Đàm luận Phật Pháp
- 73 -

Các vị Ân Sư  

01-thapphuong.jpg
01-thapphuong.jpg
1200 * 923
02-xaloi.jpg
02-xaloi.jpg
1200 * 903
03-ansu.jpg
03-ansu.jpg
960 * 571
04-tamgiac.jpg
04-tamgiac.jpg
1119 * 863
05-nhathanh.jpg
05-nhathanh.jpg
888 * 900
06-thanhtu.jpg
06-thanhtu.jpg
840 * 900
07-minhchau.jpg
07-minhchau.jpg
840 * 624
08-pkimkhanh.jpg
08-pkimkhanh.jpg
1542 * 781
09-narada.jpg
09-narada.jpg
1399 * 900
10-khantipalo.jpg
10-khantipalo.jpg
1090 * 755
11-khema.jpg
11-khema.jpg
1232 * 671
12-ajbrahm.jpg
12-ajbrahm.jpg
1116 * 900
13-dipankara.jpg
13-dipankara.jpg
669 * 900
14-nuns.jpg
14-nuns.jpg
1203 * 900
15-bodhi.jpg
15-bodhi.jpg
1657 * 900

 

01. Chùa THẬP PHƯƠNG

9/2 Lê Lai, khu phố Mạc Cửu, Phường Vĩnh Thanh, TP. Rạch Giá

02. CHÙA XÁ LỢI

89B Bà Huyện Thanh Quan, Phường 7, Quận 3, Sài Gòn

03. CÁC VỊ ÂN SƯ

Vị thầy đầu tiên dẫn dắt tôi vào Đạo Phật là ngài Hòa thượng Thích Tâm Giác, lúc tôi 14 tuổi. Trong gần 50 năm qua, tôi chịu ơn rất nhiều vị thầy. Hình nầy ghi lại những vị có ảnh hưởng sâu đậm nhất trong tâm thức tôi.

Từ trái sang phải:

- Hàng trên: Hòa thượng Thích Tâm Giác, Thiền Sư Thích Nhất Hạnh, Hòa thượng Thích Minh Châu, Hòa thượng Thích Thanh Từ.

- Hàng dưới: Cư sĩ Phạm Kim Khánh, Bhikkhu Khantipalo, Ni sư Ayya Khema, Thiền sư Ajahn Brahmavamso.

04. Hòa thượng THÍCH TÂM GIÁC (1917-1973)

Đây là vị Thầy đầu tiên của tôi. Hòa thượng là vị trụ trì đầu tiên chùa Vĩnh Nghiêm, Sài Gòn; là Giám đốc Nha Tuyên úy Phật giáo (pre-1975), trụ sở đặt tại đường Tú Xương, Q.3. Ngài còn là Viện trưởng Viện Nhu đạo Quang Trung (đường Nguyễn Huy Tự, Đa Kao, xế đối diện chùa Ngọc Hoàng) -- đó là nơi tôi chính thức xin quy y Tam Bảo với ngài, năm tôi 14 tuổi.

Trong mỗi buổi tập võ Nhu đạo (Judo), ngài dạy chúng tôi ngồi tịnh tâm, theo dõi hơi thở trong 10 phút, và sau đó, kể vài câu chuyện đạo, về tiền thân Đức Phật v.v. Hình ảnh ngài cầm thiền trượng đi tới đi lui, giúp võ sinh ngồi lưng cho thẳng, vẫn còn hiện rõ trong tâm tôi. Hạt giống hành thiền được gieo trồng trong tôi kể từ ngày đó ...

Lần cuối cùng tôi gặp ngài là vào năm 1968, trong trận chiến Tết Mậu Thân. Một người bạn đến nhà rủ tôi đi cứu trợ. Chúng tôi đến trụ sở Nha Tuyên Úy PG, gia nhập đoàn công tác, giúp đỡ đồng bào nạn nhân chiến tranh tại Sài Gòn trong suốt một tháng.

05. Thiền sư THÍCH NHẤT HẠNH (1926 - )

Tôi chưa từng gặp Thầy, nhưng đối với tôi, Thầy là vị ân sư, vì tôi đã học được rất nhiều từ những cuốn băng giảng và những cuốn sách của Thầy. Ngày nay, người ta thường gọi là "Sư ông Làng Mai", nhưng đối với tôi, chữ "Thầy Nhất Hạnh" đã quá quen thuộc, có lẽ từ khi tôi nghe những cuốn băng giảng và nói chuyện trao đổi với các vị thiền sinh của Thầy tại Úc hơn 20 năm trước.

Khi còn là sinh viên đại học tại Sài Gòn (1969-1973), tôi thường hay vào Nhà sách Khai Trí, đường Lê Lợi, tìm mua sách, và hầu như tôi đã mua và đọc những sách của Thầy: Bông Hồng Cài Áo, Nói Với Tuổi Hai Mươi, Đạo Phật Ngày Nay, Đạo Phật Đi Vào Cuộc Đời, Đạo Phật Áp Dụng Vào Đời Sống Hằng Ngày, Đạo Phật Hiện Đại Hóa, ... và tôi cảm thấy gần gủi với những gì Thầy viết.

Một ngày nọ, khi đi lang thang trên đường phố Bangkok, sau biến cố tháng 4-1975, tôi ghé vào một tiệm sách Anh ngữ, và tình cờ thấy tập sách mỏng có tựa đề "The Miracle of Being Awake" với tác giả là "Thich Nhat Hanh". Tò mò, tôi mở ra xem vài trang, và mua về đọc. Tôi đọc hết một lèo, và cảm thấy càng gần gủi hơn với pháp niệm hơi thở, với sự tỉnh thức trong công việc làm hằng ngày, và các bài thực tập Thầy hướng dẫn trong cuốn sách rất thực tiễn, dễ áp dụng. Có thể nói tập sách mỏng đó đánh dấu một chặng đường mới của đời tôi. Mãi về sau, tôi mới có dịp đọc nguyên tác tiếng Việt, "Phép Lạ Của Sự Tỉnh Thức". Bản tiếng Anh được tái bản nhiều lần, với tựa đề sửa lại là "The Miracle of Mindfulness".

Khi sang định cư tại Úc, tôi có dịp liên lạc với nhóm thiền sinh của Thầy và đặt mua nhiều băng giảng và sách, tiếng Anh và tiếng Việt, nhất là các cuốn sách Thầy giảng về kinh, xuất bản trong thập niên 1980 và 1990: Kim Cương Gươm Báu Cắt Đứt Phiền Não, Kinh Bát Đại Nhân Giác, Kinh Quán Niệm Hơi Thở, Kinh Tinh Yếu Bát Nhã, Kinh Pháp Ấn, Kinh Người Bắt Rắn, Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm, Kinh Người Biết Sống Một Mình, v.v. Tôi thích lối văn của Thầy, chính xác, ngắn gọn, rõ ràng. Đặc biệt là cuốn Đường Xưa Mây Trắng, mặc dù vài chi tiết trong đó có vẻ hư cấu, đã giúp ích rất nhiều người, trong đó có các con tôi. Tôi mua bản tiếng Anh ("Old Path, White Cloud") cho các cháu đọc, và chúng rất thích cuốn sách này.

*

The Miracle of Being Awake - Phép Lạ Của Sự Tỉnh Thức
(The Miracle of Mindfullness)

Một ngày nọ, khi đi lang thang trên đường phố Bangkok, sau biến cố tháng 4-1975, tôi ghé vào một tiệm sách Anh ngữ, và tình cờ thấy tập sách mỏng có tựa đề "The Miracle of Being Awake" với tác giả là "Thich Nhat Hanh". Tò mò, tôi mở ra xem vài trang, và mua về đọc. Tôi đọc hết một lèo, và cảm thấy càng gần gủi hơn với pháp niệm hơi thở, với sự tỉnh thức trong công việc làm hằng ngày, và các bài thực tập Thầy hướng dẫn trong cuốn sách rất thực tiễn, dễ áp dụng. Có thể nói tập sách mỏng đó đánh dấu một chặng đường mới của đời tôi. Mãi về sau, tôi mới có dịp đọc nguyên tác tiếng Việt, "Phép Lạ Của Sự Tỉnh Thức". Bản tiếng Anh được tái bản nhiều lần, với tựa đề sửa lại là "The Miracle of Mindfulness".

06. Hòa thượng THÍCH THANH TỪ (1924 - )

Cũng như với Thầy Nhất Hạnh, đối với ngài Hòa thượng Thích Thanh Từ, tôi thường dùng chữ "Thầy Thanh Từ" khi nghĩ đến Thầy hay nói chuyện về Thầy với các bạn đạo ở cùng thành phố trong hơn 30 năm qua.

Trong thập niên 1980, sinh hoạt Phật giáo tại Perth bắt đầu khởi sắc, băng giảng audio-cassette của Thầy bắt đầu xuất hiện. Các băng nầy thu âm các bài giảng của Thầy ở VN, không biết bằng cách nào, được chuyển ra hải ngoại. Băng thu âm bằng máy cassette xách tay, âm thanh không hoàn hảo, rồi được copy tới lui nhiều lần, khi đến tay chúng tôi thì có nhiều tạp âm, nhưng chúng tôi rất quý, chuyền nhau để nghe. Đó là lần đầu tiên tôi biết tên Thầy và các bài giảng của Thầy.

Tôi rất thích giọng nói nhẹ nhàng, chậm rãi, rõ ràng từng chữ của Thầy, và những đề tài gần gủi với đời sống Phật tử. Và tôi học được chữ "chúng tôi" khi Thầy dùng để nói về mình, một cách nói khiêm nhượng trong xưng hô. Dần dần, tôi sưu tập được nhiều băng giảng của Thầy. Tôi còn nhớ trong một bài nói chuyện trong thời gian đó, Thầy Nhất Hạnh có nói Thầy là ông Đạo Sách – vì Thầy Nhất Hạnh cho in rất nhiều đầu sách qua Nhà xuất bản Lá Bối ở Pháp để phổ biến khắp nơi, còn Thầy Thanh Từ là ông Đạo Băng – vì lúc đó, các băng giảng của Thầy Thanh Từ được sao chép và phổ biến rộng rãi.

Dần dần, với kỹ thuật vi tính trở nên phổ thông, một số sách của Thầy viết ra trước 1975 được đánh máy lại và in thành sách, đa số là ấn tống, phân phát mọi nơi mỗi khi có lễ lớn. Lúc đầu là các sách giảng về kinh, như: Bát-nhã Tâm Kinh giảng giải, Kinh Bát Đại Nhân Giác giảng giải, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa giảng giải, Kinh Kim Cang giảng giải ... và tuyển tập các bài phổ thông như: Cành Lá Vô Ưu , Đạo Phật Với Tuổi Trẻ,... và cái bài biên tập từ băng giảng: Hoa Vô Ưu, Nguồn An Lạc, Phật Pháp Tại Thế gian, Xuân Trong Cửa Thiền. Những năm sau đó là các sách về thiền như Thiền Đốn Ngộ, Thiền Căn Bản, Pháp Yếu Tu Tập Tọa Thiền Chỉ Quán, Tọa Thiền Tam-muội, Lục Diệu Pháp Môn ... rồi những sách dịch, biên khảo: Thiền Tông Vĩnh Gia Tập, Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn, Truyền Gia Bảo Thiền Tông Trực Chỉ, Thiền Sư Trung Hoa, Thiền Tông Việt Nam Cuối Thế Kỷ 20, Thiền Sư Việt Nam, ...

Thầy sang thăm viếng Perth hai lần, và tôi đều đi nghe mỗi buổi giảng, và tình nguyện làm hướng dẫn đưa phái đoàn đi thăm viếng Tu viện Bodhinyana. Tôi rất tâm đắc với những câu nói nhẹ nhàng nhưng đầy ý nghĩa của Thầy. Khi khuyên chúng ta phải kiên nhẫn tu tập, Thầy nói mình là những người "phước mỏng, nghiệp dày" nên phải luôn luôn nỗ lực. Khi nói đến những thói hư tật xấu đã tích tập lâu ngày, rất khó sửa đổi, chúng ta "biết mà vẫn cố phạm". Có người hỏi "Đi tu có vui không?" Thầy nhẹ nhàng trả lời: "Tu là phải vui chứ con!" và mỉm cười. Có người hỏi "Ngồi thiền lâu có đau chân không?" Thầy lại mỉm cười và nhẹ nhàng nói: "Đau nhưng chịu được!". Khi ngài Ajahn Brahmavamso hỏi Thầy hành thiền theo phương pháp nào, Thầy trả lời: "Căn bản là dựa trên tứ niệm xứ".

Có gần gủi Thầy, mới cảm nhận được sự nhẹ nhàng, khoan thai, mát mẻ của một vị Thiền sư đầy lòng từ bi, không bút mực nào diễn tả cho hết được.

*

Tháng 08-2008, Thầy Nhất Hạnh về Việt Nam, đến thăm viếng Thầy Thanh Từ tại thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng (Đà Lạt), sau nhiều năm xa cách. Tôi rất xúc động khi theo dõi thông tin và xem các hình ảnh nầy.

07. Hòa thượng THÍCH MINH CHÂU (1918-2012)

Khi còn học trung học, tôi thường đi bộ cùng với má tôi và em gái đến chùa Xá Lợi (Q.3, Sài Gòn) vì nhà chúng tôi ở gần đó. Chùa có 2 tầng: tầng trên là chánh điện, tầng dưới là giảng đường. Một đêm rằm nọ, chúng tôi đến chùa, đứng ngoài nhìn vào, tôi thấy có một buổi giảng cho người lớn, diễn giả là một vị tu sĩ quấn y vàng. Không biết là ai, nhưng trong lòng tôi có một niềm kính trọng và hoan hỷ. Đó là hình ảnh đầu tiên của tôi về ngài Hòa thượng Thích Minh Châu.

Về sau, khi vào học đại học, dù khác trường, thỉnh thoảng tôi đến Đại học Vạn Hạnh -- gần cầu Trương Minh Giảng (nay đổi tên là Lê Văn Sĩ) -- để gặp các bạn học cũ, tôi lại thấy vị tu sĩ áo vàng đó, và bạn tôi cho biết đó là ngài Hòa thượng Thích Minh Châu, Viện trưởng Đại học Vạn Hạnh.

Mãi đến khi sang Úc, tôi có cơ duyên gần gủi các bạn Phật tử và Tăng Ni trong truyền thống Theravada, tôi bắt đầu tu học và tìm hiểu kinh điển trong truyền thống nầy. Từ đó, tôi mới biết Hòa thượng là dịch giả các bộ kinh Nikāya sang tiếng Việt.

Đến năm 1992, lần đầu tiên trở về VN sau nhiều năm xa cách, tôi nhờ em gái tôi đưa đến Thiền viện Vạn Hạnh, đường Nguyễn Kiệm, Phú Nhuận. Hôm đó, Hòa thượng đi vắng, nhưng tôi thỉnh được Trường Bộ và Trung Bộ vừa in ra, bìa cứng, đóng hộp, tôi vẫn còn giữ cho đến bây giờ. Trong những năm tiếp theo, bằng cách nầy hay cách khác, tôi tiếp tục thỉnh Tương Ưng Bộ, Tăng Chi Bộ và Tiểu Bộ. Xem như đầy đủ các bộ Nikāya do Hòa thượng dịch. Từ đó đến nay, tôi thường xuyên tham khảo các bản dịch đó.

