Đàm luận Phật Pháp
- 65 -

In the Buddha’s Words – An Anthology of Discourses from the Pali Canon
Bhikkhu Bodhi (2005)


Những lời Phật dạy – Một bản trích lục các bài giảng từ kinh điển Pali
Tỳ-khưu Bodhi (2005)   

 
ibw.jpg
ibw.jpg
939 * 900
mucluc.jpg
mucluc.jpg
1235 * 868

 

Dàn bài

CHƯƠNG V – CON ĐƯỜNG ĐỂ TÁI SINH TỐT ĐẸP

Dẫn nhập

1. LUẬT NGHIỆP QUẢ

(1) Bốn loại nghiệp (AN 4:232)
(2) Chúng sinh đi về đâu sau khi chết (MN 41)
(3) Nghiệp và quả (MN 135)

2. PHƯỚC BÁU: CHÌA KHÓA CỦA VẬN MẠNG TỐT

(1) Các hành động tạo phước (It 22)
(2) Ba phước nghiệp sự (AN 8:36)
(3) Những loại tín tâm tối thượng (AN 4:34)

3. BỐ THÍ

(1) Nếu chúng sinh biết quả dị thục của bố thí (It 26)
(2) Lý do để bố thí (AN 8:33)
(3) Quà tặng thức ăn (AN 4:57)
(4) Bố thí xứng bậc chân nhân (AN 5:148)
(5) Giúp đỡ lẫn nhau (It 107)
(6) Thọ sinh do bố thí (AN 8:35)

4. GIỚI ĐỨC

(1) Ngũ giới (AN 8:39)
(2) Giữ bát quan trai giới (AN 8:41)

5. HÀNH THIỀN

(1) Phát triển tâm từ (It 27; 19-21)
(2) Bốn phạm trú (MN 99)
(3) Tuệ quán là thù thắng (AN 9:20)

-ooOoo-

CHƯƠNG V – CON ĐƯỜNG ĐỂ TÁI SINH TỐT ĐẸP

DẪN NHẬP

Khi kể lại “cuộc tầm cầu cao quý” của Ngài, Đức Phật nói rằng khi Ngài quán sát thế gian ngay sau khi thành đạo, Ngài thấy chúng sinh như hoa sen qua các giai đoạn sinh trưởng khác nhau trong hồ nước. Có những hoa sen đã ở mặt nước hoặc gần mặt nước, có khả năng giác ngộ chỉ qua tiếp xúc với giáo pháp xuất thế của Ngài. Nhưng đa số chúng sinh khi tiếp cận với giáo pháp như thể những búp sen còn chìm sâu dưới mặt nước. Các đóa sen nầy được hưởng lợi qua ánh sáng mặt trời và dùng năng lượng đó để duy trì sự sống, nhưng vẫn cần thời gian để có thể vươn lên đến mặt nước. Cũng như thế, đa số phàm nhân khi nghe được Phật pháp và thiết lập niềm tin, vẫn phải nuôi dưỡng các phẩm hạnh tốt với năng lượng của Pháp, cho đến khi tâm thức họ được phát triển đầy đủ để thực chứng giác ngộ. Tiến trình này thường phải qua nhiều kiếp sống. Như thế, những người đó cần phải có phương cách dài hạn để phát triển tâm linh. Khi thực hành con đường giải thoát, họ phải tránh việc tái sinh vào những cảnh khổ, tạo những kiếp sống nối tiếp với bảo đảm vật chất, an vui, và có cơ hội cho tiến bộ tâm linh.

Những lợi ích nầy, các điều kiện tăng cường cho phát triển tâm linh trong Giáo pháp, có được do sự tích tụ phước báu (puñña). Đây là một từ có nghĩa là khả năng của hành động thiện lành, mang đến các kết quả lợi lạc trong chu kỳ tái sinh. Theo lời dạy của Đức Phật, vũ trụ với nhiều cõi hiện hữu của chúng sinh được vận hành ở tất cả các mức độ, bằng các nguyên tắc không thay đổi về vật lý, sinh học, tâm lý, và đạo đức. Tiến trình các chúng sinh đi từ trạng thái hiện hữu nầy sang hiện hữu khác cũng tuân theo nguyên tắc như thế. Tiến trình đó được quy định bởi một luật dựa theo hai nguyên tắc chính. Thứ nhất, luật đó liên kết các hành động của chúng ta với cõi giới ta sẽ tái sinh, tương ứng với các hành động đó. Thứ hai, luật đó xác định sự liên hệ giữa các hành động của ta với phẩm chất kinh nghiệm của chúng ta trong cõi giới ta sinh ra.

Yếu tố chi phối trong tiến trình này, yếu tố làm cho toàn thể tiến trình theo đúng luật trên, là một lực gọi là “nghiệp” (kamma). Chữ “nghiệp” có nghĩa đen là hành động, nhưng về mặt vận hành, nó có nghĩa là hành động cố ý. Như Đức Phật có nói: “Chính tác ý (cetanā) Ta gọi là nghiệp; bởi vì khi có ý chí (cetayitvā), người ta hành động qua thân, khẩu, và ý.” Như thế, nghiệp là những hành động do tác ý. Tác ý như thế có thể chỉ ở trong tâm, tạo ra ý nghiệp phát sinh như tư tưởng, hoạch định, và mong muốn; hay nó có thể biểu hiện ra ngoài bằng những hành động về thân và lời nói.

Những hành động của chúng ta, sau khi thực hiện, dường như tiêu hủy và biến mất, không còn lưu lại dấu vết nào, ngoài tác động có thể nhìn thấy trên người khác và trên môi trường của chúng ta. Tuy nhiên, theo Đức Phật, tất cả những hành động cố ý về mặt đạo đức sẽ mang đến kết quả (vipāka, phala) tương ứng với phẩm chất đạo đức của các hành động đó. Khả năng của các hành động để tạo ra những kết quả thích hợp về mặt đạo đức là những gì có ý nghĩa là nghiệp. Từ đó, khi có đủ các điều kiện nội tại và ngoại vi thích hợp, nghiệp sẽ chín muồi và tạo ra quả tương xứng. Khi chín muồi, nghiệp sẽ quay trở lại với chúng ta, tốt hay xấu tùy thuộc vào phẩm chất đạo đức của hành động ban đầu. Điều này có thể xảy ra sớm hay muộn, ngay trong kiếp sống này, hay trong kiếp sống kế tiếp, hay những kiếp sống khác trong tương lai xa xôi. Một điều chắc chắn là khi ta vẫn còn ở trong cõi ta-bà, những nghiệp tích tụ của ta có khả năng sẽ chín muồi nếu chúng chưa trổ quả.

Trên cơ sở phẩm chất đạo đức, Đức Phật phân biệt nghiệp thành hai loại chính: bất thiện (akusala) và thiện (kusala). Nghiệp bất thiện là hành động bất lợi về tinh thần cho người tạo ra, đáng chê trách về mặt đạo đức, có tiềm năng tạo ra sự tái sinh kém may mắn và các kết quả đau khổ. Tiêu chuẩn đánh giá một hành động là bất thiện là các động lực cơ bản, là “gốc rễ,” từ đó phát sinh ra hành động. Có ba gốc rễ bất thiện: tham, sân, và si. Từ đó, nảy sinh nhiều phiền não thứ cấp – các trạng thái giận dữ, thù hận, ganh tị, ích kỷ, ngoan cố, kiêu ngạo, tự phụ, và phóng dật. Từ gốc rễ bất thiện và phiền não thứ cấp sẽ phát sinh các hành động uế nhiễm.

Trái lại, nghiệp thiện là hành động có lợi về tinh thần, đáng khen ngợi về mặt đạo đức. Đây là hành động chín muồi trong hạnh phúc và may mắn. Có ba gốc rễ thiện: vô tham, vô sân, và vô si, được thể hiện tích cực hơn qua sự rộng lượng, từ tâm, và trí tuệ. Trong khi các hành động phát xuất từ gốc rễ bất thiện ràng buộc ta vào vòng sinh tử liên tục, hành động bắt nguồn từ gốc rễ thiện được chia làm hai loại, tại thế và siêu thế. Các hành động thiện tại thế (lokiya) có tiềm năng đưa đến sự tái sinh may mắn và các kết quả an vui trong vòng tái sinh. Các hành động thiện siêu thế (lokuttara) – là nghiệp tạo ra qua phát triển Bát Chi Thánh Đạo và các yếu tố hỗ trợ giác ngộ – sẽ đưa đến giác ngộ và giải thoát khỏi vòng tái sinh. Đây là nghiệp để gỡ bỏ toàn bộ tiến trình nhân quả nghiệp báo.

Mối tương quan giữa nghiệp và quả được trình bày tổng quát trong Kinh văn V,1(1). Bài kinh gọi hành động bất thiện là “nghiệp đen” và hành động thiện tại thế là “nghiệp trắng.” Bài kinh cũng đề cập đến một loại nghiệp là cả trắng lẫn đen. Nói chính xác, đây không phải để chỉ một nghiệp đồng thời có cả tính chất thiện lẫn bất thiện; bởi vì một hành động phải là thuộc loại nầy hay loại khác. Nghiệp kết hợp nầy là để chỉ hành vi của một người lúc thiện, lúc ác, thay đổi liên tục. Cuối cùng, bài kinh nói về loại nghiệp không trắng không đen. Đây là nghiệp phát triển Bát Chi Thánh Đạo, loại nghiệp thiện siêu thế.

Cần phải nhấn mạnh rằng trong Phật giáo Sơ kỳ, sự thông hiểu và chấp nhận nguyên tắc nghiệp quả là một nhân tố thiết yếu của Chánh kiến. Chánh kiến có hai phương diện: phương diện tại thế, có liên quan đến đời sống thế gian; và phương diện siêu thế, có liên quan đến con đường giải thoát. Chánh kiến siêu thế bao gồm sự thông hiểu Tứ Diệu Đế, lý duyên sinh, và ba đặc tướng về vô thường, khổ, vô ngã. Trong Phật giáo Sơ kỳ, chánh kiến siêu thế này không thể có mặt riêng rẻ, cô lập khỏi chánh kiến tại thế. Trái lại, chánh kiến siêu thế bao hàm và phụ thuộc vào sự hỗ trợ vững chắc của chánh kiến tại thế, nghĩa là một niềm tin vững chắc vào luật nghiệp quả và tác động của luật này qua tiến trình tái sinh.

Chấp nhận luật nghiệp quả đòi hỏi thay đổi cơ bản trong sự hiểu biết của chúng ta về mối quan hệ của ta với thế giới. Cặp đôi giáo thuyết về nghiệp và tái sinh cho chúng ta thấy thực sự thế giới mà ta đang sống, trong các khía cạnh quan trọng, là sự phản ánh của vũ trụ nội tại trong tâm. Đây không có nghĩa thế giới bên ngoài có thể thu nhỏ thành một suy diễn tâm thức theo cách thức của một số chủ thuyết triết học duy tâm. Tuy nhiên, nếu kết hợp lại, hai giáo thuyết nầy cho thấy những hoàn cảnh chúng ta sống phù hợp chặt chẽ với các xu hướng nghiệp hành của tâm ta. Lý do chúng sinh nào tái sinh vào một cảnh giới nào là vì trong kiếp trước, chúng sinh đó đã tạo nghiệp, hay những hành động có tác ý, dẫn đến tái sinh vào cảnh giới ấy. Như Đức Phật đã dạy: “Vì chúng sinh bị ngăn che bởi si mê và tham ái, nghiệp là đất trồng, thức là hạt giống, và tham ái là hơi ẩm, để thức được thiết lập trong cảnh giới mới của hiện hữu – hoặc là thấp kém, hoặc trung bình, hoặc cao sang” (AN 3:76).

