Đàm luận Phật Pháp
Tỉnh thức trước bệnh tật và cái
chết
23. TIẾN TRÌNH NHẬP THIỀN CỦA ĐỨC PHẬT TRƯỚC KHI DIỆT ĐỘ
- 323 -
Lời Phật dạy trong kinh văn nguyên
thủy
XXIII 23. TIẾN TRÌNH
NHẬP THIỀN CỦA ĐỨC PHẬT TRƯỚC KHI DIỆT ĐỘ XXIII.1 GIỚI THIỆU Trong chương này, Đức Phật tiếp tục giảng dạy với lòng từ bi ngay
cả trong những giờ phút cuối cùng trước khi nhập diệt. Các đoạn kinh
văn được dịch dưới đây tường thuật câu chuyện Ngài an ủi Trưởng lão
Ānanda đang sầu khổ và sau đó Ngài chỉ dạy các môn đệ tụ tập chung
quanh. Đoạn kinh văn đầu tiên có những điểm tương tự như kinh văn
trình bày trong Chương 14 về lý do khiến ngài Ānanda buồn rầu sầu
khổ và Đức Phật đã an ủi ngài, nhưng điểm khác biệt ở đây là sự kiện
Đức Phật sắp sửa nhập diệt là lý do làm cho ngài Ānanda đau buồn.
Lời khuyên dạy của Đức Phật là một ví dụ quý báu về cách đối phó với
sự sầu khổ này. Để giảm bớt sự tập trung quá mức về sự kiện vị thầy
yêu quý sắp sửa ra đi, Ngài nhắc nhở Trưởng lão Ānanda hồi tưởng lại
những ích lợi đa dạng mà Trưởng lão đã có được thông qua sự thân cận
lâu dài với Đức Phật. Tương tự như thế, sự mất mát sắp sửa xảy ra
của người mà ta thương yêu có thể được bù đắp bằng cách nuôi dưỡng
trân quý, tri ân về những kinh nghiệm tích cực mà ta đã từng chia sẻ
với người ấy trong quá khứ. Hoạt động giảng dạy của Đức Phật trong đoạn kinh văn tiếp theo bổ
sung cho ví dụ về ông Citta trong Chương 22, trong đó bệnh nhân nằm
trên giường cận kề cái chết vẫn có thể truyền dạy cho những người
chung quanh. Cũng như ông Citta qua đời sau khi giảng dạy cho họ
hàng của ông, Đức Phật nhập diệt sau khi có lời dạy cuối cùng cho
các vị đệ tử tụ tập chung quanh. Hai đoạn kinh văn được dịch dưới đây là từ bài kinh trong Trường
A-hàm (DĀ 2), tương ứng với Đại kinh Bát-niết-bàn của Trường bộ (DN
16). Ngoài ra còn có các đoạn kinh tương tự trong Tăng nhất A-hàm,
trong một bài kinh dạng Sanskrit và một số bản Hán dịch riêng rẻ,
ghi lại những sự kiện cuối cùng trong cuộc đời của Đức Phật. Thật
ra, sau đoạn kinh văn đầu tiên, Đại kinh Bát-niết-bàn và các bài
kinh tương ứng ghi thêm các câu chuyện khác trước khi tường thuật về
lời giảng dạy cuối cùng của Đức Phật cho các vị đệ tử và tiến trình
nhập thiền của Ngài trước khi diệt độ. Ở đây, tôi chỉ trích dịch hai
câu chuyện – về sự đau buồn sầu khổ của ngài Ānanda và sau đó là
những lời dạy cuối cùng và tiến trình nhập thiền của Đức Phật.
