Trang gốc

Trang web BuddhaSasana

VU Times font

 

Luận giải Kinh Chánh Tri Kiến
(Sammādiṭṭhi sutta)

Tỳ khưu Chánh Minh

Lưu ý: Ðọc với phông chữ VU Times (Viet-Pali Unicode)


 Phần II - Mười sáu tiêu đề.

 Tiêu đề 1.
a- Trí biết rõ bất thiện và gốc rễ của bất thiện
b- Trí biết rõ thiện và gốc rễ của thiện.

Chánh kinh.

“Chư Hiền, thế nào là bất thiện? Thế nào là gốc rễ bất thiện (katamaṃ akusalaṃ mūlaṃ). Thế nào là thiện? Thế nào là gốc rễ thiện?”

Chư Hiền, sát sanh là bất thiện (pāṇātipāto akusalaṃ), lấy của không cho là bất thiện (adinnādānaṃ akusalaṃ), làm sái quấy trong dục là bất thiện (kāmesu micchācāro akusalaṃ), nói dối là bất thiện (musāvādo akusalaṃ), nói hai lưỡi là bất thiện (pisuṇā vācā akusalaṃ), nói ác là bất thiện (pharusā vācā akusalaṃ), nói vô ích là bất thiện (samphappalāpo akusalaṃ), tham đắm là bất thiện (abhijjhā akusalaṃ), sân độc là bất thiện (byāpādo akusalaṃ), tà kiến là bất thiện (micchādiṭṭhi akusalaṃ).

Và chư Hiền, thế nào là căn bản (mūla) bất thiện? Tham (lobha) là căn bản bất thiện, sân (doso) là căn bản bất thiện, si (moho) là căn bản bất thiện. Chư Hiền, như vậy là căn bản bất thiện.

Và này chư Hiền, thế nào là thiện? Từ bỏ  sát sanh là thiện (pāṇātipātā veramaṇī kusalaṃ), từ bỏ lấy của không cho là thiện ( adinnādānā veramaṇī kusalaṃ), từ bỏ tà hạnh trong dục lạc là thiện (kāmesu micchācārā veramaṇī kusalaṃ), từ bỏ nói dối là thiện (musāvādā veramaṇī kusalaṃ), từ bỏ nói hai lưỡi là thiện (pisunāya vācāya veramaṇī kusalaṃ), từ bỏ nói ác là thiện (pharusāya vācāya veramaṇī kusalaṃ), từ bỏ nói vô ích là thiện (samphappalāpā veramaṇī kusalaṃ), không tham đắm là thiện (anabhijjhā kusalaṃ), không hiềm hận là thiện (abyāpādo kusalaṃ), có chánh kiến là thiện (sammādiṭṭhi kusalaṃ). Chư Hiền, như vậy gọi là thiện.

Chư Hiền, thế nào là căn bản của thiện:Vô tham (alobha) là căn bản thiện, vô sân (adosa) là căn bản thiện, vô si (amoha) là căn bản thiện.

Chư Hiền, khi nào vị Thánh đệ tử biết bất thiện như vậy, biết căn bản bất thiện như vậy, biết thiện như vậy, biết căn bản thiện như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên (rāgānusayaṃ pahāya), tẩy sạch sân tùy miên (paṭighānusaya), nhổ tận gốc ngã- hữu, kiến - mạn tùy miên (paṭivinodetvā asmīti diṭṭhimānānusayaṃ samūhanitvā), đoạn trừ vô minh (avijjhā pahāya), khiến minh sinh khởi (vijjā uppādetvā), diệt tận khổ đau ngay trong hiện tại...”

Giải:

A- Trí hiểu rõ bất thiện và căn bản bất thiện.

Chữ bất thiện (akusala) ở đây, bao gồm cả ác giới lẫn ác nghiệp.

Kinh văn ghi rằng: “Pāṇātipāto akusalaṃ: sát sanh là bất thiện. Adinnādānaṃ akusalaṃ: lấy của không cho là bất thiện ...”.

Rõ ràng, bất thiện ở đây chỉ cho ác giới lẫn ác nghiệp.

Một người dùng thân với ý sát hại chúng sinh khác, người này đã vi phạm vào giới sát  lẫn ý nghiệp sát.

Nếu chúng sinh ấy chết, người này đứt giới sát sanh và tạo nghiệp sát sanh, nếu chúng sinh ấy chưa chết (hay không chết), giới sát sinh tuy chưa đứt (hay không đứt) nhưng nghiệp sát sinh đã có.

Đức Phật có dạy:

“Cetanāhaṃ bhikkhave kammaṃ vadāmi:

Này các Tỳkhưu, Ta nói sự cố ý (cetanā) là nghiệp”.

Mặt khác, bất thiện khi được mở rộng ý nghĩa thì: Tuy không có ý sát hại nhưng hành hạ chúng sinh khác, hành động này là bất thiện, bất thiện tăng trưởng trở thành ác.

Trong Tạng Luật có ghi:

Trong cuộc tranh chấp của nhóm Tỳkhưu Lục Sư và nhóm Tỳkhưu Thập thất sư, nhóm Tỳkhưu Lục Sư đông hơn đã dùng gậy gộc đe dọa nhóm Tỳkhưu Thập thất sư, khiến các vị ấy kinh hoàng kêu khóc.

Nhân cớ ấy, Đức Phật chế định học giới: “Vị Tỳkhưu đánh vị khác phạm ưng đối trị (pacittiya)”, rồi Ngài dạy kệ ngôn:

“Sabbe tasanti daṇḍassa. Sabbe bhāyanti maccuno

Attānaṃ upamaṃ katvā. Na haneyya na ghātaye.

“Ai cũng run sợ trước gậy gộc. Tất cả đều sợ chết. Hãy lấy ta suy ra người. Không nên giết cũng không xúi giết.[1]

Rõ ràng chư Tỳkhưu Lục sư không có ý sát hại bậc đồng phạm hạnh, chỉ đe dọa cho sợ thôi, nhưng đó cũng là bất thiện rồi.

A- Thân bất thiện có ba: Sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong dục lạc.

1- Giải về sát sinh - Pāṇātipāta.

a- Theo từ ngữ.

Pāṇātipāta = pāṇa + atipāta.

Pāṇa là “đời sống, chúng sinh”, atipāta xuất phát từ động từ atipāteti nghĩa là “sát hại, giết chết”.

Chữ pāṇa theo nghĩa thường dùng là “chúng sinh có mạng sống”.

Pāṇātipāta là “hủy diệt sự sống (của) chúng sinh khác”.

Gọi là “chúng sinh có mạng sống” vì có sắc mạng quyền (jīvitarūpa) hay danh mạng quyền (jīvitanāma).

Ở cõi Vô sắc chỉ có danh mạng quyền, cõi Vô tưởng (asaññībhūmi) chỉ có sắc mạng quyền, cõi năm uẩn (cõi Dục giới và cõi Sắc giới hữu tâm) thì có đủ hai loại mạng quyền.

Do đó, người Vô tưởng,  người Vô sắc cũng được gọi là chúng sinh.

Như vậy, theo chế định thì pāṇa chỉ cho chúng sinh, còn theo chơn đế  (paramatthasacca) thì pāṇa chỉ cho danh - sắc mạng quyền.

Trong phạm vi kinh này, pāṇa chỉ cho cả hai loại mạng quyền hiện hữu từ cõi Tứ Đại vương trở xuống, từ cõi Tứ đại vương trở lên sự sát hại chúng sinh không hề có.

Những dạ xoa là đồ chúng của Tứ đại vương, tuy chúng sát hại những sinh vật khác nhưng đó là do chúng nương sống ở địa cầu, như dạ xoa Āḷāvaka chẳng hạn. Hoặc có những thiên nhân sát hại chúng sinh khác, đó cũng là những chư thiên địa cầu.

Một Tỳkhưu ở thành Āḷavī muốn cất một liêu thất cho mình, thấy một thân cây thích hợp, nên đốn cây ấy.

Cây này là nơi trú của một nữ thần cây (rukkhadevī), bà hiện ra năn nỉ vị Tỳkhưu đừng phá nơi ngụ của mình, vị Tỳkhưu cương quyết đốn cây.

Nữ thiên nhân suy nghĩ: “Nếu Ngài thấy con ta, chắc mở lòng thương xót, sẽ không đốn cây này”.

Bà  đặt đứa bé (là con bà) lên nhánh cây mà vị Tỳkhưu đang đốn, vị Tỳkhưu ngừng tay rìu không kịp, đã chặt đứt cánh tay đứa bé.

Nữ thiên nhân nỗi giận vươn đôi tay định vặn chết vị Tỳkhưu, nhưng bà chợt nghĩ: “Vị Tỳkhưu này là bậc hiền thiện, nếu ta giết vị ấy ta sẽ rơi xuống địa ngục, hơn nữa, các vị thần cây khác sẽ theo gương ta, giết các vị Samôn khi bị phá hoại trú xứ. Vị Tỳkhưu này có thầy, ta sẽ trình lên thầy của vị ấy”.

Rồi vừa đi vừa khóc, bà đến đảnh lễ Đức Thế Tôn, trình bạch lên Ngài câu truyện trên, Đức Phật khen ngợi nữ thiên nhân rằng:

- Lành thay, lành thay! Ngươi đã hành xử rất tốt khi kềm hãm cơn giận, như người đánh xe thiện xảo kềm hãm được chiếc xe đang lao nhanh.

Rồi Ngài thuyết lên kệ ngôn:

Yo ve uppatitaṃ kodhaṃ. Rathaṃ bhantaṃ’va dhāraye

Taṃ ahaṃ sārathiṃ brūmi. Rasmiggaho itaro jano.

“Ai chận được phẫn nộ. Như dừng xe đang lăn.

Ta gọi người đánh xe. Kẻ khác cầm cương hờ.” [2]

Nghe xong kệ ngôn, nữ thiên nhân chứng quả Dự lưu, và Đức Phật ban cho bà chỗ ngụ là cây đại thọ ở trước cỗng Jetavihāra (Kỳviên tinh xá).

Cũng do nhân việc này, Đức Đạo sư chế định học giới: “Vị Tỳkhưu không được đốn cây, vị nào đốn cây phạm vào ưng đối trị”.

Thế thì cuộc chiến giữa Asura (Atula) và chư thiên cõi Ba mươi ba ra sao?. Có sự sát hại nhau không?.

Tuy giữa chư thiên cõi Ba mươi ba (Tāvatiṃsa) và Asura có những trận chiến diễn ra. Nhưng “cuộc chiến ở cõi trời không có chết chóc và đau đớn thương vong, tương tự như hình nộm đấu với hình nộm.

Nếu bên nào chống cự không lại vì ít quân hơn, liền bỏ chạy trở vào thành đóng cửa lại, bên chiến thắng đành phải rút về, vì không thể nào phá cửa thành vào được”  [3].

Trong Tăng chi bộ kinh có ghi nhận cuộc chiến giữa chư thiên cõi Ba mươi ba và Asurā rằng:

“Có lúc chư thiên thua phải chạy vào thành phố chư thiên đóng cửa lại, thế là các Asurā phải kéo về.

Có lúc chư thiên thắng, các Asurā thua chạy về thành phố Asurā đóng cửa thành lại, chư thiên đành phải kéo về” [4].

Do đó, cả hai thành đều có tên là Ajujjhāpūranagata (thành Bất khả bại), nên nói rằng: “Cõi chư thiên không có sát sanh”.

Bàn về mạng quyền (jīvitindriya).

Có hai loại mạng quyền là danh mạng quyền và sắc mạng quyền.

Danh mạng quyền là tâm sở Mạng quyền (jīvitindriyacetasika). Sắc mạng quyền gồm hai loại:

- Loại sắc mạng quyền bảo tồn tuổi thọ của một chúng sanh.

- Loại sắc mạng quyền bảo tồn đời sống của một bộ phận do nghiệp tạo như: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân...

Theo luận Atỳđàm (abhidhamma), sắc do nghiệp tạo gồm chín đoàn:

Đoàn nhãn, đoàn nhĩ, đoàn tỷ, đoàn thiệt, đoàn thân, đoàn tâm (hadayavatthu), đoàn nữ tính, đoàn nam tính và đoàn mạng quyền.

Sắc mạng quyền theo nghĩa rộng chỉ cho hai loại sắc mạng quyền này, theo nghĩa hẹp chỉ cho đoàn mạng quyền (loại mạng quyền duy trì tuổi thọ của một chúng sanh).

Một người tàn hại mắt, tai, mũi, lưỡi, tay, chân... của người khác có thể liệt vào sát sanh không?

Có thể được nhưng bất định, vì rõ ràng đó là hành động của thân ác. Cụ thể là loại ác hay bất thiện nghiệp nào?

Hành động ác của thân theo cách này không thể gọi là “tà hạnh trong dục lạc”, chỉ có thể là trộm cắp (vì làm mất lợi ích của người khác) hay sát sanh.

Nếu chúng sinh ấy chết do những vết thương ấy, thì phạm vào sát sanh. Nếu không chết thì phạm vào trộm cắp.

Đức Phật có dạy:

“Idha, maṇava, ekacco itthī vā puriso vā sattānaṃ viheṭhakajātiko hoti pāpiṇā vā leḍḍunā vā daṇḍena vā satthena vā.

So tena kammena evaṃ samattena evaṃ samādiṇṇena kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ uppajjati.

No ce kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ uppajjati; sace manussattaṃ āgacchati yattha yattha paccājāyati bavhābādho hoti. 

“Ở đây, này thanh niên (thanh niên này là trưởng giả Subha Todeyya – Ns), có người nữ hay người nam tánh hay não hại các loại hữu tình với tay hay cục đất, hay với gậy hay với cây đao.

Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mệnh chung nó sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.

Nếu sau khi thân hoại mệnh chung, nó không sinh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục; nếu nó đi đến loài người, chỗ nào nó sinh ra, nó phải chịu nhiều bịnh hoạn.” [5]

Và:

Ahimsaka ye munayo. Niccaṃ kāyena saṃvutā...

Bậc trí không hại ai. Thân thường được chế ngự...[6]

Tuy nhiên, có một tử tội bị dẫn đi hành hình, người tử tội van xin đao phủ thủ tha chết, động lòng trắc ẩn, người đao phủ chỉ chặt chân hay tay người tử tội rồi tha y.

Hành động ấy không kể là ác hay bất thiện, ngược lại là thiện vì cho mạng sống (jīvitadāna kusala), như Đức Nāgasena (Natiên) có thuyết:

“Na kiñci apuññaṃ āpajjeyya: Điều ấy không đi vào vô phúc.”

Tuy vậy, hành động này không gọi “hoàn toàn thiện”. Bồtát thuở xưa khởi lòng từ, ngăn cản con bò đang khát, không cho bò uống nước bẩn, đem bò về nhà cho uống nước trong mát, khiến con bò chịu khát thêm một thời gian.

Khi Bồtát thành Phật Chánh giác, vào lúc sắp viên tịch Ngài bị bịnh kiết lỵ rất khát nước.

Đức Ānanda đi tìm nước cho Ngài dùng, thấy có vũng nước đã bị 500 cổ xe đi qua làm vấy đục, Đức Ānanda cũng vì thương Đức Phật nên không múc nước về, Đức Phật dạy Đức Ānanda múc nước ấy cho Ngài dùng, nước đã trở nên trong sạch và Đức Phật phải chịu khát thêm một thời gian.[7]

Do đó hành động hủy hoại thân thể của người khác, gọi là bất định, ác -bất thiện hay thiện đều xuất phát từ cetanā.

Đừng nhầm lẫn “vị lương y thấy bịnh nhân quá đau khổ nên sát hại bịnh nhân, giúp cho người bịnh thoát khổ là thiện”, vì rằng “vị lương y đã có ý muốn giết”, khác với trường hợp người đao phủ tha chết cho tội nhân ở trên.

Pānātipāta là biết chúng sinh có thức tánh (mạng quyền, hay sự sống), có ý muốn giết, cố gắng để giết chúng sinh ấy bằng thân hay bằng lời nói, nên pāṇātipāta gọi là sát sanh.

Sát hại chúng sinh khác bằng thân, điều này dễ hiểu.

Thế nào là sát sanh bằng lời?

Như Đức vua ra lịnh cho một vị quan phải tự sát, vị quan đã làm theo lịnh vua, đó là sát sinh bằng lời nói. Hay xúi bảo người khác sát sanh....

Trong luật tạng, bộ Đại Phân Tích (Mahāvibhaṅga) về giới Tỳkhưu, ở điều triệt khai (pārājika) thứ ba có ghi rằng:

Vào thuở nọ, có vị Tỳkhưu bị bịnh, các vị Tỳkhưu khác đã ca ngợi công hạnh sự chết bởi lòng bi mẫn, vị Tỳkhưu kia đã chết. Các vị ấy có sự áy náy rằng: “Phải chăng, chúng ta đã phạm tội triệt khai rồi?”

Chư Tỳkhưu ấy bạch trình lên Đức Thế Tôn vấn đề này, Đức Thế Tôn dạy rằng:

- Này các Tỳkhưu, các ngươi đã phạm tội triệt khai. [8]

b- Năm chi  phần của giới sát sanh là:

-  Chúng sinh có mạng sống (pāṇo).

- Biết chúng sinh có mạng sống (pāṇāsaññitā).

-  Có ý giết (vaddhakacittaṃ).

- Rán sức giết (upakkamo).

-  Chúng sanh ấy chết do sự cố gắng ấy (tena maranaṃ).

Một thợ săn cố ý giết thú rừng, bắn trúng con mồi, con mồi chạy thoát. Khi con mồi không chết, người thợ săn chưa đứt giới sát sanh, nhưng đã phạm nghiệp sát sanh.

Nếu con mồi chết, người thợ săn vừa đứt giới sát sanh đồng thời phạm nghiệp sát sanh và quả của nghiệp sát sanh này nặng hơn quả của nghiệp sát sanh khi con vật không chết.

c- Quả của nghiệp sát sinh.

Sát sinh có quả là rơi vào khổ cảnh, nếu may mắn làm người sẽ là người có tuổi thọ ngắn.[9] Ngoài ra, khi so sánh tội nặng hay nhẹ phải xem xét các phương diện là:

Về sự cố ý (cetanā).

- Có sự cố ý mạnh thì tội nặng, cố ý không mạnh hay vô ý thì tội nhẹ.

Về đối tượng sát hại.

- Sát hại chúng sinh có tuổi thọ ngắn (như ruồi, muỗi...) tội nhẹ, so với sát hại chúng sinh có tuổi thọ dài (như chó mèo, rùa...), tội nặng.

-Sát hại chúng sinh có thân hình lớn như voi, bò, ngựa.. có tội nặng so với sát hại chúng sinh có thân hình nhỏ như gà, vịt...

Sở dĩ sát hại chúng sinh có thân hình lớn có tội nặng, vì phải đầu tư nhiều phương tiện sát hại hay phải cố gắng nhiều.

 Nếu phương tiện sát hại giống nhau, sự cố ý mạnh sẽ có tội nặng, nếu cả hai như nhau thì sát hại chúnh sinh có thân lớn tội nặng hơn so với chúng sinh có thân nhỏ.

- Sát hại chúng sinh không có lợi ích có tội nhẹ, (so với) sát hại chúng sinh có nhiều lợi ích, như sát hại quạ, những loài chim ăn sâu bọ ... tuy chúng có thân hình nhỏ so với những con vật lớn khác như heo, gà, vịt... nhưng chúng có lợi ích hơn .

- Sát hại chúng sinh nhiều phước có tội nặng, (so với) sát hại chúng sinh ít phước có tội nhẹ.

Nếu chúng sinh có phước và thân thể lớn như nhau, sẽ có tội nặng nếu tâm sân mạnh.

d- Có sáu cách thức (payoga) giết.

1-  Tự tay giết (sāhatthikapayoga).

2- Bảo người khác giết (āṇathikapayoga – không tự tay).

3- Giết bằng cách phóng hoặc bắn vũ khí (nissaggiyapayoga).

4- Giết bằng cách đặt bẩy (thāvarapayoga).

5- Giết bằng chú thuật (vijjāmayapayoga).

6- Giết bằng thần lực (iddhimayapayoga).

- Tự tay giết: Là dùng tay xiết cổ hay đánh đập chúng sinh cho đến chết. Hoặc giả tay cầm vũ khí sát hại chúng sinh, nhưng không buông rời vũ khí.

- Bảo người khác giết: Như chủ nhân sai gia nhân giết những chúng sinh (gà, vịt, heo...) để làm tiệc... (đây cũng là cách sát hại bằng lời).

- Giết bằng cách phóng hoặc bắn vũ khí: Như bắn tên, phóng lao... ngoài ra sự đầu độc chúng sanh khác bằng độc dược cũng liệt kê vào phần này.

