Thuyết dẫn giải tại sao luân hồi không dứt, vì vô minh và tham ái.

Trên bề mặt, thuyết mô tả tiến trình của sanh và tử nối tiếp liên tục trong vòng luân hồi. Dưới bề sâu, thuyết trình bày sự sanh diệt của ý thức với mỗi thời điểm thích hợp liên tục của tâm trong ấy tất cả mười hai yếu tố vừa làm nhân vừa làm quả di­ễn động. Tôi đọc đi đọc lại nhiều lần cho thuộc lòng và dành nhiều giờ thiền định để chiêm nghiệm sự lý giải cũng như quan sát tiến trình xảy ra trong tâm. Khi tôi quán sát sự khởi sanh và tan biến của cảm quan, tôi thử tìm và ý thức các mức độ vô minh khác nhau, và xem cảm quan đó tạo nên tâm hành như thế nào. Tôi quán sát xem làm thế nào cảm giác có thể tự phát sanh cảm thọ vui hay buồn cùng lúc với chấp truớc, ghét bỏ, mong cầu, tham ái, và tâm hành mới--đổi chân cho bớt tê hay đuổi con muỗi đi.

Trong đời, cái tôi lọc lừa luôn tạo sinh lực cho tâm để cái tâm bị cám dỗ bởi tham dục tôi luyện các thói quen, và thói quen tạo tiêu cực mà hậu quả là đau khổ cho người có cái tôi lọc lừa lẫn người chung quanh. Tôi nghĩ rằng nếu cái tâm tham dục kia không được uốn nắn và nếu sinh lực ấy không được chuyển qua một hướng tâm linh khác, ý thức của cái tôi tất sẽ có những bước vô định trong vòng luân hồi. Tôi hiểu rằng tùy theo nhịp độ lập lại của suy tư nhiều hay ít, thói quen sẽ ghi nét đậm hay lợt; và nếu suy tư dựa trên vô minh, tập quán sẽ tiếp nối không dứt, còn với trí tuệ tập quán sẽ chấm dứt và vòng luân hồi bị phá vỡ. Thật là thuận lý và càng quán xét nơi mình cũng như người, tôi càng thấy thỏa mãn với công thức sanh tử ấy của Đức Phật.

Trong các câu chuyện với Eustace và dân làng, chúng tôi có nghe đề cập vài lần tới việc Chris và tôi xuất gia thành sư chánh thức. Dân chúng trong vùng muốn thấy chúng tôi, hai người ngoại quốc, khoác áo nhà sư. Ý tưởng này không lạ đối với tôi vì nó đã sẵn có trong đầu tôi từ lúc ở Kopan. Nó trở nên rõ ràng hơn mấy lúc sau này, dạo tôi nói chuyện với Sư Samitta và hai sư Tây phương ở Kanduboda. Nhưng từ lúc đến Unawatuna tôi quên bẵng đi và sống như vầy, một lối-sống-gần-như-của-sư-sãi. Nay câu chuyện được đề nghị, chúng tôi cần suy nghĩ kỹ đã. Theo thời gian, tôi nhận thấy mình không còn ý nghĩ đi lui về cuộc sống bình thường hay đi lang thang vòng quanh trái đất nữa. Nhưng tôi cũng sẽ dành thì giờ 'hỏi lại tâm,' còn thân thì đã thay đổi nhiều rồi. Chẳng đợi lâu, tôi ý thức rằng tôi như đã sẵn sàng; quyết định và động lực đã có nên bước sắp đến chỉ là bước tự nhiên. Còn Chris, tuy chưa biết thật tâm nhưng vẫn muốn bước vô cửa thiền vì đời sống tu sĩ hấp dẫn đối với óc phiêu lưu và lãng mạn muốn 'thử xem sao' của anh.

Được vậy thì rất tốt cho đàn na thí chủ đã không bỏ công hỗ trợ chúng tôi. Hơn thế nữa, họ tin sẽ được hạnh lành và đức cao nếu có thể tiếp tay giúp chúng tôi thọ giới. Eustace hoan hỷ mô tả l­ễ thọ giới với đám rước cổ truyền linh đình có cả voi đi qua làng từ Galle tới Matara. Tôi nghĩ nếu được thọ giới tôi sẽ mời các bà con nhiệt thành ấy chia xẻ phước báu với tôi. Eustace cho biết cách đây không xa có Valle Devale do một Sư Trưởng trụ trì (Ngài coi luôn đền Yaddehimulla trong làng) là nơi mà chúng tôi có thể xin thọ giới. Anh hứa đưa Chris và tôi tới thỉnh ý của Sư.

Vài ngày sau, Eustace đến để đi gặp Sư Ông. Chúng tôi đi gần bốn dặm ngang qua đồng ruộng vô trong sâu. Tự viện còn là trường đào tạo sư, đang dạy chừng hai mươi chú tiểu. Eustace giới thiệu Chris và tôi với Sư Trụ Trì và chúng tôi vái chào bằng ba lạy. Sư chỉ chúng tôi ngồi xuống trong lúc Eustace trình bày sự sinh sống của chúng tôi ở devale và ước nguyện thọ giới của chúng tôi. Sư biết chúng tôi đang ở dưới devale nhưng ngạc nhiên nghe nói chúng tôi muốn xuất gia. Sau phút trầm tư, Sư nói Sư hân hoan được biết chúng tôi muốn theo chân Phật, nhưng Sư không biết chúng tôi phải đi đường nào bởi chúng tôi là người ngoại quốc. Sư phải có thì giờ suy nghĩ truớc đã.

Vài ngày sau, Sư Cả trả lời cho biết rằng Sư rất tiếc không thể làm lễ thọ giới cho chúng tôi được. Sư không tin là chánh quyền cho phép Tăng lữ của Sư nhận người ngoại quốc. Theo Sư, chúng tôi nên đến Đảo Hermitage hay Vajirarama ở Colombo thì hơn. Ngoài ra, Sư không có phương tiện để giáo hóa chúng tôi vì không ai ở đó, kể cả Sư, biết Anh ngữ. Sư giải thích thêm rằng muốn thành tăng sĩ, hành giả phải ở với giáo thọ/thầy ít nhứt năm năm để học giới luật tỳ kheo, tiếng Pali, và kinh sách, kể cả thuộc lòng nhiều đoạn. Dĩ nhiên Chris và tôi có thể làm như vậy, chúng tôi chỉ mong được tiếp tục sống với thiền trong devale mà thôi. Chúng tôi tưởng chỉ là chuyện d­ễ dàng, tức thọ giới, đắp y, rồi tự do như Sư Samitta chớ chưa hề nghĩ tới việc phải vô chùa tu học một thời gian mới thành sư. Hồi chờ tin về tôi có đặt nhiều hy vọng, nhưng tôi không thất vọng lắm khi nghe Sư giải thích. Chúng tôi chỉ buồn cho dân làng đã rất phấn khởi (về vi­ễn tượng tốt đẹp do Eustace đồn ra) giờ phải thất vọng. Hai chúng tôi xem những ngày vừa qua như giấc chiêm bao và tiếp tục cuộc sống thường ngày.

Hạn lưu trú của chúng tôi sẽ hết vào hai tuần tới. Chúng tôi phải lên Colombo xin gia hạn thêm hai tháng. Sống ở devale không còn mới mẻ đối với chúng tôi nữa và tôi cũng đã đọc hết sách đem theo rồi. Ngoài ra, các trận mưa lớn và dai dẳng của mùa gió chướng làm cuộc sống ngoài trời của chúng tôi không còn thoải mái nữa. Có lúc Chris và tôi phải ngồi đục mưa cả ngày trong điện Phật hay ngủ sau cửa mới khỏi ướt và lạnh. Tuy còn mê cảnh quyến rủ này nhưng tôi tin, trong thâm tâm tôi, sự bồn chồn tiềm tàng và nhu cầu di chuyển bắt đầu khuyấy động. Tôi có ra đi cũng là đúng lúc.

Tôi quyết định đi Kataragama vì tôi đang ở nửa đường. Từ đó tôi sẽ lên Colombo hai ba ngày trước khi chiếu khán hết hạn. Còn Chris chọn ở lại Unawatuna với Gordon và Mona thêm một thời gian ngắn rồi sẽ lên sau. Chúng tôi hẹn trên nhà Sam để cùng đi gia hạn chiếu khán. Chúng tôi tin Eustace và dân làng hay quyết định ra đi--đi theo con đường định mệnh đã sẵn bày cho chúng tôi. Họ thông cảm. Tôi nói với Eustace nơi này rất đặc biệt đối với tôi; tôi sẽ trở lại một ngày trong tương lai. Và, bông đùa tôi nói: 'Có thể tôi sẽ trở lại với chiếc y đắp trên thân.' Không ngờ đó là sự thật!

Khi tôi đến Colombo, Chris đã có mặt ở nhà Sam rồi. Sam đi trực cuối tuần trên Bộ chỉ huy Không Quân chiều mới về. Mới đó mà chúng tôi xa nhau đã hai tháng. Nhân dịp có ba mẹ Sam cùng gia đình của hai em đang ở trên nhà từ đường trong vùng đồi núi ngoài thành phố Kandy, Sam mời chúng tôi lên đó ở một lúc cho biết cố đô. Một trong ba nhà mà ba mẹ già của Sam ở còn một phòng trống mà chúng tôi có thể ở nếu muốn lên. Sam cho biết thêm, ba anh rất hoạt bát và rành tiếng Anh; ông còn là một Phật tử sùng đạo luôn ngồi thiền và thích đàm luận Phật pháp cao thâm. Chúng tôi rất hoan hỷ nhận lời. Đươc biết Kandy là nơi mà Thầy Nyanaponika, một vị sư nổi tiếng người Đức, từng sống tu trong rừng. Chính Thầy viết quyển The Heart of Buddhist Meditation[29] tôi đọc trước đây. Tôi rất mong được tham vấn Thầy.

Sáng hôm sau, Chris và tôi xuống phố, đến Sở Di Trú, và được phép gia hạn thêm hai tháng nữa một cách d­ễ dàng. Đuợc biết đây là gia hạn chót và chúng tôi phải rời đảo khi hết hạn. Nhơn dịp ở dưới phố, tôi có viết ít chữ về nhà cho Ba Má tôi nói tôi còn theo thiền và yoga và sẽ qua Ấn Độ ở sáu tháng. Còn về lâu về dài, có lẽ tôi sẽ trở lại Sri Lanka sau khi học xong yoga.

Xế, chúng tôi đến Đền Vajirarama để kính chào Thầy Narada và cũng để xem Sư Samitta còn ở đó không. Chúng tôi gặp Sư trong chùa đi ra, ngay tại cổng chánh. Sư cho chúng tôi hay Thầy Narada đang đi du thuyết Phật pháp hằng năm ở Vi­ễn Đông và hiện dạy tại Indonesia; Thầy chỉ trở về sau khi ba tháng mưa chấm dứt. Còn Sư vô 'Vas[30]' ba tháng, trong một ẩn cư hẻo lánh cách Colombo ba mươi dặm; hôm nay Sư lên Colombo chửa răng và trên đường ra nha sĩ.

Trong lúc chúng tôi đứng nói chuyện, có một ông lão tới quỳ bái Sư; Sư Samitta ban phước lành cho lão bằng tiếng Sinhalese. Tiếp theo, ông lão quay qua bái tôi, tôi ngạc nhiên lùi ra trong lúc Sư Samitta nói với lão tôi không phải là sư. Ông lão không nghe và không cần biết cứ tiếp tục lạy tôi ba lạy rồi lạy Chris cũng ba lạy, dầu ông lạy rất khó khăn vì gối mỏi chân chồn của tuổi già. Sư Samitta đắp y màu sẫm đàng hoàng đúng bậc chân tu, còn tôi chắc ông lầm là sa di (swami) hay chi chi đó vì mớ tóc còn ngắn của tôi và màu vàng của sà rong cũng như màu cam của áo tôi đang mặc. Lúc lão ông đi khuất vô chùa, Sư Samitta có lời trách tôi mặc chiếc y trong của sư sãi khiến người ta d­ễ lầm như lão ông vừa rồi; tôi chưa thọ giới chớ nên ăn mặc như vậy, không chỉnh. Sư nói thêm sư không muốn gặp tôi nữa và tôi đừng tìm quấy rầy sư nếu tôi tiếp tục ăn mặc như vậy. Sư còn đề nghị tôi không nên mặc áo màu cam. Tôi bị sốc, dầu là sốc nhẹ, nên chỉ có thể phản ứng 'OK' với giọng dìu dịu. Rồi sư nói cụt ngủn: 'Tôi phải đi đây,' và bỏ ra đường, để tôi và Chris đứng nhìn nhau với nhiều câu hỏi trong đầu. Trong suốt thời kỳ qua tôi mặc sà rong vàng này trước công chúng, trước mặt cả các sư Sinhalese trong chùa, có ai phê phán gì đâu--ít ra là thẳng với tôi?! Tuy nhiên, sau khi suy nghĩ lại và vì tôn trọng sư Samitta cũng như Tăng đoàn, tôi không mặc chiếc sà rong vàng của tu sĩ nơi công cộng nữa.

*

Chương 17

GOTHAMA TAPOVANAYA

Cố đô Kandy nằm trong vùng có khí hậu dịu mát hơn so với khí hậu nóng ẩm của duyên hải. Sự thay đổi đem cho Chris và tôi cảm giác rất thoải mái. Gia đình Sam luôn hiếu khách, dành cho chúng tôi một phòng lớn trong nhà từ đường. Rất thích thú! Nhưng chỉ hai hôm sau Chris phải vô nhà thương vì bị sưng chưn. Bác sĩ chưa biết bịnh gì nên giữ anh lại để làm thêm một số thí nghiệm và chụp quang tuyến. Chris không dám về bởi từng nghe nói nhiều tới các chứng bịnh nhiệt đới nên sợ.

Trại Chris nằm là một ba rắc cũ trống trơn, không có cả lưới cản ruồi muỗi, còn giường nằm xếp thành dãy dài không kín đáo gì hết. Mền gối chỉ được thay một tuần một lần và cơm bịnh không có gì hấp dẫn. Chỉ được có cái là tất cả đều miễ­n phí. Trong xứ nghèo thật khó thể đòi hỏi gì hơn! Trong suốt mười hôm Chris nằm nhà thương, tôi vô thăm mỗi ngày để xem kết quả thử nghiệm và ở chơi vài tiếng cho anh có bạn. Tôi cũng có đem cho anh trái cây và thức ăn bồi bổ, và một ít sách Wheel mua ở Buddhist Publications Society cho anh giải khuyây. Đây là dịp tôi hành hạnh từ, một điể­m yếu của tôi mà tôi kịp nhận thấy khi đối xử với Ronald ở Nepal.

Cùng trong lúc này, tôi đến viếng danh sư Nyanaponika Thera ở Forest Hermitage. Thầy sống trong một nhà lớn nằm sâu giữa rừng già sát cố đô. Đường đến Thầy rất ngoạn mục: có cái hồ nhỏ với tre cao vút và cây cối um tùm; khỉ ra từng bầy, đùa giỡn tự do trên cây chằng chịt dây leo như trong phim Tarzan. Lúc tôi tới, vị sư già uyên bác đang bận rộn với công việc viết lách của Thầy; tuy nhiên, Thầy vẫn ôn tồn mời tôi vào. Tôi thưa với Thầy rằng tôi đã đọc sách Thầy, thực tập thiền quán sổ tức bằng cách thở bụng, và đạt kết quả rất như ý. Thầy nói tập tỉnh thức dựa vào sự 'phồng xẹp' của bụng rất thuận lợi cho việc tạo sự tập trung nhứt thời mà thiền minh sát sử dụng. Phương pháp này được xem như thích hợp cho nhiều khí chất khác nhau và tạm đủ để phát triển nội tâm dẫn đến khai ngộ. Phương pháp chính thống của quán sổ tức, tức chú ý hơi thở qua chót mũi hay môi trên, được dùng nhiều để đạt phép nhứt-điểm-chú-tâm sâu xa dẫn đến tình trạng thiền na. Tôi mô tả sự thí nghiệm của riêng mình đối với hai phương pháp và rất tán đồng quan điểm của Thầy Thera.

Trước khi cáo biệt, tôi xin Thầy chỉ cho một ít thiền viện ở Sri Lanka, ngoài thiền viện Kanduboda, dạy phương pháp thiền minh sát Mahasi Sayadaw. Thầy cho tôi tên Gothama Thapovanaya và nói Thầy Vangisa Maha Thera ở đó có học riêng với nhiều sư Miến Điện đến đảo hồi 1956; Thầy này nói tiếng Anh không giỏi nhưng có người dịch. Thapovanaya là thiền viện duy nhứt phục vụ người phương Tây và chỉ cách Colombo có sáu dậm, trong một rừng cao su. Trước khi qua Ấn Độ, tôi muốn dành sáu tuần ở đây để thiền chớ không làm gì khác hơn nên định sẽ đi viếng 'rừng khổ hạnh' Thapovanaya khi nào Chris ra nhà thương.

Sau cùng, bác sĩ định bịnh cho biết Chris bị chứng đầu voi nhẹ. Bịnh này do muỗi truyền nhi­ễm và thường thấy miệt dọc biển. Chris bị nhi­ễm có lẽ lúc ở Unawatuna. Tôi ngạc nhiên không biết sao không bị, nhưng không mong. Chris chích thuốc kháng sinh, chưn anh xẹp dần, kể như hết bịnh, và được xuất viện sau đó. Trong lúc anh ở lại vùng Kandy mát mẻ này để dưỡng sức, tôi chỉ ở thêm vài hôm rồi xuống Colombo để tới Gothama Thapovanaya hỏi xin tạm trú và học thiền minh sát một tháng. Chúng tôi hẹn gặp nhau ở Colombo truớc 28 tháng Chín, ngày mà chúng tôi định lấy tàu trở qua Rameswaram hầu tới Pondicherry ngày 1 tháng Mười.

Đến Colombo tôi ở với Sam một ngày để báo anh biết những gì đã xảy ra và chương trình sắp tới của chúng tôi. Sau đó tôi đi liền ra Gothama Thapovanaya. Thiền viện ở giữa rừng cao su, rộng, có nhiều đường ngang dọc mới được quét sạch bóng. Thầy Vangisa Maha Thera trạc trung niên, thấp và tròn. Thầy tươi cười mời tôi vô tiền sảnh. Tôi kính bái Thầy và ngồi xuống sàn. Tôi thưa muốn học thiền dưới sự chỉ giáo của Thầy và không có đề cặp tới khóa học Kanduboda vì muốn xem mình là một học trò mới hoàn toàn. Thầy đồng ý cho phép tôi ở lại liền. Thầy gọi thị giả đưa tôi ra khu yogi và cho tôi một cốc với gối mền đầy đủ. Thầy nói tôi cứ lo thu xếp chỗ ở trước rồi Thầy sẽ cho gọi lên khi vị thông ngôn tới.