Từ năm 2001, tôi về VN mỗi năm, viếng thăm các chùa Nam tông, và nhờ đó, thỉnh được bản Trường Bộ và Trung Bộ in trước năm 1975, song ngữ Pali-Việt với nhiều chú thích rất giá trị. Trong các chuyến đi nầy, tôi đều đến quầy sách ở Thiền viện Vạn Hạnh, và các tiệm sách PG khác ở Sài Gòn, tìm mua các sách của Hòa thượng: Phật pháp, Đường về xứ Phật, Những ngày và những lời dạy cuối cùng của Đức Phật, Đại thừa và sự liên hệ với Tiểu thừa (dịch), Sách dạy Pali, Chữ Hiếu trong đạo Phật, Hành thiền, Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, Chánh pháp và hạnh phúc, Đức Phật của chúng ta ... và những cuốn song ngữ Anh Việt: Thắng pháp tập yếu luận (Abhidhammattha-sangaha, dịch từ bản tiếng Anh của Hòa thượng Narada), Hsuan T'sang - The Pilgrim and Scholar (Huyền Trang, nhà chiêm bái và học giả), Fa-Hsien - The Unassuming Pilgrim (Pháp Hiển, nhà chiêm bái khiêm tốn), Milinda-panha and Nagasena-bhikhu sutra - A comparative study (Nghiên cứu đối chiếu Kinh Milinda vấn đạo chữ Pali và Kinh Na-tiên Tỷ kheo chữ Hán), The Chinese Madhyam -agama and The Pali Majjhima Nikaya (So sánh kinh Trung A-hàm chữ Hán & kinh Trung bộ chữ Pali - Luận án tiến sĩ).

Khoảng 10 năm trước, tôi đến thăm Hòa thượng, lúc đó đã yếu, ngồi xe lăn, ở tầng trên cùng của Thiền viện Vạn Hạnh. Tôi cúng dường đĩa CD Phật Học, và báo đến ngài rằng toàn bộ bản dịch Nikāya của ngài đã được đưa vào Internet và đĩa CD để phổ biến khắp nơi. Có lẽ ngài nghe hiểu, nên tôi thấy ngài mỉm cười. Đó là lần cuối cùng tôi gặp ngài.

Ngài Hòa thượng cũng được nhiều người trong cộng đồng Phật giáo thế giới biết đến. Một lần nọ, tôi nhận được một email từ ngài Bhikkhu Bodhi -- tăng sĩ người Mỹ, học giả Phật học nổi tiếng và là dịch giả Trung bộ, Tăng chi bộ và Tương ưng bộ sang tiếng Anh. Bhikkhu Bodhi cho biết được tin Hòa thượng Minh Châu lâm bệnh nặng, ngài nhờ tôi chuyển thư của ngài đến vấn an sức khỏe Hòa thượng. Bhikkhu Bodhi còn cho biết khi ngài còn là một sa-di Bắc tông tại Mỹ, ngài có gặp Hòa thượng Minh Châu, và Hòa thượng khuyên ngài nên sang Sri Lanka, học và nghiên cứu kinh điển Pāli. Theo lời khuyên ấy, Bhikkhu Bodhi sang Sri Lanka, thọ giới trong truyền thống Theravada, và tu học, làm việc tại đó trong 30 năm. Vì thế, ngài lúc nào cũng nhớ và ghi ân về lời khuyên của Hòa thượng.

Quyển luận án tiến sĩ của ngài Hòa thượng được in thành sách, tái bản nhiều lần, được nhiều học giả dùng làm tài liệu tham khảo, và ngài Hòa thượng được xem như là người tiên phong, giới thiệu giá trị bộ A-hàm của Hán tạng đến giới học giả phương Tây. Gần đây, Bhikkhu Anālayo, tăng sĩ Đức, là một học giả có nhiều nghiên cứu so sánh các kinh điển nguyên thủy trong Pāli tạng và Hán tạng, đã viết một bài tham luận có tựa đề "The Chinese Madhyam-āgama and The Pāli Majjhima Nikāya - In the Footsteps of Thich Minh Chau" (Trung A-hàm chữ Hán & Trung Bộ chữ Pali - Đi theo bước chân của Thích Minh Châu).

08. Cư sĩ Sunanda PHẠM KIM KHÁNH (1921-2011)

Cũng như nhiều Phật tử VN khác, tôi thường gọi Cư sĩ là "bác Khánh" hay "bác Phạm Kim Khánh" với lòng kính trọng và thương mến. Sunanda là pháp danh, do ngài Hòa thượng Narada đặt cho khi bác quy y Tam Bảo với ngài. Tôi chưa từng gặp bác, nhưng từ khi bắt đầu làm trang web BuddhaSāsana, tôi đã nhiều lần gọi điện thoại đến bác và bác gái – bà Sumanā Lê Thị Sương, để xin ý kiến, xin thông tin, xin tài liệu, và đã nhận được nhiều lời chỉ dạy, khuyên bảo quý giá từ hai bác. Đối với tôi, bác là một vị ân sư. Cuộc đời tu học và phụng sự Phật Pháp của bác Phạm Kim Khánh là một tấm gương sáng cho các cư sĩ Phật tử chúng ta.

Năm 1981, vợ chồng tôi viếng thăm Bangkok, gặp được một vị sư người Việt. Sư tặng tôi quyển sách "Đức Phật và Phật Pháp" – nguyên tác tiếng Anh "The Buddha and His Teachings" của ngài Hòa thượng Narāda – do bác Khánh dịch Việt và xuất bản lần đầu tiên tại Sài Gòn năm 1970. Trước đó vài năm, tôi đã bắt đầu tìm hiểu và tu học trong truyền thống Theravāda tại Tây Úc qua kinh sách tiếng Anh, nhưng đây là quyển sách đầu tiên bằng tiếng Việt tôi được đọc trong truyền thống nầy.

Trong những năm kế tiếp, qua những lần nói chuyện với ngài Phra Khantipalo, tăng sĩ người Anh đang hoằng pháp tại Úc, tôi được thêm thông tin về các sinh hoại PG tại VN trước 1975, về ngài Hòa thượng Thích Minh Châu, về ngài Hòa thượng Narāda, và về bác Khánh.

Mãi đến khi tôi thành lập trang web PG BuddhaSāsana, tôi mới có dịp liên lạc với bác Khánh qua thư bưu điện và trực tiếp nói chuyện qua điện thoại. Ngoài các trao đổi về Phật sự, thêm một điều thú vị nữa là hai bác lại biết ba tôi, các cô bác của tôi trong dòng họ bên nội, nhà cửa ở Gò Công, Biên Hòa, và Sài Gòn ngày xưa.

Nhờ các thông tin của bác về sự nghiệp hoằng pháp của ngài Hòa thượng Narāda, tôi tìm được các cây bồ đề do ngài Narāda đem trồng tại Việt Nam trong thập niên 1940 và 1950: chùa Giác Lâm và chùa Linh Sơn ở Sài Gòn, Thích Ca Phật Đài ở Vũng Tàu, chùa Hội Đức và chùa Pháp Hải ở Vĩnh Long.

Qua các trao đổi và trình bày của tôi về công việc phổ biến tài liệu kinh sách trên trang web, bác rất hoan hỷ và gửi cho tôi hầu như toàn bộ các cuốn sách và băng audio-casstte do chính bác đọc và thu âm, cũng như bản vi tính các cuốn sách đó. Đó là những tài liệu quý giá, gia tăng phong phú nội dung của trang web BuddhaSāsana. Lúc nào tôi cũng xem các nỗ lực tu học và truyền bá Phật Pháp, sự tận tụy và công trình dịch thuật của bác là một tấm gương sáng, là một kim chỉ nam cho bản thân tôi.

Khi tôi soạn trang web giới thiệu cuốn "Đức Phật và Phật Pháp", tôi xin bác viết cho một bản tiểu sử về bác. Bác từ chối vì ngại người khác hiểu lầm. Tôi phải nài nỉ mấy lần, và nói tôi chỉ đưa bản tiểu sử vào trang cuối của cuốn sách, và sẽ ghi là do "Bình Anson ghi chép, viết theo tài liệu của Nhóm Đạo Hữu Trung Tâm Nàrada, Hoa Kỳ", bác mới nhận lời. Trong phần cuối của bản tiểu sử, tôi ghi lại lời của bác như sau:

..."Được hỏi về tương lai Phật Giáo cho người Việt Nam hải ngoại, ông mong mỏi được thấy hai phần -- vật chất như chùa chiền, và tinh thần như giáo pháp -- phải được quân bình. Giới trẻ chịu ảnh hưởng tân học hầu như thích nghe giáo pháp, muốn biết Đức Phật là ai và Đức Phật dạy những gì, hơn là chỉ tụng kinh tu phước như những người có tuổi. Phật Pháp rất thích hợp với khoa học nên ông mong rằng người Phật tử cần được nghe giáo pháp nhiều hơn nữa. Ở các nước Tây Phương, phần lớn người theo Phật giáo là hạng trí thức; họ tìm hiểu và chỉ chấp nhận khi đã hiểu. Trong Phật giáo không có đức tin mù quáng. Người Phật tử không bị bắt buộc phải tin điều gì nếu mình không hiểu như thế."

Đó là tâm nguyện của bác đối với các Phật tử hải ngoại, nhưng tôi tin rằng đó cũng là tâm nguyện của bác đối với các anh chị em Phật tử trong nước.

*

Nguồn gốc tấm hình Đức Phật nổi tiếng

Ngoài tài năng dịch thuật, bác Khánh còn có tài chụp ảnh. Vào năm 1961, trong dự án xây dựng Thích Ca Phật Đài ở Vũng Tàu, Giáo hội Tăng già Nguyên thủy VN có đặt thiết kế một tượng Phật màu trắng, lộ thiên, cao 6 mét đặt trên tòa sen có đường kính 4 m, bệ cao 7 m, mà chúng ta thấy được ngày nay. Trước đó, một tượng mẫu nhỏ hơn, cao 1.2 m, được nhà điêu khắc Phúc Điền tạo ra để thỉnh ý chư Tăng. Bác Khánh đến cơ xưởng của nhà điêu khắc để xem xét, và chụp một tấm hình của tượng mẫu này. Tấm hình được dùng làm bìa cho cuốn "Đức Phật Và Phật Pháp". Tấm hình này trở nên nổi tiếng và rất quen thuộc với cộng đồng PG chúng ta, được nhiều Phật tử VN khắp nơi trên thế giới ưa thích, phóng to thành ảnh để tôn thờ Đức Phật.

09. Hòa Thượng NARADA (1898-1983)

Hòa thượng Narada (Narada Maha Thera) có thế danh là Sumanapala. Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka). Ngài xuất thân từ một gia đình trung lưu trí thức, và được gửi đi học cấp tiểu học và trung học của nhà dòng La-san đạo Gia-tô. Dù rằng ngài đã được đào tạo trong môi trường đạo Thiên Chúa, ngài lúc nào cũng hâm mộ đạo Phật và học tập Phật Pháp từ một người chú, và ngài học thêm tiếng Sanskrit từ Hòa thượng Palita, tham dự nhiều khóa giáo lý vào các ngày cuối tuần tại chùa Paramananda trong vùng.

Năm 18 tuổi ngài quyết định xuất gia, thọ giới Sa di với pháp danh là Narada, vị thầy bổn sư là Hòa thượng Vajiranana, một vị danh tăng vào thời đó. Thầy truyền giới là Hòa thượng Revata, và thầy truyền pháp là Tỳ-khưu Pelene. Sau đó, ngài theo học các khóa Vi Diệu Pháp và Ngữ học Đông phương.

Sa-di Narada thọ giới cụ túc (tỳ-khưu) vào năm lên 20 tuổi. Ngài được gửi đi học các khóa Đạo đức học và Triết học tại Đại học Tích Lan (Ceylon University College), với nhiều giáo sư danh tiếng như Đại đức Sumangala, Tiến sĩ Chandrasena, và Bác sĩ Pereira (về sau xuất gia, và trở thành Đại đức Kassapa rất nổi tiếng).

Năm 30 tuổi, ngài được cử đi tham dự lễ khánh thành chùa Mulagandhakuti tại Saranath (Xa-nặc), Benares (Ba-na-lại), Ấn Độ, và tham gia các công tác hoằng pháp tại đó. Trong thời gian này, ngài có dịp công tác với ông Jawaharial Nehru mà về sau trở thành vị thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ.

Ít lâu sau ngài được cử đi truyền giáo tại Trung Quốc và các nước Đông Nam Á -- Cam Bốt, Lào, Việt Nam, Nam Dương, Mã Lai. Tại những nơi này, ngài thường được tiếp đón rất nồng hậu. Quốc vương Cam Bốt tôn vinh ngài là Đức Đại Tôn Giả (Sri Maha Sadhu).

Ngoài ra ngài còn có nhiều chuyến đi truyền đạo tại các nước Tây phương. Năm 1955, ngài sang Úc, và giúp tổ chức các hội Phật Giáo địa phương tại các bang New South Wales, Victoria, Tasmania và Queensland. Năm 1956, ngài du hành sang Anh quốc, tổ chức cử hành lễ Tưởng Niệm 2.500 năm sau ngày Đại Bát Niết Bàn của Đức Phật. Sau đó ngài giúp củng cố Phật sự và xây dựng ngôi chùa danh tiếng mang tên Chùa Phật Giáo Luân Đôn (London Buddhist Vihara). Ngài sang Hoa Kỳ hoằng pháp, và được cung thỉnh thuyết giảng về đề tài "Đức Phật và Triết lý đạo Phật" tại đài kỷ niệm Washington (Washington Memorial) trước một cử tọa rất đông đảo. Ngài là một sứ giả Như Lai rất hăng hái và nhiệt tình, thu hút được nhiều người nghe, và lúc nào cũng khuyến khích thành lập các hội Phật Giáo địa phương để bồi đắp công trình hoằng dương đạo pháp.

Ngài có nhiều gắn bó với đất nước và Phật tử Việt Nam. Ngài đã từng đến Việt Nam vào đầu thập niên 1930, mang theo nhiều nhánh cây bồ đề để trồng tại nhiều nơi trong nước: Phú Lâm (Chợ Lớn), Cần Thơ, Châu Đốc, Vĩnh Long ở miền Tây Nam bộ, Biên Hòa, Phước Tuy, Vũng Tàu ở miền Đông Nam bộ, ra đến miền Trung (Đà Lạt, Huế) và miền Bắc (Vinh, Hà Nội). Trong thập niên 1950, khi Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam được thành lập, ngài đến Việt Nam nhiều lần để thuyết pháp, hằng tuần tại chùa Kỳ Viên (Quận Ba, Sài Gòn) thu hút đông đảo Phật tử đến nghe, và có rất nhiều người đến xin quy y với ngài. Đặc biệt là vào năm 1963, ngài đã khuyến khích ủng hộ công tác xây cất bảo tháp Thích Ca Phật Đài tại Vũng Tàu, ngày nay được xem như là một di tích lịch sử. Ngoài ra, ngài còn giúp xây dựng một bảo tháp khác ở Vĩnh Long.