Bài kinh tiếp theo, Kinh văn V,1(2), phân biệt rõ hơn về nghiệp bất thiện và thiện. Bài kinh liệt kê mười điều quan trọng cho mỗi loại. Lần lượt, chúng được gọi là “phi pháp, phi chánh đạo” và “đúng pháp, đúng chánh đạo,” nhưng chúng thường được gọi là thập ác nghiệp và thập thiện nghiệp. Mười điều bất thiện nầy được phân chia theo ba cửa hành động – thân, khẩu, ý. Có ba hành vi bất thiện về thân: giết người, trộm cắp, và tà hạnh; bốn hành vi bất thiện về khẩu: nói dối, nói lời chia rẻ, nói lời thô lỗ, và nói lời vô ích (hay đồn nhảm); và ba bất thiện về ý: tham lam, sân hận, và tà kiến. Mười điều thiện là đối nghịch lại: không làm ba điều ác về thân, không làm bốn điều ác về khẩu, không tham lam, có lòng tử tế và có chánh kiến. Theo bài kinh, mười ác nghiệp là lý do đưa chúng sinh tái sinh vào cảnh giới khổ sau khi chết; mười thiện nghiệp là lý do đưa chúng sinh tái sinh vào cảnh giới tốt lành sau khi chết. Bài kinh cũng cho thấy mười thiện nghiệp không những đưa đến cảnh giới an vui, mà còn đưa đến việc đoạn trừ lậu hoặc, chứng đạt giải thoát.

Các đoạn kết của bài kinh cho chúng ta một cái nhìn tổng quát về vũ trụ quan Phật giáo. Vũ trụ Phật giáo được chia làm ba giới: dục giới (kāmadhātu), sắc giới (rūpadhātu), và vô sắc giới (rūpadhātu) – mỗi giới có nhiều cõi khác nhau.

Dục giới là thế giới chúng ta đang sống. Có tên gọi như thế vì chúng sinh tái sinh vào đây bị thúc đẩy bởi dục tham. Giới nầy chia ra làm hai cõi, cõi dữ và cõi lành. Cõi dữ hay các trạng thái đau khổ (apāya) có ba loại: địa ngục, thú vật, và hồn ma hay ngạ quỷ (pettivisaya) – là những chúng sinh đói khát không ngừng, và chịu các thứ đau khổ khác. Đây là các cõi tái sinh do kết quả của thập ác nghiệp.

Các cõi lành trong dục giới là cõi người và sáu cõi chư thiên dục giới. Sáu cõi chư thiên là: chư thiên trong cõi của Tứ đại thiên vương, chư thiên trong cõi trời Ba mươi ba hay Đao-lợi (Tāvaṭimsa), chư thiên trong cõi trời Dạ-ma (Yāma), chư thiên trong cõi trời Ðâu-suất-đà (Tusita), chư thiên trong cõi trời Hóa lạc (Nimmānaratī), và chư thiên trong cõi trời Tha hóa tự tại (Paranimmitavasavattī). Nghiệp nhân để tái sinh vào các cõi lành nầy là thập thiện nghiệp.

Trong sắc giới, các dạng thức sắc vật chất thô tế không hiện diện. Cư dân ở đó, được gọi là phạm thiên (brahmā) , được hưởng hạnh phúc, sức mạnh, độ sáng, và sức sống vượt trội so với các chúng sinh dục giới. Sắc giới có mười sáu cõi. Đây là tương quan đến bốn thiền-na. Đắc sơ thiền đưa đến tái sinh vào các cõi Phạm chúng thiên, Phạm phụ thiên, Đại phạm thiên. Đắc nhị thiền đưa đến tái sinh vào các cõi Thiểu quang thiên, Vô lượng quang thiên, Quang minh thiên. Đắc tam thiền đưa đến tái sinh vào các cõi Thiểu tịnh thiên, Vô lượng tịnh thiên, Biến tịnh thiên. Đắc tứ thiền đưa đến tái sinh vào các cõi Quảng quả thiên, Vô tưởng thiên. Sắc giới cũng bao gồm năm cõi hoàn toàn dành cho sự tái sinh của các vị Bất Lai, gọi là cõi Vô đọa thiên, Vô phiền thiên, Thiện hiện thiên, Thiện kiến thiên, Vô song thiên (aviha, atappa, sudassa, sudassı̄, akaniṭṭha). Trong mỗi cõi nầy, tuổi thọ có thời hạn rất lớn, và tuổi thọ gia tăng đáng kể với mỗi cõi cao hơn.

Trong vô sắc giới, hình dạng sắc vật thể không hiện hữu mà chỉ có tiến trình tâm. Gồm có bốn cõi tương ứng với bốn bậc thiền-na vô sắc: Không vô biên xứ thiên, Thức vô biên xứ thiên, Vô sở hữu xứ thiên, Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên. Tuổi thọ của các cõi nầy lần lượt là: 20.000; 40.000; 60.000; và 84.000 đại kiếp (xem Kinh văn I,4(3) về đại kiếp).

Trong vũ trụ quan Phật giáo, sự hiện hữu trong mỗi cõi, là kết quả của nghiệp với hiệu lực hữu hạn, đều là vô thường. Chúng sinh tái sinh vào cõi thích ứng với nghiệp của họ, thọ lãnh quả tốt hay quả xấu. Sau khi sinh nghiệp hết hiệu lực, họ qua đời để tái sinh vào một nơi nào đó, tùy theo các nghiệp khác đến lúc chín muồi. Vì thế, sự hành hạ nơi địa ngục cũng như an lạc ở cõi trời, dù cho kéo dài rất lâu, cũng sẽ chấm dứt. Cho những người vẫn còn khuynh hướng muốn tái sinh làm người hay làm chư thiên, Đức Phật dạy họ những hành vi đạo đức để đạt được sự mong cầu của họ. Nhưng đối với những ai có giác căn trưởng thành, Ngài khích tấn họ phải nỗ lực để chấm dứt luân hồi trong thế giới ta-bà, đạt đến Bất tử, Niết-bàn, vượt ra khỏi các cõi giới hữu vi.

Trong khi hai bài kinh đầu tiên của chương này thiết lập mối tương quan tổng quát giữa nghiệp và các cõi tái sinh, Kinh văn V,1(3) chỉ rõ các nguyên nhân cơ bản về nghiệp, để thấy các khác biệt hiển hiện trong đời sống con người. Bài kinh đề cập đến một lời giảng nổi tiếng của Đức Phật: “Chúng sinh là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa. Nghiệp phân chia chúng sinh, nghĩa là có liệt, có ưu.” Bài kinh giải thích câu nói nầy qua bảy đôi đối nghịch về phẩm hạnh của con người. Bài kinh cũng đưa ra sự khác biệt giữa hai loại hậu quả của ác nghiệp. Loại ác nghiệp mạnh sẽ đưa đến tái sinh vào các cõi dữ. Loại kia là tạo ra các quả xấu trong kiếp người, thí dụ như có tuổi thọ ngắn cho những người tạo nghiệp sát sinh trong kiếp trước. Tương tự, kết quả của nghiệp thiện cũng có hai loại. Loại thiện nghiệp mạnh sẽ cho tái sinh vào các cõi trời, và loại kia đưa đến quả lành trong kiếp người.

Phần tiếp theo trình bày về công đức hay phước báu (puñña). Đây là thiện nghiệp có khả năng sinh ra các kết quả thuận lợi trong chu kỳ tái sinh. Công đức tạo ra các lợi ích tại thế, như sinh ra tốt lành, có tài sản, sắc đẹp, và thành công. Công đức cũng dùng như một điều kiện tăng cường cho các lợi ích siêu thế, nghĩa là giúp đạt đến các giai đoạn trên con đường giác ngộ. Do đó, như trong Kinh văn V,2(1), Đức Phật kêu gọi các đệ tử vun trồng công đức, đề cập đến việc vun trồng công đức của Ngài trong nhiều kiếp trước, như là một thí dụ.

Các bộ kinh Nikāya đã phân chia rõ ràng ba nền tảng công đức (puññakiriyavatthu, phước nghiệp sự): bố thí, trì giới, và hành thiền. Kinh văn V,2(2) kết nối các các nền tảng công đức với những loại tái sinh tương ứng. Trong bối cảnh tôn giáo Ấn Độ, việc tạo các công đức xoay quanh niềm tin vào những đối tượng được xem là thiêng liêng và có sức mạnh tâm linh, có khả năng dùng để hỗ trợ cho tích tụ công đức. Đối với tín đồ Phật giáo, đó là ba châu báu (Tam Bảo): Phật, Pháp, Tăng. Kinh văn V,2(3) đề cao mỗi loại châu báu nầy là tối thượng trong một lĩnh vực riêng: Phật bảo là tối thượng trong loài người, Pháp bảo là tối thượng trong các lời dạy, và Tăng bảo là tối thượng trong các cộng đồng tôn giáo. Kinh văn đề xuất hai mặt khác biệt thú vị về Pháp bảo: trong tất cả các pháp hữu vi (dhammā saṅkhatā), Bát Chi Thánh Đạo là tối thượng; trong tất cả các pháp hữu vi và vô vi (dhammā saṅkhatā vā asaṅkhatā vā), Niết-bàn là tối thượng. Chỉ có niềm tin nơi Tam Bảo, sự tín nhiệm tôn kính và sùng kính, là cơ bản của công đức. Nhưng các câu kệ trong bài kinh cũng vạch ra rõ ràng rằng Đức Phật và Tăng đoàn có thêm chức năng là những vị nhận các món quà tặng. Trong vai trò nầy, các vị ấy giúp cho thí chủ tạo công đức đưa đến trọn vẹn các mong ước đạo hạnh của họ. Khía cạnh nầy sẽ được trình bày thêm dưới đây.

Những phần kế tiếp trong chương nầy trình bày thêm về từng nền tảng của công đức, bắt đầu là bố thí (dāna, rộng lượng). Đức Phật thường dạy bố thí là giới hạnh sơ khởi nhất của đời sống tâm linh, vì bố thí giúp bẻ gảy khung vị kỷ trong tâm mà dựa vào đó, ta quen tương tác với người khác. Trái ngược với những gì độc giả phương Tây mong đợi, bố thí trong Phật giáo Sơ kỳ không có nghĩa đơn giản là từ thiện nhân đạo hướng về người nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn. Mặc dù bao gồm những điều đó, nhưng sự thực hành hạnh bố thí còn có một ý nghĩa đặc biệt bắt nguồn từ cấu trúc xã hội của tôn giáo Ấn Độ. Tại Ấn Độ trong thời Đức Phật, những người đi tìm những chân lý sâu xa nhất của sự hiện hữu và đạt được giải thoát khỏi vòng sinh tử thường là những người rời bỏ gia đình, từ bỏ vị thế an toàn trong trật tự xã hội Ấn Độ, và sống một cuộc đời bấp bênh của kẻ lang thang vô gia cư. Với đầu cạo tóc hoặc tóc quấn bện lại, đắp y vàng hoặc trắng hoặc khỏa thân, họ đi từ nơi nầy đến nơi khác, không có nơi cư trú cố định, ngoại trừ trong ba tháng mùa mưa, đi lang thang không nhà cửa. Họ được gọi là sa-môn (samaṇas, người tu khổ hạnh) hoặc du sĩ (paribbājakas), không làm các dịch vụ có thu nhập, nhưng sống nhờ vào lòng từ thiện của các gia chủ. Các tín đồ cư sĩ cung cấp phương tiện vật chất – y áo, vật thực, nơi ở, và thuốc men – với niềm tin rằng cúng dường như thế là nguồn công đức, để giúp các tín đồ ấy tiến vài bước xa hơn trên con đường hướng đến giải thoát tối hậu.