Một giờ sau, tôi lên gặp Thầy và bà thông ngôn. Thầy nói về phương pháp quán minh, cũng giống như phương pháp tôi học ở Kanduboda và đang tập lâu nay. Thầy bảo tôi thực hành chẫm rãi, nên đi và ngồi thiền xen kẽ, và thiền liên tục suốt ngày từ sáng đến tối. Tôi có thể tham vấn Thầy vào buổi chiều mỗi hai hoặc ba ngày khi có thông ngôn. Nếu có vấn đề gì gấp, tôi có thể đến liêu Thầy và Thầy sẽ giải quyết cho; Thầy không giỏi nhưng nói được tiếng Anh và trong viện cũng có một số đệ tử lâu năm biết tiếng Anh. Tôi trở về cốc bắt đầu thực tập. Tôi cũng lén tập điều tức và yoga, hai môn mà nơi đây không hẳn cấm đoán.

Cách sắp xếp ở viện này hơi khác cách sắp xếp ở Kanduboda. Khu nam yogi là một toà nhà duy nhứt gồm hai dãy cốc nhỏ với một hành lang chính giữa; mỗi dãy có mười cốc, còn hành lang được chia làm ba làn dùng cho thiền hành. Đầu trên hành lang có một phòng riêng biệt dùng làm điện thờ Phật. Đầu dưới là khu vệ sinh công cộng. Chung quanh tòa nhà có con đường đất mà học viên cũng có thể đi thiền. Toàn khu là rừng cây cao su rợp bóng mát. Ngay đối diện với cổng vào là giảng đường Phật học mới cất mà viện dùng làm nơi 'cắm trại sil'' trong những ngày poya trăng tròn.

Hiện tại, ngoài tôi chỉ có một yogi người phương Tây sống trong cốc ở đầu dưới. Anh cũng ở Mỹ qua, tên Allen. Chúng tôi có gặp nhau vài lần và có trò chuyện nhưng không có nói gì nhiều. Allen đến học thiền hai tuần nay và sẽ rời đây đi Ấn Độ trong vài ngày sắp tới. Anh cho biết viện rất yên tĩnh, ngoại trừ đám đông đến l­ễ trong những ngày trăng tròn và các em mồ côi do viện bảo trợ tới chơi giỡn trong sân.

Thời khóa biểu gần giống như ở Kanbuboda trừ mục thiền tập thể. Kiểng đánh thức lúc 4:00 giờ sáng (hợp lý hơn 3:00 giờ ở Kanduboda) và không có kiểng báo giờ đi ngủ; cũng không có đồng hồ trong nhà. Mỗi yogi được tự do đi hay ngồi thiền lúc thuận tiện (chớ không bị bắt buộc theo giờ giấc nhứt định). Giếng tắm giặt không xa nhà lắm. Có mười hai sa di tuổi từ 8-12 và bốn năm tỳ kheo; tất cả đều là đệ tử của Thầy Vangisa. Các chú tiểu thường xuyên học kinh sách và một ít phải ra ngoài học ở pirivenas (trường dành cho tu sĩ). Nhiều chú muốn học Anh văn nên thường kiếm yogi người phương Tây xin dạy cho bập bẹ vài tiếng, dầu rằng Thầy Vangisa không cho phép họ quấy rầy chúng tôi. Không có sư nào tập thiền quán, chỉ lo làm l­ễ puja hay đọc kinh dài lê thê.

Cơm dọn trong pháp đường và mọi nguời theo thứ bậc mình mà ngồi như sau: yogi ngồi trên chiếu dưới sàn; sa di ngồi theo hàng dọc nối tiếp trên băng dựa vách; tỳ kheo ngồi bàn bên kia cách bên này một khoảng; Thầy Vangisa ngồi đầu bàn. Tu sĩ ăn trong bình bát bằng thiếc đen. Yogi ăn trong dĩa như ở Kanduboda. Khác với đằng Kanduboda, thức ăn không phải do thí chủ mà do các chú tiểu múc; các chú múc mỗi thứ một muỗng đổ vô mỗi dĩa hay bình bát một cách không tỉnh thức chút nào hết. Tiểu trẻ ăn nhanh, chừng mười phút là xong nhưng phải ngồi chờ. Khi được Thầy Vangisa ra lịnh, các chú rửa nhanh tay dơ trong tô nước rồi đồng loạt đứng dậy ra ngoài đổ thức ăn thừa cho thú vật ăn trước khi rửa bình bát bằng nước vòi. Đối với tỳ kheo, tôn ti, trái lại, được Thầy Vangisa giữ rất nghiêm nhặt. Riêng tôi, thực tập ăn chậm nên tôi chỉ mới ăn được năm-sáu miếng là mọi người đã xong. Rất may, Thầy khoan dung bảo tôi cứ ngồi ăn trong tỉnh thức đến chừng nào xong thì thôi, do đó tôi luôn luôn là người ăn ra sau cùng.

Trước đây, Thầy Vangisa có thọ giới cho một tỳ kheo người Mỹ. Pháp danh người là Sudhamma. Thầy Sudhamma sống riêng biệt trong đầu dưới của một ẩn cư lớn có nhiều cốc độc lập dành cho hàng tỳ kheo cao cấp và sa di ngoại quốc. Giờ cơm, thầy đến nhận phần rồi đem về ăn trong cốc của thầy. Yogi không được phép đến khu ẩn cư đó nhưng tôi có lần được gặp thầy trong khu kế cận và có nói đôi ba câu chuyện với thầy. Tôi rất muốn hỏi thầy về đời sống tu sĩ ở đây và muốn biết phải làm thế nào để được thọ giới. Thầy thọ giới mới sáu tháng nay và là đệ tử Tây phương đầu tiên của Thầy Vangisa. Thầy nói Thầy hơi nản vì phải thiền hoài ở nơi vắng vẻ trong lúc các tiểu có thể đi quanh trò chuyện. Thầy cũng rất nhớ nhà ở Ohio. Thầy Sudhamma dự tính sẽ ra đi trong tuần tới và yêu cầu tôi đừng nói với ai câu chuyện này. Vài hôm sau, có tin Thầy Sudhamma đã 'nhảy rào,' để lại hành lý và không một lời từ giã, cả với Thầy Vangisa. Thầy cũng không lưu lại một chữ nào.

Sự ra đi bất thần của thầy Sudhamma làm viện buồn lòng, vì trong sáu tháng qua các tỳ kheo và Thầy Vangisa đã giúp thầy rất nhiệt tình. Các thầy hỏi tôi chớ sao thầy Sudhamma làm vậy. Tôi không ngạc nhiên nhưng nào dám có câu trả lời; vả lại, thầy đâu có nói với tôi rằng sẽ ra đi bất thần và bí mật như vậy. Tôi nghĩ tâm thầy đã bị phân hai và thầy sợ nếu thố lộ, thầy sẽ bị nói vô thêm rối trí, nên đi lén là hơn.

Một đêm nọ tôi đạt một chứng nghiệm độc đáo. Suốt ngày hôm trước, từ sáng cho tới tối lúc đi ngủ, lúc nào tôi cũng chú tâm tỉnh giác cao độ lên tất cả chi tiết của mọi động tác. Khuya, lúc 2:00 giờ sáng tôi thức giấc đi tiểu, tôi bỗng có cảm giác như mình đang xem chiếu bóng quây chậm: tôi có thể nhìn thấy từng 'hình' một khởi rồi tắt, nối tiếp liên tục. Nhận thức ấy bắt đầu từ lúc tôi mở mắt và ngay trong lúc tôi ngồi, đứng, đi vô phòng vệ sinh, tiểu, trở về cốc, nằm xuống, và nhắm mắt. Cũng giống như hồi ở Kanduboda, nhưng lần này thay vì một lóe riêng biệt của tâm thức, nó xảy ra liện tục và tự nhiên (không cố gắng) trong năm phút. Tôi quan sát trọn tiến trình lạ thường này một cách trầm tĩnh. Sáng dậy tôi trở lại trạng thái tỉnh thức bình thường. Một đôi lần khi tôi không bao giờ nghĩ tới, tâm thức tôi lại bừng sáng lạ kỳ, có thể nhận thức mọi chi tiết nhỏ nhặt như cử động của ngón chân, ngón tay, cái nháy mắt, tiếng chim kêu, hay làn gió qua tóc. Đó là những nội thức trực tiếp lên các khía cạnh của nhận thức bị che lấp bởi nhiều lớp màn dày do những cử động nhanh, sự trông chờ của 'cái tôi' và chấp trước.

Sau một tháng ở Gotama Thapovanaya tôi quyết định sẽ xuất gia khi ở Ấn Độ trở về. Tôi rất hạp với Thầy Vangisa và các tỳ kheo trẻ ở đây. Tôi cũng rất thích không khí tu học này. Tôi xin Thầy Vangisa được thọ giới tỳ kheo với Thầy khi tôi trở lại vào sáu tháng tới. Tôi trình bày: chương trình qua Ấn Độ của tôi được định từ trước, theo đó tôi sẽ học cho xong yoga bởi nhận thấy yoga giúp tôi sống khỏe, làm khí huyết điều hòa và trí lực gia tăng khả dĩ hữu ích cho công phu thiền định. Thầy rất đồng ý với tôi và nói tôi có thể trở lại Thapovanaya sống một thời gian trong lúc chờ Thầy quyết định việc thọ giới. Có lẽ Thầy chưa quên chuyện thầy Sudhamma nên dè dặt với người ngoại quốc. Tôi rất kính trọng và biết ơn Thầy.

*

 Chương 18

ANANDA ASHRAM

Dưới phố Pondichery, Aurobindo Ashram làm chủ nhiều khu phố lớn quan trọng dọc biển nên có nhiều ảnh hưởng lớn và nhiều người biết đến. Còn Ananda Ashram của Thầy Swami Gitananda chưa nổi tiếng nên dân taxi và xe 'tút tút' thường nghĩ du khách nói đi ashram là muốn tới Aurobindo hay chi nhánh của Aurobindo là Auroville. Vì vậy, Chris và tôi gặp không biết bao nhiêu là rắc rối mới tới được Ananda Ashram trong khu ngoại ô Lawspet. Nếu Lawspet khô khan, thiếu cây cối và trống vắng, Ananda Ashram lại là một ốc đảo xanh mướt với nhà cửa tươi sáng và nhiều lối cát sạch rợp bóng. Vừa đến nơi, chúng tôi được bà Meenakshi đón tiếp ngay, dầu bà rất bận với công việc thu xếp cho học viên đang lũ lượt về. Bà nhận ra chúng tôi liền là hai học viên của khoá ở Colombo trước đây.

Đêm hôm sau, 30 tây, khóa học bắt đầu. Khóa sinh vào ngồi xong, Thầy Swamiji ra khai mạc. Theo thời khóa biểu giờ tối này là giờ của satsangha, và satsangha đầu tiên tối nay được dùng để thầy trò tìm hiểu nhau và thông báo thời khóa biểu cũng như quy luật của khóa học. Chương trình học khá nặng, không khác gì chương trình của một lục cá nguyệt đại học, nên cái tên The Yoga Vedanta University of South India Thầy Swami đặt cho Ananda Ashram không có gì là quá đáng. Có từ sáu đến tám tiết học mỗi ngày bắt đầu từ 4:00 giờ sáng gọi là Giờ Thiền Thiêng hay Brahma Mahurta và kết thúc sau khi xong satsangha đêm. Ngoài hatha yoga/điều tức dạy hằng ngày vào lúc 7:30 sáng, còn có các đề tài sau: thư giãn yoga và kỹ thuật tập trung, sức khỏe, phép ăn uống, vệ sinh, vật lý trị liệu yoga, tâm lý học, ngôn ngữ Sanskrit và Tamil, hát bhajan (mộ đạo), tụng chú, vân vân. Thầy Swamiji đặc biệt nhấn mạnh đến hai mục trì giới (hành ngũ giới) và đúng giờ. Thứ Hai nghỉ, khóa sinh có thể đi phố, nhà băng, mua sắm vặt, ra biển, hay nằm nhà tùy ý. Phần lớn các tiết được học trong sân cát, nơi vườn chính, dưới bóng các cây điều, ở đằng sau. Trong khu hai mẫu vuông đươc rào cẩn thận của ashram thấy có nhiều cây trái như đu đủ, chuối, dừa, điều, và nhiều thứ khác nữa. Có thêm nhiều giồng trồng rau, hoa, cây thuốc, và nhiều chậu bông bản xứ. Tất cả được sắp xếp và châm sóc tươm tất. Thầy Swami Gitananda chọn khu đất hoang vu khô khan này để lập ashram 'Vườn Địa Đàng' chắc có biết trước mạch nước ngầm dồi dào ở đây, mạch nước mát và giàu chất sắt mà ashram đang hoan hỷ tận dụng.

Trong tuần đầu, tất cả khóa sinh đều phải học tẩy hệ tiêu hóa bằng nước muối và nhịn ăn một thời gian dài ngắn tùy theo chu kỳ sinh học của mỗi người. Tôi nhịn ăn bốn ngày và cảm thấy thân tâm nhẹ nhàng, trong sáng, đầy sinh khí.

Theo thời khóa biểu, ngoài giờ thiền tự do từ 4:00 đến 6:00 giờ sáng, trong ngày học không có lúc nào rảnh có thể tự thực tập thêm, nên chúng tôi có cảm tưởng không đủ thì giờ để hiểu hết mọi điều Thầy dạy, dầu khóa kéo dài những sáu tháng. Chúng tôi bắt đầu dùng khoảng sau cơm chiều, giữa giờ tụng chú và satsangha, để tự tập các thế điều tức chuyên sâu như đứng bằng đầu và nhiều thế khó khác.

Chúng tôi ra bãi biển trên phía Bắc Pondicherry vào hai sáng thứ Ba và Sáu. Rời ashram rất sớm, chúng tôi tới bãi trước hừng đông để mừng mặt trời lên, tụng AA-OO-MM, tập thế Suriya Namaskar (Lễ­ Mặt Trời) hay một thế đặc biệt khác, và luyện mắt dùng những tia sáng đầu tiên trong ngày. Thỉnh thoảng, chúng tôi ngồi thế kiết già hay bán già thành hàng dọc dài ngay mé nước, tập điều tức để sóng vỗ nhẹ vô chân. Thầy Sawmiji đứng phía trước hướng dẫn; Thầy vẫn như hồi thuở nào, cũng mặc chiếc dhoti vàng, ngực trần to, mớ tóc bạc dài, và bộ râu rậm ri. Hình ảnh Thầy làm tôi nhớ tới thầy đội (drill) trong quân trường theo sửa thế cho tân binh và quát tháo om sòm thỉnh thoảng. Nhóm chúng tôi gây sự tò mò chú ý của nhiều dân đánh cá và dân leo dừa[31] ra bãi sớm để làm lễ­ tắm[32] hay làm việc, hoặc cả hai. Tập xong (một tiếng rưỡi đồng hồ), chúng tôi xuống biển nhảy sóng tắm mát; biển xanh Coromandel tuyệt đẹp. Sau đó, chúng tôi trở về ăn sáng trước khi lên lớp 9:00 giờ.

Ngày rằm mỗi tháng, tất cả ashram ra cắm trại ngoài một bãi biển khác, vắng vẻ và xa hơn, trên mạn Bắc. Chúng tôi mướn xe đạp đi, còn Thầy Swami và bà Meenakshi lấy taxi ba bánh, chở theo bữa ăn nhẹ để dùng sau thời tụng chú. Sinh hoạt của chúng tôi luôn luôn có mục đắp mạn đà la hình ngôi sao, trái tim hay một biểu tượng lành khác trên cát gần mé nước. Lúc trăng lên, chúng tôi mừng trăng bằng nguyệt chú[33]bhajan. Một lúc sau triều lên. Chúng tôi đứng nhìn các mạn đà la trôi theo sóng nước, học một bài học về chu kỳ thiên nhiên của sanh tử, vũ điệu của sáng tạo và hủy diệt mà chúng ta không ai tránh khỏi.

Mỗi tối, chúng tôi ngồi quanh Thầy trong satsangha để nghe Thầy nói chuyện và trả lời các câu hỏi của chúng tôi. Chuyện của Thầy kể lúc nào cũng dài sọc nhưng hấp dẫn, còn các câu trả lời luôn luôn súc tích và bổ ích. Từ 10:30 đến 11:00 giờ: mọi người bắt đầu đi ngủ. Riêng tôi thích thức ít nhứt là tới khuya để tắm trăng; tôi thiết tưởng trăng có năng lượng huyền bí đặc biệt. Tôi cũng thường ngồi thiền, áp dụng phép điều tức (để tăng khí lực), tập những thế yoga khó (dùng cát êm làm trợ cụ), hay vừa suy tư vừa đi dạo dọc bãi. Tôi hãnh diện--dầu là hãnh diện rất nhỏ nhoi--thấy mình còn thức trong lúc các bạn ngủ say.

Một đêm nọ chúng tôi tình cờ được chứng kiến một đám tang theo tục lệ cổ truyền. Lúc chạng vạng, thấy có một đoàn người đi từ trong làng gần đó ra bãi, với chiếc kiệu khiêng cao trên ấy người chết nằm bất động. Đoàn đánh trống thổi kèn inh ỏi. Đoàn dừng lại cách chúng tôi chừng vài trăm thước và bà con bắt đầu dựng dàn hỏa bằng củi rút trong xe kéo theo. Xong, họ trịnh trọng đặt xác chết lên dàn, làm l­ễ theo nghi thức đạo Hồi, rồi châm lửa. Lửa cháy phừng, bà con lục tục kéo nhau trở vô làng. Lửa tiếp tục cháy và than tiếp tục hừng cho tới khuya. Khi mọi người trong đám chúng tôi ngủ say, tôi đến nơi hỏa táng đã vắng tanh, ngồi nhìn đống than hồng. Thấy vài đốt xương sống cháy xèo xèo, những gì còn lại của người nằm xuống, tôi lấy cây khều xương cho cháy thành tro, xem đó như một cách thiền và là một hành động của người tìm phước báu. Rồi tôi lấy cát phủ lên tro và trịnh trọng đặt lên vài viên đá. Tôi quay về trong tỉnh thức, tưởng tượng thân mình rồi cũng đồng chung số phận!

Nói về tín ngưỡng, Ananda Ashram có không khí đậm nét Hindu. Hình tượng của các linh thần như Thần Ganesha đầu voi, Thần Krishna thổi sáo và Thần Vũ Công Shiva thấy nhan nhản ở nhiều nơi. Các tượng đều được đạo sĩ sống gần đây đến làm l­ễ lau rửa mỗi sáng, chấm phấn màu lên trán, cúng hoa mới, và đọc chú Sanskrit. Riêng sáng chú nhựt, có thêm chúng tôi (tắm gội và ăn mặc tử tế) lên dự lễ­ puja, không khác chi con chiên Công giáo đi nhà thờ vậy. Thầy Swami và bà Meenakshi hướng dẫn chúng tôi đọc kinh hướng lên Thần Shiva và đọc bhajan, trong lúc đạo sư làm l­ễ rửa tượng đồng Thần Vũ Công Shiva và bộ lingam/yoni trong đền. Tiếp theo, chúng tôi được trao cho một thứ bánh ngọt gọi là prasad (bánh thiêng), hơ tay trên đèn long nảo và chấm phấn màu lên trán, nếu muốn. Các nghi thức vừa nói đều được vị đạo sư đem đến từng người. Thỉnh thoảng, chúng tôi dự thêm lễ­ puja đặc biệt như puja kỹ niệm ngày sanh hay tử của các Thánh, ngày lễ­ Hindu, và sinh nhựt của Guru Swami Gitananda. Vào những ngày lễ­ lớn này, bá tánh được mời tới dự và dùng cơm theo lối cổ truyền, tức ngồi dưới đất và ăn trong dĩa bằng lá chuối.