Ngoài các thời thuyết pháp và công tác tổ chức Phật sự, ngài còn hướng dẫn các lớp Vi Diệu Pháp và các khóa hành thiền, khuyến khích việc phiên dịch các sách Phật Pháp sang Việt ngữ để truyền bá rộng rãi. Các tập sách nhỏ sau đây đã được chuyển dịch:

- Hạnh Phúc Gia Đình (Parents and Children),
- Phật Giáo - Di Sản Tinh Thần của Dân Tộc Việt Nam (Buddhism - Heritage of Vietnam),
- Phật Giáo Tóm Lược (Buddhism in a Nutshell),
- Tứ Vô Lượng Tâm (Brahma Vihara),
- Những Vấn Đề của Kiếp Nhân Sinh (The Problems of Life),
- Những Bước Thăng Trầm (The Eight Worldly Conditions),
- Kinh Niệm Xứ (Satipatthana Sutta),
- Kinh Pháp Cú (The Dhammapada)
- Vi Diệu Pháp Toát Yếu (The Manual of Abhidhamma)
- v.v.

Đặc biệt nhất là quyển "Đức Phật và Phật Pháp" (The Buddha and His Teachings) đã được xuất bản tại Sài Gòn bằng hai thứ tiếng: Anh và Việt. Bản Việt ngữ do ông Phạm Kim Khánh chuyển dịch, với 4.000 quyển đầu tiên được in ra vào năm 1970, và sau đó một năm, lại được tái bản thêm 4.000 quyển. Từ đó đến nay, quyển này đã được in lại rất nhiều lần, trong nước cũng như tại hải ngoại, và đã được xem như là một trong những tài liệu căn bản quan trọng trong các khóa Phật học. Gần đây (1998), ông Khánh đã hiệu đính lại bản dịch đó, dựa theo ấn bản Anh ngữ cuối cùng trước khi ngài viên tịch.

Ngài viên tịch vào ngày Chủ Nhật 2 tháng 10, 1983, hưởng thọ 85 tuổi, tại chùa Vajirarama nơi ngài làm Tăng trưởng Chưởng quản trong những năm cuối của đời ngài. Tang lễ được chính phủ và Phật tử Tích Lan cử hành trọng thể như là một quốc táng.

Ông Phạm Kim Khánh viết: "...Phần đóng góp của ngài vào công trình hoằng dương giáo pháp thật mênh mông rộng lớn. Ngài là một vị cao tăng nổi tiếng là một nhà truyền giáo lỗi lạc, một giảng sư có tài diễn giải những điểm thâm sâu của Phật Giáo một cách giản dị và rõ ràng. Ngài làm việc không biết mệt để rải khắp mọi nơi bức thông điệp hòa bình đượm nhuần từ bi và trí tuệ của Đức Bổn Sư. Ngài cũng là tác giả của nhiều quyển sách Phật Giáo đã được truyền bá rộng rãi khắp thế giới." Và ông Premadasa, thủ tướng Tích Lan năm 1979, kết luận: "...Ngài đã dành trọn cuộc đời mình -- qua một cách vị tha bất cầu lợi -- để phụng sự cho hòa bình trên thế giới và đem lại hạnh phúc an lành cho nhân loại."

* * *

Thêm một chi tiết thú vị nữa về cuốn "Đức Phật & Phật Pháp": Khi bác Khánh dịch lại cuốn nầy, dựa theo bản viết cuối cùng năm 1980 của ngài Narāda trước khi ngài viên tịch, bác cũng tự đánh máy lại bản tiếng Anh của ngài. Bác gửi cho tôi cả 2 bản vi tính do bác tự đánh máy: nguyên tác tiếng Anh & bản dịch tiếng Việt, và tôi đều đưa vào trang web BuddhaSāsana.

Vài năm sau, Buddhist Publication Society (BPS, Hội Xuất bản Phật giáo) ở Colombo, Sri Lanka, muốn tái bản, in lại bản tiếng Anh nhưng bản vi tính của họ bị thất lạc. Ban biên tập gửi email xin tôi bản vi tính tiếng Anh của bác Khánh, và sắp xếp, hiệu đính, chỉnh sửa lại trước khi cho in thành sách. Cho nên, bản tiếng Anh cuốn "The Buddha and His Teachings" của ngài Narāda hiện đang lưu hành, trong dạng sách in hay dạng ebook, trên Internet, .... phần lớn là do công đức đánh máy vi tính của bác Phạm Kim Khánh.

10. Bhikkhu KHANTIPALO (1932 - ) - Lawrence Mills

Sư có thế danh là Lawrence Mills. Khi xuất gia và hoằng pháp tại Úc, thường được biết với pháp danh Bhikkhu Khantipalo, và vì xuất gia và tu học ở Thái Lan, mọi người thường gọi Sư là Phra Khantipalo. "Phra" là một từ Thái Lan, người Thái thường dùng để tôn kính. Mỗi khi nói chuyện với Sư, dù bằng tiếng Anh, tôi thường gọi Sư là "Ajahn" (A-chàn) như các Phật tử Thái Lan thường gọi. Đó là từ chữ Phạn Ācāriya, và trong ngôn ngữ hằng ngày, người Thái dùng chữ Ajahn để chỉ một vị thầy, vị sư.

Lần đầu tiên tôi gặp Sư là vào năm 1979, tại trụ sở của Buddhist Society of Western Australia (BSWA, Hội Phật giáo Tây Úc). Qua các đêm đi nghe pháp do Sư giảng, tôi cảm thấy như đứa con lang thang nay được trở về nhà cũ quê xưa, những lời dạy của Đức Phật thật là gần gủi, thực tế, có thể áp dụng để có an vui ngay trong hiện tại. Tôi có viết một bài ngắn, bằng tiếng Anh, về nhân duyên đưa đẩy tôi đến truyền thống Theravāda, đầu tiên qua những đêm nghe pháp đó ("How I became a practicing Buddhist" by Binh Anson, http://budsas.net/ebud/ebdha129.htm , bản dịch Việt: http://budsas.blogspot.com.au/2014/07/toi-tro-thanh-nguoi-tu-hoc-theo-ao-phat.html ).

Trong thời gian nầy, Sư đã được thỉnh về làm trụ trì Wat Buddha-Dhamma (chùa Phật Pháp), bang New South Wales, và là thiền lâm đầu tiên tại Úc. Có lẽ đó cũng là thời gian Sư viết nhiều sách: Buddhism Explained, Pointing to Dhamma, Banner of the Arahants, Calm and Insight, Practical Advice for Meditators, The Wheel of Birth and Death, With Robes and Bowl, Lay Buddhist Practice, The Buddhist Monk's Discipline, Bag of Bones, ... và dịch sang Anh ngữ cuốn kinh Pháp Cú (Dhammapada – The Path of Truth), hầu như tôi đều đọc qua các cuốn nầy. Cuốn Buddhism Explained đã được Hòa thượng Chơn Thiện dịch (Tìm hiểu Đạo Phật) và xuất bản tại Sài Gòn, và cuốn The Wheel of Birth and Death được bác Phạm Kim Khánh dịch (Vòng luân hồi). Tôi và một chị Phật tử Úc góp phần giúp dò soát lỗi đánh máy cuốn Calm and Insight và cuốn Banner of the Arahants. Dò soát từng chữ, từng câu, giúp tôi rất nhiều để thu thập các thuật ngữ Phật giáo bằng tiếng Anh và Pāli, hiểu biết thêm về 2 pháp thiền (An chỉ & Minh quán) và đời sống các vị đệ tử tỳ-khưu thời Đức Phật. Qua sự giới thiệu của Sư, tôi bắt đầu tìm đọc bản dịch Anh ngữ các bộ kinh Nikāya (Pāli Text Society xuất bản), và liên lạc với Buddhist Publication Society - Sri Lanka, gia nhập hội, và tiếp tục nhận các sách của hội ấy cho đến bây giờ.

Ngày xưa, Sư đã từng tu học ở Ấn Độ và Sri Lanka, và quen biết ngài Hòa thượng Thích Minh Châu. Khi ngài Hòa thượng trở về Việt Nam, ngài có mời Sư sang thăm viếng, thuyết giảng, và ngụ tại chùa Xá Lợi (Q.3, Sài Gòn). Nhờ đó, Sư có một số thông tin về sinh hoạt Phật giáo VN, về ngài Hòa thượng Narāda và bác Phạm Kim Khánh.

Trong những năm tiếp theo, chúng tôi thường thỉnh mời Sư sang Perth để giảng pháp và hướng dẫn hành thiền. Ngoài giáo lý căn bản, tôi tập hành thiền trong truyền thống Theravāda, tham dự các khóa thiền tích cực, thường kéo dài 3 ngày cuối tuần, tổ chức tại cơ sở trại hè thanh niên của chính phủ bang Tây Úc.

Sang thập niên 1980s, khi chúng tôi có các vị sư từ Thái Lan đến thường trú -- đệ tử của ngài Thiền sư Ajahn Chah, thiết lập Trung tâm PG Dhammaloka và Tu viện Bodhinyana, Sư Khantipalo ít qua Perth, và dành thời gian để hoằng pháp miền Đông Úc. Từ đó, tôi không còn liên lạc với Sư.

Về sau nầy, tôi được tin Sư giải y, hoàn tục, đến ở thành phố Cairns, miền Bắc bang Queensland, và mở một trung tâm thiền cho cư sĩ. Sư lấy lại tên cũ nhưng vẫn kèm theo pháp danh, và các sách xuất bản sau nầy ghi tên tác giả là "Khantipalo Lawrence Mills".

Có lần, nghe tin Sư bệnh nặng, tôi gọi điện thoại đến thăm, Sư rất cảm động và vẫn nhớ tên tôi. Trong khi trò chuyện bằng tiếng Anh, tôi gọi Sư là "Ajahn", Sư ngắt ngang, và nói: "Bây giờ tôi không còn là tu sĩ nữa, xin đừng gọi tôi là Ajahn". Tôi trả lời: "Đối với tôi, lúc nào tôi cũng nhớ ơn ông đã dẫn dắt tôi vào Đạo Phật, cho nên, ông vẫn là Ajahn của tôi". Sư im lặng một lúc lâu, rồi chuyển sang nói chuyện khác.

11. Ni sư AYYA KHEMA (1923-1997)

Ni sư có thế danh là Ilse Kussel, sinh trưởng tại Đức. Sau khi Thế chiến II chấm dứt, bà lập gia đình và định cư tại Úc. Ni sư đi du lịch nhiều nơi, và sang Ấn Độ học thiền với nhiều đạo sư. Sau đó bà sang Sri Lanka, thọ giới Tu nữ năm 1979 (Dasa-sila-mata, nữ tu sĩ 10 giới), có pháp danh là Khema (Tịnh An). "Ayya" (ai-da) là tiếng Pāli, dùng để chỉ sự tôn kính, ngày nay thường được dùng trong cách xưng hô với các vị nữ tu sĩ Phật giáo. Vì thế, Ni sư thường được biết với tên gọi "Ayya Khema", và cũng dùng tên đó trong các cuốn sách của bà.

Ni sư tu học với ngài Hòa thượng Matara Sri Ñāṇanārāma tại Sri Lanka, đắc được các tầng thiền định, và ngài Hòa thượng khuyên Ni sư đi truyền dạy pháp hành thiền này. Bà trở về Úc, hiến cúng đất và giúp thành lập Thiền lâm Wat Buddhadhamma (chùa Phật Pháp) tại tiểu bang New South Wales, đây là thiền lâm đầu tiên tại nước Úc, và đi dạy thiền nhiều nơi.

Mỗi lần Ni sư sang Perth, bà ở tại trụ sở của Hội Phật giáo Tây Úc và dạy thiền tại đó, cũng như hướng dẫn các khóa thiền tích cực, 3 ngày hoặc 10 ngày. Qua đó, chúng tôi có phước duyên được nghe các bài thuyết giảng cũng như tham dự các khóa thiền của Ni sư. Vợ tôi rất kính mến Ni sư, xem bà như là "bà mẹ Pháp" (Dhamma mother).

Cuộc đời của Ni sư được bà viết ra trong cuốn tự truyện "I Give You My Life – an Autobiography" kể nhiều chi tiết lý thú trong việc tầm đạo, hành thiền, đắc thiền, và các công việc hoằng pháp của bà. Bà viết khoảng 25 đầu sách, riêng cuốn "Being Nobody, Going Nowhere" được giải thưởng Christmas Humphrey về sách PG hay nhất trong năm 1988 của Anh quốc. Ngoài ra còn có các cuốn: When the Iron Eagle Flies - Buddhism for the West, Who is myself? A guide to Buddhist meditation, Come and See for Yourself - The Buddhist Path to Happiness, Be an Island - The Buddhist practice of Inner Peace, Visible here and now, All of Us: Beset by birth, decay, and death, Here and Now, Meditating on No-Self, v.v. Tôi rất thích các sách Ni sư viết về pháp hành thiền, và các tập sách biên tập các bài pháp thoại ngắn trong các khóa thiền 10 ngày của bà. Sau nầy, chị Diệu Liên Lý Thu Linh dịch một số sách của Ni sư và xuất bản tại Việt Nam.

Năm 1987, Ni sư là vị nữ tu sĩ PG đầu tiên đọc một bài tham luận tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ở New York, về đề tài "Phật giáo và Hòa bình Thế giới".

Các băng giảng bằng tiếng Anh -- giảng nhiều nơi ở Úc, Anh, Mỹ, Đức -- từ năm 1988 đến 1996, được sưu tập tại trang web http://ayyakhematalks.org/ . Các băng video cũng phổ biến rộng rãi trên YouTube. Tôi thích lối giảng của bà: dùng từ ngữ đơn giản, dễ hiểu, thực tế, đi thẳng vào vấn đề.

Tôi học được từ Ni sư về pháp hành thiền đưa đến định tâm, các dấu hiệu (nimitta) cần phải biết, ghi nhận, và nhất là kiểm chứng để phân biệt ảo tưởng và thực tại khách quan, và về cách phát triển lòng Từ (metta bhavana). Lòng Từ được phát triển qua 2 cách: rãi tâm Từ theo liên hệ cá nhân – từ bản thân đến người thân yêu, đến bạn bè, đến người xa lạ, rồi cuối cùng đến người thù nghịch; và rãi tâm Từ theo không gian địa lý – lấy bản thân làm điểm chính, rãi rộng ra đến chúng sinh từ gần đến xa, như những vòng tròn đồng tâm, càng lúc càng tỏa rộng ra khắp hướng.

Một bài học quý của Ni sư mà tôi thường chia sẻ đến các bạn thiền sinh: hành thiền phải từ từ, chậm mà chắc, đừng đặt mục tiêu quá cao rồi sinh thối chí, và cần nhất là phải thường xuyên, đều đặn mỗi ngày, tạo thành một thói quen tốt. Cũng như thể ta tập em bé đánh răng sáng chiều mỗi ngày. Phải dùng nhiều phương cách, ngon ngọt cũng như răn dạy, cho đến khi em đã quen, khi em lớn lên, sẽ tự động đánh răng không cần ai nhắc nhở.