Khi Đức Phật xuất hiện trên thế gian, Ngài áp dụng cho phương cách đó cho chính Ngài. Khi Ngài bắt đầu công tác hoằng pháp như một vị đạo sư, Ngài thành lập Tăng đoàn theo cùng một nguyên tắc: các tỳ-khưu và tỳ-khưu-ni, nghĩa là nam tu sĩ và nữ tu sĩ, sống tùy thuộc vào sự rộng lượng của hàng cư sĩ hỗ trợ vật chất. Các vị tu sĩ đáp lại bằng cách hiến tặng các thí chủ món quà quý giá của Giáo pháp. Đó là lời giảng dạy về con đường cao thượng đưa đến hạnh phúc, an bình, và giải thoát tối hậu. Kinh văn V,3(5) nêu rõ nguyên tắc tương trợ nầy. Khi chấp nhận các món quà của cư sĩ, những vị tu sĩ cho họ cơ hội tạo công đức. Bởi vì mức độ công đức từ hành động bố thí được xem như tỷ lệ thuận với mức độ xứng đáng của người nhận, khi người nhận là Đức Phật và những vị đi theo vết chân của Ngài, công đức trở nên vô lượng (xem thêm MN 142). Vì lẽ đó, Tăng đoàn Thanh văn (sāvakasaṅgha), là cộng đồng các vị thánh đệ tử, được gọi là “ruộng phước vô thượng trên đời” (anuttaraṃ puññakhetta lokassa). Quà cúng dường đến Tăng đoàn sẽ đưa đến các phước lành to lớn, đưa đến lợi lạc và hạnh phúc lâu dài, và có thể giúp tái sinh vào các cõi trời. Nhưng Kinh văn V,3(6) cũng nhắc nhở chúng ta rằng điều nầy chỉ đúng “cho những người có đạo đức trong sạch, không phải cho những người thiếu đạo đức.”

Từ đó đưa đến phần kế kiếp của nền tảng công đức, “kỷ luật đạo đức, hay trì giới” (sīla), trong Phật giáo Sơ kỳ nghĩa là tuân thủ năm giới. Hướng dẫn đạo đức căn bản nhất trong kinh tạng Nikāya là ngũ giới – các điều học tránh sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, và dùng các chất say. Các giới nầy được đề cập trong Kinh văn V,4(1), trong đó, có một xoay chuyển khá thú vị trong thuật ngữ, nói rằng các điều đó là “nguyên sơ, quà tặng truyền thống cổ xưa,” ngầm hiểu rằng trì giới (sīla) là nằm trong bố thí (dāna). Lý do việc tuân giữ các điều giới là một dạng bố thí vì người nào tuân giữ năm giới, người ấy “ban cho vô lượng chúng sinh sự tự do thoát khỏi sợ hãi, thù địch, và áp bức,” và kết quả của nghiệp lành nầy là “người ấy sẽ hưởng được vô lượng tự do, thoát khỏi sợ hãi, thù địch, và áp bức.”

Trong khi Đức Phật khuyến dạy các đệ tử cư sĩ luôn luôn tuân thủ năm giới, Ngài cũng khuyến khích họ tuân giữ một loại đạo đức nghiêm ngặt hơn trong ngày bố-tát (uposatha). Đó là những ngày trai giới theo âm lịch: ngày rằm, ngày đầu trăng, và hai ngày giữa tuần trăng (trong các nước Phật giáo ngày nay, ngày rằm có vị trí ưu tiên hơn). Trong những ngày nầy, những cư sĩ Phật giáo tín thành tuân giữ tám giới. Đó là năm giới thông thường, nhưng với giới thứ ba chuyển thành tuyệt đối không hành dâm, cộng thêm ba giới khác tương tự như các học giới của sa-di và sa-di-ni. Tám giới nầy, liệt kê trong Kinh văn V,4(2), tăng cường việc huân tập giới đức như là một sự tu tập đạo đức trong việc tự kiềm chế, sống đơn giản, và biết đủ. Trên phương diện này, các điều giới ấy giúp cho vị đệ tử chuẩn bị để huân tập tâm trong công phu hành thiền, nền tảng thứ ba của công đức.

Hành thiền không phải chỉ là trọng tâm của con đường giải thoát, mà còn là nguồn công đức theo đúng nghĩa. Các công phu hành thiền lành mạnh, ngay cả những pháp không trực tiếp đưa đến tuệ quán, giúp tinh lọc các cấp độ thô tháo của lậu hoặc và phát hiện chiều hướng thâm sâu của tâm thanh tịnh và chói sáng. Kinh văn V,5(1) tuyên bố rằng pháp thiền có nhiều kết quả nhất để tạo công đức tại thế là pháp phát triển lòng từ (mettābhāvanā). Tuy nhiên, thiền tâm từ chỉ là một trong bốn pháp thiền gọi là bốn “phạm trú” (brahmavih̄āra) hay bốn “tâm vô lượng” (appamaññā). Phát triển từ, bi, hỷ, xả, phải được trải rộng, không giới hạn, đến tất cả chúng sinh. Vắn tắt, tâm từ (mettā) là ước nguyện chúng sinh được an vui, hạnh phúc; tâm bi (karuṇā) là sự thông cảm đến chúng sinh đang đau khổ; tâm hỷ (muditā) là cùng vui với hạnh phúc và thành công của người khác; và tâm xả (upekkhā) là phản ứng quân bình về hạnh phúc và đau khổ, giúp bảo vệ tâm, không bị ảnh hưởng bởi các cảm xúc khích động.

Các pháp thiền này được xem như là phương cách để tái sinh vào cõi phạm thiên – xem Kinh văn V,5(2). Trong khi các người bà-la-môn xem cõi phạm thiên là cõi cao nhất, đối với Đức Phật, đó chỉ là một cõi cao của tái sinh. Tuy nhiên, tâm định sinh ra từ các pháp thiền này, có thể được dùng như nền tảng để vun trồng tuệ quán, và tuệ quán đưa đến giải thoát. Kinh văn V,5(3), phần cuối của chương nầy, xếp hạng các loại công đức khác nhau theo kết quả: từ bố thí (với những loại tặng phẩm dựa theo cấp độ tâm linh của người nhận) xuyên qua việc quy y và tuân giữ năm giới, đến pháp thiền tâm từ. Sau đó, đến đoạn cuối, bài kinh tuyên bố rằng kết quả tốt nhất là sự nhận thức về vô thường. Tuy nhiên, nhận thức về vô thường thuộc về một cấp độ khác. Nhận thức ấy có kết quả tốt nhất không phải là vì đem đến các điều an vui trong vòng tái sinh, nhưng là vì điều đó đưa đến tuệ quán để cắt đứt các chuỗi nô lệ ràng buộc, và đem đến thực chứng giải phóng toàn bích, đó là Niết-bàn.

–ooOoo-

TRÍCH LỤC

CHƯƠNG V – CON ĐƯỜNG ĐỂ TÁI SINH TỐT ĐẸP

 

1. LUẬT NGHIỆP QUẢ

(1) Bốn loại nghiệp

1. LUẬT NGHIỆP QUẢ

(1) Bốn loại nghiệp

Có bốn nghiệp này, này các tỳ-khưu, được Ta thuyết giảng sau khi chứng ngộ với thắng trí. Thế nào là bốn?

Này các tỳ-khưu, có nghiệp đen, quả đen; có nghiệp trắng, quả trắng; có nghiệp đen trắng, quả đen trắng; có nghiệp không đen không trắng, quả không đen không trắng, đưa đến đoạn diệt nghiệp.

Và này các tỳ-khưu, thế nào là nghiệp đen, quả đen? Ở đây, này các tỳ-khưu, có người làm thân hành có tổn hại, làm khẩu hành có tổn hại, làm ý hành có tổn hại. Do làm như thế, người ấy tái sinh vào thế giới có tổn hại. Do người ấy sinh vào ở thế giới có tổn hại, các xúc có tổn hại đến với người ấy. Tiếp nhận các xúc có tổn hại, người ấy trực nghiệm những cảm thọ có tổn hại, thuần nhất khổ, như những chúng sinh trong địa ngục. Này các tỳ-khưu, đây được gọi là nghiệp đen, quả đen.

Và này các tỳ-khưu, thế nào là nghiệp trắng, quả trắng? Ở đây, này các tỳ-khưu, có người làm thân hành không có tổn hại, làm khẩu hành không có tổn hại, làm ý hành không có tổn hại. Do làm như thế, người ấy tái sinh vào thế giới không có tổn hại. Do người ấy sinh vào thế giới không có tổn hại, các xúc không có tổn hại đến với người ấy. Tiếp nhận các xúc không có tổn hại, người ấy trực nghiệm những cảm thọ không có tổn hại, thuần nhất lạc, như chư thiên ở Biến tịnh thiên. Này các tỳ-khưu, đây được gọi là nghiệp trắng, quả trắng.

Và này các tỳ-khưu, thế nào là nghiệp đen trắng, quả đen trắng? Ở đây, này các tỳ-khưu, có người làm thân hành có tổn hại và không tổn hại, làm khẩu hành có tổn hại và không tổn hại, làm ý hành có tổn hại và không tổn hại. Do làm như thế, người ấy tái sinh vào thế giới có tổn hại và không tổn hại. Do người ấy sinh vào thế giới có tổn hại và không tổn hại, các xúc có tổn hại và không tổn hại đến với người ấy. Tiếp nhận các xúc có tổn hại và không tổn hại, người ấy trực nghiệm những cảm thọ có tổn hại và không tổn hại, khổ và lạc xen lẫn nhau, như loài người và một số chư thiên ở các cõi trời thấp. Này các tỳ-khưu, đây được gọi là nghiệp đen trắng, quả đen trắng.

Và này các tỳ-khưu, thế nào là nghiệp không đen không trắng, quả không đen không trắng, đưa đến đoạn diệt nghiệp? Có tư tâm sở để đoạn tận nghiệp đen, quả đen; có tư tâm sở để đoạn tận nghiệp trắng, quả trắng; có tư tâm sở để đoạn tận nghiệp đen trắng, quả đen trắng. Này các tỳ-khưu, đây được gọi là nghiệp không đen không trắng, quả không đen không trắng, đưa đến đoạn diệt nghiệp.

Có bốn nghiệp này, này các tỳ-khưu, được Ta thuyết giảng sau khi chứng ngộ với thắng trí.

(AN 4:232)

 

(2) Chúng sinh đi về đâu sau khi chết

1. Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn đang du hành trong nước Kosala (Kiều-tất-la) cùng với đại chúng tỳ-khưu đi đến một làng bà-la-môn của dân chúng Kosala tên là Sālā.

2. Các gia chủ bà-la-môn ở Sālā nghe rằng: “Người ta nói Sa-môn Gotama, là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Thích-ca, đang du hành trong nước Kosala với đại chúng tỳ-khưu, và đã đến Sālā. Tiếng đồn tốt đẹp như sau được truyền đi về Sa-môn Gotama: Ngài là Thế Tôn, bậc Ứng Cúng A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiên Tuệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Sau khi tự thực chứng, Ngài đã giảng dạy chư thiên và loài người, hàng tu sĩ và cư sĩ, vua chúa cùng thường dân, Ngài đã giảng Pháp cao diệu từ chặng đầu, chặng giữa, cho đến chặng cuối; Ngài đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiết và rõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết. Lành thay, nếu chúng tôi được yết kiến một vị Ứng Cúng như vậy.

3. Rồi các gia chủ bà-la-môn ở Sālā đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, một số đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một số nói lên những lời chào đón, thân hữu xã giao với Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một số chấp tay vái Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một số nói lên tên họ của mình trước mặt Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một số giữ im lặng ngồi xuống một bên.

4. Sau khi ngồi xuống một bên, các gia chủ bà-la-môn ở Sālā bạch Thế Tôn: “Tôn giả Gotama, do nhân gì, do duyên gì, ở đây, một số hữu tình sau khi thân hoại mạng chung, phải sinh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục? Này Tôn giả Gotama, do nhân gì, do duyên gì, ở đây, một số loài hữu tình sau khi thân hoại mạng chung được sinh vào thiện thú, thiên giới?”

5. – Này các gia chủ, do nhân hành phi pháp, hành phi chánh đạo, này các gia chủ, mà như vậy, ở đây có một số loài hữu tình sau khi thân hoại mạng chung, phải sinh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Do nhân hành đúng pháp, hành đúng chánh đạo, này các gia chủ, mà như vậy, ở đây có một số loài hữu tình sau khi thân hoại mạng chung, được sinh vào thiện thú, thiên giới.

6. – Chúng con không thể hiểu đầy đủ những gì Tôn giả Gotama thuyết một cách vắn tắt mà không giải thích rộng rãi. Lành thay, nếu Tôn giả Gotama thuyết pháp cho chúng con để chúng con có thể hiểu đầy đủ những gì Tôn giả Gotama thuyết một cách vắn tắt.