Có một phụ nữ nọ, chồng ở xa, có mang thai với gã tình nhân, nàng ấy đã bạch với vị Tỳkhưu năng lui tới gia đình như sau:

- Bạch Ngài, xin hãy cho biết thuốc phá thai.

- Tốt thôi, này cô!

Vị ấy đã cho thuốc phá thai đến nàng ấy. Thai nhi đã chết, vị ấy có sự áy náy rằng: “Phải chăng ta đã phạm tội triệt khai rồi?”.

Bấy giờ, vị Tỳkhưu ấy đã bạch trình sự việc đến Đức Thế Tôn, Ngài dạy rằng: “Này Tỳkhưu, ngươi đã phạm tội triệt khai (sđd, số 215)”.

- Giết bằng cách đặt bẩy: Như thợ săn đặt những bẩy rập bắt thú và con thú bị chết do rơi vào bẩy, hoặc đặt những cơ quan trong phòng, trong mộ... để sát hại kẻ gian xâm nhập vào trộm đồ....

- Giết bằng chú thuật: Là dùng những năng lực chú thuật (manta) để sát hại chúng sanh khác.

Có vị Tỳkhưu giỏi chú thuật, dùng chú thuật để đoạt mạng một con quỷ dạ xoa. Vị ấy có sự áy náy rằng: “Phải chăng ta đã phạm tội triệt khai rồi?”.

Vị Tỳkhưu ấy đã bạch trình sự việc đến Đức Thế Tôn, Ngài dạy rằng: “Này Tỳkhưu, không phạm tội triệt khai (pārajikā apatti) nhưng phạm trọng tội (thullaccaya apatti). [10]

Nên ghi nhận: Về giới triệt khai thứ ba của Tỳkhưu là: “Vị Tỳkhưu giết người sẽ bị trục xuất khỏi Tăng đoàn”, đối tượng giết chết ở đây là “người", còn dạ xoa là phi nhân, nên vị ấy không bị trục xuất khỏi Tăng đoàn, nhưng nghiệp sát sanh đã thành hình.

Kinh văn có ghi: “... Dùng bùa chú để phá thai; dùng bùa chú làm cóng lưỡi; dùng bùa chú khiến quai hàm không cử động; dùng bùa chú khiến người khác phải bỏ tay xuống; dùng bùa chú khiến cho tai bị điếc ...”  [11].

Dùng bùa chú để phá thai là sát sanh bằng chú thuật. Khi dùng bùa chú khiến người hay con vật bất động, rồi tiến hảnh sát hại, cũng gọi là “giết bằng chú thuật phối hợp với bằng tay hay phóng vũ khí...”.

- Giết bằng thần lực: Có ba loại: Thần lực do phước, thần lực do sinh chủng và thần lực do tu tập.

*- Giết bằng thần lực do phước, như các thiên nhân địa cầu hủy diệt hai vương quốc.

Quốc độ của vua Daṇḍaki bị tiêu diệt.

Tương truyền rằng: Quốc độ của vua Daṇḍakī đã bị thần lực chư thiên tiêu diệt[12]. Tóm lược như sau:

Thuở xưa, ở xứ Bārāṇasī có vị vua tên Daṇḍakī ngự ở kinh thành Kubhavatī, Đức vua cùng thần dân đều là người tà kiến.

Có đạo sĩ Kisavaccha đạt được thiền chứng và thắng trí, đạo sĩ đi đến kinh thành Kubhavatī, trú trong vườn Thượng uyển của Đức vua.

Nàng ái phi của Đức vua tên là Sobheṇī, bị Đức vua thất sủng và cách chức .

Buồn khổ nàng đi vào vườn Thượng uyển dạo chơi, gặp được đạo sĩ Kisavaccha, nàng khởi lên ý nghĩ tà kiến rằng: “Đạo sĩ này là người đê tiện, những điều xui xẻo trong thân ta nếu có, ta hãy trút lên mình kẻ đê tiện này, ta sẽ được kiết tường trở lại”.

Một số phong tục của người Ấn cổ cho rằng: “Gặp người trọc đầu là báo hiệu điều xui xẻo”, đây là một dạng tà kiến, gọi là giới cấm thủ (sīlabbataparāmāsa).

Nàng Sobheṇī, xúc miệng nhổ nước dơ lên mình đạo sĩ, rồi trở về chỗ ở của mình, tắm rữa sạch sẽ. Không bao lâu, Đức vua lại nhớ đến nàng, cho triệu nàng vào cung như xưa.

Việc Đức vua Daṇḍakī nhớ đến nàng Sobheṇī, không liên quan gì đến việc làm nhục đạo sĩ Kisavaccha, đây chỉ là mãnh lực phiền não dục ái khởi lên cho Đức vua mà thôi, đó là việc thường tình.

Một vị cố vấn Đại thần cũng bị Đức vua cách chức, vị này suy nghĩ “nàng Sobhenī trước đây cũng bị thất sủng, nàng làm cách nào để được phục hồi trở lại? Ta hãy tìm đến nàng học hỏi”. Vị Đại thần tìm đến nàng Sobheṇī hỏi:

- Trước đây nàng bị thất sủng, bị cách chức, làm thế nàng được phục hồi như cũ?

Nàng Sobheṇī thuật lại việc đã làm đối với đạo sĩ Kisavaccha.

Theo thể thức ấy, vị cố vấn Đại thần làm theo, chẳng bao lâu Đức vua lại triệu hồi phục chức cho vị ấy.

Điều này không phải do làm nhục đạo sĩ mà có được, đây là do ông kiên nhẫn chờ đợi, đồng thời do bản tính bất thường của Đức vua, khi phẩn nộ thì cách chức, khi nghĩ lại thì phục chức, có thế thôi.

Thế rồi, một lần nọ được tin biên thùy có giặc loạn, Đức vua quyết định thân chinh để dẹp giặc, bấy giờ vị cố vấn Tế tự tâu rằng:

- Tâu Đại Vương, hiện nay trong Thượng uyển có kẻ đê tiện đang ngụ, Đại vương hãy truyền lịnh tất cả thần dân đến tẩy uế lên thân kẻ đê tiện ấy. Như vậy, Đại vương sẽ nhanh chóng chiến thắng giặc loạn.

Với lời tấu trình đầy ác kiến như trên, Đức vua lại cho là đúng.

Thế là, tất cả người dân thành Kumbhavatī (trừ gia đình vị tướng quân hộ độ đạo sĩ Kisavaccha) cùng Đức vua đến tẩy uế trên người đạo sĩ, rồi trở về.

Vị tướng quân hộ độ hay tin, chạy đến để cản ngăn thì Đức vua và thần dân đã trở về. Vị tướng quân cùng gia đình dọn sạch sẽ nơi ngụ của đạo sĩ, mang nước đến cho đạo sĩ tắm rữa và an ủi đạo sĩ. Đạo sĩ nói với vị tướng quân rằng:

- Này tướng quân, ác hạnh mà Đức vua cùng dân chúng đã làm, đối với ta chẳng có chi là buồn phiền, nhưng chư thiên đang phẩn nộ.

Sau bảy ngày thành Kumbhavatī có chu vi rộng 60 do tuần sẽ bị hủy diệt, vậy tướng quân cùng gia quyến nên lập tức rời khỏi nơi này đi.

Vị tướng quân vào triều tâu lên Đức vua điều đạo sĩ thông báo, nhưng Đức vua cùng các Đại thần không tin.

Vị tướng quân cùng gia đình và những người có tâm tín thành đạo sĩ, bỏ thành sang xứ khác.

Bồtát Sarabhaṅga là thầy của Đạo sĩ Kisavaccha thấy được sự nguy hiểm ở kinh thành Kumbhavatī, đã nhờ hai đạo sĩ đệ tử có thần thông của Ngài, đến thành Kumbhavatī mang đạo sĩ Kisavaccha ra khỏi thành Kumbhavatī.

Vào ngày thứ bảy khi hợp thời, chư thiên khiến mưa rơi khắp kinh thành Kumbhavatī, ban đầu là mưa cát vàng, lần lượt đến mưa hoa, mưa bạc, mưa vàng, mưa vật trang điểm chư thiên.

Khi ấy tất cả mọi người trong kinh thành Kumbhavatī, thích thú chạy ra khỏi nhà để nhặt vật báu, chất đầy vào nhà. Kế đến phát sinh mưa vũ khí, mưa than hừng rất lớn từ không trung rơi xuống, chém và đốt cháy đại chúng cùng Đức vua, tất cả mọi người không có chỗ trú ẩn, vì trong nhà chất đầy những báu vật.

Trận mưa ấy tiêu diệt trọn vẹn kinh thành Kumbhavatī. [13]

Quốc độ của vua Bharu bị tiêu diệt

Câu chuyện thứ hai về sự sát hại do thần lực chư thiên, tóm lược như sau [14]:

Thuở xưa, tại quốc độ Bharu do Đức vua Bharu trị vì. Bấy giờ, Bồtát là vị tu tập nhiệt cần (tapa) đạt được năm thắng trí và tám thiền chứng.

Ngài là vị sư trưởng của một hội chúng, cư trú tại núi Tuyết (Himalaya).

Một lần nọ, vì cần dấm - muối, Ngài cùng 500 vị đệ tử đến kinh thành Bharu. Tất cả đều cư ngụ phía Bắc cổng thành, dưới cội cây bàng đầy cành lá.

Nữa tháng sau, một vị sư trưởng khác cùng 500 đệ tử mình cũng đến kinh thành Bharu để tìm dấm - muối, cư ngụ ở phía Nam cổng thành, dưới cây bàng xinh tốt.

Thế rồi, hai nhóm đạo sĩ sau khi tìm được dấm - muối, đã trở về núi Tuyết. Khi hai nhóm đạo sĩ ra đi, chẳng bao lâu cây bàng ở hướng Nam khô héo.

Lần sau, nhóm đạo sĩ trú ở hướng Nam đến kinh thành Bharu trước, thấy cây bàng nơi đây bị chết khô, nên tìm đến trú ngụ dưới cội cây bàng ở hướng Bắc.

Nhóm đạo sĩ trú ở hướng Bắc đến sau, tìm đến chỗ trú ngụ của mình (năm trước), thấy có nhóm đạo sĩ đến trước chiếm ngự, nên nói rằng:

- Chỗ trú ngụ của các ông ở hướng Nam kinh thành, nơi này là chỗ trú ngụ của chúng tôi.

Nhóm đạo sĩ kia đáp: “Lần này chúng tôi đến trước, nên chỗ này không phải là chỗ của các ông, là chỗ của chúng tôi”.

Vì cây bàng mà hai nhóm đạo sĩ đã tranh chấp nhau, họ đưa câu chuyện đến hoàng cung nhờ vua Bharu phân xử.

Đức vua phán quyết: Nhóm đạo sĩ đến hướng Bắc năm trước (nhóm của Bồ tát) là chủ.

Nhóm đạo sĩ cư ngụ ở hướng Nam năm trước, bàn nhau rằng:

- Chúng ta không thể thua các đạo sĩ ấy được.

Với thiên nhãn họ thấy một hòm báu vật, xứng đáng là sở hữu của vị vua, nên mang xe báu đến dâng Đức vua Bharu, thưa rằng:

- Thưa Đại vương, hãy làm cho chúng tôi thành người chủ cây bàng hướng Bắc đi.

Tham của hối lộ nên Đức vua nhận lời. Sau đó, hai hội chúng đạo sĩ đã suy nghĩ:

“Chúng ta là những người tu tập, mong đoạn tận các dục về sở hữu. Nay chỉ vì một gốc cây bàng mà sinh ra tranh đấu lẫn nhau, việc làm này thật không xứng đáng với chúng ta”.

Cả hai nhóm sám hối lỗi với nhau, rồi vội vã trở về Tuyết sơn. Chư thiên đang trú trong xứ Bharu đã phẩn nộ với vua Bharu, vì đã nhận hối lộ, xử thiên lệch, làm hai nhóm đạo sĩ có giới hạnh trở nên bất hòa.

Chư thiên dâng nước lên tràn ngập xứ Bharu, tiêu diệt xứ Bharu rộng 300 dặm.

Hai mẫu truyện trên minh họa cho việc sát hại bằng thần lực do phước.

*- Giết bằng thần lực do sinh chủng.

Như rồng chúa Nandopananda hay như Bồtát sinh làm Long vương Bhūridatta, với thần lực của Ngài, Ngài có thể sát hại gả bắt rắn Ālaṃbāyana nhưng Ngài không

làm [15]. Đây là sát hại bằng thần lực do sinh chủng, một số loài thú cũng có thần lực do sinh chủng.

*- Sát hại bằng thần lực do tu tập. Là những Samôn, Bàlamôn tu tập đạt được thần thông lực, như kinh văn có ghi như sau:

“Taṃ kiṃ maññasi gahapati: Idh’ āgaccheyya samaṇo vā  brāhmaṇo vā iddhimā cetovasippatto, so evaṃ vadeyya: Ahaṃ imaṃ Nāḷandaṃ ekena manopadosena bhasmaṃ karissāmīti.

Taṃ kiṃ maññasi gahapati: pahoti nu kho so samaṇo vā brahmaṇo vā iddhimā cetovasippatto imaṃ Nāḷandaṃ ekena manopadosena bhasmaṃ kātun – ti?...

Này gia chủ, ngươi nghĩ thế nào? Ở đây, có Samôn hay Bàlamôn có thần thông lực, có tâm tự tại. Người này nói như sau: “Ta sẽ làm cho Nālandā này trở thành tro tàn với một tâm sân hận”.

Này gia chủ, ngươi nghĩ thế nào? Vị Samôn hay vị Bàlamôn ấy, có thần thông lực, có tâm tự tại, có thể làm cho Nālandā trở thành tro tàn với một tâm sân không?.

“Dasa pi bhante Nāḷandā visatiṃ - pi Nāḷandā tiṃsaṃ- pi Nāḷandā, cattārisaṃ - pi Nāḷandā, paññāsaṃ- pi Nāḷandā pahoti so samaṇo vā brāhmaṇo vā iddhimā cetovasippatto ekena manopadosena bhasmaṃ kātuṃ, kiṃ hi so bhati ekā chavā Nāḷandā ti.

- Bạch Thế Tôn! Cho đến 10 Nālandā, 20 Nālandā, 30 Nālandā, 40 Nālandā, 50 Nālandā, vị Samôn hay Bàlamôn có thần thông lực, có tâm tự tại, có thể làm cho các Nālandā ấy trở thành tro tàn với một tâm sân, huống hồ gì một Nāḷanda nhỏ bé này, sao có thể chói sáng được (khỏi bị trở thành tro tàn được)...” [16]

Hai loại thần lực: Thần lực do phước, thần lực do sinh chủng, gọi chung là thần lực sinh lên do nghiệp (kammiddhi).

 Lại nữa, sự sát sanh có hai cách: Giết theo cách chỉ định (uddisa) và giết không chỉ định.

Giết chỉ định là nêu rõ đối tượng bị sát hại. Như Devadatta sai một cung thủ đi ám sát Đức Thế Tôn, hay là một thợ săn thấy con cò đậu trên sừng con trâu, y nhắm bắn chết con cò.

Giết không chỉ định là không nêu rõ đối tượng, như người thợ săn nhìn thấy đàn thú đang chạy, y bắn vào đàn thú trúng con nào cũng được. Hoặc trong thí dụ trên, người thợ săn nhắm bắn con cò, không trúng con cò, lại trúng nhằm con trâu, con trâu chết. Đây là giết không chỉ định.

2- Giải về lấy của không cho (adinnādāna).

a- Theo từ ngữ

Adinna + ādāna = adinnādāna.

Adinna là “không cho”, ādāna là “lấy đi”.

Adinnādāna được dịch là “lấy của không cho”.

Vì sao không cho?. Bản sớ giải có giải thích: Adinnaṃ bao gồm những vật quý giá lẫn những vật bình thường, hay những vật mà người chủ yêu thích lẫn những vật không yêu thích.

Với vật có giá trị cao hay những vật mà chủ nhân của nó yêu thích, dù có xin cũng không được cho.

Với những vật có giá trị kém hay không yêu thích, nhưng khi xin chủ nhân cũng không cho, do nhân sân hận hay bỏn xẻn ...

Lấy những vật chủ nhân không cho, gọi là “lấy của không cho”.

Adinnādāna đối với vị Samôn ngoài ý nghĩa “lấy của không cho” còn hàm nghĩa: “Không xin vật có giá trị cao hay vật đáng yêu thích của người khác” và “với vật bình thường ít có giá trị, cũng không nên xin quá nhiều vì sẽ gây khó chịu cho người (bị xin)”.

Trong Tạng Luật [17] có ghi câu truyện về những vị Tỳkhưu trú ở thành Āḷavī, khi xây cất am thất, đã xin quá nhiều những vật dụng để xây cất như: Xin cho dao, xin cho búa, xin cho cỏ ống, xin cho cỏ thường... đã khiến dân thành Āḷavī bất mãn.

Khi gặp các vị Tỳkhưu, dân thành Āḷavī có khi hăm he chư Tỳkhưu, có khi lẫn tránh, đôi khi thấy con bò vàng thấp thoáng từ xa, ngỡ là Tỳkhưu họ vội vàng đóng cửa nhà lại vì e ngại “vị Tỳkhưu” đến xin vật dụng.

Đức Phật đã khiển trách chư Tỳkhưu thành Āḷavī qua những mẫu truyện sau.

Vị Ẩn sĩ xin ngọc của Long vương.

Thuở xưa, có hai vị ẩn sĩ  là anh em, cùng cư ngụ bên bờ sông Gaṅgā (sông Hằng) nhưng ở cách xa nhau.

Có Long Vương Maṇikaṇṭha vượt sông Hằng đến nơi ngụ của vị ẩn sĩ em, sau khi đến, Long vương dùng thân quấn quanh thân vị ẩn sĩ bảy vòng, đầu ngẩng lên, phùng mang lớn rồi đứng yên. Vị ẩn sĩ do sợ Long vương nên sinh bịnh, thân gầy guộc vỏ vàng.

Vị ẩn sĩ anh đến thăm em, thấy thế hỏi rằng: “Này em, vì sao em gầy ốm tiều tụy, sinh bịnh vỏ vàng?”.

- Thưa anh, có con Long vương Maṇikaṇṭha đã vượt sông Hằng đến đây, sau khi đến nó dùng thân quấn quanh thân em bảy ngày, ngẩng đầu lên, phùng mang và đứng yên. Vì sợ con Long vương nên em sinh bịnh, thân thể vỏ vàng.

- Này em, em có muốn Long vương không đến nữa không?.

- Thưa anh, muốn chứ.

- Em có nhìn thấy vật gì của Long vương không?.

- Thưa anh, em thấy viên ngọc Maṇī là vật trang sức trên cổ của nó.

-Thế thì, em hãy xin Long vương viên ngọc Maṇī ấy đi.

Làm theo lời anh chỉ dạy, khi Long vương đến dùng thân quấn quanh thân vị ẩn sĩ bảy vòng, đầu ngẩng cao, phùng mang và trụ yên. Vị ẩn sĩ nói: “Này bạn, hãy cho tôi viên ngọc Maṇī, tôi cần ngọc Maṇī”.

Long vương suy nghĩ: “Vị ẩn sĩ xin ngọc Maṇī, vị ẩn sĩ cần ngọc Maṇī”, Long vương tháo thân mình trở về trú xứ của mình ngay.

Lần thứ hai, khi Long vương Maṇīkaṇṭha lội qua sông Gaṅgā thấy Long vương từ xa, vị ẩn sĩ nói: “Bạn ơi, hãy cho tôi ngọc Maṇī, tôi cần ngọc Maṇī”. Long vương suy nghĩ: “Vị ẩn sĩ cần ngọc Maṇī”, liền tháo lui trở về.

Lần thứ ba, khi thấy Long vương từ xa, vị ẩn sĩ cũng nói lên: “Bạn ơi, hãy cho tôi ngọc Maṇī, tôi cần ngọc Maṇī”.

Bấy giờ, Long vương nói với vị ẩn sĩ bằng kệ ngôn rằng:

“Do nhân viên ngọc này.

Phát sanh đến cho tôi.

Thức ăn cùng thức uống

Dồi dào và quý hảo.

Tôi không cho Ngài ngọc.

Ngài kẻ xin thái quá.

Và tôi cũng chẳng đến.

Nơi am thất Ngài nữa.

Cũng như đứa trẻ con.

Tay rửa mảnh thủy tinh.

Khi Ngài xin đá ngọc.

Đã làm kinh sợ tôi.

Tôi không cho Ngài ngọc.

Ngài, kẻ xin thái quá.