Các bài giảng của Thầy Swamiji về khoa yoga và đề tài liên hệ là suối nguồn kiến thức vô tận. Tuy nhiên, có một số điều Thầy trình bày hơi quá lố, như khi Thầy chỉ trích hay chế giễ­u văn hoá, khoa học, y khoa và một ít nhân vật của phương Tây, khiến nhiều khóa sinh khó chịu. Tôi biết Thầy đi hơi xa, nhưng tôi cũng biết Thầy muốn nhấn mạnh tới điểm ta cần từ bỏ những gì giả tạo, nhứt là hóa chất và thuốc men của thời hiện tại, được sử dụng đầu tiên bên phương Tây và đang lan truyền qua phương Đông. Thầy nói các thứ này được biết gây thêm nghiện ngập không lành mạnh và nhiều phức tạp y tế. Thầy nói thêm, ô nhiễm do con người gây ra--một hình thức cưỡng hiếp thân tâm của địa cầu--sẽ tận diệt loài người. Và, là con người sống tùy thuộc môi trường, chúng ta phải theo lối sống của yoga mới mong có được thân tâm khỏe mạnh, trong sạch và hạnh phúc trong thế giới hầu như bịnh hoạn, không lành mạnh và thiếu hạnh phúc hiện nay. Các điểm nhấn đó và sự chân thành của Thầy là nguồn cảm hứng rất quan trọng đối với tôi. Tôi rất quý thái độ không dung hòa trong lãnh vực luân lý, y tế, tập quán, vân vân của Thầy.

Với thời gian, chúng tôi học được phép tẩy độc, kích động và trẻ hóa các phần của thân và tâm bằng nhiều phương cách bổ sung khác nhau. Tôi hiểu thế nào là các chức năng của cơ thể và ảnh hưởng của các chức năng ấy tới tâm--điều mà truớc đây tôi chưa biết (xem VIII, phụ bản 1). Động lực và tính đàn hồi của phổi cũng như tiến trình hô hấp với tỷ lệ hô hấp và chuyển động của khí lực prana có lẽ là khám phá quan trọng nhứt của tôi trên bình diện cơ thể. Và trong những tiết học chiều về trị liệu, chúng tôi học được nhiều điều như sự di động của xương sống, sự thư giãn sống lưng, mông, vai, cổ, sự nắn bóp chân, và nhiều phép xoa bóp khác. Học được phương pháp nào, chúng tôi thực hành liền phương pháp nấy trên đối tác tự chọn, dưới sự quan sát của Thầy. Lối học này rất cụ thể và thực nghiệm mà khóa sinh có thể áp dụng ngay trong đời. Thiết tưởng tôi có thể giúp mẹ tôi khỏi phải đi bác sĩ nắn bóp chữa bịnh viêm khớp xương nhẹ và đau lưng của bà. Chúng tôi cũng được học cách trị liệu dáng điệu có thể giúp các người bị suy­ễn, tiểu đường, cao máu, táo bón, và nhiều bịnh mãn tính khác, kể cả luyện mắt để nhìn thấy khá hơn. Thật rất hữu ích và thâm diệu.

Tuần lễ­ từ ngày Giáng Sinh đến Tết Tây, Thầy đưa khóa sinh đi viếng các ashram, đền chùa và nhiều điểm hành hương khác ở miền Nam nước Ấn. Tôi không muốn đi theo nên sẽ tới thành cổ Gingee, cách Pondicherry lối năm mươi dặm. Bà bà Meenakshi có đến thăm đôi lần rồi và có kể sơ cho tôi nghe. Thành được xây trên một khu cao, bằng phẳng, khô cằn, có vẻ như là một núi đá, có bực cấp dẫn lên đỉnh trên ấy còn vài đền bằng đá nguyên trạng. Có thêm cái hồ dưới lũng nhỏ mà nước có thể uống được nếu quậy thêm chút iodine hay viên khử nước. Thành đá Gingee là thắng cảnh của miền Nam Ấn Độ. Không ai được phép qua đêm tại đây; nhưng tôi nghĩ, nếu tôi muốn ở lén, chắc cũng không ai biết đâu. Có du khách nhưng khu vẫn yên tĩnh và như thế có thể là cảnh lý tưởng cho tôi ở lại ít ngày. Ý kiến hay! Tôi sẽ ở lại và biến năm ngày nghỉ Giáng Sinh thành một khóa học mini. Tôi sẽ thực tập thiền minh sát bù cho những giờ thiền chưa thấy đủ và có thể chỉ ăn trái cây trừ cơm hay nhịn đói cũng được. Thêm vào, lúc bấy giờ sẽ là mùa trăng hạ tuần nên hy vọng tâm không bị động mấy.

Ngày Giáng Sinh, tôi ra dự l­ễ puja sáng và ăn bữa cơm trưa cổ truyền với dĩa bằng lá chuối, bữa cơm đầy đủ chất lượng sau cùng trước khi tôi cất bước lên đường. Với xách đeo lưng đựng áo jalaba, poncho, chiếu và chai nước, tôi lấy buýt vô hướng nội địa. Xuống xe, tôi ghé lại làng Gingee mua một mớ đủ thứ trái cây và bịch đậu phọng cho những ngày cắm trại; tôi không mua nước vì định sẽ nhịn khi chai nuớc đem theo cạn. Tôi đến cửa trả năm mươi paise lấy vé và đi vô như mọi du khách khác. Tôi nhởn nhơ theo các bực thang đá ngoằn ngoèo leo lên đỉnh. Quang cảnh chung quanh mênh mông. Tôi vô một trong các đền, dấu xách trong góc khuất và tìm chỗ núp nắng ban ngày. Đêm đến tôi đem đồ (chiếu, jalaba poncho) ra ngủ ngoài trời. Không khí mùa Đông dưới miền Nam xứ Ấn trong lành và đầy sinh lực; tôi lợi dụng để luyện điều tức, tập mudra[34] và ngồi thiền. Tôi cũng dành nhiều giờ ngồi lặng nhìn cảnh đồng quê xa tít tới chân trời để suy nghiệm. Nay, tôi có thói quen ưa tìm xem sự việc xảy ra cho tôi và trên thế giới có ăn khớp với quan điểm Phật giáo và Yoga chăng. Tôi có đọc báo Anh ngữ thỉnh thoảng và biết một ít tin tức thế giới mà Thầy Swami bình luận đôi khi (Thầy đọc báo mỗi ngày) và nhận thấy Chân Pháp rất huyền diệu. Tôi nghĩ hầu hết người đời đều ngông cuồng, bị lèo lái bởi bản ngã vô minh, tham, sân, si; cả Tổng Thống Mỹ, người được xem như lãnh đạo của thế giới tự do, rất tiếc cũng không thoát khỏi tam độc[35]! Tôi quán tưởng quá khứ--làm thế nào tôi đến đây, và suy đoán tương lai--tôi sẽ về đâu. Sau ba tháng trong ashram, tôi cảm thấy thoải mái ở một mình nơi đây và tôi thích thú.

Cuối tháng Ba, chỉ còn mười học viên đi trọn con đuờng sáu tháng. Vào những tuần chót Thầy Swami dạy nhóm 'gạo cội' chúng tôi phương pháp tầm cao hundred syllable mantra layaLaya Yoga kriyas. Các thế phức tạp này đưa tinh khí kundalini lên tâm rỗng của cột sống (sushumna nadi), ngang qua bảy huyệt đến huyệt 'hoa sen ngàn cánh[36]' trên đỉnh đầu. Khi Tâm Thức Vũ Trụ hình thành trọn vẹn nơi luân xa đỉnh đầu này hành giả yoga sẽ được khai ngộ và thoát vòng luân hồi. Đó là Niết Bàn Brahma, chỉ đạt được bằng Laya Yoga kriyas, được xem như những phép mật lý trọn vẹn nhứt và cao tột. Những phương pháp khác như điều tức, quán luân xa, vân vân, chỉ nhắm mục đích tịnh hóa hệ thống huyệt/thần kinh hầu tiến tới tình trạng tối hậu.

Chứng nghiệm 'việc đánh thức kundalini' có thấy được mô tả trong một số sách như một tia sét xẹt lan truyền nhanh hay một một luồng điện nóng có khi đau nhức lan truyền dần, từ dưới lên trên trong cột sống. Krya đòi hỏi sự chú tâm cao độ và sự kiểm soát thận trọng khí lực prana; tôi có kiên tâm tập nhiều tuần nhưng không gặp trở ngại nào như đã mô tả. Trái lại, sau ba mươi-sáu mươi phút tập, tôi cảm thấy sảng khoái, cái sảng khoái mà tôi chứng nghiệm sau một giờ tập thiền minh sát.

Tôi luôn luôn xem thiền quán Phật giáo như con đường dẫn tới Giác Ngộ và Yoga như phương tiện hỗ trợ sự tẩy hóa 'ngôi đền thân thể.' So sánh với thiền minh sát, những phương pháp như điều tức, chú tâm và tham thiền, krya, vấn đề luân xa và sự làm gia tăng kundalini có vẻ quá phức tạp và có thể không cần thiết. Tuy nhiên, tôi ráng học được chừng nào hay chừng nấy hầu đạt được bao nhiêu kinh nghiệm và lợi lạc hay bấy nhiêu--trí óc tôi lúc nào cũng rộng mở. Tôi biết tất cả đều có cái hay bởi nếu không thì làm sao được nâng lên thành hệ thống khoa học chính xác cao. Do đó, tôi không nghĩ kết quả đạt được bằng các phương pháp ấy là ảo tưởng. Tôi cũng biết không phải chỉ có con đường duy nhứt đó, và đường đó (với tất cả chi tiết và gốc độ) không phải là con đường tôi chọn.

Nhìn chung, khóa học đã đem đến cho tôi nhiều kết quả tốt. Tôi học được rất nhiều về yoga, lý thuyết cũng như thực hành. Tôi cũng hiểu được bản chất và phạm vi của môn này. Về lối sống ở đời mà Thầy Swami đã chỉ giáo, tôi không nghĩ tôi sẽ áp dụng hết bởi tôi đang hướng tâm đến đời sống của tu sĩ, nhưng không phải không bổ ích nếu xem chúng như kinh nghiệm hỗ trợ. Ý nguyện thọ giáo để trở thành một nhà sư tu trong rừng đang thúc đẩy tôi trở lại Sri Lanka càng sớm càng tốt, và tôi đã sẵn sàng.

Chris cũng theo khóa học tới cùng, nhưng anh đã đổi ý không muốn xuất gia nữa. Anh định lên Nepal để du lịch hoang dã trong mùa xuân tới. Sau đó, anh sẽ đi Úc hay Tân Tây Lan để xem có thể ở luôn bên ấy chăng. Được biết đó cũng là ý định đầu tiên của anh lúc rời Anh quốc; sau này khi gặp tôi, anh đi lệch đường chỉ vì muốn theo tôi. Bây giờ anh quyết định trở lại đường cũ dầu đã hơi trễ, nhưng năm qua không hẵn là không thú vị và không giúp anh học hỏi thêm nhiều điều mới lạ.

Trong satsangha sau cùng, có hai đệ tử phương Tây lâu năm của Thầy Swami thọ giới sannya. Lễ­ làm đơn sơ do Thầy chủ trì. Thầy trao cho mỗi sannya một xâu chuỗi 108 hột Rudraksha, chiếc áo vàng cam và danh hiệu Yogiraj để đi kèm với danh tự Sankrit sẵn có của mỗi vị. Tôi hơi ganh, nhưng chợt nhớ mình đang trên đường tu Phật, và tôi mong ngày ấy mau tới. Thầy cũng cho mỗi học viên còn lại có dịp khấn hứa bán chánh thức và nhận tên Sanskrit với bài chú liên hệ. Tôi rất quý trọng Thầy Swami Gitananda và xem Thầy là một Guru của tôi như Lạt Ma Zopa, Lạt Ma Yeshe, kể luôn cả hai Thầy Goenkaji và Sivali. Do đó, tôi quyết định xin nhận tên Thầy đặt để nhớ mãi tình thầy trò. Tên tôi là 'Rahul.' Được biết Rahula (tiếng Pali) là tên của con Phật; Ngài chứng ngộ lúc còn rất trẻ. Trước đây tôi có một tên Tây Tạng rồi, do Lạt Ma Yeshe đặt, nhưng tôi không dùng vì thấy không thích hợp với hoàn cảnh lắm. Còn tên Rahul, tôi rất thích, nhưng tôi nghĩ chắc cũng không có mấy dịp dùng, vì thế nào rồi tôi cũng có một pháp danh Pali do Thầy Bổn Sư tôi đặt khi tôi xuất gia.

*

Chương 19

HƯỚNG THƯỢNG

Tôi lấy xe lửa và tàu đò trở lại Colombo vào thượng tuần tháng Tư. Tôi ghé ở nhà Sam vài ngày trước khi đi Gothama Thapovanaya. Sam tỏ ý tiếc không thấy Chris cùng đi với tôi và không còn ý định xuất gia. Sam nói thêm anh không ngạc nhiên lắm vì nhận thấy Chris có vẻ không thành khẩn như tôi.

Lúc gặp lại Thầy Vangisa tôi thưa đã quyết tâm muốn theo chân Thầy. Thầy nói Thầy mừng thấy tôi không bị cuốn theo Ấn Giáo và đã trở về. Chúng tôi cười. Tôi thưa rằng qua kinh nghiệm Ấn giáo và Yoga, tôi rất trân quý phép tu hành trực tiếp của tông Theravada và đặc biệt tán thưởng phép thiền minh sát. Tôi trình bày thêm rằng yoga cũng có nhiều kỹ thuật hữu ích cho sự tham thiền như làm gia tăng chú tâm, điều hòa khí huyết, tịnh hóa hệ thần kinh, và trao dồi sức khỏe. Thầy miễ­n cưỡng chấp nhận lợi ích về sức khỏe của yoga, và yêu cầu tôi dạy cho các tu sĩ trẻ. Thầy Vangisa đang bị chứng tiểu đường mà một số thế yoga, tôi thưa, có thể trị được. Nhưng Thầy không tin lắm và chuyển đề tài nói chuyện khác.

Về chuyện xuất gia của tôi, Thầy bảo tôi theo Thầy một thời gian rồi Thầy sẽ quyết định khi Thầy thấy tôi sẵn sàng và thời gian thuận lợi. Tôi không nên vội vã; bây giờ tôi cần tiếp tục tập hành thiền minh sát trước đã. Thiệt tình tôi không có gì vội; tôi đã có sẵn chiếu khán gia hạn thêm ba tháng rồi, làm trước khi đi qua Ấn Độ. Thầy trao cho tôi một số sách đạo bằng Anh văn, cả quyển Vinaya[37] (quy luật đạo đức và phép tu hành của tu sĩ) mà Thầy bảo tôi học để thấm nhuần luật đạo mà tu sĩ nào cũng phải biết. Tôi được cấp cho cái cốc tôi ở trước đây trong khu dành cho yogi thế tục. Sau khi thu xếp việc ăn ở xong, tôi chuyên tâm tham thiền và luyện tập cách thở sâu theo tỷ lệ cũng như tư thế của thân thể.

Trong lúc tôi ở dài hạn tại đây, có hai ba bạn người phương Tây đến một hai tuần rồi đi. Một trong những bạn này có để lại cho tôi quyển III của bộ sách Carlos Castenada tựa đề Journey to Ixtlan; tôi đã đọc xong hai quyển I và II rồi lúc trước khi vào thời kỳ thiền tập trung. Với kinh nghiệm thâu thập được qua thiền minh sát, tôi nhìn thấy nhiều điểm tương đồng giữa nhà thiền minh sát và hiền triết MỄ Tây Cơ Don Juan trong sách. Sách luận bàn 'con Đường của Chiến Binh': vì chỉ 'nhìn' mà 'không hành động' để 'làm ngưng thế giới' đang quAy, người chiến binh trở thành 'người tri thức'. Yogi quán minh thực hiện cái 'không làm' bằng cách khai triển sự chú ý đơn thuần và 'làm ngưng thế giới' bằng cách áp dụng sự thông hiểu, khai triển tâm xả, và chứng nghiệm 'sự ngưng lại'; người yogi trở thành 'người tri thức' hay theo thuật ngữ Phật giáo là người giác ngộ. Bằng vào vũ khí thụ động là tâm thức/thông tri/trí tuệ, hành giả chiến đấu âm thầm chống tâm ô trược; như chiến binh, người phải luôn luôn kiên trì mới mong đến đích.

Journey to Ixtan là ẩn dụ mô tả tình trạng khó xử của chiến binh, thiền giả, hay người đi vào nội tâm. Ixtlan đại diện cho thế gian ảo tưởng tùy duyên--gồm lý tưởng, danh tánh, hình ảnh, gia đình, nhà cửa, xứ sở, vân vân. Trong thế gian luôn thay đổi và không thường còn đó, mọi người đều hy vọng đạt và giữ được cái gọi là hạnh phúc và an lành. Còn nhà thiền, khi chứng nghiệm được Vô Ngã/Tánh Không, thấy vạn sự dưới một nhản quan khác và không còn tham lam bấu víu vào nữa; mọi thứ mà người đời cho là thật có và thân thiết đều vô nghĩa đối với họ. Nguời ấy sẽ không bao giờ trở lại các thói quen cũ một cách mù quáng như trước đây. Cảm nghĩ và ký ức cũ có thể còn sót lại nhưng chúng chỉ là những 'bóng ma của quá khứ'; hành giả sẽ không bao giờ trở lại con đường vô minh dầu thế giới bên ngoài có cám dỗ thế mấy.

Sách kết thúc với ý nghĩ tuyệt vời và tôi thấy tôi đang trong trạng huống ấy. Tôi sẽ không bao giờ thật sự hạnh phúc hay thỏa mãn nếu phải sống cuộc đời bình thường, làm một cái răng trong vành răng cưa, một thành phần trong dòng đời của Hoa Kỳ. Làm tu sĩ, tôi sẽ là người không quốc gia, không nhà và không còn danh tánh cũ; tôi sẽ dành trọn thời gian lên 'đường của chiến binh'. Nhiệm vụ của tu sĩ không còn gì hơn là 'hoàn chỉnh tâm linh,' một công tác vô cùng cao quý. Nhiều người Tây phương cho rằng tu sĩ trốn tránh cái gọi là thế gian thực tại và không đương đầu với cuộc sống. Tôi có suy nghĩ nhiều tới lời buộc tội này, nhưng tôi nhận thấy những lời ấy vô nghĩa. Người nói như vậy có thể trong tiềm thức họ có chút ganh tị vì họ không có cách nào ra khỏi cái thế gian mà họ thật tình muốn thoát ra.

Người Đông phương quan niện khác. Họ xem sự rời thế sự vào con đường thiền cô tịch để tịnh hóa tâm khỏi tham sân si là một quyết định cực kỳ khó khăn. Kinh nghiệm của bản thân tôi cho biết phải có ý chí, dũng cảm, trí tuệ và tâm thành mới mong ngồi thiền được một giờ để đối đầu với bản ngã, chấp trước, ghét bỏ, và sợ hÃi khi chúng dấy lên. Không có chỗ để đi, truyền hình để coi, máý thu thanh để nghe, bia để nhậu, ma túy để phê, bạn để gọi, không có lối thoát khỏi tâm thức thực tại là cả một vấn đề. Còn các trò tiêu khiển như uống rượu, hút cần sa ma túy, du hí để quên lãng vấn đề, hay thỏa mãn bản ngã là cách chạy trốn dễ­ dàng nhứt. Thâm chí lối sống thông thường như có vợ có chồng, nuôi dạy con cái, đi làm việc, giao du bạn bè, hay đi phép hằng năm đại để cũng chỉ vì tự kỷ.

Người ta sống thường là cho mình, gia đình, bạn, hay nhóm mình; họ chỉ làm vừa đủ để 'qua cầu', cảm thấy an tâm, hay gây ấn tượng tốt. Nhiều người mới xem qua thấy có vẻ toại nguyện và hạnh phúc lắm (sống hữu ích, hay cứu giúp, đóng góp nhiều cho xã hội), nhưng kỳ thật dưới lớp gọi là hạnh phúc ấy họ có không biết bao nhiêu đau khổ. Có người không bao giờ biết niềm vui thật sự và chết tay trắng, bất tịnh. Thế gian đó các nhà hiền triết khai ngộ gọi là ảo ảnh và người sống trong thế gian đó đang mộng du.

Hai tuần sau, Thầy Vangisa gọi tôi lên bảo Thầy sẽ cho tôi xuất gia vào dịp l­ễ Vesak trăng tròn sắp tới, ngày mà Thầy cho là tốt lành và tôi sẽ sẵn sàng trên phương diện tâm linh cũng như giáo lý. Tôi chưa hề dám nghĩ đến nhưng tin tưởng ngày ấy là tốt nhứt cho tôi. Thầy nói thêm rằng tôi sẽ thọ giới sa di, cấp thấp nhứt để thử thách tâm lý và trau giồi tu hạnh trước khi lên cấp tỳ kheo cao hơn và có lối sống khổ hạnh hơn. Sa di chỉ hành mười giới và tuân bảy mươi lăm luật (như về việc ăn mặc, đối xử trong tu viện và trước công chúng, l­ễ kính huynh trưởng, vân vân). Tỳ kheo, trái lại, phải tuân hành hai trăm hai mươi bảy luật chi phối trọn vẹn đời sống của tu sĩ. Bộ luật về hạnh kiểm ấy, gọi là Vinaya[38], nhằm mục đích giúp tu sĩ tỉnh thức trong ba lãnh vực thân khẩu ý hầu loại trừ các tạp niệm và tập quán gây phiền não. Tôi rất quan tâm đến vấn đề này nên tự đặt mình vô khuôn khổ và tự xem như mình sẽ thọ giới tỳ kheo, tức giới nghiêm khắc hơn.

Tới giờ này, tôi đã đọc khá đầy đủ về đời sống lý tưởng của một tỳ kheo thiền giả sống bán khổ hạnh, cuộc sống mà tôi hình dung cho đời khất thực của mình sau này. Tôi mơ ước được sống tu tập trong một hang động nơi khu rừng xa xôi hẻo lánh nào đó, hay trong devale ở Unawatuna và đi khất thực hằng ngày. Tuy nhiên, sau nhiều lần tâm tình, tôi thấy mơ ước ấy của tôi không được giới tu sĩ địa phưong kể cả các thầy ở Thapovanaya chia xẻ; tu thiền là lối tu của người Tây phương. Phải chăng vì thế mà thầy Sudhamma đã 'nhảy rào' sau sáu tháng ở đây. Biết vậy tôi tự nhủ nên chấp nhận tình huống tuy có chút trớ trêu và theo thọ giáo Thầy Vangisa ở Thapovanaya. Tôi phải gác lại một số ý kiến riêng tư và hòa mình vào hiện thực chung quanh, hiểu rằng tất cả chỉ do tâm tạo. Tôi có thể dùng cơ hội này để nhìn sâu vào bản ngã/chấp trước tiềm tàng và các ức chế của mình. Các thầy trẻ trong viện rất vui mừng thấy tôi sắp gia nhập Tăng già và hy vọng tôi sẽ dạy họ Anh văn, một việc làm mà tôi tha thiết vì thấy mình hữu dụng và mình có thể học lại tiếng Sinhalese của họ. Tôi biết tôi sẽ ở lại Sri Lanka ít nhứt vài năm nên cần biết tiếng bản xứ để d­ễ giao tiếp khi cần.

Còn rất nhiều việc phải làm trong tháng cuối. Tôi phải học thuộc lòng một số câu tiếng Pali mà tôi sẽ đọc lại trong l­ễ thọ giới; Thầy cho một sa di dạy tôi cách phát âm chuẩn. Tôi còn phải viết một số thư nữa. Tôi đang tìm lời viết sao cho ba má và bạn bè tôi không bị sốc, mà trái lại, vui vẻ chia xẻ niềm hân hoan của tôi. Tôi không muốn bị hiểu lầm rằng đã thất bại lần này hay phải đương đầu với cuộc sống. Thật ra có cả luật nói về sự cho phép của mẹ cha để tránh làm họ thất vọng hay đau buồn khi nghĩ mình sẽ mất con. Nếu cha mẹ không thuận vì một lý do gì đó, như không ai nối dõi chẳng hạn, họ có quyền từ chối (xem XI). Tôi biết ba má tôi không thể và sẽ không ngăn cản tôi xuất gia làm sư, nhưng vì kính nể, tôi không muốn hai bậc sanh thành ra tôi bị tổn thương hay từ tôi. Qua những thư trước, ba má tôi biết tôi rất mê yoga và tham thiền nhưng chưa bao giờ nghe tôi nói đến quyết định quan trọng này. Tôi nghĩ rằng khi tin tới ba má tôi không sao khỏi bị giao động mạnh, nhưng rồi chắc cũng sẽ qua như hồi tôi ở tù bên Afghanistan. Tôi biết tin tôi đi tu sẽ làm cho Barry, Larry, Fred và bọn Riverside bị sốc nặng, nhưng chúng nó sẽ vui vui--thằng bạn cũ, Scott, là một nhà sư.

Tôi sẽ viết cho Eustace báo tin và mời anh cùng dân làng Yaddhemulla qua Thapovanaya dự lễ­. Và tôi cũng sẽ viết cho hai anh em Fernando ở Negombo để mời luôn. Với Sam và các bạn trong xứ, tôi sẽ đích thân lên Colombo mời. Tôi gặp Sam tuần sau đó. Sam và Tilak yêu cầu tôi để hai anh dâng y và bát; dĩ nhiên tôi đâu dám chối từ. Theo tục lệ, vinh dự dâng y bát luôn luôn được dành cho người thân như cha mẹ hay bà con.

Vào những ngày Rằm hằng tháng, Gothama Thapovanya đã có nhiều khách thập phương rồi; đến ngày Vesak tới đây, tôi nghĩ, chắc sẽ đông lắm. Nghe nói Thầy Bổn Sư có mời cả Đại Sứ Mỹ nữa, tôi ngạc nhiên không biết tại sao lại mời đại sứ đến dự buổi l­­ễ mà chắc họ không mấy quan tâm. Sau này tôi biết ra rằng đó là thủ tục phải làm mỗi khi có người phương Tây thọ giới. Vả lại, sự hiện diện của đại sứ chẳng có hại gì mà còn có lợi cho viện trên phương diện đối ngoại. Thầy Vangisa bảo tôi nên dọn sẵn bài di­­ễn văn ngắn bằng Anh ngữ để đọc trong buổi lễ­­; di­­ễn văn nói về cảm nghĩ và ước nguyện của tôi. Thoạt tiên tôi hơi khó chịu song suy nghĩ kỹ tôi thuận ý của Thầy. Tôi định sẽ trình bày vài khía cạnh Phật pháp với vị đại sứ và cử tọa nói tiếng Anh.

Một hôm nọ trong tuần l­­ễ trước ngày Vesak, trên đường thọ trai trở lại cốc, tôi thấy một người Sinhalese ngồi dưới gốc cây ôm bình bát ăn cơm. Ông mặc xà rong và sơ mi dài tay trắng với mảnh cờ Phật giáo nhỏ gắn trên tay. Râu ông đen và tóc ông dài bới thành một nắm trên đỉnh đầu. Ông ngồi kiết già trên thảm và ăn một cách rất đạo mạo và tỉnh thức. Sau chừng nữa giờ, ông đến cốc tôi xin được nói chuyện. Tôi mời ông vô. Té ra là ông phát thư trong làng Anuradhapura dạo trước. Đã làm tròn bổn phận trong gia đình và đóng góp xong cho xã hội, bây giờ ông về hưu, sống đời Phật tử khất thực đó đây hay anagarika (đời không nhà). Ông hành mười giới và không ăn sau ngọ. Trên đường khất thực ngang đây ông chợt thấy tôi nên muốn được làm quen. Ông nói tiếng Anh giỏi, biết nhiều về Phật pháp, rành văn hóa Tây phương, và hiểu nhiều khía cạnh tâm lý. Khi nghe tôi báo tin sẽ xuất gia, ông vui mừng và hứa sẽ cố gắng đến dự lễ­­. Ông nói ông hiểu tại sao người phương Tây chán ngán với xã hội của họ và muốn quay qua phương Đông tìm hiểu Phật pháp và truyền thống Á châu. Nhưng rất tiếc không có mấy người bên phương Đông có thể thuyết giảng tận tường kinh sách Phật bằng tiếng mẹ đẻ của lớp người Tây phương đó. Ông hy vọng những ai đã học Phật rồi nên trở về xứ mình để xiển dương; tôi rất tán đồng quan điểm của ông.

Trong câu chuyện dài dòng của chúng tôi, ông có mời tôi theo ông làm một chuyến hành hương lên đỉnh Adam. Ông nói chuyến đi sẽ là một duyên lành cho tôi trước giờ Khấn Hứa. Ý kiến rất hấp dẫn; tôi không nghĩ nhiều tới việc bái lạy dấu chân linh thiêng mà chỉ muốn đặt chân mình lên khoảng không gian truyền thống. Khí trời khô ráo và là mùa hành hương nên có nhiều người sùng đạo lên đây để niệm 'Shadhu, Shadu, Sadhu' và ngắm rạng đông. Còn với tôi đây là dịp cuối cùng đi ra ngoài và gặp người ngoài. Tôi có nhièu cảm tình với ông anagarika, một người mà tôi chưa từng gặp trong lớp dân dã Sinhalese, và tôi rất thích được đi hành hương với ông. Ông có biết Thầy Vangisa nên hai chúng tôi cùng đến gặp Thầy xin phép. Thầy đồng ý ngay và ban cho tôi ân lành trước khi lên đường.

Hai chúng tôi lên đường chiều hôm đó, lấy xe đò đi xuyên Hatton và Maskeliya đến chân núi thiêng lúc 1:00 giờ khuya. Ông bạn hướng dẫn viên của tôi định giờ như vậy để đến nơi trước rạng đông. Chúng tôi theo đám hành hương leo núi. Ông anagarika dạy tôi cách thiền hành riêng của ông là vừa leo vừa xướng hồng danh Đức Thế Tôn, bắt đầu bằng 'Ipiti so,' rồi 'Bhagava,' rồi 'Arahan,' 'Sammasambuddho,' vân vân. Tôi lập đi lập lại một hồng danh đến lúc thuộc làu mới qua hồng danh kế tiếp. Với vài lần nghỉ dọc đường, chúng tôi lên tới đỉnh lúc vừa sáng và bấy giờ tôi thuộc hết cả câu[39]. Âu là một cách chú tâm hiệu nghiệm giúp quên thì giờ và mệt nhọc. Ngoài ra, hiểu được áo nghĩa của các từ Pali ấy, tôi xem đó như một hình thức thiền thật sự, thiền mộ đạo.

Còn chừng vài trăm bộ nữa tới đỉnh, tất cả khách hành hương đều phải dừng lại trên tam cấp xi măng vì lối lên đã nghẹt người. Không còn cách nào hơn, hai chúng tôi đành đứng lại đợi. Rất may, sáng hôm nay trời quang đãng nên vừa thấy vầng hồng ló dạng, tất cả khách hành hương đều chấp tay l­ kính và niệm 'Sadhu, Sadhu, Sadhu' vang dội. Ông bạn tôi giải nghĩa rằng từ thời cổ đại, ở Á châu dân tộc nào cũng cúng kính mặt trời bằng hình thức này hay hình thức khác. Dân Tích Lan tin tưởng nếu ai được nhìn vừng thái dương lên trên đỉnh Sri Pada, người ấy sẽ được vạn hồng ân, và một số Phật tử còn nói trời mọc mỗi ngày là để tỏ lòng tôn kính đối với dấu chân Phật. Tôi không dám nghĩ đến các sự mê tín đó nhưng tin rằng mặt trời là nguồn sống nên rất đáng được thờ kính. Tôi đảnh l­ễ pranam. Sáng hôm ấy chúng tôi còn may được thấy đỉnh núi phản chiếu trên mây nhờ được điều kiện khí hậu thuận lợi. Một cảnh quang tuyệt diệu!

Một lát sau, khách trên đỉnh đi lần xuống; bớt người, chúng tôi đi lần lên để chiêm ngưỡng hai dấu chân in trên xi măng trong một đền nhỏ xây trên chót đỉnh. Nhiều khách sùng đạo cúi đầu chạm bệ chân và gieo tiền vô lòng bàn chân cầu phước. Thật tình tôi không có cảm tưởng hay ấn tượng gì đáng kể cả; tôi chỉ đứng nhìn sự nhiệt thành của khách thập phương biết rằng tất cả do tâm tạo. Sau đó, ông anagarika , đưa tôi vô nhà bếp để được mời điểm tâm, ăn cơm với dahl, trước khi trở xuống; ông đúng là người biết đâu là đường đi nước bước. Trên đường về Colombo, ông xin tạm biệt để ghé thăm cô em trước khi trở lại đường du thực; tôi chào ông bằng cái xá dài lúc ông xuống xe. Rồi tôi tiếp tục đoạn đuờng còn lại về Thapovanaya chiều hôm đó.

Hôm sau, tôi cạo bộ râu mà tôi để dài từ bao lâu nay. Tôi đã chuẩn bị tư tưởng trước vì biết vết tích của thời híp pi thế nào rồi cũng không còn. Tôi muốn cạo hôm nay, tức trước ngày hành lễ­ vài hôm, để cho quen và cũng để mặt tôi có đủ thì giờ ăn nắng cho đều. Tôi cảm thấy là lạ và thỉnh thoảng vẫn còn thói quen đưa tay lên vuốt râu; râu không còn thôi thì vuốt cằm vậy. Tôi được giới tăng trẻ cho là trẻ ra và tôi cũng cảm thấy mình trẻ thiệt. Tôi định cạo đầu luôn vì tóc ra dài cả tất rồi, nhưng Thầy Vangisa bảo tôi khoan đã. Nghi thức thọ giới có phần thầy tổ cắt nhúm tóc tượng trưng của trò trước khi trò được cạo trọc sau l­ễ; riêng tôi sẽ được cạo ngay trong buổi lễ­.

Tôi đang chuẩn bị một cách rất nhiệt tình. Tôi lo hỏi Thầy cũng như các tăng trẻ từng chi tiết một của buổi lễ­. Tôi lo dợt lại các câu tiếng Pali để đọc lúc hành l­ễ. Tôi cũng lo tìm lời hay ý đẹp để phát biểu; tôi viết xuống những ý hay chợt đến để khỏi quên. Tôi đề cập vấn đề pháp danh mà cho tới nay chưa nghe Thầy nói; tôi mong được giữ lại tên Rahul nhưng chắc Thầy sẽ tự chọn cho tôi tên mới khác. Không trình lý do, tôi chỉ gợi ý pháp danh Rahula và ngạc nhiên nghe Thầy nói: 'Rahula, Rahula, con trai của Đức Phật, à... một pháp danh rất tốt.' Rồi Thầy nói tôi cần có thêm một tiền ngữ chỉ định đứng trước pháp danh. Ở Sri Lanka, tiền ngữ của mỗi sư là tên của quê quán họ để phân biệt các sư có cùng một tên Pali giống nhau, như có rất nhiều sư mang tên Ananda hay Rahula. Thầy muốn gọi tôi là Rahula Hoa Kỳ hay California Rahula nhưng tôi không muốn tên như vậy; tôi cũng không bao giờ nghĩ tới tên Riverside Rahula. Tôi thưa rằng tôi mong được bỏ hết dĩ vãng lại phía sau; Thầy đồng ý. Rồi Thầy đề nghị 'Yogavacara' là tên mà Đức Phật dùng để chỉ các tỳ kheo sống trong rừng dùng thiền định để đạt quả. Trọn pháp danh Yogavacara Rahula có âm điệu rất hay mà tôi rất thích. Có chữ yoga rất thích hợp cho công phu tu tập của tôi gồm phân nửa yoga phân nửa thiền quán. Tôi sẽ là một người mới thay thế anh híp pi đã đi qua, người mà tôi nghĩ cuộc sống sẽ tích cực và có nhiều ý nghĩa hơn.

Trong những ngày sắp tới lễ,­ các tiểu tăng và Phật tử rất bận rộn trang hoàng tu viện cho chương trình Vesak. Chánh điện và các lối đi đâu đâu cũng đều được treo cờ Phật, kéo đèn và kết hoa. Chiều ngày 14, đã có cư sĩ áo trắng lần lượt vào sớm để giữ chỗ tốt trong chánh điện rồi. Và khu nhà yogi vắng vẻ trước đây hôm nay đầy ấp thiện nam tín nữ đến để hành thiền, có nguời tới trước những hai ba hôm, khiến ông bạn Tây phương vừa đến ở trong đó không khỏi ngạc nhiên thấy viện sao quá tưng bừng thay vì yên tĩnh như ông tưởng của cảnh thiền; ông cũng lấy làm lạ khi biết tôi sắp thọ giới xuất gia. Một khách địa phương cho biết l­ễ thọ giới của tôi có đăng trên báo và chắc sẽ có nhiều quan khách tham dự, nên lễ­ Vesak năm nay có thể có cả ngàn người chớ không ít.