– Như vậy, này các gia chủ, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.

– Thưa vâng, Tôn giả.

7. – Này các gia chủ, có ba loại thân hành phi pháp, phi chánh đạo, có bốn loại khẩu hành phi pháp, phi chánh đạo, có ba loại ý hành phi pháp, phi chánh đạo.

8. Này các gia chủ, thế nào là ba loại thân hành phi pháp, phi chánh đạo? Ở đây, này các gia chủ, có người sát sinh, tàn nhẫn, tay lấm máu, tâm chuyên sát hại đả thương, tâm không từ bi đối với các loài hữu tình. Người này lấy của không cho, lấy trộm bất cứ tài vật gì của người khác tại thôn làng hoặc tại rừng núi. Người ấy sống tà dâm, giao cấu với các nữ nhân có mẹ che chở, có cha che chở, có mẹ cha che chở, có anh che chở, có chị che chở, có bà con che chở, đã có chồng, hay đã đính hôn. Như vậy, này các gia chủ, là ba loại thân hành phi pháp, phi chánh đạo.

9. Này các gia chủ, thế nào là bốn loại khẩu hành phi pháp, phi chánh đạo? Ở đây, này các gia chủ, có người vọng ngữ, đến chỗ tập hội, hay đến chỗ chúng hội, hay đến giữa các thân tộc, hay đến giữa các tổ hợp, hay đến giữa vương tộc, khi được dẫn ra làm chứng và được hỏi: “Này người kia, hãy nói những gì ông biết;” dù cho người ấy không biết, người ấy nói: “Tôi biết;” dù cho người ấy biết, người ấy nói: “Tôi không biết;” hay dù cho người ấy không thấy, người ấy nói: “Tôi thấy;” hay dù cho người ấy thấy, người ấy nói: “Tôi không thấy.” Như vậy, lời nói của người ấy trở thành cố ý vọng ngữ, hoặc vì nguyên nhân tự kỷ, hoặc vì nguyên nhân cho tha nhân, hoặc vì nguyên nhân cho một vài quyền lợi. Người ấy là người nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, đến nói ở chỗ kia để gây chia rẽ; nghe điều gì ở chỗ kia, đến nói ở chỗ này để gây chia rẽ. Như vậy, người ấy ly gián những người khác đang sống hòa hợp; người ấy tạo ra nhiều sự chia rẽ, ưa thích phá hoại, vui thích phá hoại, thích thú phá hoại, nói những lời đưa đến phá hoại. Người ấy là người nói lời thô ác. Người ấy nói những lời gì thô ác, tàn ác, khiến người khác đau khổ, khiến người khác tức giận, liên hệ đến phẫn nộ, không đưa đến thiền định. Người ấy nói những lời phù phiếm, nói phi thời, nói những lời không đúng sự thật, nói những lời vô ích, nói những lời phi Pháp và phi Luật. Vào lúc phi thời, người ấy nói những lời không có giá trị, không  thuận lý, không ôn hòa, không có lợi ích. Như vậy, này gia chủ, là bốn loại khẩu hành phi pháp, phi chánh đạo.

10. Và này các gia chủ, thế nào là ba loại ý hành phi pháp, phi chánh đạo? Ở đây, này các gia chủ, có người có tham ái, tham lam tài vật của người khác, nghĩ rằng: “Ôi, mong rằng mọi tài vật của người khác trở thành của mình!” Lại có người có tâm sân hận, khởi lên ý tưởng: “Mong rằng những loài hữu tình này bị giết, hay bị tàn sát; mong chúng bị tiêu diệt, không còn tồn tại!” Lại có người có tà kiến, có tưởng điên đảo như: “Không có bố thí, không có kết quả của bố thí, không có tế lễ, không có cúng dường; không có kết quả dị thục từ các hành vi thiện ác; không có đời này, không có đời sau; không có mẹ, không có cha; không có các loại hóa sinh; trong đời không có các sa-môn, bà-la-môn chân chính hành trì, chân chánh thành tựu, sau khi tự tri, tự chứng, tuyên bố lại cho đời này và cho đời sau.” Như vậy, này các gia chủ, là ba ý hành phi pháp, phi chánh đạo.

Như vậy, do nhân hành phi pháp, hành phi chánh đạo, này các gia chủ, ở đây, một số loài hữu tình sau khi thân hoại mạng chung, phải sinh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.

11. Này các gia chủ, có ba loại thân hành đúng pháp, đúng chánh đạo, có bốn loại khẩu hành đúng pháp, đúng chánh đạo, có ba loại ý hành đúng pháp, đúng chánh đạo.

12. Này các gia chủ, thế nào là ba loại thân hành đúng pháp, đúng thánh đạo? Ở đây, này các gia chủ, có người từ bỏ sát sinh, tránh xa sát sinh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ bi đối với tất cả các loài hữu tình. Người ấy từ bỏ lấy của không cho, tránh xa lấy của không cho, không lấy trộm bất cứ tài vật gì của người khác hoặc tại thôn làng hoặc tại rừng núi. Người ấy từ bỏ lối sống tà dâm, tránh xa lới sống tà dâm, không giao cấu với các nữ nhân có mẹ che chở, có cha che chở, có mẹ cha che chở, có anh che chở, có chị che chở, có bà con che chở, đã có chồng, hay đã đính hôn. Như vậy, này các gia chủ, là ba loại thân hành đúng pháp, đúng chánh đạo.

13. Này các gia chủ, thế nào là bốn loại khẩu hành đúng pháp, đúng chánh đạo? Ở đây, này các gia chủ, có người từ bỏ vọng ngữ, tránh xa vọng ngữ, đến chỗ tập hội, hay đến chỗ chúng hội, hay đến giữa các thân tộc, hay đến giữa các tổ hợp, hay đến giữa vương tộc, khi được dẫn ra làm chứng và được hỏi: “Này người kia, hãy nói những gì ông biết,” nếu biết, người ấy nói: “Tôi biết;” nếu không biết, người ấy nói: “Tôi không biết;” hay nếu không thấy, người ấy nói: “Tôi không thấy;” nếu thấy, người ấy nói: “Tôi thấy.” Như vậy, lời nói của người ấy không trở thành cố ý vọng ngữ, hoặc vì nguyên nhân tự kỷ, hoặc vì nguyên nhân cho tha nhân, hoặc vì nguyên nhân cho một vài quyền lợi. Người ấy từ bỏ nói hai lưỡi, tránh xa từ bỏ nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, không đến nói ở chỗ kia để gây chia rẽ; nghe điều gì ở chỗ kia, không đến nói ở chỗ này để gây chia rẽ. Như vậy, người ấy tạo hoà hợp những người khác đang sống ly gián; khuyến khích tình thân hữu, ưa thích hòa hợp, vui thích hòa hợp, thích thú hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp. Người ấy từ bỏ lời nói độc ác, tránh xa lời nói độc ác, nói những lời nói nhu hòa, dễ nghe, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người, vui lòng nhiều người. Người ấy từ bỏ lời nói phù phiếm, tránh xa lời nói phù phiếm, nói đúng thời, nói những lời chân thật, nói những lời có ý nghĩa, nói những lời về Pháp và Luật. Vào đúng thời, người ấy nói những lời có giá trị, thuận lý, ôn hòa, có lợi ích. Như vậy, này các gia chủ, là bốn loại khẩu hành đúng pháp, đúng chánh đạo.

14. Và này các gia chủ, thế nào là ba loại ý hành đúng pháp, đúng chánh đạo? Ở đây, này các gia chủ, có người không có tham ái, không tham lam tài vật của kẻ khác, không nghĩ rằng: “Ôi, mong rằng mọi tài vật của người khác trở thành của mình!” Lại có người không có tâm sân hận, khởi lên ý tưởng: “Mong rằng những loài hữu tình này sống không thù hận, không oán thù, không lo rầu! Mong họ được sống an lạc!” Người ấy có chánh kiến, không có tưởng điên đảo, nghĩ rằng: “Có bố thí, có kết quả của bố thí, có tế lễ, có cúng dường; có kết quả dị thục từ các hành vi thiện ác; có đời này, có đời sau; có mẹ, có cha; có các loại hóa sinh; trong đời, có các sa-môn, bà-la-môn chân chánh hành trì, chân chánh thành tựu, sau khi tự tri, tự chứng, tuyên bố lại cho đời này và cho đời sau.” Như vậy, này các gia chủ, có ba loại ý hành đúng pháp, đúng chánh đạo.

Như vậy, do nhân hành đúng pháp, hành đúng chánh đạo, này các gia chủ, ở đây, một số loài hữu tình sau khi thân hoại mạng chung, được sinh vào thiện thú, thiên giới.

15. Này các gia chủ, nếu một vị hành đúng pháp, đúng chánh đạo, mong ước: “Ôi, mong rằng sau khi thân hoại mạng chung, tôi được sinh vào đại phú vương tộc!” Sự kiện này xảy ra, vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, được sinh vào đại phú vương tộc. Vì sao vậy? Vì vị ấy là vị hành đúng pháp, đúng chánh đạo.

16-17. Này các gia chủ, nếu một vị hành đúng pháp, đúng chánh đạo, mong ước: “Ôi, mong rằng sau khi thân hoại mạng chung, tôi được sinh vào đại phú bà-la-môn ... đại phú gia chủ!” Sự kiện này xảy ra, vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, được sinh vào đại phú gia chủ. Vì sao vậy? Vì vị ấy là vị hành đúng pháp, đúng chánh đạo.

18-42. Này các gia chủ, nếu một vị hành đúng pháp, đúng chánh đạo, mong ước: “Ôi, mong rằng sau khi thân hoại mạng chung, tôi được sinh cộng trú với chư thiên Tứ thiên vương ... với chư thiên cõi trời Ba mươi ba ... với chư thiên Dạ-ma ... với chư thiên Ðâu-suất-đà ... với chư thiên Hóa lạc ... với chư thiên Tha hóa tự tại ... với chư thiên Phạm chúng ... với chư thiên Phạm phụ thiên ... với chư thiên Đại phạm thiên ... với chư thiên Thiểu Quang thiên ... với chư thiên Vô lượng quang thiên ... với chư thiên Quang minh thiên ... ... với chư thiên Thiểu tịnh thiên ... với chư thiên Vô lượng tịnh thiên ... với chư thiên Biến tịnh thiên ... với chư thiên Quảng quả thiên ... với chư thiên Vô tưởng thiên ... với chư thiên Vô đọa thiên ... với chư thiên Vô phiền thiên ... với chư thiên Thiện hiện thiên ... với chư thiên Thiện kiến thiên ... với chư thiên Vô song thiên ... với chư thiên Không vô biên xứ thiên ... với chư thiên Thức vô biên xứ thiên ... với chư thiên Vô sở hữu xứ thiên ... với chư thiên Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên!” Sự kiện này xảy ra, vị ấy sau khi thân hoại mạng chung được sinh cộng trú với chư thiên Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên. Vì sao vậy? Vì vị ấy là vị hành đúng pháp, đúng chánh đạo.

43. Này các gia chủ, nếu một vị hành đúng pháp, đúng chánh đạo, mong ước: “Ôi, mong rằng, với sự đoạn trừ các lậu hoặc, với thắng trí, ta chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại tâm giải thoát, tuệ giải thoát vô lậu!” Sự kiện này xảy ra, vị ấy với sự đoạn trừ các lậu hoặc, với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại tâm giải thoát, tuệ giải thoát vô lậu. Vì sao vậy? Vì vị ấy là vị hành đúng pháp, đúng chánh đạo.

44. Khi nghe nói vậy, các gia chủ bà-la-môn ở Sālā bạch Thế Tôn:

– Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vị diệu thay, Tôn giả Gotama! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện để trình bày. Chúng con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp, và quy y chúng tỳ-khưu Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận chúng con làm đệ tử, từ nay trở đi cho đến mạng chung, chúng con trọn đời quy ngưỡng.

(MN 41: Kinh Sāleyyaka)

(3) Nghiệp và quả

1. Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn ở Sāvatthī (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà-lâm), tại tinh xá ông Anāthapinḍịka (Cấp Cô Ðộc).