XXIII.2 KINH VĂN DĀ 2 (…) Lúc bấy giờ, A-nan (Ānanda)
đứng hầu sau Phật, không tự ngăn nổi bi cảm nên vỗ giường than
khóc, rằng: “Như Lai diệt độ sao mà vội thế! Thế Tôn diệt độ sao
mà vội thế! Đại pháp chìm lặng sao nhanh quá! Con mắt thế gian
diệt mất thì chúng sinh suy đọa lâu dài! Ta nhờ ơn Phật xuất gia
nay chỉ mới được lên bậc học địa, tu nghiệp chưa thành mà Như
Lai đã diệt độ!” Khi ấy Ðức Thế Tôn dù biết nhưng vẫn hỏi: “Tỳ-khưu A-nan đâu
rồi?” Các tỳ-khưu bạch Phật: “Tỳ-khưu A-nan đang đứng ở sau
Phật, không tự ngăn nổi bi cảm nên vỗ giường than khóc, rằng:
‘Như Lai diệt độ sao mà vội thế! Đại pháp chìm lặng sao nhanh
quá! Con mắt thế gian diệt mất thì chúng sinh suy đọa lâu dài!
Ta nhờ ơn Phật xuất gia nay chỉ mới được lên bậc học địa, tu
nghiệp chưa thành mà Như Lai đã diệt độ!’” Phật bảo A-nan: “Thôi thôi, A-nan, chớ có buồn phiền than
khóc. Từ trước đến nay ông hầu hạ Ta với cử chỉ từ hòa vô lượng,
ngôn ngữ từ hòa vô lượng và ý nghĩ từ hòa vô lượng, không sao
xiết kể. Này A-nan, ấy là ông đã cúng dường Ta, công đức rất
lớn. Nếu có sự cúng dường nào của chư thiên, Ma vương, Phạm
thiên, sa-môn và bà-la-môn cũng không sao sánh bằng được. Ông
hãy nỗ lực hơn nữa, ngày thành đạo không còn bao lâu nữa!” (…) [Đức Phật nói]: “Thế nên các tỳ-khưu chớ có phóng dật. Ta nhờ
không phóng dật mà thành Chánh giác. Vô lượng điều lành toàn là
nhờ không phóng dật mà có được. Hết thảy vạn vật đều vô thường.”
Đó là lời dạy cuối cùng của Như Lai. Thế rồi, Thế Tôn nhập sơ thiền; rồi từ sơ thiền xuất ra, nhập
nhị thiền; từ nhị thiền xuất ra, nhập tam thiền; từ tam thiền
xuất ra, nhập tứ thiền. Rồi Ngài tứ thiền xuất ra, nhập không xứ định; từ không xứ
định xuất ra, nhập thức xứ định; từ thức xứ định xuất ra, nhập
vô sở hữu xứ định; từ vô sở hữu xứ định xuất ra, nhập phi tưởng
phi phi tưởng xứ định; từ phi tưởng phi phi tưởng xứ định xuất
ra, nhập diệt thọ tưởng định. Lúc ấy A-nan hỏi A-na-luật (Anuruddha):
“Thế Tôn đã nhập Niết-bàn rồi chăng?” A-na-luật nói: “Chưa, A-nan. Thế Tôn hiện đang ở trong diệt
thọ tưởng định. Lúc trước khi được ở gần Phật, tôi được nghe
Ngài nói rằng Ngài sẽ nhập Niết-bàn khi xuất ra từ tứ thiền.”
Rồi Thế Tôn từ diệt thọ tưởng định xuất ra, nhập phi tưởng
phi phi tưởng định; từ phi tưởng phi phi tưởng định xuất ra,
nhập vô sở hữu định; từ vô sở hữu định xuất ra, nhập thức xứ
định; từ thức xứ định xuất ra, nhập không xứ định. Rồi Ngài từ không xứ định xuất ra, nhập tứ thiền; từ tứ thiền
xuất ra, nhập tam thiền; từ tam thiền xuất ra, nhập nhị thiền;
từ nhị thiền xuất ra, nhập sơ thiền. Rồi Ngài từ sơ thiền xuất ra, nhập nhị thiền; từ nhị thiền
xuất ra, nhập tam thiền; từ tam thiền xuất ra, nhập tứ thiền.