Và tôi cũng chẳng đến.

Nơi am thất Ngài nữa”.

Rồi Long vương bỏ đi không trở lại nữa, vị ẩn sĩ vì không thấy con rồng, thương nhớ Long vương nên sinh bịnh, gầy guộc.

Vị ẩn sĩ anh lại đến thăm em, thấy thế, hỏi rằng: “Vì sao em gầy guộc, thân sinh bịnh vỏ vàng vậy?”.

- Thưa anh, vì không gặp được con rồng khả ái, nên em sinh bịnh.

Nghe vậy, vị ẩn sĩ anh đã nói lên kệ rằng:

“Không xin xỏ, ước muốn

Vật yêu quí của ai

Con người đáng ghét bỏ.

Vì xin xỏ thái quá

Long vương bị phạm chí

Xin viên ngọc Maṇī

Đã không còn đi đến

Nơi ấy cho thấy nữa. (sđd).

(Đây nói về ý nghĩa “không xin vật quý hay vật đáng hài lòng của người).

Đối với những vật có giá trị thông thường, bậc Samôn cũng không nên xin quá nhiều (atiyācanaka), vì sẽ không được gia chủ thích ý, kính trọng, noi gương để tu tập [18]. Câu chuyện sau đây là minh chứng.

Đàn chim bỏ đi.

Có vị Tỳkhưu trú nơi triền núi Hy mã lạp sơn, trong một khu rừng. Vị ấy bị đàn chim trú ngụ trong rừng khuấy rối, bởi chúng kêu gọi nhau ồn ào.

Vị Tỳkhưu ấy đi đến đảnh lễ Đức Thế Tôn, bạch trình lên Đức Thế Tôn về sự kiện này, Đức Thế Tôn phán hỏi vị Tỳkhưu ấy rằng:

- Này Tỳkhưu, vậy ngươi có muốn đàn chim không trở lại khu rừng ấy chăng?.

- Bạch Thế Tôn, con muốn đàn chim không còn trở lại khu rừng ấy.

- Vậy thì, này Tỳkhưu ngươi hãy đi sâu vào khu rừng ấy, ban đêm vào canh đầu hãy lớn tiếng ba lần: “Chừng bao nhiêu chim đang trú ngụ trong khu rừng này, tôi đang cần lá cây, xin mỗi con hãy cho tôi một lá”. Vào canh giữa và canh cuối cũng làm như thế.

Vị Tỳkhưu làm theo lời dạy của Đức Thế Tôn và bầy chim đi khỏi, không còn trở lại khu rừng ấy. (sđd).

(Đây nói về ý nghĩa “không xin quá nhiều vật không có giá trị cao).

Để khắc phục sự xin quá nhiều, Đức Thế Tôn có dạy chư Tỳkhưu pháp “biết đủ”.

“Cattārome bhikkhave, ariyavaṃsā aggaññā rattaññā vaṃsaññā porāṇā asaṃkiṇṇā asaṃkiṇṇapubbā, na saṃkīyanti na saṃkīyissanti, appaṭikuṭṭhā samaṇehi viññūhi. Katame cattāro?

“Này các Tỳkhưu, có bốn truyền thống bậc Thánh được biết là tối sơ (aggaññā), được biết là truyền thống kỳ cựu, không có tạp nhiễm, không bị các Samôn, Bàlamôn có trí quở trách (appaṭkuṭṭhā). Thế nào là bốn?.

“Idha, bhikkhave, bhikkhu santuṭṭho hoti itarītarena cīvarena...

Ở đây, này các Tỳ khưu, vị Tỳkhưu biết đủ với bất cứ loại y nào...

“Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu santuṭṭho hoti itarītarena piṇḍapātena..

Lại nữa, này các Tỳ khưu, vị Tỳkhưu biết đủ với bất cứloại vật thực khất thực nào...

Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu santuṭṭho hoti itarītarena senāsanena...

Lại nữa, này các Tỳ khưu, vị Tỳkhưu biết đủ với bất cứ sàng tọa nào...

Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu bhāvanārāmo hoti bhāvanārato, pahānārāmo hoti pahānarato...

Lại nữa, này các tỳ khưu, vị Tỳkhưu ưa thích tu tập (bhāvanā), vui thích tu tập, ưa thích đoạn tận (pahāna), vui thích đoạn tận...[19]

Hành động lấy vật xin không được cho hoặc lấy vật chưa xin, gọi là theyya (trộm cắp).

b- Năm chi của giới trộm cắp.

- Vật có chủ gìn giữ (parapariggahitaṃ).

- Biết vật có chủ gìn giữ (parapariggahitataññitā).

- Có ý lấy (theyya cittaṃ).

- Cố gắng lấy (cepakkamo).

-Lấy được do sự cố gắng ấy (jena haranaṃ).

Giải:

- “Vật có chủ”.

 Có hai loại: Vật của cá nhân, vật của tập thể.

Vật của cá nhân có hai:

- Vật của người tại gia (gihisantaka).

- Vật của bậc xuất gia (puggalasantaka).

Vật của cá nhân được phân tích rộng, có năm là:

- Vật của phàm nhân (puthujjanasantaka).

- Vật của bậc Dự lưu (sotāpannasantaka).

- Vật của bậc Nhất lai (sakadāgāmisantaka).

- Vật của bậc Bất lai (anāgāmisantaka).

- Vật của bậc Alahán (arahatasantaka).

Vật của tập thể, trong lãnh vực Phật giáo có hai:

- Vật của nhóm tăng (gaṇasantaka): Là vật của từ 2 - 3 vị Tỳkhưu hoặc của từ 2 -đến 3 vị sadi.

- Vật của tăng, là vật của từ 4 vị Tỳkhưu hay 4 vị sadi trở lên.

- “Biết vật có chủ gìn giữ”.

Là biết rõ chủ của vật ấy là ai, đồng thời hiểu rõ người chủ đang gìn giữ vật ấy.

Trong trường hợp một vật bị đánh rơi, dĩ nhiên vật ấy phải có chủ, người nhặt lấy vật ấy không rơi vào lấy của không cho, vì không biết người chủ là ai, và vật ấy không được chủ gìn giữ. Tuy nhiên, nếu biết rõ chủ nhân vật ấy, cố tình chiếm đoạt, xem như phạm vào trộm cắp.

- “Lấy được do sự cố gắng ấy”.

Bao gồm hai trường hợp:

- Lấy mang đi.

- Làm xê dịch vị trí ban đầu.

Nghĩa là: Một người tính trộm cắp, đã lấy được vật ấy, nhưng suy nghĩ lại: “Điều này là bất thiện, không nên làm”, người ấy trả lại vật đã lấy, người này vẫn phạm vào nghiệp trộm cắp.

Tuy nhiên, so với “lấy mang đi”, thì “trả lại vật lấy” có tội nhẹ hơn, sau này tài sản của người ấy cũng bị người khác muốn chiếm đoạt, nhưng họ không thể chiếm đoạt được.

Trong Tạng Luật, điều triệt khai thứ hai về giới trộm cắp của chư Tỳkhưu, có giải thích:

- Rằng “lấy” là cầm lấy, mang đi, lấy đem đi, thay đổi oai nghi, dời đổi vị trí, vượt qua chỗ qui định (sđd - số 86).

Vào thuở ấy, một vị Tỳkhưu đã đi vào sân phơi của thợ nhuộm, khi trông thấy vải đắc giá, đã sinh tâm trộm cắp, dời (tấm vải) khỏi vị trí. Vị ấy có sự áy náy rằng: “Phải chăng ta đã phạm tội triệt khai rồi?”.

Vị ấy trình bạch lên Đức Thế Tôn vấn đề này, Đức Thế Tôn dạy rằng: “Này Tỳkhưu, ngươi đã bị phạm tội triệt khai (bị trục xuất khỏi tăng đoàn) (sđd - số 128)”.

c- Có sáu cách lấy vật.

1- Tự tay lấy (trộm) (sāhatthika).

2-Bảo kẻ khác lấy (āṇatthika).

3- Lấy (trộm) bằng cách phóng vật khác ra (nissaggiya).

4- Lấy (trộm) bằng cách đặt bẩy (thāvara).

5- Lấy (trộm) bằng bùa chú (vijjāmaya).

6- Lấy (trộm) bằng thần lực (iddhimaya).

Giải:

-Tự tay lấy bảo người khác lấy vật ấy cho mình. Hai điều này cũng dễ hiểu.

-Trộm bằng cách phóng vật khác ra.

Với người có nghệ thuật điêu luyện, họ có thể quăng dây, tung vải lụa, cuốn chặt vật nào đó rồi thu hồi vật ấy về.

Hoặc huấn luyện những loài vật như chim, chó, mèo... đi trộm cắp cho họ.

Sự trộn thuốc gây mê vào vật thực, để bắt những con vật quý của người khác, cũng được liệt vào phần này.

Lại nữa, khi qua trạm thu thuế lén ném những vật phải nộp thuế vào chỗ khuất, sau đó đến nhặt lại, cũng gọi là lấy (trộm) bằng cách phóng ra (là trộm thuế).

-Trộm cắp bằng cách đặt bẩy.

Như đặt bẩy để bắt chó, mèo, ... của người khác. Ngoài ra, căn dặn đồng bọn “nếu có cơ hội hãy lấy vật này...vật này” (người đồng bọn xem như một bẩy rập), dù thời gian có dài bao lâu, khi người đồng bọn lấy được vật ấy, người dặn dò đã phạm vào nghiệp “lấy của không cho”.

-Lấy bằng bùa chú.

Là dùng bùa chú để mê hoặc tâm người, sau đó lấy đi những món vật mà nếu tỉnh táo, chủ nhân (vật ấy) sẽ không cho.

-Lấy bằng thần lực. Là nương vào thần lực có được để lấy.

Cậu bé niệm Phật

Có một cậu bé là con của người thợ rừng, cậu bé thường vui chơi trước cổng Jetavanavihāra (Kỳ viên tinh xá) củng với những đứa trẻ khác.

Mỗi khi chơi đùa, cậu thường niệm “Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa” và cậu thường thắng cuộc.

Một lần nọ, cậu theo cha vào rừng kiếm củi, vào buổi chiều, hai cha con dùng cơm nơi tha ma mộ địa, cha cậu tháo bò ra xe để bò đi ăn, bất ngờ con bò của họ đã theo đàn bò khác vào thành, người cha phải đi tìm bò.

Khi tìm được bò, trở ra thì cửa thành đã đóng, người cha đành nằm ngủ trong thành, còn cậu ngủ nơi xe củi của mình ở bải tha ma.

Vào nữa đêm, có hai dạ xoa đi vào mộ địa tìm thức ăn là những xác chết, thấy cậu nằm ngủ, một dạ xoa bảo: “Đứa bé này có đại thần lực, chúng ta chớ chạm vào nó”.

Dạ xoa kia không tin, liền vồ lấy cậu bé, giật mình tỉnh giấc, theo thói quen cậu liền niệm “Namo tassa...” con dạ xoa tưởng chừng như có ai đánh chùy vào đầu, nó kinh hoàng buông đứa bé ra bỏ chạy.

Để chuộc lỗi một dạ xoa canh giữ cho em bé ngủ, còn con kia vào hoàng cung lấy vật thực đựng trong mâm vàng dưng đến đứa bé, sau đó chúng dùng thần lực ghi rõ câu chuyện trên đĩa vàng và chỉ có Đức vua đọc được.[20]

Hoặc câu chuyện nữ chư thiên ở nơi ngạch cửa nhà ông Cấpcôđộc, dùng thần lực của mình lấy 18 triệu đồng tiền vàng ở đáy biển mang vào kho cho ông trưởng giả để chuộc lỗi.[21]

Đây là lấy bằng thần lực.

Các Giáo thọ sư dạy rằng: “Lấy bằng thần lực do nghiệp sinh ra (kammiddhi), không vi phạm trộm cắp thuộc tội lỗi thế gian (lokavajja), vì không đem về làm của riêng”, như trường hợp Đế Thích lấy Xálợi trên đầu ông Bàlamôn Dona, nữ thiên nhân lấy vàng ở đáy biển”.

Có lần Ngài Pilindavaccha dùng thần thông giải thoát 2 đứa bé là con của một gia chủ hộ độ Ngài, Ngài dùng thần thông mang 2 đứa bé trở về cho cha mẹ chúng (đây là “lấy vật bằng thần lực”, thần lực này do định).

Chư Tỳkhưu bàn về việc này, cho rằng “Ngài đã phạm vào giới trộm cắp, Đức Phật dạy: “Vô tội khi lấy bằng thần thông”.[22]

 Theo Luận Atỳđàm, khi sử dụng thần thông phải là tâm thiện (hoặc tâm duy tác) Ngũ thiền, nên không hề có tham hay sân, mà trộm cắp là do tham hay sân điều sử.

Được gọi là trộm cắp (avahāra) do tiến hành theo sáu cách lấy là:

1- Lấy trộm (theyyāvahāra). Là lấy vật khi chủ (của vật ấy) không có mặt.

2-Lấy bằng cách hăm dọa (pasajhāvahāra).

 Chữ pasajha nghĩa là “bằng vũ lực, bằng uy lực”.

Như kẻ cướp dùng vũ khí uy hiếp, lấy đi tài sản của người khác, hoặc bắt lấy người, hăm dọa đòi tiền chuộc.

Hay vua của một nước lớn, dùng uy lực của mình để chiếm đoạt những báu vật của nước khác...

3-Lấy bằng cách che dấu (paṭichannāvahāra).

Như Bàlamôn Doṇa, vị quốc sư của vương quốc Malla, đứng ra hòa giải cuộc tranh chấp Xálợi Phật giữa vương quốc Malla cùng bảy nước:

- Vua xứ Licchavī,  thành Vesālī.

-Dòng Thích ca xứ Sakka, thành Kapilavatthu.

- Vua xứ Thulliya thành Allakappa.

- Vua Koliya xứ Rāma.

- Vua xứ Malla, thành Pāvā.

(Xứ Malla có hai quốc vương trị vì, một vị ở thành Kusinārā nơi Đức Thế Tôn Nípbàn, một vị ở thành Pāvā. Và vị ở thành Pāvā đem quân đến thành Kusinārā sau cùng, vì nghĩ mình ở gần Kusinārā nên không vội vả).

- Mahābrahma (Đại Bàlamôn) xứ Vetthadipaka, (xứ này dòng Bàlamôn nắm quyền như vua).

- Vua Ajātasattu (Axàthế) xứ Magadha (Makiệtđà).

Với sự hòa giải của Bàlamôn Doṇa, tất cả đều đồng ý là “Xálợi Phật được chia làm tám phần bằng nhau cho tám vương quốc”.

Khi chiêm bái Xálợi Phật, nhân lúc tám vị quốc vương buồn khổ Bàlamôn Doṇa nhanh tay dấu Xálợi răng nhọn hàm trên của Đức Phật vào búi tóc.

Nhưng ngôi Xálợi này, được vua trời Đế Thích thỉnh mang đi, tôn trí vào Bảo tháp Cūlamaṇī ở cung trời Đạo Lợi.

Hành động của Bàlamôn Doṇa hội đủ năm chi, được xem là lấy bằng cách che dấu. Và sự  lấy của Thiên vương Đế thích xem như “lấy bằng thần lực”.

4- Lấy bằng cách xác định đồ vật hoặc thời gian (parikappāvahāra).

Như trong Tạng Luật, bộ Đại phân tích, điều học triệt khai thứ hai (trộm cắp) có ghi:

Có vị Tỳkhưu nọ, lúc ban ngày thấy sản vật, làm dấu nghĩ rằng: “Ban đêm ta sẽ lấy trộm”.

Vị ấy ghi nhớ vật đó và đã lấy trộm. Vị ấy có sự áy náy: “Phải chăng ta đã phạm tội triệt khai rồi”. Vị ấy trình bày sự việc đến Đức Thế Tôn, Ngài rằng: “Này Tỳkhưu, người đã phạm tội triệt khai”. [23]

5. Lấy bằng cách đánh tráo.

Như một người gửi đồ vật cho người, người kia có tâm trộm cắp đã đánh tráo đồ khác vào.

Hoặc như người bán hàng tráo hàng thật bằng hàng giả để giao cho khách hàng...

6- Lấy bằng cách phá hoại (atthasādhaka).L

Là phá hoại tài sản người, để khổ chủ không có hay mất đi lợi ích. Như lấy vải bỏ vào thùng chứa dầu, để vải thấm khô dầu...

Trong Tạng luật, điều triệt khai thứ hai (giới trộm cắp) có ghi: Có vị Tỳkhưu, tháo nước ruộng của người này sang ruộng người khác. Vị ấy áy náy “phải chăng ta đã bị tội triệt khai?”. Vị ấy trình bạch lên Đức Thế Tôn, Ngài rằng: “Này Tỳkhưu, ngươi đã phạm tội triệt khai”.

d- Quả của trộm cắp.

Trộm cắp cho quả là tái sanh vào khổ cảnh (địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ), nếu may mắn làm người sẽ là người bị hao tổn tài sản (bhogavyasanasamvattanika).[24]

Tài sản của người này sẽ bị tổn hại do:

- Bị lửa thiêu hủy.

- Bị nước cuốn trôi.

- Bị trộm đạo.

- Bị vua, quan chiếm đoạt.

- Bị người thừa tự phá hủy.

Sự trộm cắp sẽ có tội nặng khi đồ vật có giá trị cao, có tội nhẹ khi đồ vật có giá trị thấp.

Nếu đồ vật có giá trị ngang nhau, lấy của người có đức lớn sẽ có tội nặng so với lấy của người có đức kém. Nghĩa là lấy vật của bậc Alahán tội nặng hơn lấy vật của bậc Anahàm....

Tiền thân Ngài Losaka là vị trụ trì, do ganh tỵ với vị Thánh Alahán, đổ bỏ vật thực của một cận sự nam dâng đến vị Thánh Tăng Alahán này, hành động đổ bỏ vật thực của vị trụ trì đã rơi vào nghiệp trộm cắp vì phạm đủ năm chi.

Trong thời Đức Phật, vị trụ trì tái sinh là Ngài Losaka, quả ác nghiệp còn dư sót, khiến Ngài luôn đói và chỉ no lòng vào ngày cuối cùng khi sắp viên tịch.

Trong  Sớ giải kinh Pháp cú cũng có câu chuyện “ngạ quỷ trăn”, đây là hậu thân của người đốt liêu thất của Đức Độc giác Phật.[25]

Trộm cắp có tội nặng nhất là trộm cắp đồ vật của Tăng chúng (là đồ vật của tập thể Tăng) .

3- Giải về  “tà hạnh trong dục lạc” (kāmesu micchācāra).

a- Giải từ.

Kāmesu là “trong dục”, là trong sắc, thinh, hương, vị và xúc.

Micchācāra = micchā (sái quấy) + cāra (làm, hành động).

Kāmesu micchācāra là “thực hành sái quấy trong dục lạc”.

Theo nghĩa thường dùng thì kāmesu micchācāra là “hành dâm dục sái quấy (tà dâm).

Ở đây ý nghĩa này không thích hợp lắm, vì đối tượng thuyết giảng kinh Chánh tri kiến là chư Tỳkhưu.

Chư Tỳkhưu không được quan hệ tình dục bất cứ hình thức nào, với bất cứ hữu tình nào, cho dù đó là người nam, thú cái, thú đực hay nữ ngạ quỷ (có loại ngạ quỷ gọi là vemānika, ban ngày khổ như ngạ quỷ, ban đêm xinh đẹp và an lạc như chư thiên hoặc ngược lại. Hay chúng có nửa tháng khổ như ngạ quỷ, nửa tháng thì an lạc như chư thiên) ...

Đời sống của Tỳkhưu thường được gọi là “đời sống phạm hạnh ”, như chúng ta thường gặp trong kinh văn: “Vị Tỳkhưu sống đời sống phạm hạnh (brahmacariya) trong giáo pháp này.”

b- Thế nào là phạm hạnh.

*-Brahmacariya theo nghĩa ngữ là “hạnh (của vị) phạm thiên”, nên brahmacariya thường được dịch là phạm hạnh [26].

Vị Phạm thi1ên không có sắc nam tính hay sắc nữ tính nên không có quan hệ tình dục.

Và chữ phạm hạnh, thường được hiểu là “không hành dâm”.

Nữ cư sĩ Migasāla có bạch hỏi Trưởng lão Ānanda rằng:

“Kathaṃ kathaṃ nāmāyaṃ, bhante Ānanda,  Bhagavātā dhammo desito aññeyyo, yatra hināma brahmacārī ca abrahmacārī  ca ubho samasamagatikā bhavissanti abhisamparāyaṃ.