Trong thời gian đó, tinh thần tôi hoang mang, căng thẳng vì lo nghĩ nhiều chuyện, mất ngủ. Ni sư dạy tôi trước khi ngủ nên quán tưởng về 5 điều Đức Phật dạy ta phải quán tưởng hằng ngày [*]. Rồi phải tập chết: có thể đây là giấc ngủ cuối cùng, ngày mai không còn mở mắt, buông bỏ mọi chuyện để ra đi thanh thản. Sáng sớm khi thức giấc, phải biết tập sống: hôm nay ta bắt đầu một cuộc sống mới, hãy sống trọn vẹn trong ngày, sống có ý nghĩa, sống trong thiện lành.

Một lần nọ, trong giờ tham vấn, tôi hỏi Ni sư nhiều câu, đa phần do đọc nhiều tài liệu kinh sách. Ni sư mỉm cười, nhẹ nhàng hỏi: "Anh hành thiền thường xuyên không? Một ngày mấy lần? Mỗi lần bao lâu?" Tôi ấp úng trả lời: "Con bận rộn .... nên hành thiền tùy duyên, có khi sáng, có khi chiều, có khi 10 phút, có khi 30 phút, có ngày mệt quá không hành thiền ..." Bà lại mỉm cười và nói: "Như vậy chưa được! Anh nên cố gắng hành thiền đều đặn mỗi ngày, sáng chiều 2 lần, mỗi lần một giờ, sau 6 tháng, khi tôi trở sang Perth kỳ tới, đến hỏi tôi những câu đó." Tôi sửng sờ, ghi nhận, chấp tay xá Ni sư.


Chú thích:

[*] 5 điều quán tưởng:

Thế Tôn lời dạy tỏ tường
Năm điều quán tưởng phải thường xét ra:

1) Ta đây phải có sự già
Thế nào tránh thoát lúc qua canh tàn

2) Ta đây bệnh hoạn phải mang
Thế nào tránh thoát đặng an mạnh lành

3) Ta đây sự chết sẵn dành
Thế nào tránh khỏi tử sanh đến kỳ

4) Ta đây phải chịu phân ly
Nhân vật quý mến ta đi biệt mà

5) Ta đi với nghiệp của ta
Dầu cho tốt xấu tạo ra tự mình
Theo ta như bóng theo hình
Nhân nào quả nấy phân minh kết thành

12. Thiền sư AJAHN BRAHMAVAMSO (1951- )

"Fitting your faith into the facts, not fitting the facts into your faith.
-- Uốn nắn lòng tin cho vừa với sự thật, không uốn nắn sự thật cho vừa với lòng tin."

Đó là một câu nói của ngài Ajahn Brahmavamso mà tôi rất tâm đắc.

*

Thiền sư có thế danh là Peter Betts, sinh ngày 07 tháng 08, 1951, tại London, Anh quốc. Xuất gia, có pháp danh là Brahmavamso, thường được biết với tên gọi "Ajahn Brahm". Ajahn (A-chàn) là chữ Thái, gốc Pāli là Ācariya (A-xà-lê), người Thái dùng để chỉ một vị thầy, vị sư. Brahm là tên gọi tắt của Brahmavamso.

Một ngày nọ, khi còn là học sinh trung học, tình cờ vào thư viện thấy cuốn sách giới thiệu đạo Phật, Sư mượn về đọc. Đọc xong, Sư cảm thấy như đã trở về ngôi nhà xưa, gần gũi và quen thuộc, và cảm nhận mình chính là một Phật tử. Trong thời gian là sinh viên đại học, Sư thường sinh hoạt với các nhóm PG ở London, tìm hiểu và tập hành thiền. Sau khi tốt nghiệp Master (Thạc sĩ) ngành Vật lý Lý thuyết (Theoretical Physics), Đại học Cambridge, Sư đi dạy một năm, để dành tiền đi Thái Lan. Đầu tiên, Sư, lúc ấy 23 tuổi, xuất gia tại chùa Wat Saket, Bangkok, và sau đó được gửi đến chùa Wat Pah Pong, miền Đông Bắc Thái Lan, tu học với ngài Thiền sư Ajahn Chah trong 9 năm.

Năm 1981, Hội PG Tây Úc cử người đi Thái Lan, đến gặp ngài Thiền sư Ajahn Chah, thỉnh ý và yêu cầu ngài gửi các vị tu sĩ đến Tây Úc để giúp hoằng pháp. Ngài Ajahn Chah cử 2 vị đệ tử tỳ khưu sang Perth: Ajahn Jagaro và Ajahn Purisso, gốc người Úc đang tu học với ngài. Một năm sau, Ajahn Purisso thấy không thích hợp, xin trở lại Thái Lan. Ngài Ajahn Chah cử Ajahn Brahm sang thay, và Ajahn Brahm ở lại Tây Úc cho đến bây giờ.

Cuối năm 1983, Hội PG mua một thửa đất rừng nguyên sinh ở huyện Serpentine, rộng 100 acres (40 hectares), 75 km phía nam thành phố Perth, lập Tu viện Bodhinyana (Giác Minh). Đầu mùa mưa an cư năm 1984, vợ chồng tôi đi cúng dường thức ăn, lúc ấy, chư Tăng sống trong những túp lều vải. Thấy chư Tăng sống cực khổ, chúng tôi phát nguyện sẽ đi cúng dường hằng tuần trong suốt 3 tháng an cư. Từ đó, gia đình tôi vẫn giữ thông lệ ấy – cúng dường hằng tuần suốt mùa an cư mỗi năm – cho đến ngày nay.

Năm 1987, Hội PG mua lại ngôi nhà thờ cũ của Anh giáo tại vùng Nollamara thuộc thành phố Perth, thành lập Trung tâm PG Dhammāloka (Pháp Quang). Nhà chúng tôi hiện nay ở gần đó, đi bộ khoảng 10 phút. Vào mỗi sáng Thứ Bảy, đúng 7.30 sáng – ngoại trừ 3 tháng an cư – chư Tăng Ni đi bát ngang trước nhà, gia đình chúng tôi cùng một số bạn đạo đứng chờ, để cúng dường thực phẩm đến chư vị.

Năm 1995, ngài Ajahn Jagaro giải y, hoàn tục. Ngài Ajahn Brahm lên thay, giữ chức vụ trụ trì và lãnh đạo tinh thần (Spiritual Director) của Hội PG Tây Úc. Từ đó cho đến nay, sự phát triễn nhanh chóng và vững chắc của Hội PG, và Tăng đoàn tại Tây Úc, phần lớn là do công lao của Ajahn Brahm.

Năm 1998, Hội PG mua một thửa đất rừng rộng 600 acres (240 hectares), huyện Gidgeganup, 50 km đông bắc Perth, thành lập Ni viện Dhammasara (Tinh Pháp). Lúc ấy, với tư cách là Hội trưởng (nhiệm kỳ 1998-1999), tôi có phước duyên cùng Sư và các anh chị trong ban trị sự đi đấu giá mua thửa đất đó.

Năm 2005, Hội mua một thửa đất rừng khác ở huyện Serpentine, xế đối diện Tu viện Bodhinyana, thành lập Jahna Grove Meditation Retreat (Thiền trang Jhana Grove), các cơ sở được xây dựng và khánh thành năm 2009.

Ajhan Brahm không chủ trương cho xuất gia gieo duyên. Những ai muốn tìm hiểu và làm quen với đời sống tu sĩ, có thể xin vào ở trong tu viện, cạo tóc, mặc y trắng, giữ 8 giới căn bản, như một giới tử bạch y – thường là vài tháng, có khi vài năm. Nếu thấy thích hợp, tối thiểu sau 1 năm, có thể xin xuất gia, đắp y vàng, thọ giới sa-di tối thiểu 1 năm. Rồi xin thọ đại giới thành tỳ-khưu, và ở đó tu học tối thiểu 5 năm. Sau đó, có thể rời tu viện để đi tu học ở các nơi khác. Chúng tôi thường nói đùa là giống như chương trình đào tạo bác sĩ hay tiến sĩ, phải mất 7 năm trong đại học. Còn Ajahn Brahm thì nói đùa là tu viện của Sư là "xưởng sản xuất tu sĩ" (monk factory), phải bảo đảm sản phẩm có chất lượng cao để xuất đi nơi khác.

Các bài pháp hằng tuần của Ajahn Brahm – ngoại trừ 3 tháng an cư – có thể xem trong YouTube: https://www.youtube.com/user/BuddhistSocietyWA . Vào mỗi tối Thứ Sáu, 07.30pm (giờ Perth, Western Australia), Hội PG có trực tiếp truyền hình buổi giảng vào mạng Internet: http://www.dhammaloka.org.au/dhammaloka-live.html .

Một số sách, biên tập từ các bài thuyết giảng của Sư, được nhiều người thích đọc, và vài cuốn được dịch sang tiếng Việt: Opening the Door of Your Heart (Mở cửa trái tim); Mindfulness, Bliss, and Beyond (Từ chánh niệm đến giác ngộ); Basic Method of Meditation (Căn bản pháp hành thiền); Simply this Moment; The Art of Disappearing; Happiness through Meditation.

*

Có thể nói tôi là một trong những cư sĩ Phật tử tại Tây Úc có nhiều cơ hội gần gũi với ngài Ajahn Brahm trong 30 năm qua. Nhờ đó, tôi có phước duyên được học được rất nhiều từ Sư – từ pháp hành thiền đến pháp học về Kinh và Luật, từ lối sống cá nhân cho đến sự giao tiếp trong xã hội và phục vụ cộng đồng, từ cách phát triển lòng từ bi đến lối nhìn cuộc đời một cách hài hước, vui tươi, hòa đồng, không giáo điều, không chấp thủ, v.v. – không thể kể hết ra đây.

Nếu tính tuổi, tôi và Sư sinh ra cùng năm, nhưng tôi sinh trước khoảng gần một tháng. Năm nọ, nhân ngày sinh nhật lục tuần của Sư, vợ chồng tôi đến chúc mừng, và cúng dường bánh sinh nhật. Sư nhận bánh, cười và nói với mọi người: "Sư và Bình Anson cùng tuổi, nên sẽ cùng chia bánh nầy". Tôi nhanh miệng đáp ngay: "I am one month older, but you are one hundred years wiser!" (Tôi già hơn Sư một tháng, nhưng Sư có trí tuệ hơn tôi một trăm năm). Sư và mọi người đều cười vui, hoan hỷ.

* * *

1) Yêu là yêu những gì mà đôi khi bạn không thích

2) Yêu không chỉ là thích một ai đó. Điều này bất cứ ai cũng có thể làm. Yêu còn có nghĩa yêu cả những điều mà đôi khi bạn không hề thích.

13. Sư cô SAYALAY DIPANKARA (1964- )

Năm 1997, như mọi năm, vợ chồng tôi đến tham dự Lễ Dâng Y Kathina tại Tu viện Bodhinyana, Tây Úc. Trong dịp đó, chúng tôi gặp một chị bạn Phật tử người Miến Điện, và chị đi cùng với một vị tu nữ trẻ quấn y nâu. Chị giới thiệu với chúng tôi đây là Sayalay Dipankara, đệ tử ngài Pa Auk Sayadaw, chị vừa thỉnh mời từ Miến Điện sang viếng Perth và đang ở nhà chị trong 3 tháng. "Sayalay" là tiếng Miến, dùng để chỉ một vị nữ tu sĩ trẻ, trong bài viết nầy, tôi tạm dịch là "Sư cô" (Sc).

Không hiểu sao khi chấp tay xá chào Sc, hai vợ chồng tôi cảm thấy rất mến mộ Sc với tấm lòng hoan hỷ, trao đổi trò chuyện với Sc. Sau đó, Sc mời chúng tôi đến nhà chị Phật tử, nơi Sc đang ở. Ngày hôm sau, tôi bắt đầu đi làm việc. Vợ tôi còn nghỉ ở nhà, làm thức ăn, lái xe đến nhà chị ấy để cúng dường.

Trưa hôm đó, sau khi ăn trưa, tôi trở lại với rất nhiều việc bề bộn trong sở, nhận được điện thoại của vợ gọi đến. Cô ấy nói sau khi cúng dường thức ăn, rồi ăn trưa, và nói chuyện với Sc, cô ấy ngỏ ý muốn học thiền. Nhưng Sc nói muốn học thiền thì phải ở lại tại nhà đó, xuống tóc tu gieo duyên, ít nhất là một tháng, để Sc dạy mỗi ngày, không bận bịu chuyện gia đình thì mới có kết quả tốt. Không hiểu sao, vợ tôi hoan hỷ đồng ý, và chị chủ nhà cũng xin xuống tóc cùng tu gieo duyên. Nhưng Sc bảo phải được sự đồng ý của người chồng. Vợ tôi liền gọi điện thoại đến sở hỏi ý kiến tôi.

Lúc ấy, đầu óc tôi còn đang lo nghĩ công việc sở, nên tôi không suy nghĩ nhiều, đáp ngay: "Được, em muốn tu gieo duyên cũng tốt". Sau khi cúp máy và hoàn tất công việc, tôi suy nghĩ lại, bắt đầu cảm thấy lo lắng! Bà vợ đi tu, bỏ mình ở nhà, vừa đi làm, vừa lo cơm nước cho 2 đứa con nhỏ, vừa lo cho ba tôi nữa (lúc ấy, má tôi đã qua đời, chỉ còn ba). Làm sao kham cho nỗi?! Nhưng lỡ đồng ý cho vợ đi tu rồi, không thể đổi lời được.

Thế là trong suốt một tháng, tôi lâm vào cảnh "gà trống nuôi con". Sáng đưa các cháu đi học rồi đi làm. Trưa khi tan trường, các cháu tự động đi bộ về, vì nhà chỉ cách trường khoảng 500 mét. Sau khi tan sở, tôi ghé siêu thị mua thức ăn, đem về nhà nấu cơm để gia đình cùng ăn, và sửa soạn bánh mì để các cháu đem theo ăn ở trường trong ngày kế. Rồi dọn dẹp, lau rửa, làm các việc lặt vặt khác trong nhà.

Mỗi đêm, khoảng 9 giờ tối vợ tôi gọi điện thoại về. Lý do lúc đó là lúc trình pháp, và có nhiều điều khúc mắc vợ tôi nghe Sc giảng mà không hiểu. Mặc dù Sc giỏi tiếng Anh – Sc có bằng Cử nhân Anh văn trước khi xuất gia – nhưng lúc đó, Sc nói tiếng Anh giọng Miến rất khó nghe, lại hay dùng nhiều thuật ngữ Pali khó hiểu (bây giờ, sau nhiều năm hoằng pháp ở hải ngoại, giọng nói tiếng Anh của Sc dễ nghe hơn xưa rất nhiều). Nhưng có lẽ tôi có duyên với Sc, khi nghe Sc nói qua điện thoại là tôi hiểu ngay, rồi giảng lại cho vợ tôi hiểu.

Đó cũng là duyên lành, vì qua điện thoại, tôi được nhiều sự khích tấn và khuyên dạy của Sc. Nhờ đó, hằng đêm tôi hành thiền tại nhà rất tinh tấn và có nhiều kết quả tốt. Thêm vào đó, vì Sc am tường và giảng sát theo cuốn Thanh Tịnh Đạo, tạo cho tôi một động lực để đọc lại cuốn nầy cẩn thận và tinh tường hơn. Đi đâu tôi cũng mang theo bản dịch tiếng Anh của cuốn đó để nghiền ngẫm, đọc ở nhà lúc rãnh, mang theo vào sở đọc trong giờ nghỉ. Ngày cuối tuần, tôi làm thức ăn cùng ba tôi và các con đến thăm Sc và vợ. Sau giờ cơm, tôi nán ở lại để tham vấn, trình pháp với Sc, và để nhờ Sc giải đáp những thắc mắc khi đọc cuốn Thanh Tịnh Đạo.