Rồi từ tứ thiền xuất ra, Phật nhập Niết-bàn. XXIII.3 THẢO LUẬN Lời dạy cuối cùng của Đức Phật trong bài kinh được dịch ở trên
nhấn mạnh về sự vô thường của mọi pháp. Bài kinh tương đương trong
Trường bộ và các bản kinh Sanskrit cũng có những điểm tương tự. Theo
cách này, dường như Đức Phật dùng sự nhập diệt của Ngài để dạy các
đệ tử, giúp cho các vị ấy nhận thức rõ ràng rằng quán tưởng về vô
thường là tâm điểm khi chứng kiến sự ra đi của Ngài. Quán tưởng
tương tự như thế cũng cần được thực hiện khi chúng ta chứng kiến
cảnh qua đời của bất cứ người nào khác. Thật thế, quán tường về vô
thường có thể xem như là điểm hội tụ của các quan điểm khác nhau để
nuôi dưỡng tuệ giác về bệnh tật và cái chết, đã được trình bày trong
các chương trước. Có thể xem như là chìa khóa để mở kho báu của trí
tuệ giải thoát, quán soi về vô thường là điểm trọng yếu trong lời
dạy cuối cùng của Đức Phật. Sau khi nhắc nhở về tầm quan trọng của sự vô thường như là một
nhận thức quan trọng cần phải ghi nhớ, trong bài kinh nêu trên, Đức
Phật thể hiện lần cuối cùng sự vượt trội của một tâm ý trưởng thành
về thiền định ngay cả trong giây phút lâm chung, từ đó ghi lại những
lợi ích của sự tu tập tinh tấn, cũng được đề cập trong lời khuyên
bảo cuối cùng. Sự hành thiền cuối cùng của Đức Phật là một tiến
trình bao gồm toàn bộ các cấp độ định tâm được công nhận trong tư
tưởng Phật giáo Sơ kỳ. Tiến trình này bắt đầu bằng bốn bậc thiền-na
(jhāna) đầu tiên, như được liệt kê dưới đây, kèm theo các đặc
tính chính yếu: • Sơ thiền: hỷ và lạc sinh ra từ sự ly dục (hỷ và lạc do ly
dục sinh), Thiền-na đầu tiên trong bốn bậc thiền này được đặc trưng bởi sự
hiện diện của một mức độ tinh tế của ứng dụng của tầm và tứ,
vitakka và vicāra, cũng như qua thể nghiệm của hỷ và lạc
sinh ra từ sự ly dục và cách ly với thế giới bên ngoài. Với thiền-na
thứ hai, tầm và tứ được loại bỏ, với kết quả là sự thể nghiệm hỷ và
lạc sinh ra từ sự định tâm. Với thiền-na thứ ba, hỷ lắng xuống và
chỉ còn có lạc. Yếu tố niệm, lúc nào cũng có mặt xuyên suốt trong
tiến trình hành thiền, trở nên nổi bật tại thời điểm này, được xem
như là một tính năng đặc biệt ở cấp độ thiền-na này. Với thiền-na
thứ tư, ngay cả lạc cũng dần dần tan biến, và kết quả là sự thể
nghiệm một trạng thái tâm ổn cố trong xả và đồng thời thể nghiệm một
trạng thái niệm thanh tịnh tuyệt vời. Một khi tâm đạt được mức độ làm chủ pháp thiền này, hành giả có
thể trau dồi bốn cấp độ thiền-na vô sắc. Các cấp độ này dựa trên mức
tâm đạt được ở tứ thiền. Chứng đạt liên tiếp của các cấp độ ấy diễn
ra qua tinh chế đối tượng (xứ) của sự định tâm: • Không vô biên xứ, Với thiền-na vô sắc đầu tiên, đề mục trước đó dùng để tu luyện
bốn thiền-na sắc giới bị bỏ lại và thay thế bằng ý niệm về khoảng
không gian vô hạn. Tiếp theo đó, hành giả hướng đến tâm thức thể
nghiệm không gian vô biên đó, tạo ra kết quả là thể nghiệm được tâm
thức vô biên và dùng đó làm đề mục để nhập vào mức thiền-na thứ sáu.