“Như thế nào, thưa Tôn giả Ānanda, cần phải hiểu pháp này do Thế Tôn tuyên thuyết (nói rằng): “Cả hai sống phạm hạnh và không phạm hạnh đều đồng đẳng về sinh thái trong tương lai?

Pitā me , bhante, Purāṇo brahmacārī ahosi ārācārī virato medhunā gāmadhammā. So kālaṅkato Bhagavātā byākato sakadāgāmisatto, Tusitaṃ kāyaṃ upapannoti

Purāṇa cha của con, thưa Tôn giả, sống phạm hạnh, sống biệt lập, tránh xa dâm dục hạ liệt khi mệnh chung được Đức Thế Tôn trả lời: “là bậc Dự lưu sanh với thân ở Tusita (Đẩusuất).

Petteyyopi me, bhante, Isidatto abrahmacārī ahosi sadārassantuṭṭho. Sopi  kālaṅkato Bhagavātā byākato sakadāgāmipatto Tusitaṃ kāyaṃ

Còn Isidatta cậu của con, thưa Tôn giả sống không phạm hạnh, tự bằng lòng với vợ mình, sau khi mệnh chung, được Đức Thế Tôn trả lời: “là bậc Dự lưu sanh với thân ở Tusita”..[27]

Đoạn kinh văn trên cho chúng ta hiểu ý nghĩa của phạm hạnh và không phạm hạnh.

Và Đức Phật đã mở rộng ý nghĩa “phạm hạnh”, tức là ngoài ý nghĩa thông thường là “không hành dâm”, Ngài còn định nghĩa: “Đời sống phạm hạnh là sự tu tập bát chánh đạo”.

“Katamañca, bhikkhave, brahmaññaṃ? Ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko maggo, seyyathidaṃ - Sammādiṭṭhi, sammāsaṅkappo, sammāvācā, sammākammanto, sammā-ājīvo, sammāvāyāmo, sammāsati, sammāsamādhi. Idam, vuccati, bhikkhave, brahmaññaṃ

Và này các Tỳkhưu, thế nào là phạm hạnh? Chính là Thánh đạo tám ngành này. Tức là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Này các Tỳkhưu, đây gọi là Phạm hạnh...[28]

Hay là:

“Pañcannaṃ bhikkhave, macchariyānaṃ pahānaya samucchedāya brahmacariyaṃ vuccati.

“Này các Tỳkhưu, do đoạn tận, cắt đứt năm pháp bỏn xẻn (maccchāriyā), phạm hạnh được thực hiện” [29].

Năm bỏn xẻn là: Bỏn xẻn trú xứ, bỏn xẻn gia đình, bỏn xẻn lợi dưỡng, bỏn xẻn tán thán và bỏn xẻn pháp.

Như vậy, phạm hạnh bao hàm những ý nghĩa:

- Không quan hệ tình dục.

- Tu tập theo bát chánh đạo.

- Đoạn trừ 5 pháp bỏn xẻn.

c- Tà hạnh (micchācārā).

Tà hạnh là “làm sái quấy”, chữ kāmesu micchācārā theo ngữ nghĩa là “làm sái quấy trong dục”.

“Làm sai trong dục”, đối với cư sĩ thường mang ý nghĩa “quan hệ tình dục sai quấy”, nhưng đối với Tỳkhưu mang ý nghĩa rộng hơn, nhưng không ám chỉ “quan hệ tình dục”.

Tuy đồng ngữ, nhưng tùy theo đối tượng mà nghĩa khác nhau. Như nói: “Học giới (sikkhāpadā)”, nếu là cư sĩ, sẽ hiểu đó là năm giới hoặc tám giới; nếu là Sadi, sẽ hiểu là mười giới; nếu là Tỳkhưu, sẽ hiểu là hơn 150 điều học được Đức Thế Tôn chế định cho chư Tỳkhưu.

“Sādhikamidaṃ, bhikkhave, diyaḍḍhasikkhāpadasataṃ anvaddhamāsaṃ uddesaṃ āgacchati...

“Này các Tỳkhưu, bản đọc tụng này, gồm hơn 150 giới cần phải đọc nửa tháng một lần....  [30]

(Học giới nếu theo nghĩa rộng, chung cho cả bậc xuất gia lẫn tại gia, thì đó là ba chi phần: Chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng).

Lại nữa, Đức Phật có dạy:

“Pañcahi, bhikkhave, dhammehi samannāgato bhikkhu yathābhataṃ nikkhitto evaṃ niraye. Katamehi pañcahi?

Pāṇātipātī hoti, adinnādāyī hoti, abrahmacārī hoti, musāvādī hoti, surāmerayamajjapāmādatthāyi hoti. 

“Này các Tỳkhưu, thành tựu năm pháp, Tỳkhưu như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục”. Thế nào là năm?

“Sát sanh, lấy của không cho, sống không phạm hạnh, nói láo, đắm say rượu men, rượu nấu”  [31].

Và:

“Pañcahi, bhikkhave, dhammehi samannāgato upāsako sārajjaṃ okkanto hoti.  Katamehi pañcahi?

Pāṇātipātī hoti, adinnādāyī hoti, kāmesumicchācārī hoti, musāvādī hoti, surāmerayamajjapāmādatthāyi hoti. 

“Này các Tỳkhưu, thành tựu năm pháp, nam cư sĩ tương xứng rơi vào địa ngục. Thế nào là năm?

“Sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, nói láo, đắm say rượu men, rượu nấu. [32]

So sánh hai đoạn kinh văn trên, chúng ta thấy “Tỳkhưu chỉ quan hệ tình dục” đủ tương xứng rơi vào địa ngục, còn nam cư sĩ thì phải “quan hệ tình dục sái quấy” mới tương xứng rơi vào địa ngục.

Như vậy, “làm sái quấy trong dục lạc” đối với Tỳkhưu, không ám chỉ quan hệ tình dục, trái lại mang ý nghĩa rộng hơn.

*- Tà hạnh trong dục lạc đối với Tỳkhưu.

Đễ hiểu rõ ý nghĩa này, chúng ta tìm thấy trong tạng Luật, Bộ Đại phân tích Tỳkhưu giới, một vài trường hợp điển hình cho “làm sái quấy trong dục lạc”, như:

- “Vị Tỳkhưu cố ý di tinh, có tội Tăng tàn (saṅghadisesa) (sđd - điều Tăng tàn thứ nhất)”.

- Vị Tỳkhưu bị chi phối với tâm quấy (là tâm bị ái dục chế ngự), cảm hưởng xúc thân với nữ nhân, là sự cầm tay, hoặc nắm vuốt tóc, tay rờ chạm bất cứ chi thể nào (của nữ nhân), thì có tội Tăng tàn (sđd: điều Tăng tàn thứ hai)...”.

Hàng động sái quấy trong dục lại ở đây là “thân đắm nhiễm trong dục lạc”, hay “thân thụ hưởng dục lạc sái quấy”.

Đối với Tỳkhưu “làm sái quấy trong dục lạc”, mang ý nghĩa là “phạm hạnh bị khuyết điểm, bị bể vụn, bị ô nhiễm”.

Bàlamôn Jānussoṇi có hỏi Đức Phật:

“Kiṃ pana bho Gotama, brahmacariyassa khaṇḍampi chiḍḍampi sabalampi kammāsampī’ti?

- Thưa Tôn giả Gotama, như thế nào phạm hạnh bị bể vụn, bị khuyết phạm, bị nhiễm ô, bị điểm chấm?.

Đức Phật trả lời:

- Ở đây, này Bàlamôn, có Sa môn hay Bàlamôn, tự xem mình sống phạm hạnh một cách chân chánh, tuy không có hành dâm với nữ nhân, nhưng hưởng thụ được nữ nhân thoa bóp, tắm sức dầu. Vị ấy thích thú, ước muốn, bị kích thích (vittiṇ apajjati) bởi nữ nhân. Này Bàlamôn, đây gọi là phạm hạnh không thanh tịnh, bị liên hệ, bị hệ lụy với dâm dục; không giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu bi, khổ, ưu não. Ta nói rằng không thoát khỏi khổ.

Tiếp theo Đức Thế Tôn tuần tự nêu ra những trường hợp phạm hạnh bị bể vụn, bị khuyết phạm, bị nhiễm ô, bị điểm chấm như:

- Tuy không có hành dâm với nữ nhân, không có hưởng thụ được nữ nhân thoa bóp, tắm, sức dầu. Nhưng cười giỡn (sañjagghati), chơi đùa, vui chơi với nữ nhân... (Phạm hạnh bị khuyết điểm- Ns).

- Tuy không cười giỡn, chơi đùa, vui chơi với nữ nhân, nhưng mắt nhìn mắt (upanijjhāyati), liếc mắt nhìn (theo) nữ nhân... (Phạm hạnh bị lấm nhơ – Ns).

- Tuy không lấy mắt nhìn mắt, liếc mắt nhìn (theo) nữ nhân, nhưng lắng nghe tiếng cười, tiếng hát, tiếng khóc (của nữ nhân) ngang qua vách, ngang qua hàng rào...

- Tuy không lắng nghe tiếng cười, tiếng hát, tiếng khóc (của nữ nhân) ... nhưng nhớ đến tiếng cười, tiếng nói, tiếng đùa giỡn trước kia đã có với nữ nhân...

- Tuy không nhớ đến tiếng cười..., nhưng xem gia chủ hay con gia chủ thọ hưởng, thưởng thức thích thú trong năm dục tăng trưởng (kāmaguṇa)...

- Tuy không xem gia chủ hay con gia chủ thọ hưởng, thưởng thức, thích thú trong năm dục trưởng dưỡng. Nhưng sống phạm hạnh với tâm nguyện hướng đến một thân chư thiên, nguyện rằng: “với giới này hay giới cấm này, ta sẽ thành một thiên nhân này hay một thiên nhân khác”. (Phạm hạnh bị điểm chấm- Ns). [33]

Lại nữa, làm hư hoại đời sống phạm hạnh, phần lớn nữ nhân là đối tượng chính, nên kāmesu micchācāra (hành sái quấy trong dục lạc) có liên quan nhiều đến nữ nhân.

“Nāhaṃ bhikkhave, aññan, ekarūpampi yaṃ evaṃ  purisassa cittaṃ pariyādāya tiṭṭhati yatthayidaṃ, bhikkhave itthirūpaṃ.

Itthirūpaṃ, bhikkhave, purisassa cittaṃ pariyādāya tiṭṭhatī ’ti....

“Này các Tỳkhưu, ta không thấy một sắc nào khác, xâm chiếm và ngự trị tâm (cittaṃ pariyādāya tiṭṭhati) người nam nhưsắc người nữ.

Này các Tỳkhưu, sắc người nữ xâm chiếm và ngự trị tâm người nam”.[34]

(Bài kinh trên bao gồm cả người tại gia lẫn bậc xuất gia).

Dĩ nhiên, nam nhân cũng là đối tượng làm hư hoại đời sống phạm hạnh của nữ nhân, quyến rũ nữ nhân rơi vào tà hạnh, nhưng kinh văn chỉ đề cập đến những hạng nữ nhân không nên quan hệ tình dục bất chánh, nhằm mục đích ngăn ngừa sự tai hại cho nữ nhân, đồng thời cảnh báo đối với nam nhân.

Mặt khác, trong lãnh vực này, nếu người nam không muốn quan hệ tình dục thì nữ nhân đành chịu, còn khi nữ nhân không muốn vẫn bị cưỡng bức, do ảnh hưởng sức mạnh từ thân.

Như Ngài Anuruddha bị các cô thiên nữ quấy nhiểu, Ngài vẫn an nhiên bất động, trái lại vị Thánh nữ Upālavaṇṇā lại bị thanh niên Nanda cưỡng bức.

Câu chuyện sau đây minh họa cho trường hợp nam nhân quyến rũ nữ nhân, làm hoại đời sống phạm hạnh của nữ nhân, tóm lược như sau:

Nữ khổ hạnh Saccatapāvī.[35]

  Tương truyền, ngày xưa có một nữ tu khổ hạnh là Saccatapāvī, nàng ở trong một thảo am nơi nghĩa địa, gần thành Bāraṇasī (Balanại), mỗi ngày nàng dùng có một bữa trong số 5 bữa ăn.

Danh tiếng của nữ đạo sĩ lan rộng khắp kinh thành, đến nỗi khi vấp ngã hay hắt hơi, họ đều gọi “cầu phúc cho Saccatapāvī”.

Vào một lễ hội, một người thợ kim hoàn say rượu, lúc nôn tháo đã kêu lên “cầu phúc cho Saccatapāvī”. Một người thợ kim hoàn khác cho rằng:

- Anh thật mù quáng khi tôn trọng một nữ nhân có tính khí bất thường.

- Này anh, chớ nói như vậy, nói như vậy sẽ rơi vào địa ngục đấy.

Thế là, họ tranh cải nhau và người thợ kim hoàn khôn ngoan đánh cuộc ngàn đồng tiền vàng với người kia, “trong vòng 7 ngày y sẽ quyến rũ được nữ đạo sĩ Saccatapāvī”.

Và y giả dạng một vị đạo sĩ khổ hạnh, đi đến nơi trú ngụ của nữ đạo sĩ Saccatapāvī, vào ngày thứ bảy y đã quyến rũ được nữ đạo sĩ hoàn tục, trở thành vợ của y.

*-Tà hạnh trong dục lạc đối với cư sĩ.

Với nam cư sĩ, kāmesu micchācāra được hiểu là “quan hệ tình dục bất chánh (là quan hệ tình dục với nữ nhân khác ngoài vợ nhà)”.

Người nam không nên quan hệ bất chánh đến hai mươi hạng người nữ là:

Mười hạng nữ nhân (chưa có chồng).

1- Nữ nhân được mẹ gìn giữ (māturakkhitā).

2-Nữ nhân được cha gìn giữ (piturakkhitā).

3- Nữ nhân được mẹ, cha gìn giữ (mātāpiturakkhitā).

4- Nữ nhân được anh gìn giữ (bhāturakkhitā).

5- Nữ nhân được chị gìn giữ (bhaginīrakkhitā).

6- Nữ nhân được thân tộc gìn giữ (ñātirakkhitā).

7- Nữ nhân được dòng tộc gìn giữ (gottarakkhitā).

8-Nữ nhân được pháp bảo hộ (dhammarakkhitā).

9- Nữ nhân có hôn ước (sārakkhā).

10- Nữ nhân đang thụ án (đang bị tù tội) (saparidaṇḍā).

Như kinh văn có ghi nhận:

“Kāmesumicchācārī hoti. Yātā māturakkhitā piturakkhitā mātāpiturakkhitā  bhāturakkhitā  bhaginirakkhitā ñātirakkhitā gottarakkhitā dhammarakkhitā.

Này Cunda!... người ấy sống tà hạnh đối với các dục, tà hạnh với các hạng nữ nhân có mẹ che chở, có cha che chở, có mẹ cha che chở, có anh che chở, có chị gìn giữ, có bà con gìn giữ, có pháp gìn giữ (dhammarakkhita)”  [36].

Mười hạng vợ (của người khác), không nên quan hệ tình dục với họ là:

1- Vợ được mua bằng tiền (dhanakkitā).

2- Vợ được tác thành do thương yêu nhau (chandavāsinī).

3- Cho tài sản đến nữ nhân, rồi nữ nhân ấy thành vợ (bhogavāsinī).

4-Do cho y phục rồi nữ nhân ấy thành vợ (paṭavāsinī).

5- Vợ do rải nước (odapattagginī).

Đây là một trong những phong tục xưa của người Ấn cổ, phong tục này hiện còn ở Tích Lan.

Như khi Bồtát Vessantara hành pháp đại thí, vua trời Đế Thích giả dạng một Bàlamôn đến xin vợ Ngài là nàng Maddī, Ngài cho vợ đến người xin bằng cách rải nước vào tay hai người  [37].

Trong bài kinh Bàlamôn Doṇa, Đức Phật cũng giảng cho Bàlamôn Doṇa sự đi tìm vợ đúng pháp của các Bàlamôn thuở xưa, đó là “người vợ” không phải do mua, không phải do bán, chỉ với một nữ Bàlamôn đã được nước tưới lên. [38]

Gia chủ Ugga có cho vợ mình đến người đàn ông mà vợ gia chủ Ugga mong muốn. Gia chủ Ugga cho mời người ấy lại, “với tay trái tôi (gia chủ Ugga – Ns) cầm người vợ, với tay phải tôi cầm bình nước (bhiṅgāraṃ) rồi tôi rửa sạch người ấy...[39].

6- Lấy khăn trùm đầu rồi tác thành vợ (obhatasumbattā).

Đây là một phong tục xưa, một nhà có nhiều cô gái độc thân, một người nam cầu hôn. Các cô trùm kín đầu để người nam không nhận diện mặt, sau đó, người nam ấy chọn cô nào, cô ấy sẽ là vợ của nam nhân đó.

7- Vợ là nữ nô tỳ (dāsībhariyā).

8- Vợ là người làm công (kammakārībhariyā).

9- Vợ là nữ tù binh bắt được (bhaṇāhatā).

10- Vợ tạm thời trong thời gian ngắn (muhuttikā).

Như những nàng kỹ nữ bằng lòng sống với người nam trong khoảng thời gian ngắn với sự thỏa thuận bằng một số tiền nào đó, đây cũng là loại vợ “được mua bằng tiền”, nhưng khác chút ít là “có thời gian qui định”, còn vợ mua bằng tiền thì vĩnh viễn.

Nàng Uttarā, con gái ông Trưởng giả Puṇṇa được cha cho mười lăm ngàn đồng tiền vàng, cô thuê nàng kỹ nữ Sirimā phục vụ cho chồng trong mười lăm ngày, để nàng rảnh rang cúng dường đến Đức Phật và chư Tăng [40].

Đây là vợ mua bằng tiền trong thời gian ngắn.

Hoặc, một người vợ vô sinh, vì muốn chồng có người nối dõi, nên thuê một nữ nhân làm vợ cho chồng. Sau khi sinh được đứa con, nữ nhân kia phải giao con cho lại cho nhà chồng rồi ra đi. Đây cũng là vợ tạm thời.

Lại nữa, người nam không nên giao du thân mật với mười hai hạng người nữ là: Mười hạng vợ, nữ nhân có hôn ước và nữ nhân đang thụ nhục hình (nữ tù nhân).

Đối với 10 hạng vợ và nữ nhân có hôn ước, tuy không có quan hệ tình dục bất chính, nhưng những người chồng (hay hôn phu) sẽ nghi ngờ, ghen tương dẫn đến những tai hại cho nam nhân giao du thân mật với các đối tượng ấy.

Về nữ nhân đang thụ hình, không nên giao du thân mật, vì sẽ dẫn đến nghi ngờ là “đồng lõa trong một nghi án nào đó”, hay bị kẻ đang có hiềm thù, cáo gian là “đồng lõa với tội phạm”, thế là dẫn đến tai họa “bị bắt giữ, bị tra khảo...”.

Đối với 8 trong 10 hạng nữ nhân chưa có chồng (ngoại trừ nữ nhân có hôn ước, nữ nhân đang thụ hình), tức là thân họ chưa có chủ, họ có quyền đối với thân của họ, khi thích người nam nào sẽ giao thân cho người nam ấy, nếu người nam ấy cũng độc thân như họ, hành động này không sai phạm trong điều tà hạnh (riêng người nam thì rơi vào tà hạnh trong dục).

Đối với 12 hạng nữ nhân còn lại cho dù là vợ tạm thời (muhuttikā) cũng xem như có chồng, nếu họ giao thân cho người nam khác, xem như phạm giới tà hạnh trong dục.

Đức Phật có dạy trong kinh Pháp cú:

“Cattāri ṭhānāṇi naro pamatto. Āpajjati paradārūpasevī.

Apuññalābhaṃ na nikāmaseyyaṃ. Nindaṃ tatiyaṃ nirayaṃ catutthaṃ.

“Bốn điều bất hạnh đến với người bất cẩn, có hành động tà dâm: Gặt hái tội khổ, ngũ không yên giấc, ba là bị khiển trách và bốn là ở khổ cảnh.

“Apuññalābho ca gatī ca pāpikā. Bhītassa bhītāya ratī ca thokikā

Rājā ca daṇḍaṃ garukaṃ paṇeti. Tasmā naro paradāraṃ na seve.

“Có sự gặt hái tội khổ, cũng như có số phận bất hạnh. Hỷ lạc của người đàn ông và người đàn bà đang run sợ quả thật ngắn ngủi. Vua lại ban hành hình phạt nặng nề. Do đó không nên lân la với vợ người. [41]

Đối với nữ nhân có pháp luật gìn giữ, như Tỳkhưu ni, nữ đạo sĩ... không nên quan hệ tình dục, cho dù có sự đồng tình của nữ nhân.