Để lễ­ có thêm ân đức tôi trai tịnh ngày Rằm hôm ấy. 8:00 giờ sáng, tôi lên liêu Thầy Vangisa để Thầy làm lễ­ thí phát, bằng cách cắt tượng trưng một chùm tóc trên đầu. Cùng lúc tôi được dạy quán chiếu lý vô thường của tóc và của toàn thân bằng cách niệm các từ tóc, răng, da, và móng bằng tiếng Pali. Tiếp theo, một vị sư dùng dao cạo đầu tôi trọc lóc. Lần đầu tiên đầu tôi trọc; tôi cảm thấy mát mẻ và thoải mái. Sau đó tôi ra giếng tắm rồi vô cốc đắp bộ y trắng truyền thống: chiếc sà rong trắng tôi mới giặt, còn chiếc sơ mi trắng tôi mượn của Phật tử qua một sa di. Xong, tôi ngồi đợi trong cốc, nhớ lại các câu tiếng Pali, chuẩn bị bài diễn văn và bắt đầu phập phòng.

Sam và gia đình cùng Tilak và một ít bạn tới lúc trước 9:00 giờ. Họ đem đến bộ y mới màu nâu, bình bát, và một ít vật dụng cần thiết mà họ sẽ dâng cho tôi trong buổi lễ­ (xem X). Tilak cho tôi biết có thấy chiếc xe hơi bóng láng của Tòa Đại sứ Mỹ vô viện và một số người ngoại quốc đang lu bu chuẩn bị máy quay phim. Truớc khi ra chánh điện, Sam trao cho tôi điện tín anh nhận được hôm qua. Điện tín viết 'Tụi tao luôn luôn bên cạnh mầy--mở đài LSD của Jashua Tree vào ngày trăng tròn--Thương, Barry, Larry, Fred, và các bạn.' Nước mắt tôi dâng trào.

Đến giờ, tôi theo sau đoàn bảy tỳ kheo do Thầy Vangisa dẫn đầu vào chánh điện, lên trước bàn Phật. Đoàn ngồi xuống gối xếp sẵn dưới sàn, Thầy Bổn Sư ngồi giữa, các thầy chứng lễ­ ngồi bên trái, còn tôi ngồi bên phải trong thế kiết già và ngay dưới ánh đèn sáng rực. Tôi tránh không ngó xuống cử tọa nhưng không thể và tôi thấy chánh điện hôm nay đông nghẹt với nhiều quan khách ngoại quốc ngồi trên hàng ghế đầu, hàng ghế duy nhứt trong điện. Vài nguời rọi đèn và anh quay phim với chiếc máy to tướng trên vai đang lay hoay tìm góc lấy hình.

Vào lễ­ chánh thức, tôi dâng khay hoa và nhang, mồi chiếc đèn dầu dưới chân Đức Phật, và lạy ba lạy. Kế, tôi đến bái Thầy Bổn Sư Vangisa và các Sư Chứng Minh. Quỳ trước Thầy Bổn Sư, tôi chấp tay đọc các lời Pali nguyện cầu Thầy từ bi gia hộ cho tôi Xuất Gia (Going Forth--Pabbaja). Nghĩa của các câu Pali là tôi, một tâm hồn đau khổ, cầu nguyền được giải thoát khỏi tham sân si bằng cách về nương tựa nơi cửa Phật. Tôi lập lại lời nguyện này ba lần theo như chỉ dẫn. Thầy Bổn Sư rải tâm từ hoan hỷ chấp thuận tôi làm đệ tử của Ngài. Tiếp theo, Sam và Tilak, ngồi sẵn bên góc, được mời dâng y bát; hai anh bước lên, cúi đầu thi l­ễ tăng đoàn, rồi dâng y bát lên Thầy Vangisa; Thầy đặt y lên tay tôi và trịnh trọng quấn lên cổ tôi một vạt y trong lúc máy quay phim và máy chụp hình bấm lia lịa. Tôi đứng lên ôm y vào lòng, cúi đầu đi chẫm rãi qua tòa nhà bên cạnh để được các tăng trẻ phụ đắp y, chiếc y của nhà sư mà tôi được chính thức đắp lên thân lần đầu tiên.

Tôi chưa biết phải đắp như thế nào để ngoại y rộng có thể quấn quanh thân, chỉ phủ lên vai trái, và để lộ vai phải. Khi đắp được rồi tôi lại không biết làm sao giữ mảnh y trên vai cho khỏi bị tuột xuống, và cứ nơm nớp lo khi đi ngang đám đông lúc trở lại nơi hành l­ễ. Khi tôi vừa bước vô chánh điện, âm lành 'Sadhu, Sadhu, Sadhu' vang lên và đèn quay phim chiếu tôi sáng rực. Tôi hồi hộp (tôi biết) và vẫn còn lo về chiếc y trên vai. Tôi cúi đầu bước lên trong lúc máy quay phim, máy chụp hình và âm Shadhu tiếp tục theo. Tôi cố giữ bước đi cho trang nghiêm và cố giữ tâm cho khỏi bị giao động. Tới truớc Thầy Bổn Sư, tôi chắp tay quỳ xuống để làm lễ­ quy y Tam Bảo và thọ Thập Giới, nghi thức cổ truyền của lễ­ xuất gia. Tôi lập lại lời nguyện theo Thầy rồi đảnh lễ­ tăng đoàn, trước khi ngồi xuống bồ đoàn đối diện ánh đèn chói chang và cử tọa đông đảo.

Thầy Vangisa khai thị bằng tiếng Pali. Thầy nói về ý nghĩa của lễ­ xuất gia và lý do tôi đến Gothama Thapovanaya để tập thiền dưới sự hướng dẫn của Thầy và sau cùng xin được gia nhập đoàn tăng lữ. Theo Thầy, rất khó cho người phương Tây xuất thế để trở thành tăng sĩ vì tín ngưỡng ấy quá xa lạ đối với Tây phương, nơi mà người như tôi có thể bị gán cho nhãn hiệu dị giáo, trốn chạy thực tại hay gàn, và tỳ kheo khó có thể được hỗ trợ đúng mức. Thầy kêu gọi Phật tử Sri Lanka nên giúp đỡ tinh thần cũng như chỗ nương tựa cho mọi khách ngoại quốc đến học Phật và tập thiền. Thầy nói người như tôi đã dám hy sinh rời quê quán, gia đình và đời sống tiện nghi, vân vân, để sống cuộc đời tu sĩ nghèo khó, cô độc, khổ hạnh nơi xa xôi như Sri Lanka. Thầy khuyên dân Sri Lanka chớ nên vội bắt chước Âu Tây mà hãy xem gương của người như tôi: được nuôi dưỡng theo tập quán ích kỹ và trong văn hóa vật chất mà tôi vẫn biết thế nào là sự phù du của cuộc đời. Trong suốt thời gian Thera[40] thuyết, chánh điện lắng nghe im phăng phắc; còn tôi nén nước mắt cảm động, chú tâm, và cố nhớ chi tiết của lời mình sắp thưa.

Tới phiên, tôi bắt đầu:

*

Kính bạch Hòa Thượng và Tăng Già
Kính thưa quý Quan Khách
Kính thưa quý Phật tử

Vâng lời Thầy Bổn Sư, tôi trân trọng kính thưa cùng Quý Liệt Vị cảm nghĩ tại sao tôi chọn con đường xuất gia theo chân Đức Phật. Đối với quý vị Phật tử, vấn đề này rất dễ­ hiểu. Nhưng với người không phải là Phật tử, quý vị có thể ngạc nhiên tự hỏi tại sao một người Mỹ sanh trưởng trong gia đình Do Thái giáo lại cải tâm sang tư tưởng Đông phương, tư tưởng mà bề mặt trông có vẻ rất khác biệt. Văn hóa và khoa học Tây phương hầu như hoàn toàn hướng ngoại và có xu hướng vật chất. Thế giới của trí và vật được xem là tâm điểm của mọi sống còn, là có thật và quan yếu; hạnh phúc được đặt nền tảng trên thế giới khách quan, tức trên cái mà con người tưởng có thể nắm lấy và sống nhờ; hành trang vật chất, thỏa mãn bản ngã, theo đuổi trí thức và nghệ thuật là thước đo của thành công và hạnh phúc. Toàn thể xã hội và văn hóa Tây phương đều phát triển quanh các nguyên tắc và lý tưởng đó. Tư duy của Phật giáo hay của Phương Đông, trái lại, chứng nghiệm rằng thế giới khách quan của trí thức và vật chất không phải là tất cả. Thế giới tùy duyên thật ra là một hiện tượng luôn luôn thay đổi rất phức tạp, trong ấy không thể tìm thấy an bình và hạnh phúc vĩnh cửu. An trú vào những gì vô thường chỉ gặt hái thất vọng, buồn phiền và khổ đau mà thôi. Niềm an vui và sung sướng thật sự chỉ có thể nẩy nở trong tâm hồn vị tha, không vướng bận và không tham ái. Sanh sống ở miền Nam California, tôi quen và mặc nhiên chấp nhận lối sống vị kỷ và hướng ngoại mà, tôi nghĩ, đã làm tôi thỏa mãn. Tuy nhiên, khi tôi lớn lên và biết đời hơn, kể cả ba năm trong quân đội với cần sa ma túy, thâm tâm tôi bắt đầu vỡ mộng. Rồi những thử nghiệm với đủ thứ ma túy đã đưa tôi vào nhiều tình huống tâm linh mới và đã thúc giục tôi đi tìm Sự Thật. Tôi nghĩ đời còn có nhiều khía cạnh khác chớ không phải chỉ có lo cho tấm thân, tranh dành hơn thua, biết có vật chất, hay thỏa mãn bản ngã mà hầu hết người phương Tây kể cả tôi, dường như bị gắn chặt vào, mỗi người mỗi cách.

Sự việc ấy hối thúc tôi rời California chu du thế giới hầu tìm hiểu thêm nhiều nền văn minh, dân tộc và tôn giáo khác. Tôi muốn được nhìn tận mắt con người sống thế nào ở những nơi khác nhau trên quả đất; và đại để tôi thấy cũng cái vòng lẩn quẩn hay mạn lưới tranh giành giăng khắp mọi nơi, nếu có khác chỉ khác về mức độ tùy theo môi trường thiên nhiên, điều kiện xã hội, và tín ngưỡng của mỗi nơi mà thôi. Ước vọng thầm kín của tâm tôi sau cùng đưa tôi đến Nepal, nơi đó tôi gặp thiện duyên được hai vị Lạt Ma Tây Tạng khai tâm vào Phật pháp. Lành thay, tâm trí tôi lúc bấy giờ đã hiểu được phần nào đại ý và vận hành của Tứ Diệu Đế. Và, tôi đã chuyển hướng đi của mình; tâm linh tôi có thể nói như được tục sanh. Rồi tâm này nhứt thiết chỉ muốn đào sâu và thâm nhập vào các khía cạnh vi tế của các Chơn Đế đó. Tôi dường như không thể nào không tiến lên con đường truy tầm các hiểu biết cao xa hơn cùng những thay đổi tâm linh để phù hợp với đạo Pháp và để cho đạo quả tối hậu của đạo Pháp thành tựu.

Theo pháp siêu hình Đông phương, không có một chủ thể cá biệt, tuyệt đối, bất diệt nào chủ trì hay điều hành cuộc sống tùy duyên của thân/tâm con nguời. Chỉ có tiến trình phức tạp và huyền bí xác định bởi tham, sân, si ở nhiều cấp độ khác nhau, hay bởi các đối kháng của chúng là trí tuệ, vô trước và từ bi từng được tích tụ liên tục qua các kiếp luân hồi, mà bậc Giác Ngộ gọi là Anatta. Tưởng rằng có một chủ thể thật và riêng lẻ, một kẻ trải nghiệm, hay một chủ nhân sở hữu/chi phối là một ảo tưởng kỹ xão, ma thuật, thâm căn cố đế xuất xứ từ vực sâu u tịch của vô minh. Thiền quả tôi trải nghiệm đã minh chứng phần nào rằng điều đó thật không sai.

Bây giờ, tôi xin thưa qua một tin lành. Dầu không có một tự ngã tuyệt đối, có một lãnh vực của Chân Như Tối Hậu có thể nói Không Sanh mà cũng Không Tùy Duyên. Chúng ta vốn có tiềm năng thức tỉnh từ giấc chiêm bao triền miên gọi là kiếp nguời, một đời sống cá nhân có nhiều hạn chế và khổ đau đáng quan tâm. Chúng ta có thể đánh thức cái tính Chuyên Nhứt ân sủng, cái tính Đồng Nhứt của đời sống, hay cái trạng thái Giải Thoát Tối Hậu. Chính tiềm năng đó, hiện hữu trong mỗi chúng sanh, sẽ dẫn dắt mọi người trên đường tâm linh. Kinh nghiệm ngày mỗi gia tăng của tôi cho biết tôi đã được báo hiệu sẽ trở về nguồn; hiệu báo ấy dẫu ở sâu trong tiềm thức nhưng liên tục dẫn dắt tâm tôi hướng nội để quay về cội nguồn tiên khởi. Dùng một ẩn dụ khác, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn. Chúng ta hảy ví bản ngã tỉnh thức[41] như là một hỏa tiễn điều khiển đang được nhử, huớng dẫn và lao tới mục tiêu, mục tiêu đây là Nhứt Nguyên[42] hay Niết Bàn đang phát sóng Sự Thật thu hút hỏa tiễn bản ngã tỉnh thức.

Đường đời mà tôi đã và đang đi dựa vào và tùy thuộc nơi số kinh nghiệm tôi thu thập, số hành động (tác nghiệp) của thân, khẩu và ý tích tụ trong nhiều kiếp từ truớc đến nay. Do đó, lý do khiến tôi xuất gia thật sự không phải là một lý do thật có, rõ ràng, dứt khoát hay là gì cả. Đó chỉ là một phần của tiến trình tùy duyên, một giai đoạn của đời sống giục tôi đi tìm con đường ngắn nhứt và có thể nói là thuận lợi nhứt, như nước mưa chảy xuống sườn non đến điểm dừng chót, Niết Bàn. Hiểu một cách rốt ráo, không có ai đằng sau tiến trình đang đi lần tới quyết định hợp lẽ của tôi hết.

Đức Thế Tôn Thù Thắng đã nói không phải dễ­ được 'sanh làm người hoàn hảo,' được gặp thầy tâm linh uyên bác và hơn thế nữa, được nghe với tâm rộng mở, hiểu, hành, hoán tâm, và chứng nghiệm Phật pháp cao thâm. Do đó, nếu tôi quay lưng đi hay bỏ qua cơ hội lý tưởng, mà tôi tin tôi đang nắm giữ, chẳng khác nào tôi 'nhổ nước miếng[43]' lên Thiên Đàng để rồi không sao tránh khỏi phải lao ngay vào vòng đau khổ. Tôi không thấy có lý do nào để giữ tôi làm người thiển cận, tối tăm và tự xiềng vào lối sống thông thường của phương Tây, nghĩa là có gia đình, con cái, và năm bảy công ăn việc làm, sống rập khuôn theo định chế xã hội, vân vân. Bây giờ, tôi nhận thấy con đường tốt đẹp nhứt cho đời tôi là xuất gia. Tôi tiến lên 'từ chỗ có nhà đến chỗ không nhà[44]'; tôi sẽ trì giới, hành thiền, theo đường Bát Chánh, và nhứt tâm trực chỉ. Tôi mong được ở lại Sri Lanka tu hành hầu cầu tìm Chứng Ngộ cho đến khi tôi tin là đã đến điểm không thể thối lui. Chừng thấy mình đã vững tin và có cơ hội chia xẻ, tôi có thể sẽ trở lại phương Tây. Tôi sẽ san sớt thành quả thâu lượm được--có thể là tuệ giác, từ bi, hỷ lạc, vui sướng, hay hành xả--trước tiên với cha mẹ và thân bằng quyến thuộc của tôi, rồi sau đó, theo hạnh Bồ Tát, tôi sẽ cố bằng mọi cách độ nhân sanh trong cõi Ta Bà, như đem lại niềm vui hay ánh đạo vàng cho đời họ.

Tôi thật có ân phuớc rất lớn được thọ giới hôm nay với Đại Lão Vangisa Maha Thera tại Gothama Thapovanya. Tôi còn được Thapovanya giúp cho nơi nương tựa trong cảnh rừng rất duyên với ai đang trên đường tu tập giải thoát muốn chiêm nghiệm các thực tại của cuộc đời. Tôi trân trọng kính xin Hoà Thượng Bổn Sư, Tăng già Thapovanaya, quý vị cộng sự trong tu viện và tất cả ân nhân nhận lời cám ơn hèn mọn và chân thành của tôi.

Thành tâm hồi hướng công đức đến toàn thể quý vị và nguyện cầu Hồng Ân Tam Bảo từ bi gia hộ cho quý liệt vị luôn được phước lành.

*

Thiện âm Sadhu! Sadhu! Sadhu! vang vang từng tràng.

*

Chương 20

LỜI BẠT

Tôi lưu lại Sri Lanka hai năm sau khi xuất gia, đi đó đi đây để học Phật và tham thiền. Nơi tôi đến nhiều nhứt là một động nhỏ nằm dưới chân núi Dolukanda hẻo lánh, cách Colombo chừng sáu giờ xe đò. Núi có nhiều rắn độc và vô số khỉ. Ở đó tôi xuống làng cách xa một-hai dặm để khất thực và ở đó tôi sống đời thiền khổ hạnh; tôi hy vọng lối sống ấy giúp tôi chế ngự sợ hãi, nhứt là tử thần. Tôi cũng có dịp quán chiếu tâm tham của con người qua sự quan sát cách tranh giành thức ăn của bầy khỉ; không có món gì để trong động mà chúng không moi lấy, chúng giựt cả thức ăn trong bát tôi. Mỗi sau hai tháng ở Dolukanda, tôi lại về Thapovanaya chừng đôi ba tuần để tường trình kết quả tham thiền với Thầy Bổn Sư Vangisa và học kinh Pali (qua bản dịch Anh ngữ). Một địa điểm khác mà tôi cũng thường hay đến là Unawatuna; tôi trở lại tu trong devale và xuống làng khất thực. Dân làng rất hân hoan thấy tôi bây giờ chính thức là một tăng sĩ. Thầy Vangisa rất hài lòng thấy tôi đạt thiền quả tốt và trau giồi kinh kệ tinh tấn.