Chú tâm vào tánh không và sự vắng lặng của tâm thức, hành giả thể
nghiệm được tính vô sở hữu và mức thiền-na thứ bảy. Tinh chế dần dần
của tưởng đưa đến thể nghiệm sâu sắc hơn, cho đến cấp độ mà tưởng
không còn hoạt động đầy đủ nữa. Kết quả là hành giả không hoàn toàn
nhận thức mà cũng không hoàn toàn không có nhận thức. Đó là thiền-na
thứ tám. Trong giờ phút cận kề nhập diệt, kinh văn ghi lại là Đức Phật đã
thông qua tất cả tám bậc thiền-na rồi tiếp tục tiến vào giai đoạn
cao nhất của thiền định, đó là cấp độ không còn thọ và tưởng (diệt
thọ tưởng định). Như đã thảo luận ở các Chương 6 và 7, ngài
Anuruddha và ngay cả Đức Phật đã không dùng đến khả năng nhập vào
diệt thọ tưởng định khi thân thể đau đớn, mà các ngài chọn an trú
trong bốn niệm xứ (satipaṭṭhānas). Trong bài kinh ở chương
này, Đức Phật cũng chọn không nhập diệt ở trạng thái diệt thọ tưởng
định. Thật vậy, chính ngài Anuruddha là người chỉ cho ngài Ānanda
biết về điểm này, vì ngài Ānanda đã có ấn tượng rằng Đức Phật đã
nhập diệt tại thời điểm đó. Thay vì nhập diệt ở mức thiền-na diệt thọ tưởng, Đức Phật lần
lượt lui về các cấp độ thiền-na thấp hơn cho đến thiền-na đầu tiên.
Khả năng đắc tất cả các bậc thiền theo thứ tự tăng lên và giảm xuống
chứng tỏ Ngài thành thạo, làm chủ được tiến trình thiền định. Từ sơ
thiền, một lần nữa Đức Phật bắt đầu nhập thiền tăng tiến cho đến tứ
thiền. Ngay sau khi thoát ra tứ thiền, Ngài nhập diệt. Ngài nhập
diệt trong một trạng thái không những với mức tâm định sâu sắc, mà
còn với mức độ hoàn toàn thanh tịnh của niệm kết hợp với xả. Như thế, tiến trình nhập thiền của Đức Phật cho chúng ta thấy
được hai điều. Thứ nhất, mức độ thành thạo trong nhập thiền là kết
quả của sự tu luyện tinh tấn trước đó. Ngay khi cận kề cái chết, Đức
Phật đã chứng tỏ cho thấy Ngài có một mức độ tự chủ cao cấp để có
thể thông qua toàn bộ các bậc thiền, theo thứ tự tăng lên và giảm
xuống. Thứ hai, với sự thành thạo thể nhập các bậc thiền-na, Ngài
chọn nhập diệt trong trạng thái tâm trí với niệm đặc biệt hoàn toàn
thanh tịnh. Đây là phù hợp với chủ đề chung, xuyên suốt trong các
chương khác của cuốn sách này, lúc nào cũng nêu rõ tiềm năng và tầm
quan trọng của chánh niệm khi đối diện trước bệnh tật và cái chết.
Niệm là một phẩm chất mà hành giả cần phải được nuôi dưỡng, trau
dồi, nhất là khi trãi qua đau đớn hay sầu khổ, khi chăm sóc kẻ khác,
hay trong giờ phút lâm chung của chính mình, từ những bước đầu tiên
trên con đường tu tập cho đến thời điểm cuối cùng của cuộc đời. Tóm lại, lời dạy và tiến trình hành thiền cuối cùng của Đức Phật
nêu rõ tầm quan trọng của sự nhận thức về sự vô thường và về phát
triển niệm, cả hai cần phải nỗ lực tu tập. Làm thế nào để tu dưỡng
niệm một cách siêng năng cần mẫn liên quan đến khía cạnh đe dọa nhất
của sự vô thường – cái chết của chính mình, là chủ đề của chương
tiếp theo. * * *
1-title.jpg
1308 * 855
2-tu&analayo.jpg
1403 * 722
3-cuoi_cung.jpg
1435 * 670
4-mucluc-23.jpg
1254 * 931
5-phat_thien.jpg
675 * 908
Bhikkhu Anālayo, Mindfully facing disease and death (2017)
KINH DU HÀNH
Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ dịch
Bình Anson hiệu đính dựa theo bản Anh dịch của Bhikkhu Anālayo
• Nhị thiền: hỷ và lạc sinh ra từ sự định tâm (hỷ và lạc do định
sinh),
• Tam thiền: lạc (xả, niệm, lạc trú),
• Tứ thiền: tâm xả (xả và niệm thanh tịnh).