Nhìn lại, đó là một phước duyên lớn cho vợ chồng tôi. Vợ tôi được cơ hội tu gieo duyên một tháng, tạo phước và thiện duyên cho tương lai. Tôi có cơ hội tìm hiểu thêm về cuốn Thanh Tịnh Đạo, được khích tấn hành thiền, được dạy về pháp niệm hơi thở, định tâm, phát triển định tướng (nimitta), thực nghiệm bản chất của thiền-na, kinh nghiệm tự thân về pháp hành trì Thiền An Chỉ qua cách dạy của một vị tu sĩ Miến Điện.

Hơn thế nữa, qua cảnh gà trống nuôi con trong một tháng, tôi mới hiểu, thương và kính trọng công lao của những người mẹ, người vợ vừa phải đi làm việc kiếm tiền, vừa phải quán xuyến chuyện gia đình, lo cơm nước cho chồng con.

*

Những năm sau nầy, tôi không có dịp gặp Sc nữa. Thỉnh thoảng vẫn đọc thông tin trên Internet về các hoạt động của Sc. Tôi rất hoan hỷ khi biết Sc được thỉnh mời đi dạy thiền nhiều nơi trên thế giới (Mỹ, Canada, Đức, Anh, Úc, Malaysia, Singapore, Indonesia, Đài Loan, Hongkong, Nhật). Các đệ tử cư sĩ của Sc có lập một trang web, lưu trữ thông tin về hoạt động của Sc: http://www.cakkavala.org/index.htm

14. BHIKKHU BODHI (1944- )

Tỳ-khưu Bodhi, người Mỹ, sinh năm 1944 tại Brooklyn, NewYork. Ngài có bằng cấp Cử nhân Triết học (1966, Đại học Brooklyn) và Tiến sĩ Triết học (Đại học Clarement). Ngài là một học giả Phật giáo uyên thâm nổi tiếng khắp thế giới qua các công trình dịch thuật và trước tác của ngài.

Vào lứa tuổi 20, ngài đã yêu thích tìm hiểu đạo Phật. Sau khi hoàn tất học vị Tiến sĩ Triết học tại Hoa Kỳ. Năm 1972, ngài du hành đến Sri Lanka và thọ giới Sa-di, và năm 1973 ngài thọ giới Tỳ-khưu với vị bổn sư là Hòa thượng Ananda Matreya, một vị học giả cao tăng thuộc hàng ngũ lãnh đạo Phật giáo Sri Lanka đương thời. Năm 1984, ngài được đề cử làm Chủ bút của Hội Xuất Bản Kinh Sách Phật Giáo (Buddhist Publication Society, BPS) của Sri Lanka, và năm 1988 là Chủ tịch của Hội này.

Tỳ-khưu Bodhi vừa là Chủ bút, tác giả và dịch giả của nhiều kinh sách Phật giáo, quan trọng nhất là Trung Bộ (Middle Length Discourses) đựơc dịch từ tiếng Pali sang tiếng Anh (đồng dịch giả với Tỳ-khưu Ñanamoli, 1995), Tương Ưng Bộ (Connected Discourses of the Buddha, 2000), Lời Phật Dạy (In the Buddha’s Words, 2005), Tăng Chi Bộ (Numerical Discourses of the Buddha, 2012), Thắng Pháp Tập Yếu (Comprehensive Manual of Abhidhamma, 2000).

Năm 2000, ngài đã đọc bài diễn văn quan trọng tại đại lễ Phật Đản (Vesak) chính thức đầu tiên do Liên Hiệp Quốc tổ chức. Ngài trở về Mỹ năm 2002. Hiện nay, ngài cư ngụ tại Tu viện Chuang Yen (Chùa Trang Nghiêm, Carmel, New York), giảng dạy Phật pháp tại đây và tại Tu viện Bodhi (Chùa Bồ Đề, Lafayette, New Jersey). Ngài cũng là Chủ tịch của Hội "Yin Shun (Ấn Thuận) Foundation", và là sáng lập viên tổ chức Phật giáo cứu trợ toàn cầu "Buddhist Global Relief".

 


Người dịch kinh Phật: Phỏng vấn Tỳ khưu Bodhi
"Translator for the Buddha: An Interview with Bhikkhu Bodhi"

Hỏi: Do duyên cớ gì Sư chú tâm vào việc dịch kinh?

– Tỳ khưu Bodhi: Khi mới xuất gia, tôi không có ý định trở thành một dịch giả. Vị thầy đầu tiên của tôi là một tu sĩ người Việt, và tôi ở với thầy tại California trong thập niên 1960. Thầy đã chỉ cho tôi thấy tầm quan trọng trong việc học các loại ngữ văn của kinh điển Phật giáo, bắt đầu là tiếng Pāli, như là một công cụ để thông hiểu Giáo Pháp. Khi tôi đến Sri Lanka và thọ giới tỳ khưu trong truyền thống Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda) vào năm 1972, tôi tích cực học tiếng Pāli để có thể trực tiếp đọc và hiểu được những bài kinh nguyên thủy của Đức Phật. Tôi quyết định theo học với Hòa thượng Balangoda Ananda Maitreya, vì lúc ấy ngài là một trong các vị học giả giỏi nhất ở Sri Lanka. Ngài cũng rất thông thạo tiếng Anh, và là một người rất hiền hòa và từ bi.

Vào năm 1974, tôi có dịp làm việc chung với vị sư người Đức, Hòa thượng Nyanaponika, chủ nhiệm và chủ bút của Hội Xuất bản Phật giáo (Buddhist Publication Society), thành phố Kandy. Trong thời gian đó, tôi sử dụng cuốn sổ tay của Hòa thượng, do ngài ghi chép từ thập niên 1950, để tăng cường sự hiểu biết về tiếng Pāli chú giải. Cuối năm 1975, tôi đến Kandy và sống với ngài Nyanaponika. Ngài xem qua vài bài dịch riêng của tôi và khuyên tôi nên dịch bài kinh Phạm Võng (Brahmajala Sutta, bài kinh đầu tiên trong Trường Bộ), cùng với những chú giải và phụ chú giải. Bản dịch đó được xuất bản trong tập sách Chú giải kinh Phạm Võng (The Discourse on the All-Embracing Net of View) vào năm 1978, đánh dấu khởi điểm cho “sự nghiệp” dịch thuật của tôi.

 

Hỏi: Sư có những nhận xét gì về vai trò của kinh điển đối với các người phương Tây theo học Phật Pháp? Và lý do gì đã thúc đẩy Sư phổ biến những bản dịch Anh ngữ đến với họ?

– Tỳ khưu Bodhi: Khoảng năm 1972, trước khi tôi rời Hoa Kỳ đi sang châu Á để thọ giới tỳ khưu, quan tâm về đạo Phật của giới trẻ Hoa Kỳ có khuynh hướng phản trí thức (anti-intellectual) – nghĩa là ít chú ý đến việc nghiên cứu kinh sách. Lúc đó, trong khi đa số những người Tây phương đi tu học tại các tự viện Phật giáo Nguyên thủy trong vùng rừng núi ở Thái Lan hoặc tại các trung tâm thiền tập ở Miến Điện; duyên nghiệp lại đưa đẩy tôi đến Sri Lanka, đến với những vị thầy có hiểu biết thâm sâu về kinh điển và sẵn sàng hết lòng dạy tôi.

Khi tôi bắt đầu tìm đọc các bài kinh bằng tiếng Pāli, tôi rất hồ hởi bởi tính chất rõ ràng, lý luận sâu sắc, vẻ đẹp tế nhị và tình cảm tinh tế, nằm ngay bên dưới bề mặt trầm lặng của chúng. Tôi bắt đầu phiên dịch những bài kinh và các đoạn chú giải với mục đích duy nhất là để giúp cho mình thông hiểu, chứ không có ý định xuất bản. Nhưng sau một thời gian, tôi nhận thấy rằng người học Phật phương Tây có một khoảng trống rất lớn: đó là thiếu một sự hiểu biết rõ ràng về những lời dạy của Đức Phật. Do đó, tôi nghĩ rằng, điều cực kỳ quan trọng là làm sao phiên dịch những bài kinh này ra một thứ ngôn ngữ hiện đại, trong sáng, kèm theo với những chú thích để trình bày những nghĩa lý thâm sâu và giá trị thực tiễn. Đó là sự nghiệp của tôi cho đến ngày hôm nay.

 

Hỏi: Sự uyên bác và công việc nghiên cứu kinh điển đã giúp ích được gì trong sự hành trì và phát triển tâm linh của Sư?

– Tỳ khưu Bodhi: Nhiều Phật tử phương Tây thường cho rằng hành trì đồng một nghĩa với thiền tập, và rồi họ tách biệt, phân chia giữa hai lãnh vực học hỏi và thực hành. Họ cho rằng, khi một vị tu sĩ chuyên tâm nghiên cứu Phật học, vị ấy không thể nào là một hành giả nghiêm túc; như thể công việc học Phật là đối chọi lại với công phu hành trì chân thật. Tôi phải công nhận rằng sự hành thiền của tôi cũng chưa hoàn toàn như ý mong muốn, nhưng đó là vì điều kiện sức khoẻ của tôi (đây là trở ngại do nghiệp quả mà tôi phải trực diện); chứ hoàn toàn không phải vì tôi chú tâm quá nhiều cho việc nghiên cứu và phiên dịch kinh điển.

Chúng ta nên nhớ rằng, ở các quốc gia Phật giáo tại châu Á, từ nhiều thế kỷ và hầu như trong mọi tông phái, công tác chính yếu của Tăng đoàn là gìn giữ và quảng bá Phật pháp, bằng cách nghiên cứu, học hỏi và truyền bá giáo lý và kinh điển. Công việc ấy đã dựng nên một nền móng vững chắc, từ đó, những thành đạt cao hơn trong việc tu tập được xây đắp; như thể bộ xương nâng đở bắp thịt và các cơ quan khác trong thân thể Phật pháp. Mặc dù trong mọi truyền thống đều có những tích truyện về những vị thiền giả tuy ít học mà vẫn đạt được những thực chứng thâm sâu, nhưng nổi bật nhất vẫn là những vị có thể phối hợp được cả hai pháp học và pháp hành. Ta cũng có thể nghi ngờ những câu chuyện tiểu sử các bậc hiền triết ít học, như là những phóng đại do tôn sùng quá đáng.

Mối tương quan giữa sự học Phật uyên bác và sự thực hành, theo tôi, là một vấn đề rất phức tạp, mà ta không thể nào tìm được một câu trả lời duy nhất có thể thích hợp cho tất cả mọi người. Mỗi người có một khuynh hướng tự nhiên thiên về một phía nào đó. Có một điều ta có thể nói dứt khoát rằng, kiến thức uyên bác mà không có áp dụng thực tế sẽ trở thành cằn cỗi, và hành thiền tinh tấn nhưng thiếu sự hướng dẫn để hiểu rõ các nguyên tắc sẽ trở thành vô hiệu quả. Tôi e rằng nếu không có hiểu biết sâu sắc về kinh điển, chỉ trong vòng vài thế hệ nữa, truyền thống tu tập của chúng ta sẽ bị pha loãng, lấn áp, và nuốt trọn bởi nền văn hóa vây quanh, nhất là khi nền văn hóa ấy có tính duy thần hay có khuynh hướng chuộng vật chất.

 

Hỏi: Xin Sư cho biết ý kiến về giá trị của việc học kinh điển trong sự tu tập của Phật tử Âu Mỹ ngày nay.

– Tỳ khưu Bodhi: Trước khi giải thích về giá trị của việc học kinh điển trong sự tu tập của mình, ta nên đặt câu hỏi: Thế nào là tu tập? Tu tập có nghĩa là gì? Nếu ta không nhấn mạnh về những câu hỏi này, ta có khuynh hướng mang những giả thuyết không được xem xét rõ ràng vào mục đích của sự tu tập. Từ đó, sự tu tập của ta sẽ dễ dàng trở nên tùy tiện cho những ý đồ riêng tư, hoặc là những thiên kiến văn hóa, thay vì là một phương tiện đưa đến mục tiêu giải thoát mà Đức Phật đã đề ra. Theo tôi thấy, đó là điều đang xảy ra cho Phật giáo phương Tây, và đó cũng giải thích được lý do vì sao Phật giáo Âu Mỹ đã thay đổi truyền thống, và có người xem rằng đó như thể đã thỏa hiệp với ngành tâm lý học hiện đại hay với chủ nghĩa nhân bản thế tục.

Học Phật pháp không phải là việc khuân vác một mớ văn hóa từ một xứ Ấn Độ cổ xưa đem về đổ xuống sau vườn nhà mình. Nó phải được xem xét, phân tích cẩn thận. Nếu thực hiện nghiêm túc, nghiên cứu Phật học là phương cách để ta học hỏi và hấp thu cơ cấu của Phật Pháp. Đây là cách để ta có được một sự thông hiểu tường tận về các nguyên lý nền tảng của giáo pháp. Quan trọng hơn nữa, đây là cách để ta nuôi dưỡng những hạt giống tuệ giác trong tâm mình.

Công việc đầu tiên ta cần làm khi đi theo con đường của Đức Phật là phải có Chánh Kiến, chi đầu tiên của Bát Chánh Đạo, đó là kim chỉ nam cho suốt hành trình tâm linh của ta. Chánh kiến được bắt đầu bằng "văn", gồm có đọc kinh điển, nghe và học hỏi từ những vị thầy có khả năng. Kế đến là "", nghĩa là suy tư, quán chiếu về thực chất của giáo lý, liên quan đến cuộc sống của chính mình. Khi quan kiến của ta được sáng tỏ và sâu sắc, niềm tin nơi Đức Phật trở nên kiên cố. Lúc đó, dựa trên chánh kiến và lòng tín thành này, công phu hành thiền của ta, "tu", sẽ tiến đến đúng mục tiêu.

Trí tuệ chân thật chỉ xuất hiện khi ta thẩm sát những gì thiện và những gì bất thiện, nghĩa là những gì đưa ta đến bình an hạnh phúc và đem an vui đến cho người khác, và những gì gây tai hại và đau khổ cho ta và cho người khác. Điều này phát nguồn từ việc học kinh điển nghiêm túc, và đó chỉ là một phần nhỏ những gì ta tìm được trong nguồn kinh điển. Ta cần phải thẩm tra những gì ta học được, suy tư và hấp thu vào nội tâm, và xuyên suốt qua tuệ quán.

 

Hỏi: Bằng cách nào chúng ta có thể kết hợp việc nghiên cứu các bài kinh với sự tu tập của mình?