Sadi khi hành dâm với một nữ nhân, bị trục xuất khỏi phẩm mạo sadi, sau đó có thể được xuất gia lại và thọ giới Tỳkhưu.

Nhưng nếu hành dâm với Tỳkhưu ni thì vĩnh viễn không được xuất gia trong Giáo pháp này (vì Tỳkhưu ni là nữ nhân được pháp luật bảo hộ).

Riêng Tỳkhưu, dù hành dâm với bất cứ đối tượng nào: nam, nữ, thú cái, nữ ngạ quỷ... đều bị tội triệt khai, không còn phẩm mạo Tỳkhưu, phải xuống phẩm mạo sadi hay hoàn tục. [42]

Trong điều tà hạnh trong dục lạc, xem ra chỉ đề cập nhiều đến nam nhân, còn nữ nhân ra sao?

Xét ra, nếu người nam không nên quan hệ tình dục bất chánh đến hạng nữ nhân nào, thì nữ nhân cũng không nên quan hệ tình dục đối với các hạng nam nhân ấy như thế.

Mặt khác, nữ cư sĩ khi ngoại tình, xem như phạm vào tà dâm (kāmesumicchācārā), đồng thời là một nhơ uế:

“mal ’ itthiyā duccaritaṃ:

Tà hạnh uế nữ nhân”[43].

 Xét ra, nữ nhân ngoại tình mang tính nghiêm trọng hơn nam nhân.

c- Việc tà dâm có bốn chi.

1- Người nên kiêng tránh (agamanīyaṭṭhānaṃ).

2- Có ý (muốn) dâm dục với người nên kiêng tránh (tasmiṃ sevanācittaṃ).

3- Rán sức tà dâm (upakkamo).

4- Đã tà dâm (maggena maggappaṭipādanaṃ).

Về sự vi phạm chỉ có một điều là “tự mình làm”.

Ngoài những đối tượng là những nữ nhân kiêng tránh, có một số trường hợp đối với vợ nhà cũng phải kiêng tránh, nếu vi phạm xem như “làm sái quấy trong dục lạc”, đó là:

- Tuy chính thức là vợ chồng, nhưng ở những nơi tôn nghiêm như: Nơi thờ tự, đền miếu, tháp, chùa... Quan hệ tình dục ở những nơi như thế, xem như tà dâm.

- Người vợ trong thời không thể giao hợp, như: Đang bịnh, đang có thai nhi (gần sinh nở), đang bị nguyệt kỳ... quan hệ tình dục xem như tà dâm.

Quan niệm cổ sơ của Bàlamôn giáo rất nghiêm túc về sự quan hệ tình dục.

- Nghiêm túc do quan niệm về “huyết thống thanh tịnh”, huyết thống thanh tịnh là một trong những đặc điểm để được gọi là Bàlamôn thanh tịnh.

- Nghiêm túc vì giao hợp với mục đích duy trì nòi giống, không phải để vui thú trong dục lạc.

Đức Phật có giảng cho Bàlamôn Doṇa. [44]

- Các Bàlamôn thuở xưa không đi đến giao hợp (khi) người nữ có mang (nếu đi đến trong thời người nữ có mang, thời đứa bé trai hay gái được sinh ra bị ô uế (atimiḷhajo).

- Không đi đến giao hợp khi nữ nhân đang trong thời kỳ cho con bú (đứa bé trai hay gái sẽ bị ô uế, (vì sữa mẹ) không được tinh khiết).

-  Nam Bàlamôn không đi đến với nữ Bàlamôn trong thời kỳ không thể thụ thai.

“Kasmā ca, Doṇa, brāhmaṇo na anutuniṃ gacchati?

Sace, Doṇa, brāhmaṇo anutuniṃ gacchati. Tassa sā hoti brāhmaṇī kāmatthā davatthā ratatthā pajatthāva brāhmaṇassa brāmaṇo hoti.

“Này, Doṇa, vì sao Bàlamôn không đến (với nữ Bàlamôn) trong thời không thụ thai?.

Này Doṇa, nếu vị Bàlamôn đến (nữ Bàlamôn) trong thời không thể thụ thai, thời nữBàlamôn ấy trở thành một phương tiện để thỏa lòng dục (kāmatthā), để vui đùa (devatthā), để thỏa thích(ratatthā)”. (sđd).

d- Quả của tà hạnh trong dục.

Nghiệp tà hạnh trong dục cho quả là tái sanh vào khổ cảnh. Nếu được sinh làm người, sẽ là người bị người khác oán thù.

Đức Phật có dạy:

“Kāmesumicchācāro, bhikkhave, asevito bhāvito bahulīkato nirayasaṃvattanikaṃ tiracchanayonisaṃvattaniko pettivisayasaṃvattaniko.

Yo sabbalahuso kāmesumicchācārassa vipāko, manussabhūtassa sapattavera saṃvattaniko hoti.

“Này các Tỳ khưu, tà hạnh trong các dục được thực hiện, được tiến hành (bhāvita), được làm cho sung mãn, đưa đến địa ngục, đưa đến loài bàng sanh, đưa đến cõi ngạ quỷ.

Quả dị thục hết sức nhẹ của tà hạnh trong các dục, là được làm người, với sự oán thù của kẻ địch (sappattavera saṃvattaniko)” [45]

B- Lời nói bất thiện có bốn điều: Nói dối, nói đâm thọc, nói thô ác, nói phù phiếm.

1-             Về nói dối (musāvāda).

a- Giải từ.

Phân tích musāvāda được: musā + vāda

Chữ musā nghĩa là “chuyện không đúng, không thật”. Đồng thời musā còn có nghĩa “làm mất lợi ích (đến người khác) bằng sự không đúng sự thật”.

Vāda là “lời nói”.

Với ý muốn cho người khác hiểu sai sự thật bằng lời nói (hay bằng thân) gọi là musāvāda.

Ngôn ngữ là điều không thể thiếu trong cuộc sống, là phương tiện giao tiếp, truyền đạt, thông tri ý nghĩa với nhau. Do đó, cẩn trọng trong lời nói là việc làm tốt đẹp và thiết yếu.

Dù là không có ý hại người, nhưng nói dối để vui đùa vẫn có tội tuy rằng nhẹ. Còn khi nói với ý muốn “khiến cho người hiểu lầm” và gây ra tác hại lớn, có tội nặng.

Nghĩa là: “Nói dối có tội nhẹ khi mang lại tác hại nhỏ, sẽ có tội nặng khi mang lại tác hại lớn”.

Đức Phật có dạy:

“Tasmātiha te Rāhula: hassā pi na musā bhaṇissāmīti.

Evaṃ hi te Rāhula sikkhitabbaṃ.

“Do vậy này Rāhula, ta quyết không nói dối, dầu nói để mà chơi.

Như vậy, này Rāhula, ngươi phải học tập”   ([46].

Người nói dối để vui đùa tuy không mang đến hậu quả xấu, nhưng cũng tập thành một thói quen xấu (phóng dật), đồng thời nói lên tính chất “không hổ thẹn tội lỗi (ahiri), không ghê sợ tội lỗi (anottappa)”.

“Musāvādo, bhikkhave, asevito bhāvito bahulīkato nirayasaṃvattanikaṃ tiracchanayonisaṃvattaniko pettivisayasaṃvattaniko.

Yo sabbalahuso musāvādassa vipāko, manussabhūtassa abhūtabbhakkhānasaṃvattaniko hoti.

 “Này các Tỳkhưu, nói dối được thực hành, được tiến hành, được làm cho sung mãn, đưa đến địa ngục, đưa đến bàng sanh, đưa đến cõi ngạ quỷ.

Quả dị thục rất là nhẹ của nói dối là được làm người bị vu cáo không đúng sự thật.”    [47] .

“Ekam dhammaṃ atītassa. Musāvādissa jantuno

Vitiṇnaparalokassa. Natthi pāpaṃ akāriyam,

“Không có điều ác nào mà người vọng ngữ vi phạm định luật (chơn thật), và dững dưng trước thế giới bên kia, không làm được”. [48]

Nói dối được thực hiện do vì mình hay do vì người, hay vì một vài lợi ích vật chất nhỏ, Đức Phật gọi “lời nói như phân” [49].

Trong các lời nói dối, nói vu khống cho người là tệ hại hơn cả, vì mang ác ý  làm mất lợi ích, có hại đến người bị vu khống.

Vu khống người có giới hạnh kém thì tội ít, vu khống cho người có giới hạnh cao thì tội nặng.

Như nàng Ciñcā vu khống Đức Phật, nên nàng bị đất rút, bà Hoàng Mallikā tuy là một nữ cư sĩ tịnh tín nơi Tam bảo, nhưng ray rứt về lời nói dối của mình đối với vua Pasenadi (Batưnặc), sau khi mệnh chung rơi vào địa ngục bảy ngày [50].

Đức Phật dạy:

“Abhūtavādī nirayaṃ upoti. Yo c’āpi katvā na karotī’ti c’āha

Ubho’pi te pecca samā bhavanti. Nihina kammā mannujā parattha.

Người nói điều không thật (rơi) vào cảnh khổ. Và người đã làm một việc, rồi nói “tôi không có làm”, cũng vậy. Sau khi chết cả hai đều như nhau, người có hành động ti tiện trong thế giới khác” . [51]

Và:

“Aṭṭhime bhikkhave, anariyavohārā. Katame aṭṭha?

Adiṭṭhe diṭṭhavāditā, asute sutavāditā, amute mutavāditā, aviññāte viññātavāditā.

Diṭṭhe adiṭṭhavāditā, sutte asuttavāditā, mutte amutāvāditā, viññate aviññatavāditā.

Ime kho, bikkhave, aṭṭha anariyavohārā’ti.

“Này các Tỳkhưu, có tám phi thánh ngôn (anariyavohāra). Thế nào là tám:

- Không thấy nói thấy, không nghe nói nghe, không nghĩ nói nghĩ, không biết nói biết.

- Thấy nói không thấy, nghe nói không nghe, nghĩ nói không nghĩ, biết nói không biết”.

Này các Tỳ khưu, đây là tám phi thánh ngôn” [52].

b- Nói dối có bốn chi.

1- Điều không thật (atattaṃ vatthu).

2- Tính nói dối (visaṃvādanacittaṃ).

3- Rán sức nói dối (tajjo vāyāmo).

4- Đã làm cho người tin chắc lời nói dối ấy (parassa tadatthavijānanaṃ).

 Sự nói dối được thực hiện bằng hai cách là thân và ngữ.

Dối trá có tính chất “làm người khác hiểu sai sự thật”, nếu lừa gạt người khác qua những cử chỉ về thân (của người muốn đánh lừa), gọi là “nói dối bằng thân”, như viết thư cáo gian người khác.... Hoặc như câu truyện sau:

Tu sĩ giả hiệu.

Một vị tu khổ hạnh chứng đắc được 5 thắng trí, Ngài trú ngụ trong một chòi lá tại một khu rừng, gần một ngôi làng nơi biên địa, dân làng rất kính trọng Ngài.

Bấy giờ Bồtát sinh làm một con cắc kè chúa, sống trong gò mối cuối đường kinh hành của vị ấy, hằng ngày thường đến viếng thăm vị đạo sĩ khổ hạnh hai ba lần, nghe pháp từ vị này (khi vị ấy gỉảng pháp cho dân làng nghe), rồi đảnh lễ Ngài trở về nơi ở của mình.

Về sau, vị ấn sĩ thanh tịnh ra đi nơi khác, một vị tu khổ hạnh giả dối khác đến trú nơi am thất ấy. Bồtát nghĩ “đây là vị có giới hạnh”, nên cũng đi đến đảnh lễ vị ấy như từng thực hành.

Một hôm dân làng dâng cho vị tu sĩ món thịt cắc kè rất ngon ngọt, vị ấy hỏi:

- Món thịt ngon ngọt này là thịt gì?.

- Bạch Ngài, là thịt cắc kè.

Vì tham đắm vị ngon vật thực, vị ấy sanh ác ý muốn giết cắc kè chúa (Bồtát), y cầm chày vồ, dùng tay áo che lại, rồi ngồi chờ Bốtát đến.

Vào buổi chiều, Bồtát đi đến đảnh lễ vị tu sĩ, khi đang đi đến, Bồtát thấy sắc diện của vị tu sĩ thay đối, Ngài cảnh giác và vì đứng dưới gió Bồtát ngửi được mùi thịt cắc kè nên không đến gần vị tu sĩ giả hiệu.

Thấy thế, tu sĩ giả hiệu ném chày vồ vào Bồtát, nhưng chỉ trúng đuôi mà thôi.[53]

Đây là sự giả dối được thực hiện bằng thân, nên Đức Phật có dạy:

“Kiṃ te jaṭāhi dummedha. Kiṃ te ajinasāṭiyā.

Abbhantaraṃ te gahaṇaṃ. Bāhiraṃ parimajjasi.

“Kẻ ngu có ích gì. Bện tóc với da dê

Nội tâm toàn  phiền não. Ngoài mặt đánh bóng suông.” [54]

Lại nữa, sự im lặng để “đánh lừa tri kiến người khác, khiến người khác hiểu sai sự thật” cũng là “nói dối bằng thân”.

Vì rằng, khi nghe người khác nói điều tốt đẹp về mình, sự im lặng là “mặc nhiên công nhận”.

Có lần Tôn giả Savittha vấn pháp nơi Tôn giả Musila, sau đó Tôn giả Savittha đã tán thán Tôn giả Musila rằng:

“Như vậy, Tôn giả Musila là bậc Alahán, đã đoạn tận các lậu hoặc”.

Khi nghe như vậy, Tôn giả Musila đã im lặng .

Nghe vậy, Tôn giả Narada nói với Tôn giã Sāvittha:

“Này hiền giả Savittha, lành thay nếu tôi được hỏi những câu này. Hãy hỏi tôi những câu này và tôi sẽ trả lời hiền giả những câu này.

Vả những câu hỏi được lập lại, sau đó Tôn giả Sāvittha tán thán tôn giả Narada:

Như vậy Tôn giả Narada là bậc Alahán, đã đoạn tận các lậu hoặc”.

Và Tôn giả Narada đã nói:

“Này hiền giả, do “Hữu diệt là Nípbàn”, tôi khéo thấy như chơn nhờ chánh trí tuệ. Nhưng tôi không phải là vị Alahán đã đoạn tận các lậu hoặc.

Ví như trên con đường hoang vắng có một giếng nước. Tại đấy không có giây, không có gàu nước. Rồi có một người đi đến, bị nóng bức bách, bị nóng áp đảo, mệt mõi run rẩy, khát nước. Người ấy ngó xuống giếng và biết được: “Giếng này có nước”, nhưng đứng chịu, thân thể không chạm nước...[55]

Trước những điều không đúng sự thật, im lặng để đánh lừa tri kiến người khác, xem như nói dối bằng thân.

Nói dối bằng lời, điều này cũng dễ hiểu, những lời ngụy biện cũng xem như nói dối.

Cũng nên ghi nhận: bốn chi phần của nói dối, chi phần thứ tư (đã làm cho người khác nghe tin chắc) chỉ trong phạm trù giới. Tức là “khi người khác tin” thì đứt giới nói dối, đồng thời mang nghiệp nói dối.

Cả hai chi phần đầu:

- Lời không thật.

- Cố ý nói.

Đã kết thành nghiệp nói dối, chi phần thứ ba (rán sức nói) làm cho ác quả nói dối trở thành nặng do sự cố gắng ấy (càng cố gắng nhiều thì ác quả càng nặng).

c- Có bốn cách thức (payoga) nói dối.

- Tự mình nói dối (sahatthika).

- Khiến người khác nói dối (anatthika).

- Tạo cạm bẩy dối trá (nissaggiya), như viết thư phao vu rồi quăng bỏ cho người khác đọc, gây chia rẻ giữa hai người.

Hay ngụy tạo những chứng cứ không thật để đánh lừa người khác.

- Phổ biến (thāvara) dối trá: Như viết những điều hư ngụy in thành sách rồi cho loan truyền rộng rải để lừa mị người, hoặc phao tin nhãm nhí rộng rãi...  .

Cũng nên ghi nhận: Bồtát cũng có nói dối, nhưng loại nói dối nào khiến người khác hiểu sai phát sinh sự hư hỏng Bồtát không nói. Loại nói dối nào người nghe hiểu sai nhưng không phát sinh hư hỏng, Bồ tát có nói loại nói dối này.

Trong Bổn sanh Hārita [56] có ghi:

“Bodhisattassa hi ekaccesu thānesu pāṇātipāto, adinnādānaṃ, kāmesu micchācāro, surāmerayamajjappāmampi hoti.

Yeva atthabheda kavisaṃ vādanaṃ purakkhitvā musāvādo nāma na hoti”.

Một đôi khi vị Bồtát có thể sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong dục lạc, uống rượu và chất say.

Nhưng nói dối làm hư hoại lợi ích người nghe, điều này không hề có”.

Nhưng dù sao cũng là nói dối, chính từ điểm này đã xác nhận “Bồtát tuy tốt đẹp hơn người thường, nhưng Ngài vẫn là phàm nhân”.

Nguy hại nhất có lẽ là những luận thư đề cao những tà thuyết, vì nó đánh lạc tri kiến chân thật, khiến người đọc rơi vào tà kiến và sự giải thoát khỏi luân hồi trở thành thiên nan, vạn nan.

2- Lời đâm thọc - Pisuṇā vācā.

a- Giải từ.

Chữ pisuṇa theo nghĩa gốc là: “nghiền nát, làm vỡ nát”.

Pisuṇā vācā có hai tính chất:

- Lời nói nào khiến người nghe thương mình và ghét người khác.

- Lời nói nào gây chia rẽ, gây bất hòa, gây hiềm khích giữa hai người.

Có hai loại lời đâm thọc, là “lời nói dối” và “lời nói thật”.

-Lời nói dối ngoài tính chất “đánh lừa tri kiến người nghe”, nếu kèm theo một trong hai mục đích nêu trên, được xem là lời đâm thọc.

Nói cách khác “lời nói dối này thành tựu hai ác nghiệp: nói dối và nói đâm thọc”, còn chỉ với mục đích “đánh lừa tri kiến người nghe” thì chỉ thành tựu ác nghiệp nói dối.

- Lời nói thật với một trong hai mục đích nêu trên, gọi là lời thật có tính đâm thọc.

Có câu hỏi rằng: “Lời nói thật là do có tâm thiện điều sử, vì sao lại là lời đâm thọc?”

Đáp: Nếu là tâm thiện, thì không có một trong hai mục đích nêu trên, khi có một trong hai mục đích trên, không thể gọi là tâm thiện, còn lời nói chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích trên (tức là ngữ biểu tri – vacī viññatti).

Lời nói (vācā) có bốn loại:

- Saddavācā: Lời nói chỉ là âm thanh, như tiếng rên rỉ, tiếng kêu gào, tiếng than khóc kể lể....

- Virativācā: Lời nói có tính ngăn trừ ác, bất thiện.

- Cetanāvācā: Lời nói do có ý. Nghĩa là có ý làm sanh khởi ngữ biểu tri.

- Capanavācā: Lời nói có khả năng làm cho người khác hiểu được ý của mình.

Lời nói (tuy thật) chỉ là sắc cảnh thinh, khi có cetanā bất thiện lời nói ấy không thể gọi là thiện được.

Do đó, bậc trí thường cẩn trọng lời nói, có những lời thật phải tùy thời, tùy đối tượng để tỏ bày.

Như một Tỳkhưu biết vị Tỳkhưu khác phạm giới, nói lên điều vi phạm của vị ấy với mục đích làm mất lợi ích cho vị kia, thì rơi vào bất thiện, còn như tâm muốn vị ấy không rơi vào tội lỗi, thì đó là thiện.

Trưởng lão Sāriputta có dạy rằng:

“Này các hiền giả, khi vị Tỳkhưu muốn buộc tội người khác,  hãy an trú năm pháp trong nội tâm rồi hãy buộc tội. Thế nào là năm?

- Tôi sẽ nói đúng thời, không nói phi thời.

- Tôi sẽ nói chơn thật, không nói hư ngụy.

- Tôi sẽ nói nhu hòa, không nói thô bạo.

- Tôi sẽ nói liên hệ đến lợi ích, không phải  không liên hệ đến lợi ích.

-Tôi sẽ nói với từ tâm, không phải nói với sân tâm [57].

Và Đức Thế Tôn có dạy thêm là:

 “... Này Sāriputta, những thiện nam tử vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình sống không gia đình ... không câm ngọng; hãy nói chuyện với những người này. Hãy giáo giới các vị đồng phạm hạnh, hãy giảng dạy.