Ba má tôi, trái lại, miễ­n cưỡng chấp nhận cuộc đời mới của tôi và không khỏi lo âu, nhứt là khi nghe tôi tả những ngày sống trong động hẻo lánh với rắn độc và đám khỉ háu ăn luôn chực chờ giựt thức ăn tôi khất thực. Năm 1977 bà bay sang Sri Lanka để biết chắc rằng tôi chưa khùng. Bà ở trong Viện Thapovanya suốt tuần l­ễ đầu để thấy tận mắt lối sống của tăng sĩ, và cũng để tôi dạy bà thiền. Sau đó, bà du ngoạn quanh đảo, viếng nhiều thắng cảnh, và đến cả động Dolukanda và làng Unawatuna. Lúc rời Sri Lanka bà hiểu thế nào là đời tu sĩ/tâm linh và hoan hỷ chấp nhận đời sống mới của tôi. Bà rất cảm kích tính hiếu khách và cởi mở của người Tích Lan và thành thật cám ơn họ đã hỗ trợ tôi trên đường tu học. Cảm tưởng đẹp bà ghi nhận được thế nào cũng sẽ giúp cha, anh, chị, bà con, và bạn bè tôi hiểu tôi hơn.

Năm sau, tôi về thăm nhà và cũng để xem Phật giáo phát triển thế nào trên đất Mỹ. Ở California, tôi ngụ trong Trung Tâm Thiền Phật Giáo Quốc Tế (The International Buddhist Meditation Center, IMBC) trên đường New Hampshire, Los Angeles. Trung tâm cách Riverside chỉ năm mươi dặm nên tôi có dịp thăm viếng ba má tôi thường xuyên--có khi cả tuần mỗi tháng. Thiền chủ của IBMC là Hòa Thượng Thích Thiện Ân, một nhà thiền Zen Việt Nam; Thầy cũng là giáo sư dạy triết lý Phật giáo ở Los Angeles City College. IBMC theo truyền thống Đại Thừa, nhưng Thầy Thiện Ân (mà người Mỹ thuờng gọi là Dr. Thiện Ân) muốn có tăng ni thuộc mọi tông phái để gieo duyên và trao đổi kinh nghiệm.

Thầy Thiện Ân mời tôi ở lại Trung Tâm để tông Theravada có mặt, vì vị tăng Theravada duy nhứt ở đây vừa qua đời truớc khi tôi đến. Từ từ, tôi bắt đầu nói pháp với nhóm thiền chủ nhựt và dạy yoga cũng như thiền mỗi tuần một lần. Lúc bấy giờ thiền và nhiều chương trình liên hệ khác do IBMC và College of Buddhist Studies bảo trợ khá phổ thông và có nhiều người tham gia. Đây là duyên tiên khởi dẫn tôi vào việc giảng dạy thiền và Pháp, và cũng là duyên may giúp tôi học hỏi thêm về Đại Thừa. Trung tâm thường tổ chức l­ễ lạc nên có nhiều tăng Tây Tạng, Theravada và các tông phái khác dừng chân tham dự hay thuyết giảng. So với môi trường tu học của tôi ở Tích Lan, Trung Tâm rất nhộn nhịp, nhưng tôi hoan hỷ chấp nhận thay đổi, ít ra là trong một thời gian.

Ngày Vesak 1979, tôi thọ giới upasampada[45] tại một chùa Thái ở Bắc Hollywood và bước lên bậc thang chót của đời tăng sĩ. Lễ­ do một số tăng Tích Lan trong vùng Los Angeles tổ chức với sự chứng kiến của gia đình và bạn bè củ của tôi. Ba má tôi bây giờ rất cảm thông và sẵn sàng bưng y bát đi nhiễu ba vòng quanh chùa trong tiếng chuông trống và tụng niệm trang nghiêm của Phật tử.

Sau hai năm ở IBMC tôi trở lại Tích Lan bởi nhớ núi rừng tĩnh mịch và đời sống lâm tăng; tôi nhớ động Dolukanda với rắn với khỉ, và nhớ làng biển lý tưởng Unawatuna. Tôi cũng muốn lánh những sinh hoạt đe dọa tâm an tại của tôi, như cảnh bon chen, những gặp gỡ thường xuyên Phật tử khác phái và giới luật không mấy nghiêm khắc của Trung Tâm. Tôi về lại bán đảo Ấn Độ vào đầu hè 1980. Thoạt tiên tôi bay qua Calcutta rồi đi Bodhgaya. Tại Bodhgaya tôi tạm trú trong các tu viện mi­ễn phí và đến tham thiền thường xuyên dưới gốc cây thiêng. Tháng 9, tôi rời Bodhgaya đi hành hương ở những nơi có dấu chân Phật, như Rajir/Nalanda, Vaishali, Kusinara, Sravasti, và Lumbini trong lãnh thổ Nepal. Trên đường, tôi khất thực, ngủ nghỉ trong chùa/ashram hay ngoài trời dưới bóng cây bên đường. Ngày 1 tháng Mười Một tôi đến Lumbini để đảnh lễ­ nơi đản sanh của Đức Phật mà tôi không có thiện duyên đến viếng trong chuyến đi Nepal trước đây. Tiếp theo tôi đi Pokhara và du hành lên Đại Sơn[46] gần đó.

Tại Pokhara tôi sống tạm trong một tu viện Theravada trước khi hành hương lên hai thánh đường Muktinath và Annapurna. Tôi rất thích chuyến hành hương dã ngoại này và xem đó như một duyên lành cho tôi phát huy đời tăng sĩ/tâm linh. Tôi trở lại Bodhgaya vào trung tuần tháng Mười Hai để có dịp được tưới thắm đạo tâm bất thối chuyển của hằng ngàn người Tây Tạng về đây trong tháng này.

Giữa tháng Giêng, tôi đến Sri Lanka và lưu lại đó những sáu năm liên tiếp. Tôi sống trong Trung Tâm Thiền Nilambe do nhân sĩ nổi tiếng Godwin Samaratne mới thành lập trên vùng đồi núi trồng trà mát lạnh phía trên Kandy. Trung tâm dành cho dân chúng đến thiền nhưng tăng sĩ cũng có thể ở nếu muốn. Ông Samaratne mời tôi phụ dạy thiền (thỉnh thoảng dạy một khóa chừng muời ngày) và nhờ tôi trông coi trung tâm mỗi khi ông đi xa (ông đi dạy thường xuyên và ở nhiều nơi).

Thế là tôi dạy thiền ở Nilambe, dạy trong suốt năm năm, mỗi năm đôi ba khóa. Đầu tiên chỉ có du khách phương Tây nhưng lần hồi có thêm nhiều người Tích Lan đến học. Giữa các khóa, tôi xuống ở dưới Unawatuna. Unawatuna bây giờ đã đổi khác, trải rộng từ bờ biển vô tận trong sâu. Trong ba năm tôi đi xa, nhiều nhà nghỉ và nhà hàng bình dân mọc lên như nấm trên bãi, trong làng để đáp ứng nhu cầu gia tăng của du khách phương Tây; không khí yên lành năm xưa không còn nữa. Nhưng rất may, tôi tìm được một nơi có bụi rậm và bóng mát trên đồi và nhờ dân làng phụ dựng một cốc bằng cây nhỏ để tu tập.

Trên đồi không mấy khi có du khách, trừ những người muốn lên để ngắm hoàng hôn, nên rất yên tịnh. Cốc tôi nằm khuất nên không ai biết có tôi ở đó. Sau cốc tôi có khai một lối đến tảng đá to nhìn ra biển Ấn Độ mà sóng ngoài khơi kéo về vổ ì ầm dưới chân không đầy năm thước. Tôi có thể ngồi ngay trên mặt đá bằng để tham thiền trong lúc vừng Tây chìm dần dưới chân trời trước mặt. Mỗi ngày tôi xuống vô xóm khất thực. Tôi sống lại Unawatuna nhiều hơn ở Nilambe và chính tại nơi đây tôi nảy ra ý định viết những trang hồi ký này.

Tôi không có về lại Thapovanaya. Trong lúc tôi đi xa, Thầy Vangisa viên tịch và tu viện được phát triển lớn thành truờng dạy tăng sĩ. Dĩ nhên quang cảnh yên tĩnh quen thuộc của tôi không còn nữa!

Tháng Tư 1985, tôi trở lại Ấn Độ và kinh hành sáu tháng ở Hy Mã Lạp Sơn. Tôi bắt đầu từ Rishikesh (nơi nổi tiếng mà nhóm Beatles từng hành thiền với Yogi Maharishi Mahesh), đi bộ đúng theo padayatra cổ truyền (hành hương bằng cách đi bộ), viếng nhiều đất thánh Hindu như Badrinath, Kedernath, Gangotri, Yamunotri, và động Amaranath ở Kashmir, cùng nhiều đền linh thiêng.

Lúc gió nồm của mùa mưa bắt đầu thổi, tôi qua khỏi đèo Zoijila, vô vùng ít mưa Ladakh, và sau cùng đến Leh. Tôi đi trong thung lũng Indus suốt hai tháng. Trong khoảng thời gian này tôi tạm trú trong nhiều tu viện kiểu Tây Tạng rải rác trên bình nguyên hoang vắng. Cuối tháng Mười tôi trở lại Srinagar, rồi lấy xe lửa và xe đò xuống miền Nam Ấn Độ qua Aurangabad và Động Ajanta đến Rameswaram. Từ Rameswaram tôi lên chiếc tàu đò cũ SS Ramanujam lần chót qua Sri Lanka. Sau đó SS Ramanujam không còn đưa khách qua lại Ấn Độ và Sri Lanka nữa vì sự quấy rối của quân nổi dậy Tamil.

Sau chuyến kinh hành dài ở Ấn Độ, tôi bắt đầu đọc sách báo Phật giáo quốc tế của Buddhist Publication Society ở Kandy cầu tìm duyên lành mới. Tôi thấy bài nói về một lâm tự Theravada đang được xây cất ở West Virginia. Trên nước Mỹ, tu viện Zen và Tây Tạng cũng như chùa Theravada không thiếu nhưng đều nằm trong thành phố; đây là lần đầu tiên tôi nghe nói đến một thiền viện theo trường phái Theravada lập trong rừng.

Từ lâu, tôi có ý định hoằng dương Phật pháp và phổ biến thiền đến phương Tây; những ngày ở IBMC là bước đầu của sở nguyện tôi. Tuy nhiên lúc bấy giờ tôi còn non nớt quá nên nào dám. Bây giờ, nhờ sáu năm lặn lội thêm bên châu Á và mớ kinh nghiệm dạy Pháp ở Nilambe, tôi cảm thấy tự tin hơn. Do đó, khi đọc được tin trên tôi rất quan tâm chú ý. Hơn thế nữa, lâm tự được gọi là Bhavana Society, lại do một tăng Tích Lan gây dựng, Thầy Henepola Gunaratana. Tu viện được xây trong khu rừng rộng mười ba mẫu Anh trên khu cán gáo của West Virginia, cách Washington, D.C. hai giờ xe. Được biết tu viện đang cần nhiều bàn tay xây dựng, tôi liền viết thư qua Thầy H. Gunaratana, lúc bấy giờ là Chủ Tịch Washington Buddhist Vihara ở thủ đô, để tự giới thiệu và xin góp sức vào công quả quan trọng của Thầy. Không bao lâu tôi được thư Thầy trả lời, mời tôi qua phụ giúp.

Mùa Xuân 1987, tôi lên Washington Buddhist Vihara gặp Bhante (Thầy) Gunaratana. Thầy còn ở đây vì tòa nhà đầu tiên trong rừng do các đệ tử góp sức chung xây vào những ngày nghỉ cuối tuần chưa ở được. Lúc đến nơi, tôi thích ngay quang cảnh và tin tưởng công trường chắc chắn sẽ thành một aranya (lâm viện hay tu viện trong rừng) xinh đẹp. Tôi ở lại công trường một mình và bắt tay làm việc mỗi ngày. Thỉnh thoảng tôi đi gặp bà con (rất ít) trong vùng, và dĩ nhiên không bao giờ quên thiền.

Mùa Thu 1988, tòa nhà chánh với một thiền đường nhỏ, đường sá, và ba cốc bằng cây được xem như xong. Lúc bấy giờ viện mua thêm mười mẫu Anh kế bên. Và tháng Mười 1988, Bhavana Society Forest Monastry and Meditation Center được long trọng khánh thành. Từ đó trung tâm không ngừng phát triển và tâm linh tôi không ngừng khai mở.

Mỗi năm từ 1988 đến nay, tôi đi Âu châu hai tháng hè để gieo duyên với các bạn mà tôi gặp truớc đây ở Sri Lanka. Tôi cũng thường mở nhiều khóa thiền ở Đức, và đôi khi ở Đan Mạch, Thụy Điển, Ý và Pháp.

Nay cẩn ký.

Dịch xong Chủ Nhựt 13.11.2005
Chơn Quán Trần-ngọc Lợi

*

PHỤ BẢN I

I.  Khước sĩ (Sannyassin) là người có lối sống như tu sĩ/đạo sĩ Hindu, khước từ dục lạc thế gian và nguyện giữ hạnh thanh bần và độc thân. Theo truyền thống, họ mặc màu vàng, vàng nghệ, hay cam là biễu thị của sự khước từ; các màu ấy cũng là màu biễu tượng của họ ngày hôm nay ở Ấn Độ. Khước sĩ rất được người Ấn sùng tín kính trọng. Tuy nhiên tân khước sĩ (neo-sannyassin) của Đạo Sư Rajneesh có khác và từng là đề tài bán tán ở Poona khi họ đi rong trong thành phố nầy với y màu cam/đỏ và chuỗi mala lủng lẳng trên cỗ. Nam và nữ, thường là người ngoại quốc, được thấy quấn quít và hun hít ở những nơi công cộng, làm mất thuần phong mỹ tục Hindu nên dân chúng rất khó chịu. Họ còn vào quán rượu, nhà hàng, ăn uống nhảy nhót vung vít. Không cần nói ai cũng biết hạnh kiểm lố bịch ấy (của một người gọi là khuớc từ dục lạc) không thể được lễ giáo Hindu chấp nhận. Nhưng vỉ họ chi tiền nhiều nên địa phương làm lơ cho. Một sáng trong năm 1980, có một người phóng dao ám sát hụt Đạo Sư Rajneesh trong lúc ông đang thuyết giảng ở Poona. Một dấu hiệu cho biết dân Poona chán ngáy Đạo Sư và đám đệ tử tân khước sĩ của ông. Vì vậy, theo tôi nghĩ, Đạo Sư đã phải dọn đi nơi khác, ra khỏi Ấn Độ luôn. Ông và "bộ lạc hoan hỷ" của ông hiện sống tại Mỹ, trên miền Đông Bắc của tiểu bang Oregon. Họ đang tạo dựng thành phố mang tên Rajneeshpuram và khai sanh đạo mới, đạo Rajneeshism.

II. Trung Tâm Thiền Minh Sát Kanduboda (The Kanduboda Vipassana Bhavana Center) hình thành năm 1956 nhân dịp có một số nhỏ du sĩ Miến Điện đến Sri Lanka dạy thiền. Quý vị tỳ kheo (bikkhu) ấy là đệ tử của Ngài Mahasi Sayadaw, tác giả quyển Practical Insigh Meditation và cũng là bậc A La Hán đã khởi xướng pháp phồng xẹp bụng. Quý vị được mời sang để khơi lại pháp hành thiền đã bị ảnh hưởng Thiên Chúa giáo lấn áp trong nhiều trăm năm bị phương Tây đô hộ. Năm 1956 là một thời điểm quan trọng vì là năm kỷ niệm thứ 2500 của Đức Phật nhập Niết Bàn. Trước khi nhập diệt, Đức Phật có nói rằng Pháp của Ngài sẽ mạt sau năm ngàn năm; lúc bấy giờ sẽ có Phật Di Lặc thị hiện giáo hóa chúng sanh. Do đó, năm 1956 đánh dấu nửa lộ trình của Phật Pháp và được thế giới Phật giáo long trọng kỷ niệm. Đó cũng là năm ngọn đuốc thiền quán Phật giáo được thắp sáng lại. Ngay trước đó, Ngài Mahasi Sayadaw và Bổn Sư của Ngài Goenka là Ngài U Ba Khin có thiết lập hai trung tâm thiền tại Rangoon. Khi đến nơi, quý vị tỳ kheo Miến Điện nhập hạ và dạy thiền minh sát khiến nhiều tu sĩ và cư sĩ Tích Lan có duyên mai học được pháp thiền nầy. Tiếp theo, nhiều trung tâm thiền khác được thiết lập để đáp ứng nhu cầu của người muốn học thiền ngày càng đông. Kanduboda là một trong những trung tâm mới này do một tỳ khưu từng du học ở Miến Điện lập nên và giảng dạy. Đó là Ngài Sumathipalo, thầy của Ngài Sivali. Hai vị thầy này và Thầy Mahasi Sayadaw viên tịch năm 1982.

III. Bố Thí (Dana) là một pháp quan trọng trong việc hành trì Phât pháp. Đại để, bố thí có nghĩa là chia xẻ cái mình có để giúp người đang thiếu và cũng để làm giảm thiểu tâm tham ái và chấp thủ của mình. Theo truyền thống Phật giáo, bố thí là cúng dường chư tăng ni bốn thứ vật dụng cần thiết hằng ngày là thức ăn, y, chỗ ở và thuốc men. Trai đường là nơi tu sĩ nhận vật thực cúng dường do thí chủ (dayaka) mang đến tu viện. Cúng dường tu sĩ được tin như là tạo phước báu làm tăng trưởng căn lành và hạnh phước; cúng dường cho bậc mà công đức tu tập càng cao dày, phước báu tạo nên càng to lớn. Do đó, các trung tâm thiền có tiếng như Kanduboda thuờng nhận được nhiều vật thực cúng dường. Một lợi điểm nữa của Kanduboda là có nhiều người ngoại quốc ở tu học; dân chúng địa phương nghĩ rằng người phương Tây nào dám hy sinh tiện nghi vượt bực của Âu Mỹ để đến phương Đông hành thiền trong điều kiện tu học khắc khổ là người đã thực sự hy sinh nên cần được giúp đở nhiều hơn. Đó cũng là dịp để họ nhìn thấy tận mắt các đệ tử của Phật từ phương Tây qua.