– Tỳ khưu Bodhi: Trước hết, ta cần phải biết bắt đầu từ đâu. Cho người mới bắt đầu học kinh, tôi đề nghị tìm đọc tập sách trích lục kinh điển của Hòa thượng Nyanatiloka, "Phật ngôn" (The Word of the Buddha). Hoặc tìm đọc theo hệ thống các bài kinh căn bản trình bày tại trang web "Truy cập Tuệ quán" (Access to Insight, www.accesstoinsight.org); và tôi cũng đề nghị đọc bài "Làm bạn với kinh điển” ("Befriending the Suttas") của ông John Bullitt, chủ biên trang web. Kế đến, bạn có thể đọc cuốn “Những Lời Dạy của Đức Phật” (In the Buddha’s Words), do tôi trích lục từ kinh tạng. Sau đó, cho những ai muốn đọc đầy đủ hơn, tôi đề nghị tìm đọc Trung Bộ (Majjhima Nikāya). Trang web của Tu viện Bodhi (Bodhi Monastery, www.bodhimonastery.net) có lưu trữ các bài giảng kinh Trung Bộ của tôi, thu âm trong suốt ba năm thuyết giảng, có thể tải xuống để nghe. Như thế, sẽ giúp người nào muốn tìm hiểu nghiêm túc chi tiết các kinh văn này.

Phương pháp học tập: Tôi đề nghị là trong lần đầu, ta gắng đọc lướt qua toàn bài kinh để làm quen với mạch văn. Sau đó, đọc lại lần thứ nhì cẩn thận hơn và ghi chú các chi tiết. Khi đã quen với nhiều bài kinh, liệt kê một số các đề tài có vẻ vượt trội và các chủ đề trùng lặp, và dùng chúng như là các đề mục cho việc học kinh trong tương lai. Khi ta tiếp tục đọc kinh, nên lấy ghi chú và sắp xếp chúng theo từng chủ đề, tạo thêm chủ đề mới nếu cần thiết; nhưng luôn luôn ghi rõ xuất xứ các đoạn kinh. Dần dần – sau một năm hay vài năm – ta sẽ có được một cái nhìn tổng thể về Phật Pháp; cuối cùng, ta sẽ thấy các bài pháp ấy kết hợp với nhau thành một khối đồng nhất, như thể các mảnh hình nhỏ được kết nối lại trong trò chơi ráp hình.

Tôi cũng muốn nhấn mạnh ở đây là các bản kinh Pāli bắt nguồn từ thời kỳ cổ xưa nhất của lịch sử kinh văn Phật giáo và vì thế, là một di sản chung cho mọi truyền thống Phật giáo. Vì vậy, học tập các bản kinh này không phải là công việc dành riêng cho Phật tử Nam tông hay những hành giả thiền Minh sát; đó là công việc, và cũng là nhiệm vụ, của mọi Phật tử thuộc tất cả các tông phái, nếu họ thật tâm muốn thông hiểu cội rể của Đạo Phật.

 

Hỏi: Có những cạm bẫy hay nguy cơ nào trong việc sử dụng kinh điển không?

– Tỳ khưu Bodhi: Có một điều nguy hiểm trong việc sử dụng kinh điển đã được Đức Phật chỉ ra rất rõ ràng trong bài kinh Xà dụ (kinh "Người bắt rắn", Trung Bộ, 22). Đức Phật nói về những người học kinh điển, thay vì đem ra thực hành các lời giảng dạy, lại sử dụng những kiến thức ấy để phê phán kẻ khác, hoặc để khoe tài năng của mình khi tranh luận với kẻ khác. Đức Phật ví dụ họ như người bắt rắn nhưng nắm ở đằng đuôi, họ sẽ bị con rắn quay đầu lại cắn, gây đau đớn trầm trọng hoặc mất mạng. Tôi thấy nhiều Phật tử Tây phương đã rơi vào cạm bẫy này, nhiều lúc có cả chính tôi. Mặc dù ta bắt đầu với ý định tốt nhất, nhưng ta lại nắm bắt Phật Pháp bằng thái độ giáo điều cố chấp, dùng học thức của mình để tranh cãi với kẻ khác, và rồi, dính mắc vào "trận chiến diễn dịch" với những ai có sự giải thích kinh văn khác với mình.

Một nguy hiểm khác là ta buông bỏ khả năng suy xét của mình và hoàn toàn tin vào bất cứ những gì ghi lại trong kinh. Thật ra, cũng có những điều trong kinh không còn đúng và thích hợp nữa, qua kiến thức khoa học hiện đại. Ta không thể phê bình những người tin theo thuyết sáng tạo của Ky-tô giáo để rồi mình cũng bị chấp dính vào những thái độ tương tự.

 

Hỏi: Có những đoạn kinh nào mà Sư ưa thích nhất?

– Tỳ khưu Bodhi: Khi tôi mới bắt đầu đọc kinh điển Phật giáo, lúc còn học đại học, tôi cảm thấy rất hứng khởi với những lời dạy của Đức Phật về lý nhân duyên, ngũ uẩn, vô ngã, v.v., vì chúng đưa ta thẳng vào trọng tâm của Pháp. Nhưng một trong những bài kinh gây ấn tượng nhất cho tôi lại không phải là những bài kinh giảng thâm sâu về hành thiền hoặc về thực chứng giải thoát. Khi đọc những bài kinh giảng về lý duyên khởi và vô ngã, tôi nghĩ: Đức Phật quả là một bậc giác ngộ, nhưng có lẽ cũng chưa toàn vẹn lắm. Nhưng khi tôi đọc đến bài kinh Giáo thọ Thi-ca-la-việt (Sigalovāda Sutta, Trường Bộ, 31), những nghi ngờ của tôi hoàn toàn tan biến. Khi tôi đọc bài kinh này, đặc biệt là đoạn kinh giảng về “cách lễ lạy sáu phương", tôi nhận thấy rằng mặc dù đã thấu đạt những chân lý sâu xa nhất về sự hiện hữu, Đức Phật vẫn có thể giảng dạy rất chi tiết cho bậc cha mẹ về cách dạy con cái, cho vợ chồng về cách thương yêu tương kính, cho người chủ về cách chăm sóc người làm của mình, v.v.; khi ấy, tôi chợt hiểu rằng, vị Thầy này quả là một bậc giác ngộ hoàn toàn. Trong tâm tôi, bài kinh này chứng minh rằng, Đức Phật không những đã đạt được một “trí tuệ siêu thế" cao quý nhất, mà Ngài còn có cả " trí tuệ hiện thế" với lòng từ bi bao trùm khắp thế gian, mang sự hiểu biết của mình hòa nhập với trình độ của thế tục, để dạy dỗ và hướng dẫn mọi người bằng những phương cách phù hợp với căn cơ của họ.

Một trong những đặc điểm của kinh điển mà tôi có ấn tượng nhất, ngay từ khi bắt đầu học kinh và mãi cho đến bây giờ, là các ví dụ so sánh. Dường như Đức Phật có thể đem bất cứ một hiện tượng thiên nhiên nào, hay là bất cứ một việc gì trong đời sống hằng ngày, biến thành một ví dụ sâu sắc để làm sáng tỏ một điểm quan trọng nào đó trong bài giảng. Mặt trời, trăng sao, hoa lá, cỏ cây, sông núi, biển hồ; bốn mùa thay đổi; sư tử, khỉ, voi, ngựa; vua, quan và chiến sĩ; nghệ nhân, y sĩ và đạo tặc – danh sách về những đề tài ví dụ của Đức Phật hầu như nhiều vô tận. Đôi khi chúng ta đọc một loạt những bài kinh có vẻ rất khô khan, rồi đột nhiên ta gặp một ví dụ rất tươi mới và sáng rõ, và hình ảnh ấy không bao giờ phai nhạt trong tâm ta, ngay cả sau nhiều thập niên.

 

Hỏi: Khi dịch kinh điển, Sư gặp những khó khăn đặc biệt nào?

– Tỳ khưu Bodhi: Tôi nghĩ rằng bất cứ ngôn ngữ nào cũng có một cấu trúc nhận thức cơ bản của mỗi nền văn hóa, chứa đựng những ẩn dụ để tạo dựng từ ngữ, và bao gồm các ý nghĩa phụ thuộc và sắc thái riêng của từ ngữ. Vi thế, khi chuyển dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, lúc nào ta cũng gặp vấn đề không hòa hợp giữa hai cấu trúc nhận thức đó. Điều này dẫn đến các xung đột mà thông thường chỉ giải quyết được bằng cách hy sinh những liên hệ quan trọng về khái niệm trong ngữ văn gốc để chuyển dịch sao cho suông sẻ và dễ hiểu. Vấn đề này trở nên trầm trọng hơn khi ta phải chuyển dịch từ một cổ ngữ, với những ẩn dụ cổ xưa, sang ngôn ngữ hiện đại với một nền văn hóa rất khác biệt.

Ta có thể thấy vấn đề này ngay ở những từ Pāli đơn giản. Thí dụ như từ "samādhi" (định), tiếng Anh dịch là: concentration - tập trung; composure - an tĩnh; collectedness - tự chủ, mental unification - hợp nhất tâm, v.v. nhưng các từ này không chuyển tải được ý nghĩa của samādhi để chỉ một trạng thái luyện tâm đặc biệt, hay một hệ thống các trạng thái luyện tâm, trong hệ thống huân tập tâm ý của đạo Phật (và trong các đạo giáo Ấn Độ).

Ngay cả từ "sati" (niệm), tiếng Anh thường dịch là "mindfulness", cũng không phải là không có vấn đề. Từ này phát nguồn từ động từ "sarati", nghĩa là "ghi nhớ", và đôi khi trong ngữ văn Pāli, sati vẫn được hiểu như có liên quan đến ý nghĩa về sự ghi nhớ. Nhưng khi từ ngữ đó được dùng trong các pháp hành thiền, chúng ta không có chữ tiếng Anh nào để dịch cho chính xác. Một dịch giả nào đó đã tạo ra chữ "mindfulness", lúc đó chưa xuất hiện trong cuốn tự điển của tôi. Chữ dịch này cũng khá hay, nhưng tự nó không bảo tồn được ý nghĩa về sự ghi nhớ, đôi khi rất cần thiết để thông hiểu một đoạn kinh.

Từ "satipatthāna" thường được dịch là "foundation of mindfulness" (niệm xứ, nền tảng của niệm), nghe có vẻ thanh lịch; nhưng nếu ta hiểu Pāli, ta có thể nghi ngờ, hợp từ ấy không bắt nguồn từ sati + patthāna (từ đó, dịch là niệm xứ), mà là sati + upatthāna, nghĩa là "establishment of mindfulness" (sự thiết lập niệm). Rồi, nếu ta hiểu kinh văn gốc, ta sẽ thấy có rất nhiều câu, trong đó, sati được dùng với những từ có liên hệ đến upatthāna, như upatthitassati (người có niệm được thiết lập), mà không có câu nào kết hợp sati với các từ có liên hệ đến patthāna. Điều này xác minh cho việc chúng ta nên dịch satipatthāna"sự thiết lập niệm - establishment of mindfulness", hơn là dịch "nền tảng của niệm, niệm xứ". Cho dù từ "niệm xứ - foundation of mindfulness" nghe có vẻ thanh lịch, điểm quan trọng ở đây là tiến trình nội tâm để thiết lập chánh niệm, chứ không phải là về đối tượng của quán niệm.

 

Hỏi: Khi Sư thấy truyền thống Phật giáo Nguyên thủy đang được các vị giáo thọ Tây phương biến đổi để thích nghi trong thời đại mới, những điều nào Sư nghĩ là có ích lợi và những điều nào không có ích lợi?

– Tỳ khưu Bodhi: Tôi rất ngần ngại khi phê bình về việc làm của các vị thầy khác, nhưng tôi chỉ xin đề cập đến một vấn đề quan trọng đang xảy ra trong việc giảng dạy thiền quán Vipassana, mà có thể ta không chú ý đến. Tôi có cảm tưởng rằng mục đích của thiền quán niệm, đang được dạy ở Tây phương, đã bị biến đổi rất nhiều, khác xa chức năng truyền thống của nó. Có lẽ là vì đa số các vị giáo thọ Âu Mỹ giảng dạy ra ngoài khuôn khổ của giáo lý Phật giáo cổ điển. Ngày nay, dường như pháp thiền quán niệm được dạy như là một cách thức để làm tăng trưởng kinh nghiệm của ta trong giây phút hiện tại. Mục đích của pháp hành là để giúp ta chấp nhận tất cả những gì xảy đến cho mình mà không phân biệt. Qua sự nâng cao chánh niệm trong giây phút hiện tại, ta học cách chấp nhận mọi việc như tự bản chất chúng là tốt đẹp, nhìn thấy mọi vấn đề như đáng để học hỏi, thể nghiệm mọi sự như đáng ân thưởng. Vì vậy mà ta chỉ cần an trú trong hiện tại, sẵn sàng tiếp nhận bất cứ việc gì xảy ra, hoàn toàn cởi mở đón nhận dòng chảy của các sự kiện luôn tươi mới và luôn bất định.

Ở một cấp độ nào đó, đường lối giảng dạy ấy cho ta nhiều bài học giá trị. Đương nhiên, chấp nhận bất cứ những gì xảy đến cho ta bao giờ cũng tốt hơn là sống mà cứ náo nức đeo đuổi lạc thú và sợ sệt trốn tránh khổ đau. Càng khôn ngoan hơn nếu ta thấy được các bài học tích cực trong những nỗi đau, mất mát và đổi thay, thay vì than van, trách móc cho số phận. Thế nhưng, theo quan kiến của tôi, nếu chỉ trình bày những điều này như là điểm chính của lời Phật dạy, thì đó là một sự suy diễn sai lầm về Pháp. Lời dạy của Đức Phật, ghi lại trong các bài kinh, có những luận cứ khác biệt. Mục đích tối hậu của Giáo pháp không phải là để chấp nhận cuộc đời, nhưng là để giúp ta vượt qua giới hạn của kinh nghiệm hữu vi, để thăng hoa cuộc đời, đạt đến trạng thái không có già, không có chết, nghĩa là chấm dứt mọi khổ đau. Nếu ta chỉ đơn giản duy trì nhận thức trong hiện tại để có một sự chấp nhận không ràng buộc về hiện tại, nó có thể gián tiếp đưa ta đến sự thỏa hiệp với cõi Ta-bà luân hồi (samsara), nghĩa là sẽ lại dính mắc vào Ta-bà, chứ không giải thoát khỏi nó.

Trong giáo pháp truyền thống, qua chú tâm tỉnh giác trong hiện tại, ta tập trung quán sát tiến trình sinh và diệt của mọi hiện tượng để phát triển tuệ giác về đặc tính vô thường của chúng. Nhưng nếu chúng ta dừng lại ở tính vô thường của mọi vật, thì đó không phải là cách để ta chấm dứt khổ đau. Tuệ giác về vô thường (anicca), phải là cửa ngõ đưa đến tuệ giác về khổ (dukkha), đặc tính bất chu toàn của mọi pháp hữu vi, và về tính vô ngã (anatta) của mọi pháp. Với tuệ giác về ba đặc tính này, ta nhàm chán về mọi pháp hữu vi. Do nhàm chán, xả ly phát sinh. Do xả ly, giải thoát phát sinh, đưa đến thực chứng Niết-bàn tại đây và ngay bây giờ.