• Thức vô biên xứ,
• Vô sở hữu xứ,
• Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
DĀ 2 (…) Lúc bấy giờ, A-nan đứng hầu sau Phật, không tự ngăn nổi bi cảm nên vỗ giường than khóc, rằng: “Như Lai diệt độ sao mà vội thế! Thế Tôn diệt độ sao mà vội thế! Đại pháp chìm lặng sao nhanh quá! Con mắt thế gian diệt mất thì chúng sinh suy đọa lâu dài! Ta nhờ ơn Phật xuất gia nay chỉ mới được lên bậc học địa, tu nghiệp chưa thành mà Như Lai đã diệt độ!” Khi ấy Ðức Thế Tôn dù biết nhưng vẫn hỏi: “Tỳ-khưu A-nan đâu rồi?” Các tỳ-khưu bạch Phật: “Tỳ-khưu A-nan đang đứng ở sau Phật, không tự ngăn nổi bi cảm nên vỗ giường than khóc, rằng: ‘Như Lai diệt độ sao mà vội thế! Đại pháp chìm lặng sao nhanh quá! Con mắt thế gian diệt mất thì chúng sinh suy đọa lâu dài! Ta nhờ ơn Phật xuất gia nay chỉ mới được lên bậc học địa, tu nghiệp chưa thành mà Như Lai đã diệt độ!’” Phật bảo A-nan: “Thôi thôi, A-nan, chớ có buồn phiền than khóc. Từ trước đến nay ông hầu hạ Ta với cử chỉ từ hòa vô lượng, ngôn ngữ từ hòa vô lượng và ý nghĩ từ hòa vô lượng, không sao xiết kể. Này A-nan, ấy là ông đã cúng dường Ta, công đức rất lớn. Nếu có sự cúng dường nào của chư thiên, Ma vương, Phạm thiên, sa-môn và bà-la-môn cũng không sao sánh bằng được. Ông hãy nỗ lực hơn nữa, ngày thành đạo không còn bao lâu nữa!” (…) [Đức Phật nói]: “Thế nên các tỳ-khưu chớ có phóng dật. Ta nhờ không phóng dật mà thành Chánh giác. Vô lượng điều lành toàn là nhờ không phóng dật mà có được. Hết thảy vạn vật đều vô thường.” Đó là lời dạy cuối cùng của Như Lai. Thế rồi, Thế Tôn nhập sơ thiền; rồi từ sơ thiền xuất ra, nhập nhị thiền; từ nhị thiền xuất ra, nhập tam thiền; từ tam thiền xuất ra, nhập tứ thiền. Rồi Ngài tứ thiền xuất ra, nhập không xứ định; từ không xứ định xuất ra, nhập thức xứ định; từ thức xứ định xuất ra, nhập vô sở hữu xứ định; từ vô sở hữu xứ định xuất ra, nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ định; từ phi tưởng phi phi tưởng xứ định xuất ra, nhập diệt thọ tưởng định. Lúc ấy A-nan hỏi A-na-luật: “Thế Tôn đã nhập Niết-bàn rồi chăng?” A-na-luật nói: “Chưa, A-nan. Thế Tôn hiện đang ở trong diệt thọ tưởng định. Lúc trước khi được ở gần Phật, tôi được nghe Ngài nói rằng Ngài sẽ nhập Niết-bàn khi xuất ra từ tứ thiền.” Rồi Thế Tôn từ diệt thọ tưởng định xuất ra, nhập phi tưởng phi phi tưởng định; từ phi tưởng phi phi tưởng định xuất ra, nhập vô sở hữu định; từ vô sở hữu định xuất ra, nhập thức xứ định; từ thức xứ định xuất ra, nhập không xứ định. Rồi Ngài từ không xứ định xuất ra, nhập tứ thiền; từ tứ thiền xuất ra, nhập tam thiền; từ tam thiền xuất ra, nhập nhị thiền; từ nhị thiền xuất ra, nhập sơ thiền. Rồi Ngài từ sơ thiền xuất ra, nhập nhị thiền; từ nhị thiền xuất ra, nhập tam thiền; từ tam thiền xuất ra, nhập tứ thiền. Rồi từ tứ thiền xuất ra, Phật nhập Niết-bàn. DN 16 Rồi tôn giả Ānanda đi vào trong tịnh xá, dựa trên cột cửa và đứng khóc: “Ta nay vẫn còn là kẻ hữu học, còn phải tự lo tu tập. Nay bậc Ðạo Sư của ta sắp diệt độ, còn ai thương tưởng ta nữa!” Thế Tôn nói với các tỳ-khưu: “Này các tỳ-khưu, Ānanda ở tại đâu?” Các tỳ-khưu bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, tôn giả Ānanda đi vào trong tịnh xá, dựa trên cột cửa và đứng khóc: ‘Ta nay vẫn còn là kẻ hữu học, còn phải tự lo tu tập. Nay bậc Ðạo Sư của ta sắp diệt độ, còn ai thương tưởng ta nữa!’” Thế Tôn liền nói với một tỳ-khưu: “Này tỳ-khưu, hãy đi và nhân danh Ta, nói với Ānanda: ‘Này Hiền giả Ānanda, bậc Ðạo Sư cho gọi Hiền giả.’ “Xin vâng, bạch Thế Tôn!” Vị tỳ-khưu ấy vâng lời Thế Tôn, đi đến chỗ tôn giả Ānanda. Sau khi đến, liền nói với tôn giả: “Này Hiền giả Ānanda, bậc Ðạo Sư cho gọi Hiền giả.” “Thưa vâng, Hiền giả.” Tôn giả Ānanda trả lời vị tỳ-khưu ấy, đi đến Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với tôn giả Ānanda: “Thôi đủ rồi, Ānanda, chớ có buồn rầu, chớ có khóc than. Ta đã tuyên bố trước với ông rằng mọi vật ái luyến, tốt đẹp đều phải sinh biệt, tử biệt và dị biệt. Này Ānanda làm sao được có sự kiện này: ‘Các pháp sinh, trú, hữu vi, biến hoại đừng có bị tiêu diệt?’ Không thể có sự kiện như vậy được. Này Ānanda, ông đã gần gũi Như Lai trong nhiều năm, với thân nghiệp đầy lòng từ ái, lợi ích, an lạc, có một không hai, vô lượng, với khẩu nghiệp đầy lòng từ ái, lợi ích, an lạc, có một không hai, vô lượng, với ý nghiệp đầy lòng từ ái, lợi ích, an lạc, có một không hai, vô lượng. Này Ānanda, ông đã tác thành nhiều công đức. Hãy cố gắng tinh tấn, không bao lâu nữa, ông sẽ chứng bậc vô lậu.” (…) Rồi Thế Tôn nói với các tỳ-khưu: “Này các tỳ-khưu, nay Ta khuyên dạy các ông: Các pháp hữu vi là vô thường, hãy tinh tấn, chớ có phóng dật.” Ðó là lời cuối cùng của Như Lai. Rồi Thế Tôn nhập sơ thiền. Xuất sơ thiền, Ngài nhập nhị thiền. Xuất nhị thiền, Ngài nhập tam thiền. Xuất tam thiền, Ngài nhập tứ thiền. Xuất tứ thiền, Ngài nhập không vô biên xứ định. Xuất không vô biên xứ định, Ngài nhập định thức vô biên xứ định. Xuất thức vô biên xứ định, Ngài nhập vô sở hữu xứ định. Xuất vô sở hữu xứ định, Ngài nhập định phi tưởng phi phi tưởng xứ định. Xuất phi tưởng phi phi tưởng xứ định, Ngài nhập diệt thọ tưởng định. Khi ấy tôn giả Ānanda nói với tôn giả Anuruddha: “Thưa Tôn giả, Thế Tôn đã diệt độ.” “Này Hiền giả Ānanda, Thế Tôn chưa diệt độ. Ngài mới nhập diệt thọ tưởng định.” Rồi Thế Tôn xuất diệt thọ tưởng định, Ngài nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ định. Xuất phi tưởng phi phi tưởng xứ định, Ngài nhập vô sở hữu xứ định. Xuất vô sở hữu xứ định, Ngài nhập thức vô biên xứ định. Xuất thức vô biên xứ định, Ngài nhập không vô biên xứ định. Xuất không vô biên xứ định, Ngài nhập tứ thiền. Xuất tứ thiền, Ngài nhập tam thiền. Xuất tam thiền, Ngài nhập nhị thiền. Xuất nhị thiền, Ngài nhập sơ thiền. Xuất sơ thiền, Ngài nhập nhị thiền. Xuất nhị thiền, Ngài nhập tam thiền. Xuất tam thiền, Ngài nhập tứ thiền. Xuất tứ thiền, Ngài lập tức diệt độ.