Này Sāriputta, các vị đồng phạm hạnh nghĩ rằng: “Sau khi giúp (các vị đồng phạm hạnh) ra khỏi phi diệu pháp, tôi an trú các vị đồng phạm hạnh trong diệu pháp”, này Sāriputta hãy như vậy học tập (sđd).

b- Lời nói dâm thọc có bốn chi:

-                Người bị tổn hại  (bị đâm thọc) (bhinditabbo paro)

-                Có ý gây chia rẽ (bhedanla purekkhāratā).

-                Rán sức với cố ý ấy (tajjo vāyāmo).

-                Người khác hiểu được ý nghĩa đó (tassa tadatthavijjananaṃ).

Giải:

- Người bị tổn hại, chia rẽ.

Chữ bhindi là bất định từ (aorist) của động từ bhindati, nghĩa là: chia ra, làm bể.

Người bị tổn hại là:

1- Người bị người khác cách ly.

2- Bị người khác ghét

- Cố ý gây chia rẽ.

Mục đích gây chia rẽ này có hai:

- Muốn người khác quý mến mình và ghét người mình không ưa.

- Ly gián hai người đang thân thiết với nhau.

- Người khác hiểu được ý nghĩa ấy.

Tức là người nghe đã rơi vào một trong hai mục đích mà người nói lời đâm thọc đang hướng đến.

Tóm lại, người có tâm uế nhiễm dùng thân hay ngữ để làm hại người - lợi mình, gọi là pisuṇā vācā - lời hai lưỡi.

c- Có hai cách thức nói chia rẽ.

- Bằng lời,

- Bằng thân, như viết thư gây ly gián.

d- Quả của nói đâm thọc.

Quả của nói đâm thọc thường đưa xuống khổ cảnh, nếu may mắn làm người, sẽ là người cô độc, không có bạn.

“Pisuṇā, bhikkhave, vācā āsevitā bhāvitā bahulīkatā nirayasaṃvattanikā tiracchānayonisaṃvattaniko pettivisayasaṃvattanikā.

Yo sabbalahuso pisuṇāya vācāya vipāko, manussabhūtassa mittehi bhedasaṃvattaniko hoti.

“Này các Tỳkhưu, nói hai lưỡi được thực hiện, được tiến hành, được làm cho sung mãn, đưa đến địa ngục, đưa đến bàng sanh, đưa đến cõi ngạ quỷ.

Quả dị thục rất là nhẹ của nói dối là được làm người với bạn bè bị đổ vỡ.” (sđd–A.iv. 247).

Đối tượng bị hại kém giới đức thì có tội nhẹ, đối tượng bị hại là bậc có giới đức thì có tội nặng.

Ly gián bằng thân. [58]

Tương truyền: Trong thời Đức Phật Kassapa (Ca Diếp), có hai Tỳkhưu rất thân với nhau.

Vào thời Giáo pháp của Đức Phật Kassapa, mỗi sáu tháng chư Tỳkhưu hành lễ Bốtát (uposatha) với nhau. Bấy giờ, hai vị Tỳkhưu ấy cùng nhau đi đến nơi hội của chư Tăng để hành lễ Bốtát.

Một vị chư thiên cõi trời Tam thập tam thấy hai vị Tỳkhưu thân mến nhau như anh em ruột, khởi lên ý nghĩ  “có thể nào chia rẽ được hai vị Tỳkhưu này không?”

Nhân lúc một vị tách ra đi vệ sinh, vị chư thiên hóa ra một phụ nữ từ bụi cây, nơi vị Tỳkhưu đang vệ sinh đi ra, nữ nhân này y phục xốc xếch, một tay vuốt tóc, một tay sửa lại y phục. Vị chư thiên dùng thần lực không cho vị đang làm vệ sinh thấy, chỉ cho vị bên ngoài thấy mà thôi.

Thấy nữ nhân trong hiện cảnh như thế, vị Tỳkhưu đứng đợi cho rằng vị Tỳkhưu đi vệ sinh đã phạm giới, khi thấy vị Tỳkhưu kia đi ra, liền nói rằng:

- Này Hiền giả! Hiền giả đã phạm giới.

- Thưa Hiền giả! Tôi không có vi phạm giới.

- Chính tôi trông thấy một nữ nhân từ bụi cây đi ra, với y phục xốc xếch, một tay vuốt tóc, một tay sửa lại y phục.

Rồi mặc cho vị kia phân trần, vị Tỳkhưu ấy rẽ sang lối khác, cương quyết không đi chung với “người phạm giới”.

Về đến Giảng đường khi hành lễ Bốtát (uposatha), vị Tỳkhưu ấy cương quyết không hành Bốtát với vị “phạm giới”.

Vị chư thiên suy nghĩ: “Ta đã làm một ác trọng nghiệp, đã chia rẽ hai vị Tỳkhưu này”.

Vị chư thiên hiện ra, tỏ bày câu chuyện và xin sám hối hai vị Tỳkhưu. Hai vị Tỳkhưu tuy hành Bốtát chung, nhưng từ đó không còn thân thiện như xưa nữa.

Mệnh chung, hai vị Tỳkhưu sanh về thiên giới, còn vị chư thiên rơi vào địa ngục, chịu khổ suốt một thời gian giữa hai vị phật (từ thời Đức Phật Kassapa đến đời Phật hiện tại).

Vào thời Đức Phật hiện tại, vị chư thiên tái sinh trong thành Sāvatthī, nhờ nghe pháp, vị nam tử này xin xuất gia, có tên là Kuṇḍadhāna.

Từ khi Ngài Kuṇḍadhāna thọ giới Tỳkhưu, Ngài đi bất cứ nơi đâu cũng có bóng nữ nhân đi theo phía sau, Ngài không thấy nhưng mọi người thấy.

Về sau, nhờ vua Pasenadi (Batưnặc) xác minh “đó là ảo ảnh”, và cung thỉnh Ngài đến Hoàng cung thọ thực.

Trước đây, Ngài Kuṇḍadhāna luôn im lặng trước lời chế nhạo “kẻ đê tiện” của chư Tỳkhưu. Từ khi được Đức vua Pasenadi xác minh “nữ nhân theo sau là ảo ảnh”, khi bị chư Tỳkhưu gọi là “kẻ đê tiện”, Ngài trả đủa lại chư Tỳkhưu rằng “chính các ngươi mới là đồ đê tiện”.

Chư Tỳkhưu trình lên Đức Thế Tôn, Ngài dạy rằng:

- Này Tỳkhưu, chư Tỳkhưu thấy nữ nhân theo sau lưng ngươi nên họ gọi ngươi là “kẻ đê tiện”. Còn ngươi, ngươi có thấy các Tỳkhưu đê tiện không?

- Thưa không, bạch Thế Tôn.

- Này Tỳkhưu, đây là một nghiệp đê tiện của ngươi đã làm trong quá khứ. Vì sao, nay ngươi lại có thái độ sai lầm nữa?.

Theo lời thỉnh cầu của chư Tỳkhưu, Đức Phật thuật lại tiền nghiệp của Trưởng lão Kuṇḍadhāna, rồi Ngài dạy kệ ngôn:

M’ āvoca pharusaṃ kañci. Vuttā paṭivadeyya taṃ

Dukkhā hi sāranabha kathā. Paṭidanḍā phusseyya taṃ.

“Không nên dùng lời cộc cằn thô lỗ. Người bị nói cộc sẽ trả lời thô. Những lời gây thù trả oán quả thật là đau đớn. Lời qua tiếng lại sẽ làm tổn hại như gây thương tích.”

Sace uresu attānaṃ. Kaṃso upahato yathā

Esa patto’si nibhānaṃ. Sārambho te na vijjati.

“Nếu giữ được im lặng như cái mỏ bể, con đã đắc Nípbàn. Con không có tâm báo oán. [59]

Nghe xong kệ ngôn Ngài Kuṇḍadhāna chứng quả Alahán, từ đó nữ nhân ảo ảnh không còn. Và Ngài được Đức Phật ban cho địa vị “vị nhận phiếu thực đầu tiên”.

3- Lời thô ngữ (pharusa vācā).

a- Giải từ.

Pharusa là thô lỗ, cộc cằn, không êm tai.

Lời nào không êm tai, thô lỗ, tục tằn, khiến người nghe khó chịu, gọi là pharusa vācā (lời thô ác).

Có những lời nói khi thoáng nghe, ngỡ là ác ngữ, nhưng thật ra không phải, vì lời nói ấy không xuất phát từ sự nóng giận hay ác ý, đó là sự nói theo thói quen, như cha mẹ mắng (yêu) con, thầy mắng (thương yêu) trò, bạn thân mắng (đùa) nhau...

Trưởng lão Pilindavaccha là bậc Alahán, Ngài thường gọi các bậc đồng phạm hạnh là “đồ bần tiện”. Chư Tỳkhưu trình lên Đức Phật, sau khi quán xét, Đức Phật dạy:

- Này chư Tỳkhưu, Tỳkhưu Pilindavaccha gọi theo thói quen, không phải do ý ác. Vì trong tiền kiếp Tỳkhưu Pilindavaccha đã từng 500 kiếp sanh vào dòng Bàlamôn cao quý, nên thường gọi người khác là “đồ bần tiện”.[60]

Hay có câu chuyện sau đây:

Có đứa con thường hay cải lời mẹ, trốn vào rừng chơi, bà mẹ cản không được, bực tức rủa: “vái cho trâu rừng rượt mầy”.

Đứa bé vào rừng chơi, bị trâu rừng rượt thật. Trong lúc hốt hoảng, cậu ta khấn rằng: “Nếu mẹ tôi có ý hại tôi thì trâu rừng hãy húc tôi, còn như mẹ tôi không có ý hại tôi, xin hãy thành tựu như ý bà”. Bấy giờ, con trâu dừng lại ngay, giống như bị cột lại.

b- Thô ngữ có ba chi:

- Đối tượng bị mắng chưỡi (akkosi tabboparo).

- Tâm nóng giận, bực tức (kappitacittaṃ).

- Đã mắng chưỡi (akkosanā).

Thực hiện thô ngữ do thân cũng có, do lời cũng có.

Thực hiện thô ngữ do thân: Là làm những điệu bộ, cử chỉ để mắng chưỡi người hay viết thư mắng người. Hoặc “cười mỉa mai”, “cười khinh bỉ” cũng là ác ngữ từ thân.

Thô ngữ bằng lời, điều này dễ hiểu.

c- Quả của thô ngữ.

Thô ngữ làm thường xuyên sẽ dẫn xuống khổ cảnh, may mắn được làm người sẽ là người nghe những điều không đáng hài lòng.

“Pharusā, bhikkhave,  vācā āsevitā bhāvitā bahulīkatā nirayasaṃvattanikā tiracchānayonisaṃvattaniko pettivisayasaṃvattanikā.

Yo sabbalahuso pisuṇāya vācāya vipāko, manussabhūtassa amanāpasaddasaṃvattaniko hoti.

“Này các Tỳkhưu, nói ác khẩu, được thực hiện, được tiến hành, được làm cho sung mãn, đưa đến địa ngục, đưa đến bàng sanh, đưa đến cõi ngạ quỷ.

Quả dị thục rất là nhẹ của nói ác khẩu là được làm người, và được nghe những tiếng không khả ý.” (sđd- A.iv, 247).

Ác ngữ có tội nhẹ nếu đối tượng là người kém giới đức, sẽ có tội nặng khi đối tượng là bậc có giới đức cao.

Bà Ampapālī trong tiền kiếp mắng chưỡi vị Tỳkhưu ni Alahán “là kỹ nữ”, nên kiếp này bà phải làm kỹ nữ, từ khi nghe Pháp của Đức Thế Tôn, bà chứng quả Dự lưu, không còn hành nghề kỹ nữ.

Về sau bà xuất gia Tỳkhưu ni, khi nghe Trưởng lão Vimalakoṇḍañña (con của bà) thuyết pháp, bà triển khai thiền quán chứng  quả Alahán Tam minh [61].

Bồtát trong quá khứ nói thô ngữ đối với Đức Phật Độc giác: “Ông Sa môn này chỉ xứng đáng ăn gạo sālī đỏ dành cho ngựa”.

Vào hạ thứ 12, Đức Phật an cư mùa mưa tại xứ Verañja, Ngài phải ăn gạo đỏ sālī dành cho ngựa.[62]

Một cung nữ trong quá khứ giả dạng gù lưng để chế nhạo thân của vị  Phật Độc Giác với mục đích vui đùa, trong kiếp hiện tại nàng  là Khujjuttarā gù lưng.[63].

4- Lời vô ích – samphapalāpa.

a- Giải từ.

Phân tích từ samphapalāpa gồm sampha + palāpa.

Sampha là “hủy diệt lợi ích, hủy diệt an lạc”, palāpa là “lời nói”.

Những lời phù phiếm, những câu chuyện linh tinh, những lời tán gẫu không có mục đích được xem là lời vô ích.

Lại nữa, lời vô ích là lời không có căn cứ, là lời bàn tán, suy luận một việc không hề xẩy ra, như bàn luận rằng: “Nếu như mọi người đều xuất gia thì có còn loài người không?...”

Sự kiện mọi người đều xuất gia không hề xẩy ra, vì rằng: “Thế gian phần lớn rơi vào dục tham, thích thọ dụng năm dục hơn là có khuynh hướng từ bỏ năm dục”.

Phần đông đều cho rằng: “Những câu chuyện vui đùa, không làm hại ai thì không có ác quả”.

Thật ra, khi đàm luận những câu chuyện không có mục đích, không mang đến lợi ích, đồng nghĩa tạo điều kiện cho phóng dật (uddhacca) sinh khởi, một khi có phóng dật thì bất thiện tâm sinh khởi. Ví như khu vườn không có cây lợi ích thì cỏ dại sẽ mọc lên.

Do đó, Đức Phật có dạy:

“Dvinnaṃ vo bhikkhave sannipatitānaṃ dvayaṃ karaṇīyaṃ dhammī vā kathā tuṇhībhāvo vā”

 “Này các Tỳkhưu, khi hai vị Tỳkhưu hội hợp với nhau, có hai việc là: bàn luận pháp hoặc im lặng bậc thánh (là an trú trong đề mục thiền tịnh- Ns)”.

Và:

“Nāhaṃ, bhikkhave, aññaṃ ekadhammampi samanupassāmi yena anupannā vā akusalādhammā uppajjhanti uppannā vā kusālādhammā parihāyanti yathayidaṃ, bhikkhave, pamādo.

 “Này các Tỳkhưu, ta không thấy một pháp nào khác, do pháp ấy, các pháp bất thiện chưa sanh được sanh khởi, và các pháp thiện đã sanh được đoạn tận, này các Tỳkhưu như phóng dật” [64].

Ngoài ra, lời vô ích còn hàm ý “bàn luận những vấn đề không có thực”, những vấn đề do tưởng tượng tạo ra, rồi tìm hiểu những ảo tưởng, ảo kiến ấy.

Ngài Mahā Koṭṭhita có thưa với Đức Sāriputta (Xálợiphất):

“Channaṃ, āvuso, phassāyatanānaṃ, asesavirāganirodhā atthaññaṃ kiñcī’ti?

- Māhevaṃ, āvuso.

Thưa hiền giả, sau khi đoạn diệt, ly tham sáu xúc xứ (channaṃ passāyatanaṃ) không có dư tàn, có còn một cái gì khác nữa?

- Chớ có nói như vậy, thưa hiền giả.

“Channaṃ, āvuso, phassāyatanānaṃ asesavirāganirodhā natthaññaṃ kiñcī’ti?

- Māhevaṃ, āvuso.

“Thưa hiền giả, sau khi đoạn diệt, ly tham sáu xúc xứ không có dư tàn, không còn một cái gì khác nữa.

- Chớ có nói như vậy, thưa hiền giả.

“Channaṃ, āvuso, phassāyatanānaṃ asesavirāganirodhā nevatthi no natthaññaṃ kiñcī’ti?

- Māhevaṃ, āvuso.

“Thưa hiền giả, sau khi đoạn diệt, ly tham sáu xúc xứ không có dư tàn, còn có và không còn có một cái gì khác nữa.

- Chớ có nói như vậy, thưa hiền giả.

Và Đức Mahā Koṭṭhita có hỏi Đức Xálợiphất, cần phải hiểu ý nghĩa lời nói này như thế nào? Đức Xálợiphất đáp:

“Channaṃ, āvuso, phassāyatanānaṃ, asesavirāganirodhā atthaññaṃ kiñcī’ti, hi vadaṃ appapañcaṃ papañceti.

- Thưa hiền giả, “sau khi đoạn diệt, ly tham sáu xúc xứ không còn dư tàn, còn có một cái gì khác nữa”, nói như vậy là khiến trở thành hý luận một vấn đề không phải hý luận (vadaṃ appañcaṃ pāpañceti).

“Channaṃ, āvuso, phassāyatanānaṃ, asesavirāganirodhā natthaññaṃ kiñcī’ti, hi vadaṃ appapañcaṃ papañceti.

“Sau khi đoạn diệt, ly tham sáu xúc xứ không còn dư tàn, không còn cái gì khác nữa”, nói như vậy là khiến trở thành hý luận một vấn đề không phải hý luận.

“Channaṃ, āvuso, phassāyatanānaṃ, asesavirāganirodhā nevatthi no natthaññaṃ kiñcī’ti, hi vadaṃ appapañcaṃ papañceti.

“Thưa hiền giả, sau khi đoạn diệt, ly tham sáu xúc xứ không có dư tàn, còn có và không còn có một cái gì khác nữa, nói như vậy là khiến trở thành hý luận một vấn đề không phải hý luận [65].

Thuật ngữ papañca có rất nhiều nghĩa như: Khái niệm, ảo thuyết, không tưởng”.

Hai Ngài vấn đáp nhau để chư Tỳkhưu học tập, Ngài Mahā Kotthita nêu ra câu hỏi thuộc dạng “suy luận, tưởng tượng ra” một vấn đề không nên suy tưởng và bàn luận.

Vì rằng: Sáu xứ là thế gian (loka), mà thế gian thì không thể bàn luận cho hết (loka acinteyya), sáu xứ cần phải hiểu rõ theo thực tại, không phải hiểu qua suy luận.

Sáu xúc xứ là quả của danh sắc, bao giờ còn danh sắc thì còn sáu xúc xứ.

Sáu xúc xứ do duyên sinh, khi không có nhân duyên sinh khởi thì chúng không hiện khởi, khi nhân duyên diệt thì chúng diệt.

Khi vị Thánh Alahán viên tịch (parinibbāna), vì không còn nhân duyên nên danh sắc mới không sinh lên, danh sắc cũ đã hết nhân duyên nên diệt. Ví như ánh sáng ngọn đèn đang cháy, khi hết nhiên liệu thì ngọn lửa tắt, ngọn lửa tắt thì ánh sáng cũng tắt, không thể nói ánh sáng tắt còn “một cái gì” hay  “ánh sáng mất”.

Nếu cho ánh sáng còn, thì nó đi về đâu? Hướng Đông, hướng Tây, hướng Nam, hướng Bắc, hướng trên hay hướng dưới? Không thể biết được, đã không biết ánh sáng đi về hướng nào, thì vì sao biết là “còn”?.

Nếu cho ánh sáng mất, khi nhiên liệu tái khởi (ví như có nhân duyên mới) ngọn lửa khởi lên, ánh sáng không thể hiện ra (vì đã mất), điều này vô lý.

Câu thứ ba: “Nói còn có và không còn có”, nghĩa là “có phần tồn tại, có phần không tồn tại”. Vậy cái gì tồn tại, cái gì không tồn tại? Không biết được. Đã không biết được cái gì tồn tại, cái gì không tồn tại, thì “nói có phần tồn tại, có phần không tồn tại, có hợp lý không?”.

Chính xác phải nói: Khi hết nhân duyên thì danh sắc không sinh, danh sắc không sinh thì sáu xứ không hiện khởi.

Do đó, vị Thánh Alahán viên tịch, cho rằng “còn một cái gì khác” xem như rơi vào thường kiến, cho rằng “không còn cái gì khác” là rơi vào đoạn kiến (vì cho rằng “trước đó có một cái gì đó, nay “cái đó” diệt mất).

b- Lời vô ích có hai chi:

- Hướng tâm nói lời vô ích (niratthakathāpurakkhāro).

- Đã nói lời vô ích (tathārūpīkathākathanaṃ).

c- Quả của vô ích ngữ.

“Samphappalāpo, bhikkhave, āsevitā bhāvitā bahulīkatā nirayasaṃvattanikā tiracchānayonisaṃvattaniko pettivisayasaṃvattanikā.

Yo sabbalahuso pisuṇāya vācāya vipāko, manussabhūtassa anādeyyavācāsaṃvattaniko hoti.