IV. Để đơn giản vấn đề, tám bậc ấy được xếp vào ba giai đoạn tùy theo chức năng tổng quát của chúng. (1) Giai đoạn thứ nhứt là làm tỏ lộ tánh vô thường của năm uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, và thức, được thực hiện bằng cách dùng nội quán nhìn trước vô sự sanh và diệt của các pháp hữu vi rồi sau đó chỉ vô sự diêt[47] mà thôi. (2) Giai đoạn thứ hai đòi hỏi sự quán chiếu thâm sâu và sự tin tưởng rằng các pháp của thân tâm và của toàn thế gian hữu vi đều bất toại nguyện và là nguồn gốc của khổ đau; do đó, chúng ta không còn sự ham muốn (xả bỏ) pháp thế gian nữa. Đôi lúc quán chiếu sự sanh diệt chưa đủ để xả bỏ. Trừ trường hợp được quan sát tỉ mỉ bằng ánh sáng của khổ đau, thực tánh bất toại nguyện (khổ) của thế gian luôn bị che án bởi tham, sân và si. Dầu biết là khổ nhưng chúng ta vẫn tìm cầu. Sự hiểu biết và nhu cầu phải xả bỏ được thực hiện bằng cách phát triển ý thức về hoảng sợ[48] và hiểm nguy. Nhưng sự hoãng sợ nói đây không phải là sự sợ hãi tiêu cực mà là biểu hiệu xác nhận rằng sự vật đang tan hoại và không có trú quán (dầu chỉ cho một đêm), không có sự thanh tịnh cho bất kỳ tâm chấp thủ nào. (3) Trong giai đoạn thứ ba tâm thực sự quay lưng lại sáu căn, sáu trần, và cả hành giả là "cái tôi". Đó là giai đoạn mà quả của cố gắng trước đây hình thành và được chứng nghiệm qua sự xả ly, thanh tịnh, tuệ tri, và hạnh phúc tối thượng gọi là Niết Bàn. Giai đoạn này được thực hiện bằng sự phát huy tâm vô tham dục, hành xả và giải thoát khỏi mọi pháp. Giai đoạn thứ ba được nối tiếp bởi sự chuyển đổi từ Tam Giới Hợp Thế (dục giới, sắc giới, vô sắc giới) lên Niết Bàn siêu tam thế. Trong kinh điển Nam Truyền, pháp Trí Tuệ Thanh Tịnh[49] và trạng thái Niết Bàn phát sanh từ các pháp thanh tịnh trình bày một phần của lộ trình (đạo) thanh tịnh hóa tâm. Toàn bộ được giải thích trong Bộ Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga), một loại phóng tác của Giáo Pháp tiếng Pali giảng giải bởi Ngài Phật Âm (thế kỷ thứ 5). Giáo Pháp vĩ đại ấy mô tả tỉ mỉ sự phát sanh và tịnh hóa Giới Thanh Tịnh, (Silavisuddhi), Định Thanh Tịnh (Samadhivisuddhi) và Tuệ Thanh Tịnh (Pannavisuddhi). Chi tiết về Thiền Tuệ nằm trong phần Tuệ Thanh Tịnh. Bản dịch Anh ngữ của Tỳ Kheo Nanamoli Thera được xuất bản bởi Buddhist Publications Society, Kandy, Sri Lanka, và bởi Shambala Publications, California (hai quyển).

V. Kinh Phật mô tả mười kiết sử ngăn che Chứng Ngộ. Chúng cần phải được bứng tận gốc bằng pháp Thiền Minh Sát (Thiền Tuệ). Sự đoạn diệt dần dần các kiết sử tuần tự làm phát triển sự chứng đắc Tứ Thánh Đạo là Thánh Đạo Nhập Lưu, Thánh Đạo Nhứt Lai, Thánh Đạo Bất Lai và Thánh Đạo A La Hán. Phần nầy cũng được giảng giải tỉ mỉ nơi mục Thiền Tuệ trong Bộ Thanh Tịnh Đạo nói trên ghi chú IV.

VI. Nhập Lưu còn gọi là Tu Đà Hoàn (Sotapanna) là bậc Thánh chứng ngộ Niết Bàn lần đầu tiên và mới nhập vô dòng Thánh (Ariya). Vì còn nghiệp nên bậc Nhập Lưu sẽ tái sanh bảy lần nữa trước khi chứng đạt bậc A La Hán. Nhờ tâm đã được thanh tịnh hóa[50], bậc Nhập Lưu không còn phải tái sanh vô ba cõi thấp (súc sanh, ngạ quỷ và địa ngục). Do nghĩ mình đã chứng đạt bậc Nhập Lưu, Thầy Nyanavira tự kết liễu đời mình để chấm dứt khổ đau hiện tiền và mau đến bậc A La Hán (nhờ sớm bớt đi một kiếp). Lý luận của Thầy được trình bày trong bức thư gởi cho người bạn và được biết sau khi Thầy tự vẫn. Trong những năm sau cùng, Thầy có ghi chú nhiều điều về tâm thức, ghi chú được đúc kết thành tập 'Ghi Chú về Đạo Pháp--Notes on Dhamma'. Thầy Samitta không có gặp Thầy Nyanavira nhưng có đọc thư và tập Ghi Chú của Thầy. Thầy tin rằng Thầy Nyanavira đã có cái nhìn trực tiếp đến Niết Bàn. Thầy rất quý tập Ghi Chú và xem Thầy Nyanavira như một hiền triết cao thâm. Những gì tôi viết ra đây là do tôi lượm lặt được qua các câu chuyện với Thầy Samitta và những người hiểu biết. Tôi có dịp nghiên cứu tập Ghi Chú và học được nhiều tư tưởng mới lạ rất hấp dẫn. Tuy nhiên, tôi không dám nói gì hơn về sự tự vẫn của Thầy bởi kinh nghiệm Phật Pháp của tôi còn quá ít oi.

VII. Ở Tích Lan, Phật tử không xem mình là người của Ấn giáo song họ thờ cúng thần thánh. Thờ cúng thần thánh, họ mong được may mắn và an lành trong cõi thế; còn lạy Phật nghe Pháp, họ tìm lối giải thoát cho tâm linh trong kiếp tới. Khi lời cầu nguyền linh ứng, họ thường đi hành hương ở chùa hay một nơi thiêng liêng. Tôi có dịp gặp một thanh niên nguyện sẽ leo lên Sri Pada hành hương nếu thi đậu vô đại học. Anh được toại nguyện và vừa đi tạ thần thánh về. Một bà mẹ khác (trong gia đình mà tôi biết) vái nếu cuộc giải phẫu mắt của con bà thành công, bà và con bà sẽ sang bái cội Bồ Đề linh thiêng ở Bồ Đề Đạo Tràng bên Ấn Độ. Cuộc giải phẫu đuợc như ý, bà cùng con đã đi hành hương. Tôi thiết nghĩ sự tin tưởng nơi thần thánh (tha lực) không đúng theo Giáo Pháp, nhưng tôi không thắc mắc, như tôi đã từng không phủ nhận việc giải tà, coi tay, coi bói, vân vân.

VIII. Trong khoa Yoga, tuyến nội tiết được xem như liên hệ với hệ 7-luân xa (chakra) hay trung tâm sinh lực. Ba hạ luân xa (tinh/noản hoàn, tuyến thượng thận và tuyến tụy) điều hòa các chức năng sinh dục, sinh sản, tiêu hóa, chuyển hóa, và những cảm xúc thô của bất thiện tâm tham, sân, si, vân vân. Trung tâm thứ tư hay tâm luân xa với tuyến thymus có chức năng chuyển đổi lên thiện tâm cao quý như tâm từ (metta) và tâm bi (karunà). Ba thượng trung tâm với tuyến giáp trạng, tuyến yên và tuyến tùng ảnh hưởng đến tâm định, tuệ thức và các kinh nghiệm siêu tam thế. Ai bị dằn vật bởi vấn đề sinh dục hay tham vật thực của thế gian được xem như bị các hạ luân xa chi phối. Nghệ sĩ, thi sĩ, các nhà trí thức, các tâm sùng đạo được xem như sống dưới sự động viên của tâm và thượng luân xa. Các bậc thánh và giác ngộ chỉ tùy thuộc vào thượng luân xa. Nhánh Kundalini Yoga của khoa Yoga chú trọng phát triển sự điều tức bằng một số thế đặc biệt để đưa sinh khí từ hạ luân xa thấp nhứt (chỗ xương cụt) theo ống tủy lên tận luân xa 'sen ngàn cánh' trên đỉnh đầu. Nếu một hay nhiều tuyến liên hệ với các luân xa không hoạt động (rất thường xảy ra), sự di chuyển sinh khí bị nghẻn. Vì vậy, khoa Yoga rất quan tâm đến việc tịnh hóa, kích thích và trẻ hóa các hệ thống chánh yếu của thân thể (như các hệ thần kinh, hô hấp, tuần hoàn, và nội tiết) để khai thông sự chứng đạt tỉnh thức. Tiến sĩ Swami Gitananda luôn luôn bảo rằng thân và tâm phải cùng hoạt động để hỗ trợ lẫn nhau. Tìm cách chứng đạt Giác Ngộ chỉ bằng cách tịnh hóa thân mà không phát triển tâm thức là một việc làm vô bổ. Cũng vậy, tìm cách phát triển tỉnh thức bằng thiền quán mà không lo cho thân thể lành mạnh chỉ tốn thì giờ vô ích. Trong pháp Yoga, thân và tâm là hai mặt của một đồng tiền. Tâm tỉnh thức (thiền tâm) của nhà thiền không phải từ trên trời rớt xuống (có thể là ngẩu nhiên trong một số rất ít trường hợp) mà là do một quá trình tu tập bao gồm sự thư giãn và tịnh hóa cả thân lẫn tâm một cách đúng đắn.

IX. Có một câu chuyện ngồ ngộ về luật nầy. Sau khi thành đạo, Đức Phật có trở về cung điện của Vua Tịnh Phạn, nơi mà vợ con Ngài đang sinh sống. Vì Đức Phật đã khước từ vương tước, nên hoàng tử Rahula sẽ đương nhiên là người kế vị ngai vàng. Khi Đức Phật về viếng hoàng cung, công chúa Yasodhara (vợ của Ngài thuở trước) bảo hoàng tử Rahula (lúc bấy giờ mới được bảy tuổi) ra tâu xin cha truyền cho ngôi báu. Vì tâm từ bi, Đức Phật thay vì truyền ngôi vua lại trao Rahula cho Ngài Xá Lợi Phất (đại đệ tử A La Hán của Đức Thế Tôn) để được giáo hóa và thọ giới sa di. Sự việc nầy gây không biết bao phiền não vì ngôi vua không người kế vị. Vua cha Tịnh Phạn bạch Phật chỉ nên thâu nhận đồ đệ khi có sự ưng thuân của cha mẹ của người xuất gia. Đức Phật thuận lòng vua cha và luật ấy được Ngài chấp thuận. Như có nói rồi, Hoàng tử Rahula chứng ngộ A La Hán lúc còn rất trẻ.

Cũng nên biết thêm rằng bà dì Maha Pajàpati từng nuôi dưỡng Hoàng Tử Sidharta từ lúc ra đời mới bảy ngày (lúc Hoàng Hậu Maya mất) cho đến khi khôn lớn, là vị tỳ kheo ni (bikkhuni) đầu tiên, và Công Chúa Yasodhara cũng thọ giới tỳ kheo ni sau đó; hai bà đều chứng đắc Thánh quả A La Hán khi còn tại thế. Vua Tịnh Phạn cũng đắc quả A La Hán dầu không có thọ giới tỳ kheo và vẫn giữ ngôi báu.

X. Một tỳ kheo Theravada chỉ được phép sở hữu tám vật dụng cho cuộc sống hằng ngày: ba y (hai y ngoài và một y trong), bình bát, kim và chỉ, một lọc nước, một dao cạo, và một dây nịt (để giữ y trong). Y ngoài và các vật dụng được xếp gọn trong bình bát, và bình bát được đựng trong cái xách đeo vai. Nhờ được trang bị gọn gàng, tỳ kheo có thể đi đâu cũng dễ dàng.

*

PHỤ BẢN II

Anatta: Vô Ngã tức là không có cái tôi, không vì mình. Một trong ba[51] đặc điểm của cuộc sống duyên khởi.

Anicca: Vô thường. Một đặc điểm khác của cuộc sống duyên khởi. Tất cả các hiện tượng, năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) ở trong tình trạng luôn luôn thay đổi, liên tục sanh và diệt ngoài sự kiểm soát của con người.

Arahat: A La Hán. Là vị Bồ Tát ở bậc cao nhứt[52]. A La Hán đã diệt (bằng thiền quán) hết mười kiết sử (ràng buộc)[53] buộc chúng sanh vào vòng luân hồi sanh tử. Ngài đã chứng ngộ Niết Bàn hay Bất Sanh Bất Tử, không còn trở lại cõi Ta Bà vô thường và đau khổ nữa.

Avijja: Vô Minh tức là không biết, không thấy, tâm chưa được khai ngộ. Vô minh được ví như bức màn che không cho thấy tánh thật hay thực tính của vạn vật (tâm, thân và thế giới danh sắc). Màn vô minh dày nên che khuất sự thật khiến con người tin vô thường là thường còn, những gì không toại nguyện hay đau khổ là toại nguyện hay khoái lạc, những gì không có thực chất hay không có tự thể là có thực chất hay có tự thể, những gì sai (không lành mạnh, không kỷ năng) là đúng (lành mạnh, có kỹ năng), và những gì đúng là sai. Vì vô minh nên hành giả không thấu triệt được Tứ Diệu Đế của Đấng Chí Tôn.

Bhavana: Thiền; sự phát triển tâm linh. Thiền Phật giáo có hai phương pháp: thiền chỉ (chú tâm và yên lặng) và thiền minh sát (thiền quán chiếu nội tâm).

Bikkhu: Tỳ Kheo; Tỳ Khưu. Nguyên nghĩa là 'thu lượm mảnh vụn'. Người sống nhờ vào sự bố thí của đàn na thí chủ; tiếng Pali Bikkhu chỉ tăng sĩ Phật giáo.

Bodhi: Bồ Đề; Tuệ Giác Tối Thắng; Khai Ngộ; Giác Ngộ. Tu Sĩ Siddhartha Gotama ngồi tham thiền và chứng đắc đạo quả dưới gốc cội Bồ Đề ở Bồ Đề Đạo Tràng (Boghgaya).

Bodhicita: Bồ Đề Tâm; Giác Tâm. Là tâm của các Bồ Tát đã chứng đắc nhưng chưa rời cõi Ta Bà vì hạnh nguyện cứu vớt mọi chúng sanh khỏi vòng luân hồi. Bồ Tát hành trì Tâm Bồ Đề không chọn con đường chỉ tu hành cho riêng mình mà cho mọi chúng sanh. Nhiều người (vì hiểu lầm, nd.) đã vội trách tông phái Theravada hành trì Phật pháp cho cá nhân mình mà thôi.

Bodhisattva: Bồ Tát; 'Chúng Sanh Chứng Ngộ'. Bậc thánh hy sinh đời mình để cứu rỗi chúng sanh. Bồ Tát giới là lý tưởng của Đại Thừa (đối với lý tưởng A La Hán của Theravada). Bậc Bồ Tát nguyện chỉ nhập Niết Bàn sau khi mọi chúng sanh kể cả cọng cỏ, (sic) nhập Niết Bàn[54].

Buddha: Phật; Bụt. Bậc giác ngộ.

Buddhi: Phật Tâm. Khả năng tối thắng của tâm giúp người khai mở Tâm Bồ Đề và đạt quả A La Hán hay Phật. Thông thường khả năng này bị vô minh che lấp và chỉ phát huy được nhờ vào sự hành thiền và trì Phật pháp.

Chakra: Luân Xa. Thuật ngữ Yoga có nghĩa là 'bánh xe' và được xem như trung tâm chứa năng lượng prana bên trong. Nguồn năng lượng prana lan tỏa khắp cơ thể theo một mạng kinh mạch (nadi) và chi phối các hoạt động đặc biệt của thân và tâm. Có sáu luân xa chánh nằm dọc trên đường sống lưng, bắt đầu từ đốt xương khu. Các luân xa này liên hệ với hệ thần kinh chính và các tuyến nội tiết trong vùng. Hệ thống gồm luân xa, tuyến và mạng kinh mạch chịu trách nhiệm về các tình cảm, trạng thái tâm linh và nhân cách từ thô đến vi tế. Ba luân xa dưới điều hợp những nhu cầu thế tục, còn ba luân xa trên ngang tầm tim, cổ và chân mày trách nhiệm các xúc cảm tinh thần như từ, bi, hỷ, xả, thiền, và tỉnh thức. Luân xa thứ bảy, hoa sen ngàn cánh, nằm trên đỉnh đầu là trung tâm toàn giác. Hầu hết những người thế tục (không thiên về tâm linh) sống theo cảm giác và đam mê của thân xác bị chi phối bởi các luân xa thấp; luân xa cao của họ bị đóng kín nên không chứng nghiệm được những đặc tính cao quý như từ, bi, hỷ, xả, vân vân. Mục đích của yoga là khởi động các luân xa cao để phát triển sự tỉnh thức tâm linh và các đặc trưng liên hệ.

Deva: Đề Bà; Thiên. Thuật ngữ Phật học chỉ người trở thành thiên nhơn của cõi thiên, nhờ đã sống đời người đức hạnh và từ bi.

Dharma: Pháp. Pháp có rất nhiều nghĩa. Nghĩa thông thuờng dùng trong sách này là Phật pháp, tức những lời chỉ dạy dẫn đến Sự Thật Tuyệt Đối, Giác Ngộ hay Niết Bàn. Trong Yoga và Ấn giáo, Dharma chỉ con đường phát triển tâm linh (riêng biệt của mỗi người) được xác định từ lúc sanh ra đời. Trong A Tỳ Đạt Ma, A Tỳ Đàm, hay Vi Diệu Pháp, Dharma là một Pháp trong vũ trụ. Có hai loại Pháp: duyên sanh và vô duyên sanh. Pháp duyên sanh gồm năm uẩn, yếu tố danh sắc[55] cấu tạo thế gian và có tánh vô thường, khổ và vô ngã. Pháp vô duyên sanh là Niết Bàn. Phật pháp là lời dạy của Đức Phât giúp hành giả thấu hiểu các pháp duyên sanh để đi đến pháp vô duyên sanh, Niết Bàn, chấm dứt đau khổ.

Dukkha: Đau Khổ; Bức Bách; Khó Chịu. Chính xác hơn, đó là những gì thuộc hai lãnh vực thân và tâm có sanh có diệt, không thường còn và vô ngã. Vì vô minh con người chấp lấy thân, tâm và thế gian nên sanh ra chấp thủ, ái dục, phiền não, ưu sầu và khổ đau. Đó là một Sự Thật và là đế thứ nhứt của Tứ Diệu Đế[56].

Hatha Yoga: Phương pháp yoga mà căn bản là tịnh hóa thân, hệ thần kinh, làm cân bằng sinh lực, vân vân, hầu giúp đạt các cấp cao của thiền quán. Cân bằng dòng chảy của sinh khí prana bằng các thế và phép điều tức[57] là Hatha Yoga (Ha=khí dương của mặt trời; Tha=khí âm của mặt trăng).

Hinayana: Tiểu Thừa hay Cổ Xe Nhỏ, một tên không mấy đẹp do Phật giáo Đại Thừa đặt ra để chỉ tông Phật giáo Nguyên Thủy (Theravada) mà mục tiêu được xem như tu tập để tự giác tức chỉ giải thoát cho riêng mình trong lúc mục tiêu tu tập của Đại Thừa là giải thoát chúng sanh. Vì không chính xác nên Phật tử Việt Nam đã thay thế từ Hinayana bằng Theravada (nd).