Itipi so Bhagavā Arahaṃ Sammāsambuddho Svākkhāto bhagavato dhammo Supaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho Đầu ngọn
cờ "Này các Tỳ-khưu, Ta nói như sau: Khi quý vị đi vào rừng, đi đến gốc cây hay đi đến nhà trống, nếu run sợ, hoảng hốt, hay lông tóc dựng ngược có khởi lên, trong khi ấy hãy niệm nhớ đến Ta: 'Ngài là Thế Tôn, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn'. Này các Tỳ-khưu, khi quý vị niệm nhớ đến Ta, thời sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược có khởi lên, sẽ được tiêu diệt. Nếu quý vị không niệm nhớ đến Ta, hãy niệm nhớ đến Pháp: 'Ðây là Pháp do Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, có quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, do người trí tự mình giác hiểu.' Này các Tỳ-khưu, khi quý vị niệm nhớ đến Pháp, thời sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược có khởi lên sẽ tiêu diệt. Nếu quý vị không niệm nhớ đến Pháp, hãy niệm nhớ đến chúng Tăng: 'Chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Thiện hạnh; chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Trực hạnh; chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Chánh hạnh; chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Như pháp hạnh, tức là bốn đôi, tám chúng. Chúng Tăng đệ tử này của Thế Tôn đáng được cúng dường, đáng được hiến dâng, đáng được bố thí, đáng được chấp tay, là vô thượng phước điền ở trên đời.' Này các Tỳ-khưu, khi quý vị niệm nhớ đến chúng Tăng, thời sợ hãi, hoảng hốt, hay lông tóc dựng ngược có khởi lên sẽ tiêu diệt. Vì sao? Này các Tỳ-khưu, Như Lai, bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri đã ly tham, ly sân, ly si, không nhát gan, không hoảng hốt, không hoảng sợ, không hoảng chạy. * * * * * * |
Tỉnh thức
trước bệnh tật và cái chết Bhikkhu Analayo (2017). Mindfully Facing Disease and Death: Compassionate Advice from Early Buddhist Texts. MỤC LỤC TỔNG QUÁT
CÁC CHỦ ĐỀ GIÁO THUYẾT TRONG MỖI CHƯƠNG
* * * |