2. Rồi thanh niên Subha, con của Todeyya, đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm. Sau khi nói lên những lời chào hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, thanh niên Subha bạch Thế Tôn:

3. – Thưa Tôn giả Gotama, do nhân gì, do duyên gì giữa loài người với nhau, khi họ là loài người, lại thấy có người liệt, có người ưu? Thưa Tôn giả Gotama, chúng tôi thấy có người đoản thọ, có người trường thọ; chúng tôi thấy có người nhiều bệnh, có người ít bệnh; chúng tôi thấy có người xấu sắc, có người đẹp sắc; chúng tôi thấy có người quyền thế nhỏ, có người quyền thế lớn; chúng tôi thấy có người tài sản nhỏ, có người tài sản lớn; chúng tôi thấy có người thuộc gia đình hạ liệt, có người thuộc gia đình cao quý; chúng tôi thấy có người trí tuệ yếu kém, có người có đầy đủ trí tuệ.

Thưa Tôn giả Gotama, do nhân gì, do duyên gì, giữa loài người với nhau, khi họ là loài người, lại thấy có người liệt, có người ưu?

4. – Này thanh niên, các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các loài hữu tình; nghĩa là có liệt, có ưu.

5. – Tôi không thể hiểu đầy đủ những gì Tôn giả Gotama thuyết một cách vắn tắt mà không giải thích rộng rãi. Lành thay, nếu Tôn giả Gotama thuyết pháp cho tôi để tôi có thể hiểu đầy đủ những gì Tôn giả Gotama thuyết một cách vắn tắt.

– Vậy này thanh niên, hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ nói.

– Thưa vâng, Tôn giả.

Thanh niên Subha Todeyyaputta vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

5. – Ở đây, này thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông, sát sinh, tàn nhẫn, tay lấm máu, tâm chuyên sát hại đả thương, tâm không từ bi đối với các loại chúng sinh. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, bị sinh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy không sinh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục, nhưng sinh vào loài người, chỗ nào người ấy sinh ra, người ấy phải đoản mạng. Con đường đưa đến đoản mạng là sát sinh, tàn nhẫn, tay lấm máu, tâm chuyên sát hại đả thương, tâm không từ bi đối với các loại chúng sinh.

6. Nhưng ở đây, này thanh niên, có người đàn bà hay đàn ông, từ bỏ sát sinh, tránh xa sát sinh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sinh. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy được sinh vào thiện thú, thiên giới. Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy không sinh vào thiện thú, thiên giới, nhưng sinh vào loài người, chỗ nào người ấy sinh ra, người ấy được trường thọ. Con đường đưa đến trường thọ là từ bỏ sát sinh, tránh xa sát sinh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sinh.

7. Ở đây, này thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông, tánh hay não hại chúng sinh, với tay, hay với cục đá, hay với cây gậy, hay với cây đao. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sinh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy không sinh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục, nhưng sinh vào loài người, chỗ nào người ấy sinh ra, người ấy bị nhiều bệnh hoạn. Con đường đưa đến nhiều bệnh hoạn là tánh hay não hại chúng sinh với tay, hay với cục đất, hay với cây gậy, hay với cây đao.

8. Nhưng ở đây, này thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông, tánh không hay não hại chúng sinh, với tay, hay với cục đá, hay với cây gậy, hay với cây đao. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, ... thiện thú ... sinh vào loài người, chỗ nào người ấy sinh ra, người ấy ít có bệnh hoạn. Con đường đưa đến ít có bệnh hoạn là tánh không não hại chúng sinh, với tay, hay với cục đá, hay với cây gậy, hay với cây đao.

9. Ở đây, này thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông, phẫn nộ, nhiều phật ý, bị nói đến một chút thời bất bình, phẫn nộ, sân hận, chống đối, và tỏ lộ phẫn nộ, sân hận, bất mãn. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, ... ác thú ... sinh vào loài người, chỗ nào người ấy sinh ra, người ấy có sắc diện xấu. Con đường đưa đến sắc diện xấu là phẫn nộ ... bất mãn.

10. Nhưng ở đây, này thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông, không phẫn nộ, không nhiều phật ý, dù cho bị nói đến nhiều, cũng không bất bình, phẫn nộ, sân hận, chống đối, và không tỏ lộ phẫn nộ, sân hận, bất mãn. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy ... thiện thú ... sinh vào loài người, chỗ nào người ấy sinh ra, người ấy có sắc diện đẹp. Con đường đưa đến sắc diện đẹp là không phẫn nộ ... không tỏ lộ phẫn nộ, sân hận, bất mãn.

11. Ở đây, này thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông, tật đố, đối với người khác được quyền lợi, được tôn trọng, cung kính, tôn sùng, đảnh lễ, cúng dường, sinh tật đố, sinh tâm, ôm ấp tâm tật đố. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy ... ác thú ... sinh vào loài người, chỗ nào người ấy sinh ra, người ấy có quyền thế nhỏ. Con đường ấy đưa đến quyền thế nhỏ là tật đố ... ôm ấp tâm tật đố.

12. Nhưng ở đây, này thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông, không có tật đố, đối với những người khác được quyền lợi, được tôn trọng, cung kính, tôn sùng, đảnh lễ, cúng dường, không sinh tật đố, không sinh tâm, không ôm ấp tâm tật đố. Do nghiệp ấy ... thiện thú ... sinh vào loài người, chỗ nào người ấy sinh ra, người ấy có quyền thế lớn. Con đường ấy đưa đến quyền thế lớn là không tật đố ... không ôm ấp tật đố.

13. Ở đây, này thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông, không bố thí cho sa-môn hay bà-la-môn, đồ ăn uống, y phục, xe cộ, vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, ngọa cụ, nhà cửa, đèn đuốc. Do nghiệp ấy ... ác thú ... sinh vào loài người, chỗ nào người ấy sinh ra, người ấy có tài sản nhỏ. Con đường đưa đến tài sản nhỏ là không bố thí ... ngọa cụ, nhà cửa, đèn đuốc.

14. Nhưng ở đây, này thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông, có bố thí cho sa-môn hay cho bà-la-môn, đồ ăn uống ... ngọa cụ, nhà cửa, đèn đuốc. Do nghiệp ấy ... thiện thú ... sinh vào loài người, chỗ nào người ấy sinh ra, người ấy có nhiều tài sản. Con đường đưa đến nhiều tài sản nhỏ là có bố thí ... ngọa cụ, nhà cửa, đèn đuốc.

15. Ở đây, này thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông, ngạo nghễ, kiêu mạn, không đảnh lễ những người đáng đảnh lễ, không đứng dậy đối với người đáng đứng dậy, không mời ngồi những người đáng mời ngồi, không nhường chỗ đi cho những người đáng được nhường chỗ đi, không tôn trọng những người đáng tôn trọng, không cung kính những người đáng cung kính, không cúng dường những người đáng cúng dường. Do nghiệp ấy ... ác thú ... sinh vào loài người, chỗ nào người ấy sinh ra, người ấy thuộc gia đình hạ liệt. Con đường đưa đến gia đình hạ liệt là ngạo nghễ ... không cúng dường những người đáng cúng dường.

16. Nhưng ở đây, này thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông, không có ngạo nghễ, không kiêu mạn, đảnh lễ những người đáng đảnh lễ ... cúng dường những người đáng cúng dường. Do nghiệp ấy ... thiện thú ... sinh vào loài người, chỗ nào người ấy sinh ra, người ấy thuộc gia đình cao quý. Con đường đưa đến gia đình cao quý là không ngạo nghễ ... cúng dường những người đáng cúng dường.

17. Ở đây, này thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông, không đi đến sa-môn hay bà-la-môn, và không hỏi: “Thưa Tôn giả, thế nào là thiện? Thế nào là bất thiện? Thế nào là phạm tội? Thế nào là không phạm tội? Thế nào là cần phải thực hành? Thế nào là không cần phải thực hành? Hành động nào sẽ tạo nguy hiểm và đau khổ lâu dài? Hành động nào sẽ tạo phúc lợi và an lạc lâu dài?” Do nghiệp ấy ... ác thú ... sinh vào loài người, chỗ nào người ấy sinh ra, người ấy có trí tuệ yếu kém. Con đường đưa đến trí tuệ yếu kém là không đi đến sa-môn hay bà-la-môn, và không hỏi những câu như thế.

18. Nhưng ở đây, này thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông, có đi đến Sa-môn hay bà-la-môn, và có hỏi: “Thưa Tôn giả, thế nào là thiện? Thế nào là bất thiện ... phúc lợi và an lạc lâu dài?” Do nghiệp ấy ... thiện thú ... sinh vào loài người, chỗ nào người ấy sinh ra, người ấy có trí tuệ đầy đủ. Con đường đưa đến trí tuệ đầy đủ là có đi đến sa-môn hay bà-la-môn, và có hỏi những câu như thế.

19. Như vậy, này thanh niên, con đường đưa đến đoản thọ, dẫn đến đoản thọ, con đường đưa đến trường thọ, dẫn đến trường thọ; con đường đưa đến nhiều bệnh, dẫn đến nhiều bệnh; con đường đưa đến ít bệnh, dẫn đến ít bệnh; con đường đưa đến sắc diện xấu, dẫn đến sắc diện xấu; con đường đưa đến sắc diện đẹp, dẫn đến sắc diện đẹp; con đường đưa đến quyền thế nhỏ, dẫn đến quyền thế nhỏ; con đường đưa đến quyền thế lớn, dẫn đến quyền thế lớn; con đường đưa đến tài sản nhỏ, dẫn đến tài sản nhỏ; con đường đưa đến tài sản lớn, dẫn đến tài sản lớn; con đường đưa đến gia đình hạ liệt, dẫn đến gia đình hạ liệt; con đường đưa đến gia đình cao quý, dẫn đến gia đình cao quý, con đường đưa đến trí tuệ yếu kém, dẫn đến trí tuệ yếu kém; con đường đưa đến trí tuệ đầy đủ, dẫn đến trí tuệ đầy đủ.

20. Này thanh niên, các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các loài hữu tình; nghĩa là có liệt, có ưu.

21. Khi nghe nói vậy, thanh niên Subha, con của Todeyya, nói với Thế Tôn:

– Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày những gì bị che kín, chỉ đường cho những người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích. Con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và chúng tỳ-khưu Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.

(MN 135: Tiểu kinh Nghiệp phân biệt)

2. PHƯỚC BÁU: CHÌA KHÓA CỦA VẬN MẠNG TỐT

(1) Các hành động tạo phước

Này các tỳ-khưu, chớ có sợ hãi các công đức. Công đức là đồng nghĩa với an lạc, cái gì khả lạc, khả hỷ, khả ái, khả ý, tức là công đức. Này các tỳ-khưu, Ta thắng tri thọ hưởng quả dị thục, khả lạc, khả hỷ, khả ái, khả ý trong một thời gian dài của các công đức đã làm thường xuyên.

Sau khi tu tập tâm từ trong bảy năm, Ta đã không trở lui lại đời này trong bảy tăng-kỳ kiếp và hoại kiếp. Khi tăng-kỳ kiếp tăng, Ta sinh vào cõi Quang âm thiên. Khi tăng-kỳ kiếp giảm, Ta sinh vào lâu đài trống không ở thiên giới. Tại đấy, Ta là Phạm thiên, Ðại Phạm thiên, bậc chinh phục, bậc nhìn thấy tất cả, bậc có quyền lực rộng lớn. Ba mươi sáu lần Ta đã là thiên chủ Ðế-thích. Nhiều trăm lần, Ta là vị vua Chuyển Luân, trị vì đúng pháp, bậc Pháp vương, bậc chiến thắng bốn phương, duy trì được sự an ổn trong quốc độ, bậc đầy đủ bảy báu. Còn nói gì khi Ta là vị vua ở địa phương?