Karma: Nghiệp. Nghiệp được tạo tác bởi thân, khẩu, ý và bắt đầu từ ý. Ý hành giữ dấu vết trong hệ thần kinh và tiềm thức; hai nơi này có khả năng tạo nên tác dụng có hậu quả giống y như nguyên nhân. Hành động tạo nghiệp có thể tốt hay xấu và đem lại kết quả tốt hay xấu tương ưng. Nghiệp dữ do tam độc tham sân si dẫn dắt. Nghiệp lành là kết quả của tuệ, vô trước và từ bi. Nghiệp được xem như năng lực định hướng số phần tái sanh.

Kundalini: Thuật ngữ Yoga chỉ tinh khí tiềm ẩn dưới chót đuôi (xương cụt) của đường sống lưng có thể khơi động nhờ luyện tập yoga. Nó được ví như 'Xà lực', con rắn nằm khoanh nơi luân xa muladhara chi phối tình dục. Khơi động kundalini là đưa sanh khí tiềm ẩn ấy theo kinh mạch sushuma tức theo ống tủy trong đường sống lưng, ngang qua sáu luân xa, đến luân xa 'sen ngàn cánh' . Lúc tỉnh thức trụ trong luân xa ấy, hành giả yoga sẽ đạt Moksha hay Giác Ngộ.

Mantra: Thần Chú. Câu thần bí thường bằng Phạn ngữ Sanskrit mà hành giả của các đạo Ấn, Phật, và Yoga trì để trau dồi sự chú tâm và những tâm linh khác. Một số tông phái chỉ dùng độc nhứt chú như phương pháp tham thiền, mà Mantrayana (Chú Thừa) của Kim Cương Thừa Tây Tạng (Tibetan Vajrayana) là một.

Moksha: Tiếng Sanskrit chỉ Niết Bàn tức được giải thoát khòi vòng luân hồi sanh tử. Trong Ấn giáo và Yoga, Moksha tương đương với Vô Dư Niết Bàn của Phật giáo. Moksha đồng nghĩa với Niết Bàn Phạm Thiên (Brahma Nirvana).

Mahayana: Đại Thừa; Cổ Xe Lớn. Tông phái Phật giáo chánh ở Trung Hoa, Nhựt, Đại Hàn, Taiwan, và Tây Tạng. Mahayana cũng là tông Phật giáo chánh ở Việt Nam (nd).

Manaskar Mudra: Xá. Hình thức thi lễ bằng cách chấp tay trước ngực với hai bàn tay và mười ngón tay sát vào nhau và cúi đầu. Xá là để thi lễ Phật tính có sẵn trong mỗi chúng sanh. Tôi xá ông có nghĩa là tôi vái chào Phật tính trong ông. Xá rất thông dụng trong giới đệ tử theo Ấn Giáo và Phật giáo.

Nirvana (Sanskrit) hay Nibbana (Pali): Niết Bàn. Nguyên nghĩa là thoát vòng đam mê, tận diệt Vô minh, Chấp Trước/Tham Ái và Si Mê. Một số từ tương đương là: Vô Sanh, Vô Duyên Khởi, Vô Nhị Nguyên, sự Chấm Dứt Khổ Đau, Giải Thoát, và Hạnh Phúc Tối Thắng. Có hai bậc Niết Bàn: Hữu Dư Niết Bàn của Bồ Tát đã giải thoát tâm nhưng thân còn trong sắc giới và Vô Dư Niết Bàn của Phật đã hoàn toàn giải thoát, tức thân tâm đều trong cõi vô sắc giới.

Paticca-samuppada: Duyên Sanh; Duyên Khởi; Nhân Duyên. Giáo lý Phật gồm mười hai chi phần[58] vừa làm nhân vừa làm duyên chi phối sự sanh diệt của tất cả hiện tượng vật lý và tâm lý, năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Thuyết dùng để giải thích sự tái sanh nối tiếp kiếp này sang kiếp khác trong luân hồi. Sự sanh diệt liên tục của ý thức trong đời sống cũng được giải thích bằng thuyết này.

Pranayama: Điều Tức. Thuật ngữ yoga Prana có nghĩa là sinh lực hay năng lượng sống lan tỏa trong khắp vũ trụ, chi phối mọi khía cạnh danh sắc của đời sống. Prana được thấm nhập vô thân thể qua hơi thở và một ít qua ăn uống, và chảy trong các kinh siêu trần nadi. Điều tức là sự kiểm soát sinh lực qua hơi thở mà các yogi của Hatha Yoga sử dụng nhằm mục đích gia tăng sự thu nhập sinh khí và điều phối sinh khí theo những mô hình đặc biệt, thường là dọc sống lưng để tịnh hóa và tăng cường hệ thần kinh chuẩn bị đánh thức kundalini và đạt bậc thiền cao nhứt.

Sadhu: Thiện Tai! hay Lành Thay! Từ thông dụng để chỉ đạo sư Hindu hay tăng sĩ Phật giáo. Được dùng để diễn đạt niềm hân hoan thù thắng lúc đi hành hương, hay lúc viếng tăng hoặc Phật tích (như Tượng Phật, tháp, gốc Bồ Đề, vân vân.) Sadhu đôi khi cũng được xướng lên sau khi tụng kinh hay xả thiền (để công nhận lực thù thắng của thiền và huệ trí thành đạt).

Samadhi: Định; Thiền Chỉ; Tam Muội. Định tâm vào một điểm hay một chủ thể như lời chú hay hơi thở để tâm an ổn, không bị bấn loạn.

Samsara: Luân Hồi. Sanh, tử tiếp nối liên tục hết kiếp này sang kiếp khác trong sáu cõi[59]. Cũng chỉ sự sanh diệt liên tục của các niệm trong tâm với sự vướng mắc và tham ái.

Satipatthana: Bốn nền móng của tỉnh thức là những lời dạy căn bản của Đức Phật về thiền quán để đưa đến sự phát triển tuệ giác, nhìn thấy mọi sự vật như-là. Pháp của Phật được chi tiết hóa trong Kinh Satipatthana bằng tiếng Pali. Phương pháp quán minh phổ cập được đặt trên nền móng này.

Sotàpanna: Nhập Lưu. Người tu đã vào dòng tức chứng ngộ Niết Bàn. Bồ Tát Nhập Lưu không còn tác nghiệp nhưng còn phải qua bảy kiếp người nữa mới thật sự chứng ngộ bậc A La Hán. [60]

Tantra: Mật Tông. Một trường phái tâm linh bí truyền của hai đạo Ấn và Phật. Thay vì dùng phương pháp thiền thụ động và phương cách chế ngự cảm giác như trong thiền định và thiền minh sát, Mật Tông dùng giác quan một cách rộng rãi trong nhiều phép tập luyện khác nhau hầu khai ngộ. Mật Tông Tây Tạng dùng năng lực của tưởng tượng và trì mật chú. Yoga dùng phương pháp Mật tông để đánh thức kundalini. Phương pháp Mật tông gây nhiều chú ý nhứt có lẽ là phép giao cấu giữa nam nữ mà mục đích là dùng tính chất duy nhứt của cảm giác khoái cảm tột độ để xả bỏ hoàn toàn cảm nhận có hai nhân vật giao cấu cũng như để triệt tiêu ý thức tự ngã hầu chứng ngộ tính bất nhị nguyên. Guru Bhagwan Shree Rajneesh thường dùng phương pháp này để dạy đồ đệ của ông.

Theravada: Nam Tông; Tông Nguyên Thủy. Nguyên nghĩa là 'Lời của bậc trưởng lảo'. Lời Phật dạy theo truyền thống Pali và được xem như nguyên gốc so với những kinh sách khác. Phật Giáo Theravada chiếm đa số ở Sri Lanka, Thái Lan và Miến Điện[61].

Vajrayana: Kim Cương Thừa. Pháp của Kim Cương Thừa Tây Tạng gồm có cách hành trì theo Mật Tông với năng lực tưởng tượng sáng tạo và tu hạnh Bồ Tát.

Vipassana: Thiền Minh Sát; Quán Minh;, Thiền Minh. Nguyên nghĩa là 'nhìn thấy riêng rẻ", nhìn sự vật như-là. Thiền Minh Sát dựa trên kinh Satipatthana với bốn căn bản tỉnh thức của Theravada, theo đó tâm được luyện để nhìn thấy mọi sự vật đều vô thường và xả bỏ chấp trước, tiêu diệt mười kiết sử, và chứng ngộ.

Yoga: Du Già. Nguyên nghĩa là 'kết nối'. Phương pháp rèn luyện tinh thần đặc biệt thuộc Ấn giáo mà mục đích là đạt Moksha. Kết nối được thực hiện qua nhiều giai đoạn. Thoạt tiên là sự kết nối thể xác với tinh thần để đạt sự hòa hợp. Sau là sự kết nối tự ngã cá biệt với vũ trụ ngã bất nhị nguyên để đạt Moksha.

Zen: Tiếng Nhựt có nghĩa là Thiền một cách trọn vẹn. Thiền Zen nỗ lực đi thẳng xuyên qua tự ngã nhị nguyên không cần kinh sách, trí tuệ hay lễ nghi. Phật Giáo Zen phát sanh từ Trung Hoa và truyền sang Nhựt từ thế kỷ thứ 12; tại đây Zen phát triển thành một tông Phật Giáo độc đáo. Trong các tu viện Zen, tu sĩ dược dạy xóa bỏ hẳn tự ngã để chứng đạt vô ngã. Bản ngã giữ con người trong thế nhị nguyên. Thiền sư Zen dùng nhiều phương pháp thô bạo kể cả la hét và đánh đập môn sinh. Zen là tông phái Phật Giáo Đại Thừa được truyền đến Tây Âu trước tiên và được thích nghi với môi trường mới để thành Zen Âu Mỹ như hiện nay.

*

TÁC GIẢ: TỲ KHEO YAGACAVARA RUHALA

Tỳ Kheo Yogavacara Ruhala có tên tộc là Scott Joseph DuPrez. Sanh năm 1948 tại California, Scott lớn lên trong lúc phong trào híp pi đang thịnh hành. Anh gia nhập quân đội ba năm từ 1967 đến 1970 và có sang phục vụ ở Việt Nam mười tháng. Năm 1972, anh làm một chuyến mạo hiểm bụi đời nửa vòng trái đất, đến Bắc Âu rồi xuống tận Ấn Độ và Nepal; chuyến đi với đủ thứ cần sa và ma túy, kể cả LSD, đã đưa anh vô thế giới 'phê' thường xuyên. Tại Nepal anh có duyên gặp hai vị Lạt Ma Tây Tạng là hai bậc Thầy đầu tiên của anh trong một khóa tu học thiền. Sau khi mãn khóa, anh đổi hướng sang Phật giáo hay ít ra là có tâm thành mưu tìm Chân Lý. Công phu này đưa anh đến miền nam Sri Lanka nơi mà anh xuất gia năm 1975. Tỳ Kheo Yogavacara Rahula lưu lại Sri Lanka đến 1977 mới trở về Mỹ viếng song thân và xiển dương Phật pháp. Năm 1980, Tỳ Kheo trở lại Sri Lanka và tu học thêm đến 1986. Tỳ Kheo bắt đầu giảng dạy yoga và thiền trong các khóa tu học ngắn hạn 10-ngày ở Trung Tâm Thiền SMS nằm trên vùng núi gần Galaha, California và sống trong Kuti Unawatuna dựa biển. Từ 1988 Tỳ Kheo về tu tại Bhavana Society Forest Monastery and Meditation Center ở West Virginia, Hoa Kỳ. Ngoài hồi ký này, Tỳ Kheo còn viết nhiều sách khác như The Way to Peace and Happiness nói về Phật pháp và Traversing the Great Himalaya là một tập hình của chuyến hành hương lên Hy Mã Lạp Sơn.

*

HẾT


[1] Nguyên văn là chakra được tác giả giải thích là "trung tâm năng lực của thân siêu trần (etheric). Xem thêm mục VIII, Phụ Bản I (nd).

[2] Nguyên văn của tác giả là Cosmic Consciousness (tg).

[3] Nguyên văn của tác giả là Godhead (tg).

[4] Pranayama (tg). Prana là nguồn sinh lực thấm đượm cả vũ trụ và con người ở mọi cấp độ. Ayana là sự tích trữ và phân phối prana. (Người dịch ghi chú theo Kỹ Thuật và Thực Hành Yoga Toàn Tập của B.K.S. Iyengar, tổng hợp và biên dịch bởi Nguyễ­n Thị Hồng Vân, NXB Phụ Nữ, 2004)

[5] nadi (tg).

[6] Bằng cách quỳ gối, chấp hai tay, cúi xuống để đầu và các chót tay chân chấm đất, rồi ngưỡng lên lập lại ba lần (tg)..

[7] Xem mục II, Phụ Bản I (nd)

[8] The Heart of Buddhist Meditation (tg).

[9] Practical Insight Meditation (tg).

[10] Từ đây, tôi không gọi thân mình hay sinh hoạt của mình là 'của tôi' nữa mà chỉ nói trổng là thân hay sinh hoạt để nhấn mạnh tánh duyên khởi, vô ngã, vô chủ, và tự nhiên của thân-tâm theo nhãn quan của vipassana (tg).

[11] Thành ngữ 'tâm viên' có nghĩa là tâm lăng xăng như con vượn đu từ cành nầy sang cành khác không ngừng nghỉ (nd).

[12] Xem thêm mục IV, Phụ Bản I (nd).

[13] Gọi là thiền tuệ hay trí tuệ thiền thấy và biết rõ các danh pháp và sắc pháp (nd).

[14] Tức là các danh pháp và sắc pháp của thế gian duyên khởi (nd).

[15] Nói về danh pháp và sắc pháp (nd).

[16] Tức trên ba cõi dục giời, sắc giới và vô sắc giới (nd).

[17] Nhập Lưu hay Tu Đà Hoàn (Sotapanna), Tư Đà Hàm hay Nhất Lai (Sakadàgàmin), A Na Hàm hay Bất Lai (Anàgàmin), và A La Hán (Arahat). Xem thêm mục VI, Phụ Bản I (nd).

[18] Phật Giáo Đại Thừa ở Trung Quốc, Nhựt, Đại Hàn và Việt Nam cử hành lễ­ Đản Sanh vào rằm tháng Tư và lễ­ Thành Đạo vào mồng 8 tháng Mười Hai (tg).

[19] Tiếng Pali chỉ tu sĩ; có nguyên nghĩa là người lượm vụn vặt hay người sống nhờ thí thực (tg).

[20] Xem thêm mục VI, Phụ Bản I (nd).

[21] Tiếng Pali có nghĩa Tâm Trạng (The Temper); sự ngu muội và khuynh hướng trong tiềm thức tìm cách lôi kéo thiền giả khỏi chơn thiền (tg).

[22] 'holier-than-thou' (tỉnh từ): có thái độ đạo hạnh trên người; tự cho mình đạo đức hơn (tg).

[23] Sống với Zen' (nd).

[24] không lấy tiền trọ (nd)

[25] General Post Office: Bưu Điện (nd).

[26] Xem thêm mục III, Phụ Bản I (nd).

[27] Nước đường dùng ở đây có tên treacle. Treacle là nước đường đen trích từ cây kitul. Tàu hủ chế treacle dược dùng tráng miệng mỗi ngày ở Kanduboda nên tôi quen và rất thích (tg).

[28] Xem thêm mục VII, Phụ Bản I (nd).

[29] 'Tâm Thiền Phật Giáo' (nd).

[30] Tiếng Pali là Vassa hoặc Vassana có nghĩa nhập hạ, an cư kiết hạ (nd).

[31] Họ leo lên cây dừa để dò thăm rượu toddy, thứ như rượu chát mà tôi có uống thử ở Kerala (tg).

[32] Dịch từ tiếng Anh ablution (nd).

[33] Moon mantra, bài chú về trăng (nd).

[34] Thủ ấn (nd).

[35] Muốn nói đến Tổng Thống Richard Nixon và vụ Watergate (tg).

[36] The Thousand Petalled Lotus (tg).

[37] Tì Ni (nd)

[38] Tì Ni (nd)

[39] Ipiti so Bhagava Arahan, Sammasambudho, Vijjacaranasampanno, Sugato, Lokavidu, Anuttaro, Purisadammasarathi, Satthadevamanussanam, Buddho, Bhagava (nd).

[40] Đại Lão (nd).

[41] ego consciousness (tg).

[42] Non-Duality (tg).

[43] Có nghĩa bóng là khinh miệt hay chối bỏ (nd)

[44] Theo nghĩa cao nhứt, từ có nhà đến không nhà là buông xả hết mọi tâm sở (tg).

[45] Cụ Túc Giới, là giới cao nhứt của tăng ni. Giới tỳ kheo và tỳ kheo ni (nd).

[46] Hy Mã Lạp Sơn (lời chú của nd)

[47] "Sự biến đổi dễ nhận hơn sự trở thành" (Theo Phật Pháp Giảng Giải của tác giả U. Thittila, dịch giả TK. Pháp Không, Viên Không, 2002 (lưu hành nội bộ).

[48] Bố Úy Trí (Bhayanàna) (nd).

[49] Visuddhi (nd).

[50] Đã diệt được ba kiết sử Thân Kiến (Sakkhàyaditthi), Hoài Nghi (Vicikicchà) và Giới Cấm Thủ (Sìlabbatàparàmàsa) (nd).

[51] Một trong Tam Ấn (Vô thường, Khổ, Vô ngã) của Phật giáo (nd).

[52] Bồ Tát Giới có bốn bậc là: Nhập Lưu hay Tu Đà Hoàn (Sotàpanna), Nhứt Lai hay Tư Đà Hàm (Sakadàgàmì), Bất Lai hay A Na Hàm (Anàgàmì) và A La Hán (Arahat) (nd).

[53] Mười kiết sử gồm: Thân kiến (Sakkàyaditthi), Hoài nghi (Vicikichà), Giới cấm thủ (Sìlabbataparàmàsa), Dục ái (Kàmàraga), Sân (Patighi), Ái sắc (Rùpaàaga), Ái vô sắc (Arùparàga), Ngã mạn (Màna), Trạo cử (Uddhacca), và Vô minh (Avijjhà) (nd).

[54] Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ (nd).

[55] Sắc chỉ thân xác vật lý; Danh chỉ thọ, tưởng, hành, và thức (nd).

[56] Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, và Đạo đế (nd).

[57] Là phép kiểm soát hơi thở (nd).

[58] Mười hai chi phần Đức Phật thuyết minh (Kinh Tương Ưng Bộ II hay Samyutta Nikayà) gồm: vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, và lão-tử. (nd).

[59] Sáu cõi gồm: trời, a tu la, người, ngạ quỷ, súc sanh, và địa ngục (nd).

[60] Thánh Nhập Lưu còn gọi là Tu Đà Hoàn, đã diệt được ba trong số mười kiết sử là Thân kiến (Sakkayaditthi), Hoài nghi (Vicikicha) và Giới Cấm Thủ (Silabbataparamasa) (nd).

[61] Và Campuchia (nd).

-ooOoo-

Ðầu trang | 01 | 02 | 03 

 

Chân thành cám ơn đạo hữu Chơn Quán đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 10-2007)

[Trở về trang Thư Mục]
last updated: 06-10-2007