“Này các Tỳkhưu, nói phù phiếm, được thực hiện, được tiến hành, được làm cho sung mãn, đưa đến địa ngục, đưa đến bàng sanh, đưa đến cõi ngạ quỷ.

Quả dị thục rất là nhẹ của nói phù phiếm là được làm người, và được nghe những lời khó chấp nhận”.(sđd – A.iv, 247)

Tóm lại, quả của 7 bất thiện nghiệp.

Cả bảy điều trên (ba ác nghiệp về thân, bốn ác nghiệp về ngữ) nếu thường thực hiện, làm cho sung mãn, thường cho tái sinh về bốn khổ cảnh. Quả rất nhẹ là may mắn được sanh làm người thì:

- Sát sanh, sẽ cho làm người có tuổi thọ ngắn.

- Lấy của không cho, sẽ cho làm người với sự tổn hại tài sản (bhogayasana samvattanika).

Tài sản bị tổn hại do nước, do lửa, do trộm cắp, do bị vua quan chiếm đoạt và do kẻ thừa tự  phá hoại.

- Tà dâm, sẽ cho  làm người bị người khác oán thù.

- Nói dối, sẽ cho làm người bị vu cáo không đúng sự thật.

- Nói đâm thọc, sẽ cho làm người không có bạn bè.

- Nói ác, sẽ cho làm người, được nghe những tiếng không khả ý.

- Nói vô ích, sẽ cho làm người, được nghe những lời khó chấp nhận.

C- Ý bất thiện.

Tham đắm (abhijjhā), hiềm hận (byāpāda) và tà kiến (micchādiṭṭhi) là ý bất thiện.

1- Tham đắm – abhijjhā.

a- Giải từ.

Chữ abhijjhā = abhi (cao tột) + căn jhe .    Căn jhe có nghĩa là: “nhìn bằng tâm”.

Theo nghĩa gốc abhijjhā là “nhìn bằng tâm cao tột”, nên abhijjhā được hiểu là tham đắm, đắm nhiễm.

Chăm chú vào tài sản của người khác và muốn nó thuộc về mình, gọi là tham đắm.

b- Tham đắm có hai chi:

- Vật của người (parabhaṇḍaṃ).

- Muốn nó thuộc về mình (attanopariṇāmanaṃ).

Tội ít hay tội nhiều của ý tham đắm cũng giống như trộm cắp, tức là tham vật có giá trị cao thì tội nặng, có giá trị ít thì tội nhẹ.

Tham đắm tài sản của người có giới đức kém, có tội nhẹ, của người có giới hạnh cao, có tội nặng.

Giữa tham và tham đắm có điểm giống nhau là: “muốn chiếm hữu tài sản”, điểm khác biệt là: “mãnh lực tham nhẹ hơn tham đắm”.

Tham đắm dẫn đến hành động trộm cắp, còn tham thì không, một người có thể có tham nhưng không rơi vào trộm cắp.

Một thợ rừng vào rừng tìm gỗ quý để đốn, chỉ có thể gọi y có tâm tham, không thể gọi y trộm cắp.

Một nông dân trồng lúa, y ước muốn trúng mùa, chỉ có thể gọi y có tâm tham không thể gọi y làm việc tội lỗi.

Tham (lobha) có hai loại:

- Tham theo pháp (dhammiyalobha).

- Tham không theo pháp (adhammiyalobha).

Tham theo pháp hay tham không theo pháp là nói theo lãnh vực thế gian (tức là lấy thế gian làm chủ), khi lấy pháp làm chủ thì cả hai đều không tốt, vì tham là căn bản của bất thiện pháp.

Tham nhưng không hành động tội lỗi, như người phật tử muốn sinh về thiên giới nên trì giới, bố thí... là tham theo pháp.

Tham thực hành theo ác pháp như: trộm cắp, tà hạnh trong dục... là tham không theo pháp. Abhijjhā là tham không theo pháp.

Làm duyên cho tham sinh khởi đó là “tướng tốt đẹp (subhanimittaṃ)” và “không như lý tác ý (ayoni so manasikāra)”.

“Ko panāvuso, hetu ko paccayo yena anuppanno vā rāgo uppajjati uppanno vā rāgo bhiyyobhāvāya vepullāya saṃvattatī ’ti?.

Subhanimittantissa vacanīyaṃ ca ayoniso manasikāra ca.

“Do nhân gì, do duyên gì, này chư Hiền, tham chưa sinh được sinh khởi và tham sinh rồi đưa đến tăng trưởng lớn mạnh?

- Cần phải trả lời là “tướng tốt đẹp” “không như lý tác ý”.[66]

2-Thù oán (hay hiềm hận) – byāpāda

Gọi thù oán là ý nghĩa “muốn hủy hoại lợi ích, muốn hủy hoại an lạc của người khác”.

Sân (dosa) khác với thù oán.

Sân là trạng thái khó chịu, phẩn nộ nhưng không có ý làm tổn hại đến người khác, bậc thánh Dự lưu hay Nhất lai, tuy còn tâm sân nhưng không có sân ác vì các Ngài không có ý hại hay hủy hoại lợi ích của người.

Tội ít hay nhiều của sân ác giống như ác ngữ, tức là khởi ý hủy hoại lợi ích bậc có giới đức lớn thì tội nặng, hủy hoại lợi ích bậc kém giới đức thì tội ít.

Trong sớ giải kinh Pháp cú, có mẩu truyện:

Trong thời Đức Phật Kassapa, có một tên trộm chỉ vì có tâm hiềm hận với Trưởng giả Sumaṅgala, đã lén đốt ruộng của Trưởng giả bảy lần, chặt chân bò trong chuồng bảy lần, và lén đốt nhà Trường giả bảy lần.

Sau cùng, muốn làm cho Trưởng giả đau khổ, y đã đốt hương thất do Trưởng giả xây dựng cúng dường đến Đức Phật Kassapa. Mệnh chung, y bị rơi vào địa ngục Atỳ, quả dư sót phải tái sanh làm ngạ quỷ trăn [67].

Đức Phật có dạy:

Na paro paraṃ nikubbetha. Ñātimaññetha ketthacinaṃ kiñci

Byārosanā paṭighasaññā. Ñāññamaññassa dukkhamiccheyya.

“Chúng sanh chẳng nên dọa hẩm làm hại chúng sanh khác, chẳng nên khinh bỉ (dù) chút ít kẻ khác bất cứ nơi đâu, chẳng nên muốn làm khổ lẫn nhau vì sự nóng giận hoặc bất bình là sự bực tức trong tâm.[68]

Thù oán có hai chi:

- Chúng sanh khác (parasatto).

- Có tâm hủy diệt (tassa taṃ vināsacintā).

Duyên khiến sân sinh khởi là “chướng ngại tướng (paṭighanimittaṃ)” và “không như lý tác ý (ayoni so manasikāra).”

“Ko panāvuso, hetu ko paccayo yena anuppanno vā doso uppajjati uppanno vā doso bhiyyobhāvāya vepullāya saṃvattatī ‘ ti?.

Paṭighanimittaṃ tissa vacanīyaṃ ca ayoniso manasikaara ca.

“Do nhân gì, do duyên gì, này chư Hiền, sân chưa sinh được sinh khởi, sân đã sinh được tăng trưởng lớn mạnh?

Cần phải trả lời là chướng ngại tướng không như lý tác ý”. (sđd, A.i, 199).

3-Tà kiến (micchādiṭṭhi)

Là sự thấy sai, hiểu sai. Tà kiến là thấy, hiểu không đúng theo chân lý.

Tội nặng hay nhẹ của tà kiến giống như lời nói phù phiếm. Lại nữa, tà kiến ít có tội nhẹ, tà kiến nhiều có tội nặng (xem kinh Phạm võng - Trường bộ I).

Tà kiến có hai chi là:

- Nắm giữ điều sai với chân lý (atthaviparitatā) .

- Thấy là thật trong điều không thật (tatthābhāvupaṭṭhānaṃ).

Có hai duyên khiến tà kiến sinh khởi, đó là: Tiếng nói người khác và không như lý tác ý.

“Dveme, bhikkhave, micchādiṭṭhiyā uppādāya. Katame dve? Parato ca ghoso ayoniso ca manasikāro...

“Có hai duyên, này các Tỳkhưu, khiến tà kiến sinh khởi. Thế nào là hai? Tiếng nói người khác và không như lý tác ý..”[69]

Phân tích mười bất thiện nghiệp.

Mười bất thiện nghiệp được phân tích theo năm khía cạnh.

1. Phân tích theo pháp (dhammato).

Bảy bất thiện nghiệp (ba thân nghiệp, bốn ngữ nghiệp) thuộc về thân - ngữ, do tâm sở Tư (cetanācetasika) điều sử.

Ba bất thiện nghiệp còn lại thuộc về ý, là những tâm sở Bất thiện đi chung với tâm sở Tư.

2. Phân tích theo nhóm (koṭṭhāsato).

Bảy bất thiện nghiệp đầu và ý tà kiến là bất thiện, nhưng không phải là căn (mūla: gốc rễ) bất thiện.

Ý tham đắm, ý hiềm hận là pháp bất thiện lẫn căn bất thiện, ý tham đắm là căn tham, ý hiềm hận là căn sân.

“Tiṇimāni bhikkhave, akusalamūlāni. Katamānitiṇi?

Lobho akusalamūlaṃ, doso akusalamūlaṃ, moho akusamūlaṃ.

“Này các Tỳkhưu, có ba căn bản bất thiện này. Thế nào là ba?

Tham là căn bản bất thiện, sân là căn bản bất thiện, si là căn bản bất thiện”[70].

3. Phân tích theo đối tượng (arammaṇato).

- Sát sanh có đối tượng là chúng sinh, tức là lấy danh - sắc mạng quyền (jīvitindriya) làm đối tượng.

Một chúng sinh gọi là chết khi danh mạng quyền (tức tâm sở mạng quyền – jīvitindriyacetasika) bị hoại, như chúng sinh cõi Vô sắc, hoặc sắc mạng quyền (jīvitindriyarūpa) bị hoại, như chúng sinh cõi vô tưởng (asaññībhūmi), hoặc cả hai loại danh - sắc Mạng quyền đều bị hủy hoại, như chúng sinh cõi ngũ uẩn (cõi dục giới – cõi sắc giới có tâm thức).

Gọi là sát sinh khi hủy diệt hai loại mạng quyền này, và sự kiện này chỉ xảy ra từ cõi Tứ Đại vương trở xuống.

- Trộm cắp có đối tượng chúng sinh và vật không phải là chúng sinh.

Như trộm cắp những con vật quý của người hay bắt cóc người thân của ai đó, rồi đòi tiền chuộc (lấy bằng cách hăm dọa), hoặc trộm cắp vàng, ngọc...

- Làm sai trong dục lạc có đối tượng chúng sinh và do mảnh lực của xúc (phassa) làm duyên.

Một số Giáo thọ sư cho rằng: “Làm sai trong dục lạc” có đối tượng là chúng sinh lẫn phi chúng sinh, như hành dâm với tử thi ...

- Nói dối, nói hai lưỡi, nói thô ác có đối tượng là chúng sinh, do xúc làm duyên.

- Đối tượng của nói phù phiếm cũng là chúng sinh, nhưng có sự khác biệt với ba loại bất thiện ngữ ở trên là: Nói phù phiếm do tưởng làm duyên, nhớ lại sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp đã nhận biết.

- Tham đắm có đối tượngchúng sinh lẫn vật phi chúng sinh, tương tự như trộm cắp.

- Hiềm hận có đối tượngchúng sinh.

- Tà kiến có đối tượng“pháp hành - saṅkhāradhamma”, là mãnh lực diễn tiến của các pháp hữu vi trong tam giới.

4- Phân tích theo cảm thọ (vedanāto).

Ở đây chỉ trình bày theo ba thọ: Lạc, khổ và xả, vì trong lạc thọ ngầm có hỷ thọ, trong khổ thọ ngầm có ưu thọ.

- Sát sanh chỉ có một loại thọ: Thọ khổ.

- Trộm cắp có đủ ba thọ: lạc, khổ, xả.

Có những trường hợp trộm cắp không do tham mà do sân hận, như “trộm cho bỏ ghét”...

Hoặc có những trường hợp “trộm cắp với tâm thản nhiên” như trường hợp người con thản nhiên lấy tiền bạc của cha mẹ mà không xin (xét về năm chi phần trộm cắp thì đủ cả năm).

- Làm sai trong dục lạc có hai thọ: lạc và xả.

- Nói dối có ba thọ: lạc, khổ,  xả.

Nói dối có thọ lạc, như thích thú khi lừa gạt người và thấy người khác tin lời mình.

Nói dối có thọ khổ, như trường hợp sợ hãi nên nói dối.

Nói dối có thọ xả, như nói dối theo thói quen.

- Nói đâm thọc cũng có ba loại: khổ, lạc, xả.

Do hiềm hận nên nói lời đâm thọc để ly gián (là thọ khổ khi nói lời đâm thọc).

Thích thú được người khác thương, nên nói đâm thọc (là thọ lạc).

Thản nhiên với lời đâm thọc là thọ xả.

- Nói thô ác chỉ có một thọ là thọ khổ.

- Nói phù phiếm có ba thọ.

- Tham đắm và tà kiến có hai thọ: Lạc - xả.

- Hiềm hận có một thọ là thọ khổ.

5. Phân tích theo căn (mūlato).

Do mãnh lực dính mắc trong cảnh, gọi là căn tham.

Do mãnh lực khó chịu, nghịch ý, gọi là căn sân.

Do mãnh lực mê muội trong cảnh, gọi là căn si.

- Sát sanh do tâm sân điều khiển nên có hai căn là sân – si.

- Trộm cắp do tâm tham điều sử, có hai căn là tham – si.

Trộm cắp do tâm sân điều sử, có hai căn là sân – si.

- Tà dâm chỉ do tâm tham điều sử, nên có hai căn là tham – si.

- Nói dối do tâm tham điều sử, có hai căn là tham – si.

 Nói dối do tâm sân điều sử, có hai căn là sân – si.

- Nói đâm thọc, nói phù phiếm tương tự như nói dối.

- Nói thô ác chỉ do tâm sân điều sử nên có hai căn là sân, si.

- Tham đắm chỉ có một căn là căn si, vì tham chính nó là căn bất thiện, nó không thể đi chung với chính nó.

Trong tâm tham có hai căn là tham và si, nên tham đắm có một căn là căn si.

- Tương tự như thế với hiềm hận, vì hiềm hận chính là căn sân, nên hiềm hận có một căn là căn si.

- Tà kiến chỉ có ở trong tâm tham, nên tà kiến có hai căn là tham,  si.

B- Trí hiểu rõ về Thiện và căn bản của thiện.

Từ bỏ sát sanh là thiện (pāṇātipātā veramaṇī kusalaṃ).

Chữ veramaṇī, chữ vera có nghĩa là: sự thù nghịch, sự chống lại, veramaṇī  nghĩa đen của từ ngữ là “có ý chống lại”, nghĩa mở rộng là “kiêng cữ, tránh ra, từ bỏ”, đồng nghĩa với veramaṇī là virati. .

Các Giáo thọ sư có giải thích veramaṇī là “cố ý (cetanā) làm hư hoại tội lỗi, cố ý xua đuổi xấu xa”, như:

Veraṃ manati =  viramaṇī: (cố ý ) xua đuổi tội lỗi, gọi là viramaṇī.

Hay: “Làm cho không còn tội lỗi, gọi là viramaṇī”..

Theo văn phạm Pāli thuộc ngôn ngữ xứ Magadha, thì viramaṇī biến đổi thành veramaṇī, có lẽ đây là một hình thức đọc trại âm thường thấy.

Vì thế có người tụng cả hai, tức là veramaṇī sikkhāpadaṃ hay viramaṇī sikkhāpadaṃ (nghĩa là: Theo điều học là cố ý lánh xa).

Tóm lại, veramaṇī (hay viramaṇī) là một từ khác chỉ chi cetanā.

Cetanā này được đặt tên trên nền tảng tác ý (manasikāra), nếu tác ý đúng (yoni so manasikāra) thì cetanā này sẽ lánh xa ác xấu, từ bỏ ác xấu, tiêu diệt ác xấu. Nếu tác ý không đúng (ayoni so manasikāra) thì cetanā sẽ tạo ra ác xấu, tội lỗi.

Tác ý đúng sinh khởi cetanā tốt, tác ý sai sinh khởi cetanā xấu, tác ý đúng hay sai này nằm trong tâm Hướng ý môn (manodvāravajjanacitta).

Chính tâm Hướng ý môn làm duyên cho loại tâm đổng lực (javanacitta) thiện hoặc tâm đổng lực bất thiện sinh lên [71] (ở đây không đề cập đến những đổng lực duy tác của bậc Alahán).

Lại nữa, “cố ý tránh xa tội lỗi, ác xấu” hàm ý dựa vào hai tâm sở “hổ thẹn tội lỗi (hiri) và ghê sợ tội lỗi (ottappa)”. Chính hai pháp này giúp cho cetanā (cố ý) có nhiều sức mạnh, không tạo ra bất thiện nghiệp, hay ác nghiệp.

 Ba loại kiêng tránh (virati).

Bất cứ một loại kiêng tránh nào, cũng phải đối điện với ác xấu, tội lỗi, ví như Thánh đạo phải có Nípbàn làm đối tượng (cảnh) mới diệt trừ phiền não.

Đối diện với tội lỗi, tâm không rơi vào tội lỗi mới gọi là kiêng tránh, còn không gặp tội lỗi nên tâm không rơi vào ác xấu đó là lẽ đương nhiên.

Như “không gặp vật quí nên không có tâm lấy trộm đó là lẽ đương nhiên, gặp vật quí của người nhưng không có ý lấy trộm, đó là kiêng tránh”.

Không có cơ hội gặp người khác, thì không thể rơi vào 4 ngữ ác là việc thường tình, khi gặp người mà không nói nhãm, không nói dối... Đó là sự kiêng tránh.

Và từ điểm này chúng ta mới thấy “lợi ích của sự sống nơi thanh vắng”, như lời Bậc Đạo sư thường dạy.

a. Kiêng tránh do thói quen (sampattavirati).

Chữ sampatta là quá khứ phân từ của động từ sampāpuṇāti (saṃ + pa + ap + uṇā).

Động từ sampāpuṇāti nghĩa là “đến nơi, gặp được”, nên sampatta nghĩa là “đã đến nơi, đã gặp được”.

Từ ý nghĩa của sampatta, có thể hiểu sự kiêng tránh này đã từng làm, đã từng thực hiện và đã trở thành thói quen..

Một người có thói quen không làm điều ác - bất thiện, khi đối diện với ác - bất thiện sẽ không vi phạm vào ác - bất thiện.

Như Trưởng lão MahāKassapa khi còn là thanh niên có tên Pippali không muốn lập gia đình, vì trong tiền kiếp nhiều lần tu tập thiền tịnh, nên tâm thường hướng về ly dục, nhưng cha mẹ ép nài chàng phải cưới vợ.

Để làm vui lòng cha mẹ, chàng làm một tượng thiếu nữ rất xinh đẹp, cho tượng mặc áo đỏ và đeo những vật trang sức, nói với cha mẹ rằng: “Nếu tìm được thiếu nữ nào như vầy, con sẽ lấy nàng làm vợ”.

Mẹ chàng cho các Bàlamôn mang pho tượng đi khắp nơi để tìm người giống như thế.

Ở Sāgala có nàng Bhaddā giống hệt pho tượng mà thanh niên Pippali làm ra, các Bàlamôn đã tìm thấy nàng Bhaddā.

Cũng như thanh niên Pippali, nàng Bhaddā không muốn có chồng, cả hai viết thư cho nhau nói rõ ý niệm của mình.

Hai người đưa thư, gặp nhau giữa đường, đưa thư cho nhau coi, rồi đồng tình tráo thư với nội dung ngược lại.

Do vậy, đám cưới được cử hành, nhưng đêm tân hôn, hai người nằm cách nhau một vòng hoa. Khi cha mẹ mệnh chung, hai người quyết định xuất gia.

Sở dĩ có hiện tượng trên là vì hai vị đã từng sống đời phạm hạnh bên nhau rất nhiều kiếp, nên nay tuy phải làm đám cưới, nhưng hai vị vẫn giữ được sự trong sạch phạm hạnh.[72]

(Một ô nhiễm trong dục lạc như vầy còn không có, thì nói gì đến sự vi phạm giới tà dâm nhỉ?) .

Bản Sớ giải kinh Chánh tri kiến[73] có nêu câu chuyện khác, tóm lược như sau:

Bồtát Cakkana.