Này các tỳ-khưu, Ta suy nghĩ như sau: “Quả này là do nghiệp nào Ta đã làm, là quả dị thục của nghiệp nào mà nay, Ta được đại thần lực như vậy, đại uy lực như vậy?” Rồi Ta suy nghĩ như sau: “Ðây là quả ba nghiệp Ta đã làm, là quả dị thục của ba nghiệp, do đó, Ta nay được đại thần lực như vậy, đại uy lực như vậy. Đó là bố thí, tự nhiếp phục, tự chế ngự.”

(It 22; 14-15)

 

(2) Ba phước nghiệp sự

Này các tỳ-khưu, có ba căn bản tạo phước. Thế nào là ba? Căn bản tạo phước do bố thí, căn bản tạo phước do giới đức, căn bản tạo phước do tu thiền.

Ở đây, này các tỳ-khưu, có hạng người căn bản tạo phước do bố thí trên một quy mô nhỏ, căn bản tạo phước do giới đức trên một quy mô nhỏ, nhưng không đạt được căn bản tạo phước do tu thiền. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sinh làm người không may mắn.

Ở đây, này các tỳ-khưu, có hạng người căn bản tạo phước do bố thí trên một quy mô vừa, căn bản tạo phước do giới đức trên một quy mô vừa, nhưng không đạt được căn bản tạo phước do tu thiền. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sinh làm người có may mắn.

Ở đây, này các tỳ-khưu, có hạng người căn bản tạo phước do bố thí trên một quy mô to lớn, căn bản tạo phước do giới đức trên một quy mô to lớn, nhưng không đạt được căn bản tạo phước do tu thiền. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sinh cộng trú với chư thiên ở cõi trời của Tứ đại thiên vương. Tại đấy, Tứ đại thiên vương sau khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp do bố thí, sau khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp do giới đức, vượt qua các vị trời khác trên mười điểm: tuổi thọ, dung sắc, an lạc, danh tiếng, quyền lực, sắc, thanh, hương, vị, xúc.

Ở đây, này các tỳ-khưu, có hạng người căn bản tạo phước do bố thí trên một quy mô to lớn, căn bản tạo phước do giới đức trên một quy mô to lớn, nhưng không đạt được căn bản tạo phước do tu thiền. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sinh cộng trú với chư thiên ở cõi trời Đao-lợi (Tāvatiṃsa). Tại đấy, vua trời Đế-thích (Sakka) sau khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp do bố thí, sau khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp do giới đức, vượt qua các vị trời khác trên mười điểm: tuổi thọ, dung sắc, an lạc, danh tiếng, quyền lực, sắc, thanh, hương, vị, xúc.

[Tương tự được sinh cộng trú với chư thiên Dạ-ma (Yāma), chư thiên Đâu-suất-đà (Tusita), chư thiên ở cõi Hóa lạc, chư thiên ở cõi Tha hóa tự tại.]

Này các tỳ-khưu, có ba căn bản phước nghiệp này.

(AN 8:36)

 

(3) Những loại tín tâm tối thượng

Này các tỳ-khưu, có bốn lòng tin tối thượng này. Thế nào là bốn?

Này các tỳ-khưu, dù cho các loại hữu tình nào, không chân hay hai chân, bốn chân hay nhiều chân, có sắc hay không sắc, có tưởng hay không tưởng, hay phi tưởng phi phi tưởng, Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác được xem là tối thượng. Những ai đặt lòng tin vào đức Phật, họ đặt lòng tin vào sự tối thượng. Với những ai đặt lòng tin vào sự tối thượng, họ được quả dị thục tối thượng.

Này các tỳ-khưu, dù cho loại pháp hữu vi nào, Thánh đạo Tám ngành (Bát chi Thánh đạo) được xem là tối thượng, những ai đặt lòng tin vào Thánh đạo Tám ngành, họ đặt lòng tin vào sự tối thượng. Với những ai đặt lòng tin vào sự tối thượng, họ được quả dị thục tối thượng.

Này các tỳ-khưu, dù cho loại pháp nào, hữu vi hay vô vi, ly tham được xem là tối thượng trong tất cả pháp, tức là sự nhiếp phục kiêu mạn, sự nhiếp phục khát ái, sự nhổ lên tham ái, sự chặt đứt tái sinh, sự đoạn diệt tham ái, sự ly tham đoạn diệt, Niết-bàn. Những ai đặt lòng tin vào Pháp, họ đặt lòng tin vào sự tối thượng. Với những ai đặt lòng tin vào sự tối thượng, họ được quả dị thục tối thượng.

Này các tỳ-khưu, dù cho loại hội chúng nào, chúng Tăng đệ tử của Như Lai được xem là tối thượng trong tất cả hội chúng ấy. Đó là bốn đôi tám vị, chúng Tăng đệ tử của Thế Tôn đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là vô thượng phước điền ở đời. Những ai đặt lòng tin vào chúng Tăng, họ đặt lòng tin vào sự tối thượng. Với những ai đặt lòng tin vào sự tối thượng, họ được quả dị thục tối thượng.

Này các tỳ-khưu, đó là bốn lòng tin tối thượng.

Tin tưởng vào tối thượng,
Biết được Pháp tối thượng,
Tin tưởng Phật tối thượng,
Ðáng tôn trọng vô thượng.


Tin tưởng Pháp tối thượng,
Ly tham, an tịnh, lạc,
Tin tưởng Tăng tối thượng,
Là ruộng phước vô thượng.

Bố thí bậc tối thượng,
Phước tối thượng tăng trưởng,
Tối thượng về thọ mạng,
Dung sắc và danh văn,
Tối thượng về an lạc,
Tối thượng về sức mạnh.

Bậc trí thí tối thượng,
Định vào Pháp tối thượng,
Chư Thiên hay loài người,
Ðạt được hỷ tối thượng.

(AN 4:34)

 

3. BỐ THÍ

(1) Nếu chúng sinh biết quả dị thục của bố thí

Này các tỳ-khưu, nếu chúng sinh có thể biết như Ta đã biết về quả dị thục của sự san sẻ bố thí, họ sẽ không thụ hưởng nếu họ không bố thí, và uế nhiễm xan tham không có ám ảnh và an trú trong tâm của họ. Dù là miếng cuối cùng của họ, dù là miếng ăn tối hậu, họ sẽ không thọ hưởng nếu họ không san sẻ, khi có người cần được san sẻ. Nhưng này các tỳ-khưu, nếu chúng sinh không biết như Ta đã biết về quả dị thục của sự san sẻ bố thí, họ sẽ thụ hưởng, không có bố thí, và uế nhiễm xan tham ám ảnh và an trú trong tâm của họ.

(It 26; 18-19)

 

(2) Lý do để bố thí

Này các tỳ-khưu, có tám lý do để bố thí. Thế nào là tám? Vì lòng dục nên bố thí; vì sân hận nên bố thí; vì ngu si nên bố thí; vì sợ hãi nên bố thí; vì nghĩ rằng: “Ngày trước tổ tiên đã bố thí, đã làm. Ta không xứng đáng nếu ta bỏ phế truyền thống gia đình này” nên bố thí; vì nghĩ rằng: “Sau khi cho bố thí này, khi thân hoại mạng chung, sẽ được sinh lên thiện thú, thiên giới,” nên bố thí; vì nghĩ rằng: "Khi ta bố thí, tâm ta được tịnh tín, hân hoan, hỷ lạc được sinh,” nên bố thí; vì làm cho tâm trở nên cao quý, tâm được tô điểm, nên bố thí.

(AN 8:33)

 

(3) Quà tặng thức ăn

Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Koliya tại thị trấn tên là Sajjanela. Rồi Thế Tôn vào buổi sáng, đắp y cầm bát, đi đến nhà của bà Suppavāsā, người dân Koliya. Sau khi đến, Thế Tôn ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Rồi bà Suppavāsā, sau khi tự tay cúng dường Thế Tôn các món ăn loại cứng và loại mềm. Sau khi Thế Tôn ăn đã xong, tay đã rời khỏi bát, bà Suppavāsā đến ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với bà ấy như sau:

– Này Suppavāsā, vị thánh nữ đệ tử khi bố thí thức ăn, bố thí bốn sự cho những người nhận. Thế nào là bốn? Cho thọ mạng, cho dung sắc, cho an lạc, cho sức mạnh. Sau khi cho thọ mạng, người cho được chia phần thọ mạng, thuộc cõi trời hay cõi người. Sau khi cho dung sắc, người cho được chia phần dung sắc, thuộc cõi trời hay cõi người. Sau khi cho an lạc, người cho được chia phần an lạc, thuộc cõi trời hay cõi người. Sau khi cho sức mạnh, người cho được chia phần sức mạnh, thuộc cõi trời hay cõi người. Này Suppavāsā, khi vị thánh nữ đệ tử bố thí thức ăn, bố thí bốn sự này cho những người nhận.

(AN 4:57)

 

(4) Bố thí xứng bậc chân nhân

Này các tỳ-khưu, có năm loại bố thí này xứng bậc chân nhân. Thế nào là năm?

Bố thí có lòng tin, bố thí có kính trọng, bố thí đúng thời, bố thí với tâm không gượng ép, bố thí không làm thương tổn mình và người.

Này các tỳ-khưu, khi bố thí với lòng tin, quả dị thục của sự bố thí ấy đem lại kết quả là người ấy được giàu sang, đại phú, tài sản sung mãn; và người ấy đẹp trai, dễ nhìn, có thành tín và thành tựu dung sắc thù thắng như hoa sen.

Và này các tỳ-khưu, khi bố thí có cung kính, quả dị thục của sự bố thí ấy đem lại kết quả là người ấy được giàu sang, đại phú, tài sản sung mãn; và các con trai, các bà vợ, các người nô tỳ, các người đưa tin, các người làm công, những người ấy đều sẵn sàng vâng theo người ấy, họ lóng tai và phục vụ với tâm hiểu biết.

Và này các tỳ-khưu, khi bố thí đúng thời, quả dị thục của sự bố thí ấy đem lại kết quảlà người ấy được giàu sang, đại phú, tài sản sung mãn; và các vật dụng đến với người ấy đúng thời và sung túc.

Và này các tỳ-khưu, khi bố thí với tâm không gượng ép, quả dị thục của sự bố thí ấy đem lại kết quả là người ấy được giàu sang, đại phú, tài sản sung mãn; và hướng tâm thụ hưởng đầy đủ năm dục công đức.

Và này các tỳ-khưu, khi bố thí không làm thương tổn mình và người, quả dị thục của sự bố thí ấy đem lại kết quả là người ấy được giàu sang, đại phú, tài sản sung mãn; và tài sản của người ấy không bị tổn thất ở bất cứ nơi nào, từ lửa, từ nước, từ vua, từ ăn trộm, từ các người thù địch hay từ các người thừa tự.

Này các tỳ-khưu, có năm loại bố thí xứng bậc chân nhân này.

(AN 5:148)

 

(5) Giúp đỡ lẫn nhau

Này các tỳ-khưu, các người bà-la-môn và các gia chủ rất có lợi ích cho các thầy. Chính họ đã sắp đặt y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh cho các thầy. Này các tỳ-khưu, các thầy cũng rất có lợi ích cho các người bà-la-môn và gia chủ, vì các thầy thuyết pháp cho họ, pháp ấy sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa có văn, nói lên phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh. Như vậy, này các tỳ-khưu, phạm hạnh này được sống, do tương duyên với nhau, với mục đích vượt qua dòng nước mạnh, đoạn tận khổ đau.

(It 107)

 

(6) Thọ sinh do bố thí

Này các tỳ-khưu, có tám thọ sinh do bố thí. Thế nào là tám?

(1) Ở đây, này các tỳ-khưu, có người bố thí cho sa-môn hay bà-la-môn với đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương, dầu thoa, đồ nằm, trú xứ, đèn đuốc. Người ấy bố thí và mong hưởng quả. Thấy các sát-đế-lỵ đại phú hay các bà-la-môn đại phú, hay các gia chủ đại phú, sung túc, đầy đủ, thọ hưởng năm dục trưởng dưỡng, người ấy suy nghĩ như sau: “Mong rằng, sau khi thân hoại mạng chung, được sinh cọng trú với sát-đế-lỵ đại phú, hay với bà-la-môn đại phú, hay với gia chủ đại phú.” Người ấy móng tâm như vậy, trú tâm như vậy, tu tâm như vậy, tâm người ấy hướng đến hạ liệt, không tu tập hướng thượng, sau khi thân hoại mạng chung, được sinh cọng trú với sát-đế-lỵ đại phú, hay với bà-la-môn đại phú, hay với gia chủ đại phú. Ta nói rằng điều đó chỉ dành cho người có giới đức, không phải cho người ác giới; bởi vì do tâm thanh tịnh, người có giới đức được thành công điều mong muốn.