Cốt lõi của Phật pháp không phải chỉ là luận thuyết cho rằng tháo gỡ được sự dính mắc sẽ giúp ta sống một cuộc đời không có lo sợ và đau buồn. Thật ra, luận thuyết đó chỉ là một phần về sự liên hệ của hai Diệu Đế đầu – Khổ Đế và Tập Đế, nhưng chưa đủ sâu sắc. Phân tích thâm sâu hơn về Tứ Diệu Đế là phải thấy rõ rằng dính mắc của năm uẩn là ý nghĩa chính của Khổ Đế; phải thấy rõ rằng hoạn khổ bắt nguồn từ sự thèm khát khoái lạc của các giác quan và sự thèm khát vào một sự hiện hữu tiếp nối; và phải thấy rõ rằng hoạn khổ – đau khổ của dính mắc vào vòng sinh tử luân hồi – chỉ chấm dứt khi nào sự thèm khát hoàn toàn tàn diệt. Nếu không thấy được như thế, giảng dạy về Tứ Diệu Đế, trọng tâm của Phật Pháp, sẽ không đầy đủ.

Dĩ nhiên, mỗi vị giáo thọ phải tự quyết định lúc nào là thích hợp để trình bày đầy đủ giáo thuyết ấy. Đức Phật ngày xưa, chỉ giảng dạy Tứ Diệu Đế khi nào Ngài biết thính chúng có khả năng để lĩnh hội. Nhưng nếu ta muốn Phật Pháp được hưng thịnh, ít ra, ta phải chấp nhận ý nghĩa chân chính của các lời dạy trên; cho dù chúng ta quyết định rằng bây giờ cần phải chuẩn bị trước với những phương cách khác, thích nghi hơn, của con đường đưa đến giải thoát.

 

Hỏi: Chúng tôi rất ngạc nhiên khi thấy trong kinh điển, Đức Phật không bao giờ đề nghị người nào đi theo con đường Bồ-tát của Ngài để đắc quả vị Phật, nhưng Ngài chỉ dạy về đạo quả A-la-hán như là mục đích chính. Theo Sư, tại sao như thế?

– Tỳ khưu Bodhi: Đây là câu hỏi mà tôi đã từng suy tư rất nhiều, nhưng vẫn chưa tìm được câu trả lời tối hậu. Có nhiều ý tưởng về quả vị Phật tìm thấy trong kinh điển nguyên thủy hướng đến giáo thuyết ban sơ về con đường Bồ-tát trong thời Đức Phật còn tại thế. Trong thời đó, có lẽ cũng có những người hứng khởi về tấm gương của Ngài như là một Bậc Giải thoát Từ bi, và họ, thay vì nhắm đến quả vị A-la-hán, ước nguyện đắc quả vị Chánh Đẳng Giác trong một tương lai nào đó. Cũng có thể họ có đến gặp Đức Phật để xin Ngài hướng dẫn để đạt mục tiêu ấy, và Ngài đã giảng dạy cho họ.

Tuy nhiên, trong trường hợp đó, sẽ phát sinh câu hỏi sau đây: -“Tại sao trong các bài kinh, chúng ta không tìm thấy các lời giảng rõ ràng về con đường tiến đến quả vị Phật? Tại sao các lời giảng ấy chỉ được ghi trong kinh văn hậu tác như là Chuyện Tiền thân (Jatakas), Sử tích (Apadānas), và các bộ kinh Đại thừa phát triển về sau?”

Tôi không có câu trả lời chính xác về câu hỏi khó khăn nhưng thích thú này, nhưng tôi có thể tạm thời đưa ra hai giả thuyết trái ngược, mặc dù tôi cũng chưa vừa lòng với giả thuyết nào. Đó là: (i) Trong thời kỳ nguyên khai, Đức Phật chỉ được xem như là vị A-la-hán đầu tiên, vượt trội hơn các vị A-la-hán khác về tài năng giảng dạy và uy tín cá nhân của Ngài. Phản biện: Nếu như thế, giả thuyết này ngầm hiểu rằng hầu như tất cả những gì ghi lại trong các bài kinh về các uy lực của Đức Phật, các tuệ giác cao quý và phẩm hạnh cao thượng của Ngài đều được ghi thêm vào sau này, như thế là gián tiếp làm suy giảm giá trị khả tín của các bài kinh. (ii) Các kỳ Kết tập Kinh điển đầu tiên là do các vị tu sĩ có khuynh hướng đi theo con đường A-la-hán tổ chức trùng tuyên; vì thế, các vị ấy đã gạt bỏ những đoạn kinh không liên quan đến con đường của mình, kể cả các bài kinh về con đường Bồ-tát. Phản biện: Giả thuyết nầy không có cơ sở, vì trong kinh tạng nguyên thủy lưu truyền đến ngày nay, có bao gồm nhiều bài giảng của Đức Phật cho hàng cư sĩ tại gia, các bà nội trợ cũng như các vua quan, để chu toàn nhiệm vụ thường ngày của họ, mà không liên quan gì đến sự hành trì của hàng tu sĩ; và như thế, nếu có các bài giảng khác cho những ai ước nguyện theo con đường Bồ-tát thì ắt hẳn chúng cũng được trùng tuyên.

Cho nên, hai giả thuyết trên đều không đứng vững. Câu trả lời dễ nhất mà tôi nghĩ ra – mặc dù không phải là lời giải đáp mà tôi hoàn toàn ưng ý – qua đức hạnh của Ngài, Đức Phật là một tấm gương cho những người muốn theo đường Bồ-tát, nhưng bởi vì giáo pháp tối hậu của Ngài là đưa đến giải thoát, Ngài không thể dạy những khái niệm tranh đua nhau để tiến đến mục tiêu cuối cùng. Ở đây, lời giảng của Ngài là phải đề cao những vị đã thực chứng được mục tiêu tối hậu, đó là các vị A-la-hán, và mô tả con đường đưa đến quả vị đó. Dù trong bất cứ trường hợp nào, con đường A-la-hán như đã mô tả trong kinh tạng nguyên thủy vẫn là nền tảng cho con đường Bồ-tát phát triển về sau trong thời kỳ Phật giáo Bộ phái và Phật giáo Đại thừa; cho nên, con đường sau không thể có được nếu không có con đường trước.

 

Hỏi: Vài người nhận định rằng các bản chú giải, nhất là các chú giải của Luận sư Phật Âm (Buddhaghosa), trình bày một quan kiến khác với các bài kinh – như là một sự diễn dịch hạn hẹp hơn về sự hành trì Pháp. Sư nghĩ thế nào về sự thông hiểu căn bản về pháp nghĩa của các bài kinh, so với các giải thích trong chú giải? Chúng giống nhau hay khác nhau như thế nào?

– Tỳ khưu Bodhi: Sự liên hệ giữa các bản kinh và các bản chú giải cực kỳ phức tạp và đây là một điều nguy hiểm nếu ta có những phê phán tổng quát cho sự liên hệ đó. Các chú giải thật ra không phải là các tác phẩm nguyên gốc của ngài Phật Âm, mà là các phiên bản biên tập của các chú giải cổ xưa đã được gìn giữ ở Sri Lanka. Nguồn gốc lịch sử của chúng không rõ ràng, nhưng chắc là bắt nguồn từ chính các bản kinh; nghĩa là có những bản kinh mang ý nghĩa chú giải cho các bản kinh khác (thí dụ: Trung Bộ 141, Tương Ưng 12:31; Tương Ưng 22:3,4). Trong thời kỳ ban đầu của sự truyền khẩu, các vị trưởng lão Phật giáo ắt hẳn có triển khai một tập hợp chú giải đi kèm với bản văn gốc, và ắt hẳn các chú giải này đã tích tụ qua nhiều thế hệ, như thể trái banh tuyết lăn tròn và lớn rộng ra với nhiều lớp tuyết dính vào.

Các cổ bản chú giải Sri Lanka – không còn hiện hữu – mà ngài Phật Âm dựa vào đó để biên soạn, có lẽ là một kho tàng các tư liệu tích lũy qua nhiều thế kỷ, và có lẽ bắt nguồn từ các vị đại đệ tử của Đức Phật. Ngay cả trong các bản chú giải mà chúng ta thừa hưởng hôm nay, có những tầng lớp dường như đã hiện hữu trước cả thời kỳ phân chia Tăng đoàn thành các bộ phái, vì chúng có những tư liệu dùng chung cho các bản luận giải của nhiều tông phái khác nhau. Những tư liệu mới hơn thì bắt nguồn các vị thầy tổ của tông phái Theravāda (Trưởng lão bộ) sau khi tông phái nầy thành hình, và vì thế, phản ánh những phương cách diễn dịch riêng biệt. Ngoài ra, còn có một khuynh hướng trao đổi tư liệu diễn giải giữa các tông phái; tuy nhiên, nhờ tính bảo thủ, các vị tu sĩ Theravāda đã nghiêm ngặt tách rời các tư liệu mới nầy ra khỏi phần kinh văn ghi lời Đức Phật giảng.

Để hiểu tác động của các chú giải ở cấp độ giáo thuyết, chúng ta nên nhớ rằng các bài kinh thật ra không phải chỉ là kinh văn của tông phái Theravāda. Đây là sự truyền tải của các tu sĩ Theravāda về một hạng kinh điển chung cho các tông phái Phật giáo trong thời kỳ nguyên khai, mỗi tông phái ắt hẳn có phương cách diễn dịch riêng. Những bản chú giải mà chúng ta có được từ Luận sư Phật Âm (và nhiều vị khác) tiếp tục nhiệm vụ diễn giải các kinh điển này qua quan kiến của tông phái Theravāda. Vì thế, quan kiến của các vị ấy dĩ nhiên là phải hạn hẹp hơn là các kinh văn vì cần phải có tính đặc thù: họ nhìn thế giới tâm ý của các bản kinh qua lăng kính của các phương pháp bình luận thánh thư do các vị thầy tổ Theravāda triển khai, dùng những phương pháp nầy để giải thích chi tiết về các bài giảng của Đức Phật.

Nếu ta so sánh ví dụ các bản kinh như là một vùng lãnh thổ đất đai rộng lớn, quan sát từ trên cao để thấy các điểm chính của địa hình nhưng chi tiết lại rất sơ sài; lúc đó, các chú giải có thể ví như một báo cáo chi tiết về phương hướng, vị trí của lãnh thổ đó. Câu hỏi ở đây là: Các chú giải này chỉ đi đến để mô tả phong cảnh với nhiều chi tiết, hay chúng mang theo các toán thợ xây dựng và các dự án xây nhà, xây thương xá và xa lộ trên vùng đất hoang sơ? Câu trả lời, theo tôi, là kết hợp cả hai.

Tóm lại, có hai thái độ cực đoan khi chúng ta đánh giá các chú giải. Một cực đoan, thường được các nhà Theravāda chính thống chấp nhận, là xem chúng có giá trị hầu như ngang hàng với các bản kinh. Một cực đoan khác là hoàn toàn gạt bỏ chúng, và cho rằng chúng đại diện cho sự diễn dịch khác với Pháp. Tôi nghĩ rằng thái độ cẩn thận trung dung là chúng ta tham khảo các bản chú giải và sử dụng chúng, nhưng không chấp dính vào chúng. Các diễn giải thường giúp làm sáng tỏ kinh văn, nhưng ta cũng nên ghi nhận rằng chúng chỉ đại diện cho một sự hệ thống hóa đặc thù của các bài kinh giảng nguyên sơ. Đôi khi, các bài kinh nầy không cần có thêm các chú giải, và có vài điểm, các chú giải có vẻ không tương thích với bài kinh giảng.

 

Hỏi: Rất nhiều bài kinh khi kết thúc có ghi rằng những người khi nghe các lời dạy của Đức Phật, thông hiểu, rất hoan hỷ, và đôi khi được giác ngộ chỉ nhờ nghe và hiểu. Điều này quả thật rất kỳ lạ, rất khó suy ngẫm!

– Tỳ khưu Bodhi: Chính các bản kinh cũng không giải thích rõ, chỉ nói rằng trong khi Đức Phật giảng dạy, tâm của người nghe trở nên "sẵn sàng, tiếp nhận, không còn những chướng ngại, hoan hỷ và tự tin." Nhưng thông thường, kinh cũng ghi rằng, Đức Phật giảng bài kinh đặc biệt cho một người hay một nhóm người nào đó trong thính chúng, cho nên có thể Đức Phật đã biết trước người ấy hay nhóm người ấy có khả năng thấu đạt chân lý. Theo tôi, sự nhanh nhẹn thấu đạt Chân Pháp của họ là do ba yếu tố.

Thứ nhất, họ đã tích lũy được đầy đủ các hạnh ba-la-mật (paramis), hay các phẩm hạnh cao quý, trong nhiều kiếp trước. Tôi tin hoàn toàn vào nguyên lý tái sinh, và tôi tin rằng sự giác ngộ là kết quả của công phu tu tập qua nhiều kiếp sống, kiện toàn những phẩm hạnh như bố thí, trì giới, nhẫn nại, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, từ bi, xả ly, cương quyết, v.v. Vì thế, mặc dù những vị này có thể chưa hành trì Chánh Pháp trong đời này trước khi họ gặp Đức Phật, nhưng họ đã chu toàn các hạnh ba-la-mật với nhiều vị Phật trong quá khứ.

Thứ hai là một sự khát khao sâu xa trong tiềm thức, mong đạt được sự thanh tịnh và thấu đạt chân lý. Sự khát khao này có thể không hiển lộ trên bề mặt của tâm – có thể họ đang sống như các thương gia bận rộn, các bà nội trợ khiêm tốn, những người đầy tớ bình dị – nhưng vào những giây phút tĩnh lặng, một sự thúc đẩy nào đó hướng về chân lý, về sự toàn thiện và hoàn mỹ tinh thần đã choáng ngợp tâm các vị ấy, tạo nên một cảm giác bất an sâu đậm trong lòng, một nỗi bức rức chỉ được dập tắt khi họ gặp Đức Phật và nghe Ngài giảng dạy.

Thứ ba, trong vài trường hợp, có thể các vị ấy đã trực diện với một khổ đau khắc nghiệt, thô tháo hay vi tế, và khổ đau ấy đã xé toang được tấm màn vô minh trước mắt và thúc đẩy họ đi tìm một con đường giải thoát tối hậu.

Khi hai hoặc ba yếu tố này được trọn vẹn, các vị ấy như những đóa hoa sen trên mặt hồ, chờ mặt trời mọc để bừng nở. Sự xuất hiện của Đức Phật là mặt trời mọc lên, và Giáo Pháp của Ngài là những tia nắng sáng chói khai mở các đóa hoa sen trong tâm thức để tiếp nhận chân lý tối hậu.

Bình Anson dịch
(Perth, Australia, tháng 7-2006)


LẦN ĐẦU TIÊN TÔI GẶP MỘT NHÀ SƯ
(My First Encounter with a Buddhist Monk)
Bhikkhu Bodhi
Đào Viên dịch
(Bình Anson hiệu đính, 16-10-2014)


*

Trong tuần lễ đầu tiên của tháng 8, năm 1965, sau khi học xong khóa hè, tôi chuẩn bị sẽ đi California từ New York bằng xe hơi. Ngày ấy tôi mới 20 tuổi và sang tháng 9 tôi sẽ vào học Đại học Brooklyn. Tôi muốn đến thăm một người bạn. Anh ấy đang ở San Francisco mùa hè ấy. Tôi đã thu xếp để cùng đi với mấy người bạn học. Chúng tôi khởi hành từ một quán ăn nhỏ gần Đại học Brooklyn vào buổi sáng thứ Hai, và sau khi lái xe cả ngày trên đường, chúng tôi dừng lại ở Madison, Wisconsin, để ngủ đêm nhờ nhà một người bạn đồng hành.