Bồtát khi còn lăn trôi trong luân hồi, có một kiếp Ngài có tên là Cakkana, mẹ của Ngài bịnh nặng, thầy thuốc bảo phải tìm con thỏ còn sống, giết thỏ lấy máu hòa với thuốc mới khỏi bịnh, anh của Cakkana bảo:

- Này Cakkana, em hãy đi ra rẩy, tìm bắt thỏ mang về.

Vâng lời anh, Cakkana đi ra rẩy, Cakkana bắt được con thỏ, nhìn thấy vẽ sợ hãi và van lơn của thỏ. Bồtát suy nghĩ: “Thật không thích hợp cho ta khi phải giết một sinh mạng để đổi lấy sự sống cho mẹ ta”. Và chàng đã thả con thỏ đi.

Khi trở về, người anh hỏi: “Này Cakkana, em có tìm được thỏ không?”

Cakkana thuật lại câu chuyện, người anh la mắng Cakkana, Cakkana đi vào nơi mẹ nằm, phát nguyện rằng: “Từ khi tôi sinh ra đến giờ, tôi không từng giết hại một con vật nào, do lời chân thật này xin cho mẹ tôi hết bịnh”.

Liền khi ấy, bịnh của mẹ cậu thuyên giảm rồi dứt hẳn.

Lời phát nguyện trên cho thấy “thói quen” của Cakkana là “không từng giết hại sinh vật nào”, nên thấy thỏ run sợ chàng xúc động buông tha.

Cakkana là tiền thân Bồtát, Ngài thường có tâm từ bi với mọi chúng sinh, do thói quen này nên Cakkana không từng sát hại sinh vật từ khi mới sinh ra cho đến lớn.

Lại nữa, một người khi đối diện với điều ác xấu, do nghĩ đến danh dự cao quý của mình, hay danh dự tốt đẹp của gia tộc nên không rơi vào ác, bất thiện.

Hoặc là, nghĩ đến những hình phạt của vua quan, những quả báo đau khổ của ác, bất thiện nên khi đối diện với ác, bất thiện sẽ tránh xa ác, bất thiện ấy.

Đây gọi là kiêng tránh do thói quen.

b. Kiêng tránh do thọ trì (samādāna virati).

Là sự kiêng tránh do chấp nhận quy luật của một sinh hoạt tín ngưỡng, tương tự như sự chấp nhận nội quy trường học của một học sinh hay sự chấp nhận quân luật của người binh sĩ...

Sự chấp nhận (samādāna) thọ trì học giới xuất phát từ tinh thần tự giác, đi chung với đức tin.

Trong Phật giáo có bốn học giới như sau:

- Học giới dành cho Tỳkhưu, gồm 227 điều. [74]

- Học giới dành cho Tỳkhưu ni, gồm 311 điều. [75]

- Học giới dành cho Sadi – Sadi ni gồm mười giới và 75 Ưng học pháp.

Riêng học nữ (sikkhāmānā) là Sadi ni muốn thọ giới Tỳkhưu ni, phải gìn giữ sáu giới (năm giới đầu của Sadi và giới không ăn phi thời) trọn vẹn hai năm, không bị đứt đoạn.

Tức là ngoài Sadi ni giới ra, sáu giới này không được vi phạm, giả như được một năm Sadi ni này ăn phi thời, dĩ nhiên phải sám hối, nhưng một năm trôi qua kể như bỏ, phải hành lại từ đầu.

- Học giới dành cho cận sự nam -  cận sự nữ, gồm 5 giới, 8 giới hay 10 giới.

Học giới trong Phật giáo không chỉ đơn thuần là giới mà còn bao gồm cả định và tuệ.

“Sādhikamidaṃ, bhikkhave, diyaḍḍhasikkhāpadasataṃ anvaddhamāsaṃ uddesaṃ āgacchati, yattha attakāmā kulaputtā sikkhanti.

Tisso imā, bhikkhave, sikkhā yatthetaṃ sabbaṃ samodhānaṃ gacchati. Katamā tisso?

Adhisīlasikkhā adhicittasikkhā adhipaññāsikkhā. Imā kho, bhikkhave, tisso sikkhā, yatthetaṃ sabbaṃ samodhānaṃ gacchati.

“Này các Tỳkhưu, bản đọc tụng này, gồm hơn 150 học giới, cần phải đọc tụng nửa tháng một lần. Ở đây, các thiện nam tử muốn được lợi ích, học tập bản đọc tụng ấy.

Này các Tỳkhưu, tất cả được thâu nhiếp làm thành ba học giới. Thế nào là ba?

- Tăng thượng giới học, tăng thượng tâm học, tăng thượng tuệ học. Chính ba học pháp này, này các Tỳkhưu thâu nhiếp tất cả [76].

Và Đức Phật có dạy:

Yampi, Pahārāda, mayā sāvakānaṃ sikkhāpadaṃ paññattaṃ taṃ mama sāvakā jīvitahetupi nātikkamanti.

“- Này Pahārāda (Atula vương – Ns), khi các học pháp được Như lai chế định cho các đệ tử, dù cho vì nhân mạng sống, cũng không vượt qua” [77].

Sách Thanh tịnh đạo có nêu ra 2 mẫu truyện như sau:

Trong rừng Mahāvattani, có vị Trưởng lão bị bọn cướp bắt trói bằng dây leo màu đen rồi chúng bỏ đi.

Sợi dây trói không chắc lắm, nhưng vị Trưởng lão nằm đó trọn bảy ngày vì e ngại phạm vào giới “làm hại thảo mộc” phạm vào Ưng đối trị (pācittiya là “làm hư hoại thiện pháp”). Trong thời gian ấy, Ngài phát triển tuệ quán chứng quả Anahàm, mệnh chung sinh về Phạm thiên giới.[78]

Bản sớ giải kinh Chánh tri kiến có nêu ra câu truyện như sau:

Có một cận sự nam thọ trì giới nơi Trưởng lão Piṅgala Buddharakkhita tại Tịnh xá Ambariya xong rồi, ông ra đồng làm việc, đến trưa, ông tháo bò cho nó đi ăn và nghĩ trưa.

Khi thức giấc, ông phát giác con bò của mình đã đi lạc, ông đi tìm bò. Do bất cẩn, ông bị con trăn quấn quanh người, trên tay ông có cầm con dao bén, ông toan chém vào con trăn nhưng chợt nhớ lại giới mình thọ trì, ông suy nghĩ “nếu ta cầm con dao bén, khi bị trăn xiết mạnh, vì sợ chết ta có thể hạ sát con trăn”, rồi ông suy nghĩ tiếp “nếu ta ném con dao ở gần, có thể ta sẽ nhặt lại để sát hại con trăn”.

Ông liền ném con dao ra xa, rồi tưởng niệm đến giới mà mình đã thọ trì. Do sức mạnh của giới, khiến con trăn tháo mình ra và ông được an lành.

 c.  Kiêng tránh do đoạn trừ(samuccheda virati).

Là tuyệt đối không còn vi phạm, do đã chứng đạt Nípbàn, nhổ lên tận gốc rễ (setughāta – phá bỏ cây cầu), không có sự liên lạc với ác, bất thiện.

Như bậc Dự lưu tuyệt đối không phạm vào ngũ giới, một tư tưởng sát hại chúng sinh, lấy của không cho ... không hề khởi lên cho vị thánh Dự lưu.

Bậc Thánh Anahàm, một tư tưởng hành dâm cũng không khởi lên, bậc Alhán một tư tưởng bất thiện không hề có.

Trong ba loại kiêng tránh, kiêng tránh do chấp nhận điều học (tức là giới tu tập) là quan trọng nhất vì hiểu rõ lợi ích của giới.

Kiêng tránh do đoạn trừ là giới thành tựu, giới thành tựu là kết quả của giới tu tập, vị ấy không cần phí sức nhiều như giới tu tập.

Còn kiêng tránh do thói quen có thể là loại tâm thiện không có trí, là bản năng tự nhiên, như người xứ Bắc cưu lô châu (Uttarakurudīpa) gìn giữ giới một cách tự nhiên, nhưng những người ở châu này không chứng đạo quả.

Chỉ có giới do thọ trì, đưa bậc trí đến giải thoát khổ, vì hiểu rõ giới cùng lợi ích của giới.

“Dussīlassa bhikkhave, sīlavipannassa hatūpaniso hoti sammāsamādhi.

Sammāsamādhimhi asati sammāsamādhivipannassa hatūpanisaṃ hoti yathābhūtañāṇadassanaṃ...

“Này các Tỳkhưu, với người ác giới, với người phá giới (sīlavipannassa), chánh định nhân vậy bị phá hoại (hatūpaniso).

Khi chánh định không có mặt, với người chánh định bị phá hoại, như thật tri kiến nhân vậy bị phá hoại”...[79]

Lại nữa, sự thọ trì giới được nghiêm túc là do nương vào đức tin, đức tin sung mãn thì giới sẽ không hề bị vi phạm, trái lại đức tin yếu kém hay hạn hẹp, người này sẽ vi phạm vào giới.

“...Saddhaṃ kulaputtaṃ nissāya antojano pañcahi vaḍḍhīhi vaḍḍhati. Katamāhi pañcahi?

Saddhāya vaḍḍhati, sīlena vaḍḍhati, sutena vaḍḍhati, cāgena vaḍḍhati, paññāya vaḍḍhati.

“...Dựa trên thiện nam tử có lòng tin, các người trong gia đình lớn lên  về 5 phương diện. Thế nào là năm?

Lớn lên về lòng tin, lớn lên về giới, lớn lên về học hỏi, lớn lên về dứt bỏ, lớn lên về trí tuệ.”  [80].

Đoạn kinh trên cho thấy Đức Phật nêu lên lòng tin trước, khi lòng tin tăng trưởng thì giới tăng trưởng.

Lại nữa, một trong 5 tâm cứng rắn (cetokhila) là: “Nghi ngờ Học giới (sikkhāya kaṅkhati)”, vị Tỳkhưu có tâm nghi ngờ Học giới sẽ không sẽ không trưởng thành, hưng thịnh trong giáo pháp này [81].

Do đó, các Giáo Thọ sư dạy rằng: “Sự thọ trì học giới do nương vào đức tin”.

2-Phân tích thiện nghiệp.

- Phân tích theo pháp (dhammato).

Ba thân thiện nghiệp (không sát sanh, không lấy của không cho, không tà hạnh trong dục lạc) thuộc về thân, do tâm sở Tư điều sử dựa trên tác ý đúng.

Bốn ngữ thiện nghiệp (không nói dối, không nói đâm thọc, không nói thô ác, không nói nhãm nhí) là ngữ, do tâm sở Tư điều sử dựa trên tác ý đúng.

Ba ý thiện nghiệp (không đắm nhiễm, không sân và trí) thuộc về ý, do tâm sở Tư điều sử các tâm sở phối hợp với nó, dựa trên tác ý đúng.

- Phân tích theo nhóm (koṭṭhāsato).

Bảy thiện nghiệp thuộc thân và ngữ là thiện, không phải là căn (mūla) thiện.

Ba ý thiện nghiệp là pháp thiện lẫn căn thiện, ý không tham là căn vô tham (alobhamūlaṃ), ý không sân là căn vô sân (adosamūlaṃ), chánh kiến là căn vô si (amohamūlaṃ).

- Phân tích theo đối tượng (ārammaṇa).

Đối tượng của thiện nghiệp tương tự như bất thiện nghiệp, chỉ khác là “không tạo ra ác, bất thiện.

- Phân tích theo thọ (vedanāto).

Các thiện nghiệp này chỉ có hai thọ là: lạc và xả, vì thiện nghiệp không có khổ thọ.

- Phân tích theo căn (mūlato).

Bảy thiện nghiệp đầu: Nếu được làm bởi tâm thiện ly trí thì có hai căn là vô tham và vô sân.

Nếu làm với tâm thiện có trí thì đủ ba căn là: Vô tham, vô sân và vô si.

Ý không tham trong tâm thiện ly trí chỉ có một căn là căn vô sân, trong tâm thiện có trí thì có hai căn là: vô sân và  vô si.

Vì “vô tham” nó chính là căn, nó không thể đi chung với chính nó.

Ý không sân trong tâm thiện ly trí, có một căn là vô tham, trong tâm thiện có trí có hai căn: Vô tham và vô si.

Chánh kiến có hai căn là: Vô tham – vô sân.

Ngoài ra, nếu phân tích theo Tứ đế thì:

a- Bất thiện nghiệp.

Bảy bất thiện nghiệp đầu là khổ đế trực tiếp.

 Ý tham đắm (abhijjhā) là tập đế trực tiếp.

Ý hiềm hận (byāpāda), ý tà kiến vừa là khổ đế vừa là tập đế gián tiếp.

b- Thiện nghiệp.

Bảy thiện nghiệp đầu là khổ đế gián tiếp.

Ý vô tham, ý vô sân vừa là khổ đế gián tiếp vừa là tập đế gián tiếp.

Chánh kiến trong tâm đạo là đạo đế, trong tâm hiệp thế vừa là khổ đế gián tiếp vừa là tập đế gián tiếp.

Chánh kiến trong tâm quả siêu thế là ngoại đế.

Diệt trừ ác, bất thiện nghiệp là diệt đế (tạm thời).

Dứt phần trí biết rõ về bất thiện và thiện.

-ooOoo-


[1]- Phạm Kim Khánh (d), Dhp, câu  129.

[2]- HT. TMC (d), Dhp, câu 222.

[3]- Đại Đức Thiện Phúc (d), Paramatthajotika- Chú giải người và cõi, phần chư thiên chiến đấu với Asura.

[4]- A.iv, 432.

[5]- HT. TMC (d), M.iii, Kinh Tiểu Nghiệp Phân biệt.

[6]- HT. TMC (d), Dhp, câu 225 .

[7]- Sớ giải kinh Đại viên tịch (mahāparinibbānasuttaṃ).

[8]- Đại Đức Giác Giới (dịch), Luật tạng- Đại phân tích bộ- Điều triệt khai thứ ba.

[9]- A.iv, 247.

[10]- Đại Đức Giác Giới (d), Luật phân tích Tỳkhưu, điều triệt khai thứ ba (số 218).

[11]- D.i, kinh Phạm võng (Brhamajālasutta)- đoạn số 26.

[12]- Đại Đức Thiện Phúc (d), Paramatthajotika- Chú giải người và cõi- Chuyện vua Daṇdakī.

[13]- Đại Đức Thiện Phúc (dịch), Chú giải Người và cõi.

[14]- Bà Trần Phương Lan (dịch), JA, số 213- chuyện vua Bharu.

[15]- Đại trưởng lão Hộ Tông (dịch), (1995), Thập độ q.2 (Bồ tát hành  giới độ), Tp Hồ Chí Minh, Thành Hội Phật Giáo tp Hồ Chí Minh, tr.5.

[16]- HT. TMC (d), M.ii, kinh Upali (upālisutta).

[17]- Đại Đức Giác Giới (dịch) (kn), Đại phân tích Tỳkhưu giới- điều tăng tàn thứ 6.

[18]- A.iii, 136

[19]- A.ii, 27.

[20]- DhpA, kệ ngôn 296- 301.

[21]- DhpA, câu

[22]- Đại Đức Giác Giới (d), Luật phân tích Tỳkhưu, điều triệt khai thứ 2.

[23]- Đại Đức Giác Giới (dịch) (kn), Luật phân tích Tỳkhưu, điều triệt khai thứ 2, số 130.

[24]- A.iv, 247.

[25]- DhpA. kệ ngôn số 71.

[26]- Nên lưu ý, Phạm  là từ  âm của chữ brahma, chữ brahma được âm là Phạm ma hay Phạm thiên, hạnh là dịch từ chữ cariya.

[27]- HT. TMC (d), A.iii, 347. Pháp sáu chi, kinh Migasālā (Migasālāsuttaṃ). 

[28]- HT. TMC (d), S.v, 26.

[29]- HT. TMC (d), A.iii, 272 . Kinh Đoạn trừ bỏn xẻn (Macchariyappahānasuttaṃ).

[30]- A.i, 232

[31]- HT. TMC (d), A.iii, 275. Pháp năm chi, kinh Tỳkhưu (bhikkhusuttaṃ)

[32]- HT.TMC (d), A.iii, 203.Pháp năm chi, kinh Sợ hãi (Sārajjasuttaṃ),

[33]- A.iv, 54. Pháp bảy chi, kinh Dâm dục (Methunasuttam.)

[34]- HT. TMC (d), A.i, 1. Phẩm sắc( Rūpādivaggo)

[35]- Trần Phương Lan (dịch), JA, chuyện số 536- tiền thân Kunāla.

[36]- HT. TMC (d), A.v, 263. Pháp 10 chi, kinh Cunda (người thợ rèn)- (Cundasuttam.)

[37]- Đại trưởng lão Hộ Tông (soạn dịch), (1995), Thập độ, tích Bồtát Vessantara.

[38]- HT. TMC (d), A.iii, 223.

[39]-HT. TMC (d), A.iv, 208.

[40]-DhpA, câu 223.

[41]- Phạm Kim Khánh (d), Dhp, câu 309, 310.

[42]- Đại Đức Giác Giới (d), Luật tạng, bộ Đại phân tích, điều triệt khai 1.

[43]- HT. TMC (d), Dhp, câu 242.

[44]- A.iii, 223.

[45]- HT. TMC (dịch), A.iv, 247. (Kinh Quả ác hạnh, duccaritavipākakasuttaṃ) (pháp tám chi).

[46]- HT.TMC (d), M.ii, Kinh Giáo giới Ra Hầu La (Rahulovādasuttaṃ).

[47]- HT. TMC (d), A.iv, 247 (Kinh Quả ác hạnh, duccaritavipākakasuttaṃ) (pháp tám chi).

[48]- Phạm Kim Khánh (d), Dhp, câu 176.

[49]- HT. TMC (d), A.i, 127.

[50]- DhpA, câu  kệ số 151

[51]- Phạm Kim Khánh (d), Dhp- 306.

[52]- HT. TMC (d), A.iv, 307.

[53]- Trần Phương Lan (d), JA, truyện số 138, tiền thân  Godha.

[54]- HT. TMC (d), Dhp, câu 394.

[55]- S.ii, 115.

[56]- JA, câu truyện 431.

[57]- A.iii, 196 và A.v, 79.

[58]- Đại trưỡng lão Pháp Minh (d), DhpA, câu 133- 134.

[59]- Phạm Kim Khánh (d), Dhp- 133-134.

[60]- DhpA- câu số 408.

[61]- Therī, phẩm 20 kệ, bà Ambapālī.

[62]- Luật Phân tích Tỳkhưu giới.

[63]- DhpA, câu kệ số 21, 22, 23.

[64]- HT. TMC (d), A.i, 10.

[65]- HT. TMC (d), A.ii, 161.

[66]- HT. TMC (d), A.i,199. Pháp ba chi, chương VII, Kinh Du sĩ ngoại đạo (Aññatitthiyasuttaṃ)  

[67]- Đại trưởng lão Pháp Minh (d), DhpA, câu số 126.

[68]- Đại trưởng lão Hộ Tông (d), Sn, 25- Kinh Từ bi.

[69]- HT. TMC (d), A.i, 86. Pháp 2 chi, phẩm  Āsāduppajahavaggo, (126)

[70]- HT. TMC (d), A.i, 201. Pháp ba chi, chương VII, phẩm lớn (mahāvaggo), kinh Căn bản bất thiện (akusalamūlasuttaṃ).

[71]- Xem Quy Trình Tâm Pháp. (TK Chánh Minh biên soạn).

[72]- Thera, 94- Ngài MahāKassapa.

[73]- Đại Đức Thiện Phúc (d), Sớ giải kinh Chánh tri kiến.

[74]- Xem Luật phân tích Tỳkhưu.

[75]- Xem Luật phân tích Tỳkhưu ni- Đại Đức Giác Giới dịch.

[76]- HT. TMC (d), A.i, 232 , Pathamasikkhāsuttaṃ (Kinh Bản đọc tụng thứ nhất). 

[77]-HT. TMC (d), A.iv,  197. Pháp tám chi, Pahārādasuttaṃ (Kinh Atula Pahārāda).

[78]- Vsm, 99.

[79]- HT. TMC (d), A.iii, 19.  Pháp năm chi, Dussīlasuttaṃ (Kinh Ác giới).

[80]- HT. TMC (d), A.iii, 44. Pháp năm chi, Mahāsālaputtasuttaṃ (Kinh cây Sāla lớn).

[81]- M.i, kinh số 16- Cetokhilasuttaṃ ( kinh Tâm hoang vu).

-ooOoo-

Ðầu trang | Mục lục | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06

 

Chân thành cám ơn Tỳ khưu Chánh Minh đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 11-2005)

[Trở về trang Thư Mục]
last updated: 17-01-2006