(2)-(7) Ở đây, này các tỳ-khưu, có người bố thí cho sa-môn hay bà-la-môn với đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương, dầu thoa, đồ nằm, trú xứ, đèn đuốc. Người ấy bố thí và mong hưởng quả. Người ấy nghe rằng chư thiên ở cõi trời Tứ đại thiên vương sống lâu, có dung sắc, được nhiều an lạc ... ở cõi trời Ba mươi ba ... ở cõi trời Dạ-ma ... ở cõi trời Ðâu-suất ... ở cõi trời Hóa lạc thiên ... ở cõi trời Tha hóa tự tại thiên sống lâu, có dung sắc, được nhiều an lạc. Người ấy mong muốn được tái sinh cộng trú với chư thiên ấy. Người ấy móng tâm như vậy, trú tâm như vậy, tu tâm như vậy, tâm người ấy hướng đến hạ liệt, không tu tập hướng thượng, sau khi thân hoại mạng chung, được sinh cộng trú với chư thiên ở cõi trời Tứ đại thiên vương ... ở cõi trời Ba mươi ba ... ở cõi trời Dạ-ma ... ở cõi trời Ðâu-suất ... ở cõi trời Hóa lạc thiên ... ở cõi trời Tha hóa tự tại thiên. Ta nói rằng điều đó chỉ dành cho người có giới đức, không phải cho người ác giới; bởi vì do tâm thanh tịnh, người có giới đức được thành công điều mong muốn.

(8) Ở đây, này các tỳ-khưu, có người bố thí cho sa-môn hay bà-la-môn với đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương, dầu thoa, đồ nằm, trú xứ, đèn đuốc. Người ấy bố thí và mong hưởng quả. Người ấy nghe rằng chư thiên ở cõi trời Phạm thiên sống lâu, có dung sắc, được nhiều an lạc. Người ấy mong muốn được tái sinh cộng trú với chư thiên ấy. Người ấy móng tâm như vậy, trú tâm như vậy, tu tâm như vậy, tâm người ấy hướng đến hạ liệt, không tu tập hướng thượng, sau khi thân hoại mạng chung, được sinh cộng trú với chư thiên ở cõi trời Phạm thiên. Ta nói rằng điều đó chỉ dành cho người có giới đức, không phải cho người ác giới; bởi vì do tâm thanh tịnh, người có giới đức được thành công điều mong muốn.

Này các tỳ-khưu, tám pháp này là tám pháp thọ sinh do bố thí.

(AN 8:35)

 

4. GIỚI ĐỨC

(1) Ngũ giới

Này các tỳ-khưu, có tám nguồn nước công đức là nguồn nước thiện, món ăn cho an lạc, là nhân sinh thiên, quả dị thục an lạc, đưa đến cõi trời, dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc, an lạc. Thế nào là tám?

Ở đây, này các tỳ-khưu, vị thánh đệ tử quy y Phật. Này các tỳ-khưu, đây là nguồn nước công đức thứ nhất, là nguồn nước thiện, món ăn cho an lạc, là nhân sinh thiên, quả dị thục an lạc, đưa đến cõi trời, dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc, an lạc.

Lại nữa, này các tỳ-khưu, vị thánh đệ tử quy y Pháp. Này các tỳ-khưu, đây là nguồn nước công đức thứ hai, là nguồn nước thiện ... hạnh phúc, an lạc.

Lại nữa, này các tỳ-khưu, vị thánh đệ tử quy y Tăng. Này các tỳ-khưu, đây là nguồn nước công đức thứ ba, là nguồn nước thiện ... hạnh phúc, an lạc.

Này các tỳ-khưu, có năm bố thí này, là đại bố thí, được biết là tối sơ, được biết là lâu ngày, được biết là truyền thống cổ xưa, trước không tạp loạn, hiện tại không tạp loạn, tương lai không tạp loạn, không bị những sa-môn, những bà-la-môn có trí khinh thường. Thế nào là năm?

Ở đây, này các tỳ-khưu, vị thánh đệ tử đoạn tận sát sinh, từ bỏ sát sinh. Này các tỳ-khưu, vị Thánh đệ tử từ bỏ sát sinh, đem cho không sợ hãi cho vô lượng chúng sinh, đem cho không hận thù cho vô lượng chúng sinh, đem cho không hại cho vô lượng chúng sinh; sau khi cho vô lượng chúng sinh, không sợ hãi, không hận thù, không hại, vị ấy sẽ được san sẻ vô lượng không sợ hãi, không hận thù, không hại. Này các tỳ-khưu, đây là bố thí thứ nhất, là đại bố thí, được biết là tối sơ, được biết là lâu ngày ... không bị những sa-môn, những bà-la-môn có trí khinh thường. Này các tỳ-khưu, đây là nguồn nước công đức thứ tư, là nguồn nước thiện ... dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc, an lạc.

Lại nữa, này các tỳ-khưu, vị thánh đệ tử đoạn tận lấy của không cho, từ bỏ lấy của không cho ... Này các tỳ-khưu, đây là bố thí thứ hai, là đại bố thí, ... Này các tỳ-khưu, đây là nguồn nước công đức thứ năm, là nguồn nước thiện ... dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc, an lạc.

Lại nữa, này các tỳ-khưu, vị thánh đệ tử đoạn tận tà hạnh trong các dục, từ bỏ tà hạnh trong các dục ... Này các tỳ-khưu, đây là bố thí thứ ba, là đại bố thí, ... Này các tỳ-khưu, đây là nguồn nước công đức thứ sáu, là nguồn nước thiện ... dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc, an lạc.

Lại nữa, này các tỳ-khưu, vị thánh đệ tử đoạn tận nói láo, từ bỏ nói láo ... Này các tỳ-khưu, đây là bố thí thứ tư, là đại bố thí, ... Này các tỳ-khưu, đây là nguồn nước công đức thứ bảy, là nguồn nước thiện ... dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc, an lạc.

Lại nữa, này các tỳ-khưu, vị thánh đệ tử đoạn tận đắm say rượu men, rượu nấu, từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu. Này các tỳ-khưu, vị thánh đệ tử đoạn tận đắm say rượu men, rượu nấu, từ bỏ đắm say rượu men rượu nấu, đem cho không sợ hãi cho vô lượng chúng sinh, đem cho không hận thù cho vô lượng chúng sinh, đem cho không hại cho vô lượng chúng sinh; sau khi cho vô lượng chúng sinh, không sợ hãi, không hận thù, không hại, vị ấy được san sẻ vô lượng không sợ hãi, không hận thù, không hại. Này các tỳ-khưu, đây là bố thí thứ năm, là đại bố thí, được biết là tối sơ, được biết là lâu ngày ... không bị những Sa-môn, những bà-la-môn có trí khinh thường. Này các tỳ-khưu, đây là nguồn nước công đức thứ tám, là nguồn nước thiện ... dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc, an lạc.

Này các tỳ-khưu, tám nguồn nước công đức này là nguồn nước thiện, món ăn cho an lạc, làm nhân sinh thiên, quả dị thục an lạc, đưa đến cõi trời, dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc, an lạc.

(AN 8:39)

 

(2) Giữ bát quan trai giới

Này các tỳ-khưu, ngày trai giới được thành tựu bởi tám chi phần, nếu được thực hành thì có được quả lớn, có lợi ích lớn, có rực rỡ lớn, có biến mãn lớn. Như thế nào là ngày trai giới được thành tựu bởi tám chi phần?

Ở đây, này các tỳ-khưu, vị thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán đoạn tận sát sinh, từ bỏ sát sinh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sinh. Hôm nay, đêm nay và ngày nay, ta cũng đoạn tận sát sinh, từ bỏ sát sinh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sinh. Với chi phần này, Ta theo gương vị A-la-hán, ta sẽ thực hành trai giới.” Ðây là chi phần thứ nhất được thành tựu.

“Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán đoạn tận lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp. Hôm nay, đêm nay và ngày nay, ta cũng đoạn tận lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp. Với chi phần này, Ta theo gương vị A-la-hán, ta sẽ thực hành ngày trai giới.” Ðây là chi phần thứ hai được thành tựu.

“Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán đoạn tận phi phạm hạnh, thực hành phạm hạnh, sống xa lánh, từ bỏ dâm dục hèn hạ. Hôm nay, đêm nay và ngày nay, ta cũng đoạn tận phi phạm hạnh, thực hành phạm hạnh, sống xa lánh, từ bỏ dâm dục hèn hạ. Với chi phần này, Ta theo gương vị A-la-hán, ta sẽ thực hành ngày trai giới.” Ðây là chi phần thứ ba được thành tựu.

“Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán đoạn tận nói láo, từ bỏ nói láo, nói những lời chân thật, y chỉ sự thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không lường gạt thế gian. Hôm nay, đêm nay và ngày nay, ta cũng đoạn tận nói láo, từ bỏ nói láo, nói những lời chân thật, y chỉ sự thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không lường gạt thế gian. Với chi phần này, Ta theo gương vị A-la-hán, ta sẽ thực hành ngày trai giới.” Ðây là chi phần thứ tư được thành tựu.

“Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán đoạn tận đắm say men rượu men, rượu nấu, từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu. Hôm nay, đêm nay và ngày nay, ta cũng đoạn tận đắm say men rượu men, rượu nấu, từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu. Với chi phần này, Ta theo gương vị A-la-hán, ta sẽ thực hành ngày trai giới.” Ðây là chi phần thứ năm được thành tựu.

“Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán dùng mỗi ngày một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ không ăn ban đêm, từ bỏ ăn phi thời. Hôm nay, đêm này và ngày nay, ta cũng dùng mỗi ngày một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ không ăn ban đêm, từ bỏ ăn phi thời. Với chi phần này, Ta theo gương vị A-la-hán, ta sẽ thực hành ngày trai giới.” Ðây là chi phần thứ sáu được thành tựu.

“Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ không đi xem múa, hát, nhạc, diễn kịch, không trang sức bằng vòng hoa, hương liệu, dầu thoa và các thời trang. Hôm nay, đêm nay và ngày nay, ta cũng từ bỏ không đi xem múa, hát, nhạc diễn kịch, không trang sức bằng vòng hoa, hương liệu, dầu thoa và các thời trang. Với chi phần này, Ta theo gương vị A-la-hán, ta sẽ thực hành ngày trai giới.” Ðây là chi phần thứ bảy được thành tựu.

“Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán đoạn tận, không dùng các giường cao, giường lớn, từ bỏ không dùng các giường cao, giường lớn. Hôm nay, đêm nay và ngày nay, ta cũng đoạn tận, không dùng các giường cao, giường lớn, từ bỏ không dùng các giường cao, giường lớn. Với chi phần này, Ta theo gương vị A-la-hán, ta sẽ thực hành ngày trai giới.” Ðây là chi phần thứ tám được thành tựu.

Này các tỳ-khưu, khi ngày trai giới được thành tựu bởi tám chi phần, nếu được thực hành thì có được quả lớn, có lợi ích lớn, có rực rỡ lớn, có biến mãn lớn. Ðến như thế nào là quả lớn? Ðến như thế nào là lợi ích lớn? Ðến như thế nào là rực rỡ lớn? Ðến như thế nào là biến mãn lớn?

Ví như, này các tỳ-khưu, có người áp đặt chủ quyền cai trị trên mười sáu quốc độ lớn này tràn đầy bảy báu, như Aṅga, Magadha, Kāsi, Kosala, Vajjī, Malla, Cetī, Vaṃsa, Kurū, Pañcāla, Maccha, Sūrasena, Assaka, Avantī, Gandhāra, Kamboja. Nhưng chủ quyền ấy không bằng một phần mười sáu của một ngày trai giới được thành tựu bởi tám chi phần. Vì cớ sao? Nhỏ nhoi thay, này các tỳ-khưu, là quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư thiên.