Đấy là lần đầu tiên tôi được đi qua phía Tây của dãy núi Pocono, điều đó làm tôi rất thích thú. Sau một đêm ngủ khỏe, sáng hôm sau, tôi quyết định đi bộ một lúc. Đó là một buổi sáng nắng ấm. Tôi thả bước qua những phố vắng đến một cái hồ lớn rất đẹp nằm cạnh Đại học Wisconsin. Đi theo đường đất vào phía trong, tôi tiến vào khuôn viên của trường Đại học. Khi tôi đang đi vào trung tâm khuôn viên thì một sự việc rất đáng ngạc nhiên đã xảy ra. Ở tầm mắt bên phải của tôi, cánh cửa của một tòa nhà bằng đá bỗng nhiên mở ra, một người đàn ông trung niên, nét mặt miền Đông Á, mặc áo dài rộng màu vàng, bước ra. Theo ngay sau là một người Mỹ cao lớn, bước theo bắt kịp người đàn ông đó, và hai người sánh vai vừa đi vừa nói chuyện.

Ngay lập tức, tôi biết là tôi đang thấy một vị tu sĩ Phật giáo. Tôi chưa bao giờ gặp một tu sĩ Phật giáo nào, và lúc ấy ở Mỹ, số tu sĩ Phật giáo sư thực sự có thể đếm trên đầu ngón tay. Mấy tháng trước, tôi đã bắt đầu đọc sách về đạo Phật, và qua cuốn “Siddhartha” của Hermann Hesse, tôi đã biết là các nhà sư đều mặc áo mầu vàng nghệ. Do đó, tôi nhận ra ngay người tôi trông thấy là một tỳ-khưu. Tôi cảm thấy rất ngạc nhiên và khích động khi thấy vẻ bình thản và tự tại của con người ấy, đang toát ra một sự thư thái, sự mãn nguyện của nội tâm, cùng vẻ trang nghiêm mà tôi chưa từng thấy ở một người Tây phương nào. Người Mỹ đi bên cạnh, dường như một là vị giáo sư, có vẻ như rất kính trọng và nể nang người đó. Điều đó khiến tôi nghĩ rằng ông ấy không phải là một nhà sư bình thường, mà là một người có một vị thế cao. Chỉ nhìn ông ấy đi qua, tôi cảm thấy hoan hỷ và hạnh phúc. Tôi nghĩ rằng cảm giác của tôi lúc ấy cũng tương tự như cảm giác của một thanh niên bà-la-môn xứ Ấn Độ cổ xưa, khi anh ta ngước lên và lần đầu tiên nhìn thấy, bước trên một lối đi gần đó, một vị đệ tử của nhà tu khổ hạnh Gotama, người được mọi người gọi là ”bậc Giác Ngộ”.

Lúc ấy, tôi chỉ đứng cách họ khoảng 60 mét. Tôi muốn đến gần hỏi thăm nhà sư, ngài là ai và đang làm gì, và tham vấn nhiều câu khác nữa; nhưng tôi nhát quá, e rằng mình có vẻ điên khùng. Thế là tôi chỉ trân trân đứng nhìn, mắt chăm chú quan sát mọi cử chỉ của ông ấy suốt bốn, năm phút khi hai người bước qua sảnh đường. Quả thật là tôi đã chết trân ra đấy, như đã vào một nhân sinh pháp giới khác. Trong tâm tôi sôi lên một niềm ao ước. Tôi nghĩ lúc ấy nếu có ai đứng sau mà chích tôi bằng một cái kim, tôi sẽ chẳng cảm thấy gì, bởi vì đầu óc tôi đã để hết cả vào hình dáng nhà sư. Thế rồi, nhà sư với vị giáo sư đi đến một tòa nhà khác, ông giáo sư mở cửa, và hai người biến mất vào trong đó. Tôi vẫn còn cảm thấy thích thú được gặp nhà sư, nhưng sự thích thú đó nay đã bị một chút buồn bã chen lấn vào. Lòng nặng trĩu khi thấy cuộc gặp gỡ đã qua đi, và tôi đã mất cơ hội tìm đến một nguồn tuệ giác còn tại thế, đến từ Đông phương. Giờ đây, tôi nghĩ rằng nhà sư tuyệt vời đó đã đi mất, tôi phải đi đưòng tôi, và chúng tôi sẽ không bao giờ gặp nhau nữa.

*

Quả thực là nghiệp báo đã vận động một cách kỳ lạ và bất ngờ! Khoảng hơn một năm sau đó, vào tháng Chín năm 1966, tôi ghi danh vào Đại học Claremont tại tiểu bang California (40 km phía đông thành phố Los Angeles), để theo học chương trình Tiến sĩ Triết học. Trong lục cá nguyệt mùa Xuân năm ấy, có một nhà sư từ Việt Nam đến học, và dọn đến ở ngay tầng dưới cùng khu nội trú với tôi. Ông này không có gì là “thư thái và tự tại” như vị sư tôi gặp ở Wisconsin, mà là một loại “hỷ lạc chi nhân”, hay chơi đàn banjo, thích hát nhạc dân ca Việt Nam, hút thuốc lá Pháp, nấu ăn với thịt heo và thịt gà (mặc dù là một nhà sư Đại thừa, đáng lẽ ông ta phải ăn chay) và học khoa Chính trị – một môn học ông ta hay nói tới một cách bạo dạn có thể làm cho Henry Kissinger phải phát ngượng. Vì những lẽ đó, mặc dù tôi ưa thích Phật giáo, tôi phải “kính nhi viễn chi” nhà sư nầy. Tuy vậy, biết ông ấy rõ hơn, tôi cũng thích ông ấy, và rồi nhận ông là người thầy Phật học đầu tiên của tôi. Sang đến mùa Hè năm 1967, chúng tôi đã cùng chia chung một phòng của khu nội trú cho sinh viên Cao học, và ít lâu sau, cùng ra thuê một căn nhà nhỏ ngoài khuôn viên của trường.

Một hôm (có lẽ là vào tháng 11 năm 1967), ông sư bạn tôi bảo là có một vị Hòa thượng từ Việt Nam, tên là Thích Minh Châu, hiện đang ở Mỹ và ngài sẽ đến viếng Los Angeles. Ông bạn tôi nói là ngài Minh Châu là Viện trưởng Đại học Vạn Hạnh, và là một học giả vẹn toàn. Hòa thượng đã có bằng Tiến sĩ từ Đại học Phật Giáo Nalanda bên Ấn Độ và đã viết một nghiên cứu qua trọng, so sánh đối chiếu Trung Bộ Kinh tiếng Pali và Trung A-hàm tiếng Hán. Ông sư bạn tôi cho biết sẽ đi Los Angeles để đảnh lễ ngài Thích Minh Châu và mời tôi cùng đi theo.

Thế là một buổi sáng tươi đẹp mùa Thu năm ấy, chúng tôi đã đến căn nhà một gia đình Việt Nam mà ngài Minh Châu đang tạm trú. Khi ngài từ phòng riêng đi ra, tôi thấy đó là một người trung niên quấn y vàng, đi đứng bình thản vững chãi, toát ra một vẻ tử tế đầy trí huệ. Quả thật ông ta trông giống như vị sư mà tôi đã gặp hai năm trước đây khi vị ấy bước đi trong khuôn viên Đại học Wisconsin. Tuy nhiên, tôi không chắc lắm vì có thể có hai nhà sư Đông Á trông giống nhau. Tôi trông thấy vị sư ở Wisconsin cách sáu, bảy mươi mét, nên tôi không thấy rõ mặt lắm. Tôi đành phải chịu khó ngồi chờ để cho chủ nhà, ngài Minh Châu, và ông sư bạn tôi nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt xong đã. Khi có cơ hội, tôi mới hỏi ngài: ”Thưa đây có phải là lần đầu tiên ngài sang Mỹ không?”. Ngài trả lời: “Thưa không, tôi đã đến đây vài năm về trước”. Chỉ chờ đợi có thế, tôi hỏi tiếp: “Thưa có phải là ngài đã từng đến Đại học Wisconsin vào tháng Tám, năm 1965 không?”. Và ngài trả lời: “Đúng vậy, hôm ấy tôi đến thăm một người bạn tôi là giáo sư Richard Robinson, vừa bắt đầu một chương trình nghiên cứu Phật học tại đấy”. Tôi kể lại hôm ấy tôi đã thấy ngài từ xa đi qua khuôn viên Đại học. Ngài cười nhẹ và nói: ”Thế thì đây không phải là lần đầu tiên chúng ta gặp nhau”.

Nhiều năm sau, khi Hòa thượng Minh Châu trở lại Mỹ (chắc khoảng năm 1969), ngài ở lại vài ngày tại nhà trọ của chúng tôi ở Claremont. Về sau này, khi tôi chuẩn bị sang Á châu để thọ giới tỳ-khưu và học Phật pháp, ngài đã có nhiều lời khuyên bảo hữu ích và viết cho tôi một lá thư giới thiệu đến các bậc tôn túc của giới thẩm quyền Phật giáo ở Á châu. Tôi giữ kỹ bức thư đó, và đến nay, tôi vẫn còn lá thư đó với các thứ đồ đạc khác ở Kandy, Sri Lanka. Chính ngài là người đã đề nghị với tôi là khi đến Sri Lanka, tôi nên đến thọ giáo với ngài Hòa thượng Nyanaponika. Sau nhiều năm tu học ở đảo quốc, tôi mới thực hiện được lời đề nghị đó. Trong những năm đầu, thỉnh thoảng tôi viết thư đến ngài Minh Châu để tham vấn và ngài bao giờ cũng trả lời tôi rất sớm và đầy đủ.

*

Sau 1975, khi chiến tranh chấm dứt ở miền Nam Việt Nam, tôi không còn liên lạc với ngài Minh Châu nữa. Nhưng khi tôi chuẩn bị bài giảng nầy, nhớ lại những cuộc gặp gỡ trước đây, những kỷ niệm xưa trở lại rất sâu sắc, tôi thấy cần phải tìm cách hỏi thăm xem ngài bây giờ ra sao. Qua mạng lưới Internet, tôi liên lạc với một người Việt ở Úc, chủ một trang web Phật giáo, và được cho biết ngài Hòa thượng vẫn còn ở thành phố Hồ Chí Minh, nhưng nay thì rất yếu và bị bệnh Parkinson. Ngài chắc đã phải gần 90 tuổi. Tôi viết cho ngài một lá thư, và gửi điện thư (e-mail) đến người Úc gốc Việt đó, nhờ anh ấy chuyển thư đến người bạn anh ấy ở Việt Nam, là một tu sĩ Phật giáo, từng là đệ tử của ngài Hòa thượng Minh Châu.

Trong vài chục năm vừa qua, trước khi mắc căn bệnh tàn hại, Hòa thượng Thích Minh Châu đã dịch bốn bộ kinh Nikaya từ tiếng Pali sang tiếng Việt. Tôi chỉ biết được điều đó mới gần đây thôi. Bây giờ đây là một chuyện kỳ thú và lạ lùng, khởi sinh nhiều câu hỏi thú vị. Vào ngày đầu tháng Tám năm 1965 ấy, có một chàng sinh viên Mỹ mới 20 tuổi, một anh chàng ngày nào đó sẽ trở nên người đồng dịch giả Trung Bộ Kinh, dịch giả Tương Ưng Bộ Kinh, và (hy vọng) một ngày nào đó sẽ dịch cả Tăng Chi Bộ Kinh, đã vì một sự tình cờ, được gặp một vị sư Việt Nam, lớn hơn anh ta lối ba chục năm, cũng đang dịch bốn bộ kinh đó sang tiếng Việt. Anh chàng sinh viên Mỹ ngày đó chẳng biết gì đến Phật học mà chỉ mới bắt đầu đọc ít sách về Phật giáo mà thôi. Anh ta không có ý định gặp vị sư, mà thực ra cũng đâu có giáp mặt nhau đâu. Nhìn dưới khía cạnh nhân duyên khách quan, thì cuộc gặp gỡ chỉ là một sự trùng hợp. Chàng sinh viên Mỹ chỉ ngẫu nhiên đi vào một thành phố anh tình cờ đến, nhìn thấy vị Hòa thượng từ xa, để rồi ra đi không biết vị đó là ai. Vị sư cũng không nhìn thấy chàng thanh niên Mỹ này.

Cái gì đã làm tôi quyết định đi rảo bộ sáng hôm đó, rồi rẽ khỏi đường quanh hồ và đi vào khuôn viên đại học, đúng chỗ đó và lại đúng lúc đó? Phải chăng đó chỉ là một sự tình cờ, một chuỗi những quyết định ngẫu nhiên? Nếu đã nêu lên những câu hỏi đó thì hãy hỏi thêm: Có một cái vòng duyên khởi nào nối kết chuyến đi California của tôi với chuyến đi Wisconsin của nhà sư đúng lúc ấy không? Nếu tôi nhớ không lầm thì chúng tôi đã định khởi hành hai ngày trước, nhưng vì có một chút kẹt vào lúc cuối nên chúng tôi phải dời chuyến đi đến sáng thứ Hai ấy. Nếu chúng tôi đã đi đúng ngày giờ như đã dự định, thì buổi hội ngộ với nhà sư chắc đã không xảy ra.

Khi tôi rời trường Đại học, yên chí rằng mình sẽ không bao giờ gặp lại nhà sư ấy nữa, tôi không bao giờ nghĩ trong thâm tâm mình phải làm thế nào để gặp lại con người ấy. Tuy nhiên, tôi đã lấy một chuỗi những quyết định, trong thâm tâm không cố ý, đưa đến việc gặp lại nhà sư lần nữa, mà lần này, hai người chúng tôi đối diện như là những pháp hữu. Tôi đã chọn học cao học tại một Đại học mà tại đó tôi đã gặp và trở thành bạn với một nhà sư Việt Nam khác, tuy rằng khi vào đó học, tôi không biết vị sư ấy cũng học trường nầy (đúng hơn, tôi không biết gì về các tu sĩ Phật giáo Việt Nam). Và qua người bạn này, tôi được gặp lại vị sư tôi đã gặp hai năm trước, một vị sư có một phong thái đã làm tôi rất chú ý – mặc dù tôi không biết là hai nhà sư này lại quen biết nhau. Dù tôi biết là Hòa thượng Thích Minh Châu đã viết một cuốn sách nghiên cứu đối chiếu Trung Bộ Kinh tiếng Pali và Trung A-hàm tiếng Hán, tôi không biết ngài dịch bộ Nikaya Pali sang tiếng Việt. Thế mà dự án dịch thuật kinh điển của hai người chúng tôi, dịch sang tiếng mẹ đẻ của mình, lại rất tương tự. Phải chăng điều đó đã được tiên liệu bởi cuộc gặp gỡ tình cờ ở Đại học Wisconsin, nơi mà tôi chưa bao giờ trở lại sau cuộc gặp gỡ ấy, và có lẽ tôi sẽ chẳng bao giờ quay lại nữa trong đời?

* * *

 [ Home ]

29-06-2015