Bhikkhu ANALAYO (1962-) Centre for Buddhist Studies, University of Hamburg, Germany Tỳ-khưu Analayo sinh năm 1962 tại Đức. Sư xuất gia gieo duyên năm 1990 tại chùa Wat Suan Mokkh ở miền nam Thái Lan. Năm 1994, Sư đến Sri Lanka xuất gia với ngài Hòa thượng Balangoda Ananda Maitreya, và sau đó thọ giới tỳ-khưu với Hòa thượng Pemasiri vào năm 2007 trong hệ phái Shwegyin Nikaya (bắt nguồn từ hệ phái chính Amarapura Nikaya). Tuy nhiên, Bhikkhu Bodhi là vị thầy chính. Sư hoàn tất chương trình tiến sĩ tại University of Peradeniya năm 2000 và luận án tiến sĩ được xuất bảm thành sách với tựa đề “Satipaṭṭhāna, the Direct Path to Realization”. Cuốn sách được nhiều người khen ngợi, đã được tái bản nhiều lần và dịch sang 10 thứ tiếng. Bản tiếng Việt được Cư sĩ Nguyễn Văn Ngân dịch, với tựa đề “Satipaṭṭhāna, Con đường thẳng tới giác ngộ”, xuất bản năm 2017. Hiện nay, Sư là giáo sư Phật học tại Trung tâm Phật học của Đại học Hamburg, Đức quốc (Centre for Buddhist Studies, University of Hamburg), Đại học Phật giáo Pháp Cổ, Đài Loan (Dharma Drum Buddhist College, Taiwan). Sư là đồng sáng lập viên Nhóm Nghiên cứu A-hàm (Āgama Research Group) và là giảng sư của Trung tâm Phật học Barre, Hoa Kỳ (Barre Center for Buddhist Studies). Hiện nay (2018), ngài trú và tịnh tu tại Trung tâm Phật học Barre, bang Massachusetts, Hoa Kỳ. Các nguồn thông tin: 1) Wikipedia:
https://en.wikipedia.org/wiki/Bhikkhu_Analayo ------------------ Giáo sư AMING TU Giáo sư Aming Tu (杜正民 - Đỗ Chính Dân, Du Zhengmin) là một sáng lập viên của hội CBETA (Chinese Buddhist Electronic Text Association, Hiệp hội Kinh văn Điện tử Phật giáo Trung Hoa) và đã từng là Giám đốc Điều hành của Hội (1998-2006). Ông là giáo sư Tin học và đã có nhiều đóng góp quan trọng trong dự án số hóa Tam tạng Kinh điển tiếng Hán. Năm 2005, ông bị bệnh và được chẩn đoán là bị bệnh ung thư gan, phải vào bệnh viện 10 ngày và trải qua một cơn đau đớn rất khắc nghiệt. Sau khi rời bệnh viện, ông tìm đọc các bản kinh trong Hán tạng và tạng Pali có ghi lại các lời dạy của Đức Phật và các vị đại đệ tử để đối phó với cơn đau, bệnh tật và cái chết. Ông suy ngẫm và thực hành theo đó, và nhờ vậy, đã giúp ông rất nhiều để chịu đựng các cơn đau và viễn ảnh của cái chết không thể tránh được. Ông thảo luận các vấn đề nầy với tỳ-khưu Anālayo – lúc ấy, Sư đang nghiên cứu và dịch các bản kinh A-hàm. Ông đề nghị Sư khai triển thành một cuốn sách với nội dung về phương cách đối diện với bệnh tật và cái chết, dựa theo các bản kinh của Phật giáo Sơ kỳ – bộ A-hàm trong Hán tạng và Nikāya trong tạng Pāli, cùng với những hướng dẫn thực tế để hành thiền, giúp hành giả có đủ nghị lực, hiểu biết và tỉnh thức để trực diện với các vấn đề tất yếu đó của kiếp người. Sau khi Sư hoàn tất viết cuốn sách, Gs Tu đọc bản thảo, rất hoan hỷ và viết Lời Bạt, đề cập đến nguyên nhân ra đời của cuốn sách. Cuốn sách được xuất bản vào đầu năm 2017 và được nhiều vị thiền sư, học giả khen ngợi, tán thán. Một điều buồn là Gs Aming Tu không thấy được ấn bản chính thức. Ông qua đời vào tháng 11 năm 2016. * * * |
[ Home ]
31-08-2020