Năm mươi năm của một đời người bằng một đêm một ngày của chư thiên ở cõi trời của Tứ đại thiên vương. Ba mươi ngày ấy làm thành một tháng, mười hai tháng ấy làm thành một năm. Năm trăm năm ấy làm thành thọ mạng của chư thiên ở cõi trời của Tứ đại thiên vương. Sự kiện này có xảy ra, này các tỳ-khưu: “Ở đây, có người đàn bà hay đàn ông, sau khi thực hành trai giới được thành tựu bởi tám chi phần, sau khi thân hoại mạng chung, được sinh cộng trú với chư thiên ở cõi trời của Tứ đại thiên vương.” Do vậy, Ta nói: “Nhỏ nhoi thay, này các tỳ-khưu, là quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư thiên.”

Một trăm năm của một đời người bằng một đêm một ngày của chư thiên cõi trời Ba mươi ba ... Một ngàn năm ấy làm thành thọ mạng của chư thiên cõi trời Ba mươi ba ... Hai trăm năm của một đời người bằng một đêm một ngày của chư thiên cõi trời Yāma ... Hai ngàn năm ấy làm thành thọ mạng của chư thiên cõi trời Yāma ... Bốn trăm năm của một đời người bằng một đêm một ngày của chư thiên cõi trời Tusita ... Bốn ngàn năm ấy làm thành thọ mạng của chư thiên cõi trời Tusita ... Tám trăm năm của một đời người bằng một đêm một ngày của chư thiên cõi trời Hóa lạc. Tám ngàn năm ấy làm thành thọ mạng của chư thiên cõi trời Hóa lạc ... Một ngàn sáu trăm năm của một đời người bằng một đêm một ngày của chư thiên cõi trời Tha hóa tự tại. Ba mươi ngày ấy làm thành một tháng, mười hai tháng ấy làm thành một năm.  Mười sáu ngàn năm chư thiên của năm ấy làm thành thọ mạng của chư thiên cõi trời Tha hóa tự tại. Sự kiện này có xảy ra, này các tỳ-khưu: “Ở đây, có người đàn bà hay đàn ông, sau khi thực hành ngày trai giới được thành tựu bởi tám chi phần, sau khi thân hoại mạng chung, được sinh cộng trú với chư thiên cõi trời Tha hóa tự tại.” Do vậy, Ta nói: “Nhỏ nhoi thay, này các tỳ-khưu, là quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư thiên.”

(AN 8:41)

 

5. HÀNH THIỀN

(1) Phát triển tâm từ

Này các tỳ-khưu, phàm có những phước nghiệp sự nào đưa đến sinh y, tất cả những nghiệp sự ấy không bằng một phần mười sáu tâm từ giải thoát. Chỉ có tâm từ giải thoát vượt trội những nghiệp sự ấy, chói sáng, bừng sáng và rực sáng.

Này các tỳ-khưu, ví như ánh sáng của chùm sao, tất cả ánh sáng ấy không bằng một phần mười sáu ánh sáng của mặt trăng. Ánh sáng của mặt trăng vượt trội ánh sáng của chùm sao chói sáng, bừng sáng, và rực sáng. Cũng vậy, này các tỳ-khưu, phàm có những phước nghiệp sự nào đưa đến sinh y, tất cả những nghiệp sự ấy không bằng một phần mười sáu tâm từ giải thoát. Chỉ có tâm từ giải thoát vượt trội những nghiệp sự ấy, chói sáng, bừng sáng và rực sáng.

Này các tỳ-khưu, ví như vào tháng cuối mùa mưa, vào mùa thu, trên bầu trời thanh tịnh, các mây được quét sạch, mặt trời mọc lên trên bầu trời, phá tan mọi tối tăm ở hư không, chói sáng, bừng sáng và rực sáng. Cũng vậy, này các tỳ-khưu, phàm có những phước nghiệp sự nào đưa đến sinh y, tất cả những nghiệp sự ấy không bằng một phần mười sáu tâm từ giải thoát. Chỉ có tâm từ giải thoát vượt trội những nghiệp sự ấy, chói sáng, bừng sáng và rực sáng.

Ví như này các tỳ-khưu, khi đêm đã gần tàn, sao mai chói sáng, bừng sáng và rực sáng. Cũng vậy, này các tỳ-khưu, phàm có những phước nghiệp sự nào đưa đến sinh y, tất cả những nghiệp sự ấy không bằng một phần mười sáu tâm từ giải thoát. Chỉ có tâm từ giải thoát vượt trội những nghiệp sự ấy, chói sáng, bừng sáng và rực sáng.

(It 27; 19-21)

 

(2) Bốn phạm trú

22. Thanh niên bà-la-môn Subha, con của Todeyya, thưa với Thế Tôn:

– Thưa Tôn giả Gotama, tôi nghe như sau: “Sa-môn Gotama biết con đường đưa đến cộng trú với Phạm thiên.”

– Này thanh niên bà-la-môn, ông nghĩ thế nào? Làng Naḷakāra có gần đây không? Có phải làng Naḷakāra không xa ở đây?

– Thưa vâng, Tôn giả, làng Naḷakāra ở gần đây. Làng Naḷakāra không xa ở đây.

– Này thanh niên bà-la-môn, ông nghĩ thế nào? Ở đây, có người sinh trưởng tại làng Naḷakāra, khi người ấy vừa khỏi làng Naḷakāra, có người tới hỏi người ấy con đường đưa đến làng Naḷakāra. Này thanh niên bà-la-môn, người sinh trưởng tại làng Naḷakāra ấy phân vân hay ngập ngừng khi được hỏi về con đường đến làng Naḷakāra?

– Thưa không, Tôn giả Gotama. Vì sao vậy? Thưa Tôn giả Gotama, vì người ấy sinh trưởng tại làng Naḷakāra. Người ấy biết rõ tất cả con đường đưa đến làng Naḷakāra.

– Tuy vậy, này thanh niên bà-la-môn, rất có thể người sinh trưởng tại làng Naḷakāra này khi được hỏi con đường đưa đến làng Naḷakāra còn có thể phân vân hay ngập ngừng. Nhưng Như Lai thì không vậy, khi được hỏi về Phạm thiên giới, hay về con đường đưa đến Phạm thiên giới, Như Lai không phân vân hay ngập ngừng. Và này thanh niên bà-la-môn, Ta biết Phạm thiên giới và con đường đưa đến Phạm thiên giới, và Ta cũng biết phải thành tựu như thế nào để được sinh vào Phạm thiên giới.

23. – Thưa Tôn giả Gotama, con có nghe như sau: “Sa-môn Gotama thuyết dạy con đường đưa đến cộng trú với Phạm thiên.” Tốt lành thay, nếu Tôn giả Gotama thuyết giảng cho con, con đường đưa đến cộng trú với Phạm thiên.

– Vậy này thanh niên bà-la-môn, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.

– Thưa vâng, Tôn giả.

Thanh niên bà-la-môn Subha Todeyyaputta vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn giảng như sau:

24. – Và này thanh niên bà-la-môn, thế nào là con đường đưa đến cộng trú với Phạm thiên? Ở đây, này thanh niên bà-la-môn, tỳ-khưu an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại vô biên, không hận, không sân. Này thanh niên bà-la-môn, khi tâm từ giải thoát được tu tập như vậy, thì hành động giới hạn không có trú ở nơi đây, không có dừng lại ở nơi đây. Ví như, này thanh niên bà-la-môn, một người lực sĩ thổi tù và làm cho bốn phương nghe được, không gì khó khăn; cũng vậy, này thanh niên bà-la-môn, khi tâm từ giải thoát được tu tập như vậy, thì hành động giới hạn không có trú ở nơi đây, không có dừng lại ở nơi đây. Này thanh niên bà-la-môn, đây là con đường đưa đến cộng trú với Phạm thiên.

25-27. Lại nữa, này thanh niên bà-la-môn, vị tỳ-khưu biến mãn một phương với tâm câu hữu với bi ... với tâm câu hữu với hỷ ... với tâm câu hữu với xả, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Này thanh niên bà-la-môn, khi xả tâm giải thoát được tu tập như vậy, thì hành động giới hạn không có trú ở nơi đây, không có dừng lại ở nơi đây. Ví như, này thanh niên bà-la-môn, một người lực sĩ thổi tù và làm cho bốn phương nghe được, không gì khó khăn; cũng vậy, này thanh niên bà-la-môn, khi xả tâm giải thoát được tu tập như vậy, thì hành động giới hạn không có trú ở nơi đây, không có dừng lại ở nơi đây. Này thanh niên bà-la-môn, đây là con đường đưa đến cộng trú với Phạm thiên.

(MN 99: Kinh Subha)

 

(3) Tuệ quán là thù thắng

[Đức Phật nói với ông Cấp Cô Độc (Anāthapinḍịka):]

– Thuở xưa, này gia chủ, có một vị bà-la-môn tên là Velāma. Vị ấy bố thí rộng lớn như sau: Vị ấy bố thí 84.000 bát bằng vàng đựng đầy bạc; vị ấy bố thí 84.000 bát bằng bạc đựng đầy vàng; vị ấy bố thí 84.000 bát bằng đồng đựng đầy châu báu; vị ấy bố thí 84.000 con voi, cỗ xe, bò sữa, thiếu nữ, giường nằm, vải mịn màng nhất, đồ ăn, đồ uống, các loại dầu thoa.

Dù cho bà-la-môn Velāma bố thí có rộng lớn, nếu có ai bố thí cho một người có chánh kiến, bố thí này có quả lớn hơn quả bố thí kia. Dù cho bà-la-môn Velāma bố thí có rộng lớn như bố thí cho 100 người có chánh kiến, nếu có ai bố thí cho một vị Nhất lai, bố thí này có quả lớn hơn bố thí kia. Dù cho bà-la-môn Velāma bố thí rộng lớn như bố thí cho 100 vị Nhất lai, nếu có ai bố thí cho một vị Bất lai, bố thí này có quả lớn hơn bố thí kia. Dù cho bà-la-môn Velāma bố thí có rộng lớn như bố thí cho 100 vị Bất lai, nếu có ai bố thí cho một vị A-la-hán, bố thí này có quả lớn hơn bố thí kia. Dù cho bà-la-môn Velāma bố thí có rộng lớn như bố thí cho 100 vị A-la-hán, nếu có ai bố thí cho một vị Phật Ðộc Giác, bố thí này có quả lớn hơn bố thí kia. Dù cho bà-la-môn Velāma bố thí rộng lớn cho 100 vị Phật Ðộc Giác, nếu có ai bố thí cho một vị Phật Chánh Ðẳng Giác, bố thí này có quả lớn hơn bố thí kia. Dù cho bà-la-môn Velāma bố thí có rộng lớn ... cho chúng tỳ-khưu với đức Phật là vị thượng thủ và xây dựng một tinh xá cho chúng Tăng trong bốn phương ... có tâm tịnh tín đến qui y Phật, Pháp và Tăng và chấp nhận năm học pháp: từ bỏ sát sinh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ không đắm say rượu men, rượu nấu ... tu tập tâm từ ngay trong khoảnh khắc vắt sữa bò, bố thí này có quả lớn hơn bố thí kia. Và nếu có ai dù chỉ trong một khoảnh khắc búng ngón tay, tu tập tưởng về vô thường, bố thí này có quả lớn hơn bố thí kia.

(AN 9:20, lược trích)

 * * *

 

Nguồn:

1)     In the Buddha’s Words - An Anthology of Discourses from the Pali Canon, Bhikkhu Bodhi, 512 pages, US$18.95.
 ISBN 9780861714919

  http://www.wisdompubs.org/book/buddha%E2%80%99s-words  
   http://www.bookdepository.com/Buddhas-Words-Bhikkhu-Bodhi/9780861714919

2)     E-book: http://budsas.net/sach/en43.zip

 [ Home ]

30-08-2015