Đàm luận Phật Pháp
Tỉnh thức trước bệnh tật và cái
chết
21. SỨC MẠNH CỦA NỘI QUÁN LÚC LÂM CHUNG
- 321 -
Lời Phật dạy trong kinh văn nguyên
thủy
XXI 21. SỨC MẠNH CỦA
NỘI QUÁN LÚC LÂM CHUNG XXI.1 GIỚI THIỆU Bài kinh trong chương này một lần nữa ghi lại lòng từ bi của Đức
Phật. Lần này Ngài đến thăm một tỳ-khưu mới thọ giới và chưa có đủ
thời gian để thiết lập mối quan hệ mật thiết với các bạn đồng tu hay
với các cư sĩ hộ tăng. Bệnh tình của vị nầy tương tự như trường hợp
một người phải nhập viện nhưng không có người thân hay bạn bè đến
thăm viếng thường xuyên, và như thế bệnh nhân ấy cần có thêm sự hỗ
trợ và lòng tử tế của các y tá và bác sĩ để chăm sóc người ấy. Bài kinh được dịch dưới đây là bài đầu tiên của hai bài kinh
trong Tạp A-hàm (SĀ 1025, 1026) ghi lại câu chuyện Đức Phật đi thăm
một tỳ-khưu vô danh, đã xuất gia gần đây. Mỗi bài kinh này đều có
bài kinh tương ứng trong Tương ưng bộ (SN 35.74, 35.75).
XXI.2 KINH VĂN SĀ 1025 Tôi nghe như vầy. Một thời Đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc,
rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ có một tỳ-khưu tuổi trẻ
mới học, xuất gia trong pháp và luật này chưa được lâu, ít người
thân quen, một mình làm lữ khách, không có người cung cấp, đang
trú ở nhà dành cho khách tăng ngoài rìa xóm làng, bệnh đau nguy
khốn. Bấy giờ có một nhóm tỳ-khưu đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân, rồi
ngồi lui qua một bên, bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, có một tỳ-khưu tuổi trẻ mới học, xuất gia
trong pháp và luật này chưa được lâu, ít người thân quen, một
mình làm lữ khách, không có người cung cấp, đang trú ở nhà dành
cho khách tăng ngoài rìa xóm làng, bệnh đau nguy khốn. Trong số
những tỳ-khưu có bệnh nguy khốn như thế, nhiều người đã chết,
không sống nổi. Lành thay! Xin Thế Tôn vì thương xót mà đến
viếng trú xứ đó.” Bấy giờ, Thế Tôn im lặng nhận lời. Buổi chiều, sau khi từ
thiền tịnh dậy, Thế Tôn đến trú xứ này. Tỳ-khưu bị bệnh này từ
xa trông thấy Thế Tôn, vịn giường muốn ngồi dậy. Phật bảo tỳ-khưu: “Hãy nằm nghỉ, chớ ngồi dậy! Tỳ-khưu có thể
chịu đựng được khổ đau không?” Tỳ-khưu bạch Phật: “Bệnh của con không thuyên giảm và thân
con không được an ổn; các thứ khổ bức bách càng tăng thêm, không
giảm bớt. Giống như người có nhiều sức mạnh bắt lấy người gầy
yếu đuối, dùng dây trói chặt vào đầu rồi dùng hai tay siết chặt
làm cho đau đớn vô cùng. Hiện tại sự đau đớn của con còn hơn thế
nữa. “Giống như tên đồ tể dùng dao bén mổ bụng bò lấy nội tạng nó
ra. Làm sao con bò ấy chịu đựng được sự đau đớn ở bụng? Hiện tại
bụng của con còn đau đớn hơn thế nữa. “Giống như hai lực sĩ bắt một người yếu đuối treo lên trên
lửa rồi đốt hai chân. Hiện tại hai chân của con còn nóng hơn thế
nữa. Bệnh khổ của con chỉ gia tăng, không giảm bớt.” Phật bảo tỳ-khưu bị bệnh: “Bây giờ Ta hỏi ông, cứ đáp cho Ta
theo ý của ông. Ông có hối hận về điều gì chăng?” Tỳ-khưu bị
bệnh bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, thật sự, con có hối hận.” Phật bảo tỳ-khưu bị bệnh: “Ông có phạm giới chăng?” Tỳ-khưu
bị bệnh bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, thật sự, con không phạm giới.”
Phật bảo tỳ-khưu bị bệnh: “Nếu ông không phạm giới, tại sao
ông lại hối hận?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch Phật: “Con tuổi trẻ xuất
gia chưa bao lâu, đối với pháp thượng nhân và tri kiến thắng
diệu chưa có sở đắc. Con tự nghĩ, lúc mệnh chung không biết sẽ
sinh về nơi đâu? Cho nên con sinh ra hối hận.” Phật bảo tỳ-khưu bị bệnh: “Nay Ta hỏi ông, cứ đáp cho Ta theo
ý của ông. Vì có mắt nên có nhãn thức, phải không?” Tỳ-khưu bị
bệnh bạch: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi tiếp: “Vì có nhãn thức nên có nhãn xúc, và do nhãn
xúc làm nhân làm duyên nên sinh ra cảm thọ khổ, hoặc lạc, hoặc
không khổ không lạc bên trong, phải không?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch
Phật: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi tiếp: “Vì có tai nên có nhĩ thức, phải không?”
Tỳ-khưu bị bệnh bạch: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi tiếp:
“Vì có nhĩ thức nên có nhĩ xúc, và do nhĩ xúc làm nhân làm duyên
nên sinh ra cảm thọ khổ, hoặc lạc, hoặc không khổ không lạc bên
trong, phải không?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch Phật: “Bạch Thế Tôn,
đúng vậy.” Phật hỏi tiếp: “Vì có mũi nên có tỷ thức, phải không?”
Tỳ-khưu bị bệnh bạch: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi tiếp:
“Vì có tỷ thức nên có tỷ xúc, và do tỷ xúc làm nhân làm duyên
nên sinh ra cảm thọ khổ, hoặc lạc, hoặc không khổ không lạc bên
trong, phải không?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch Phật: “Bạch Thế Tôn,
đúng vậy.” Phật hỏi tiếp: “Vì có lưỡi nên có thiệt thức, phải không?”
Tỳ-khưu bị bệnh bạch: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi tiếp:
“Vì có thiệt thức nên có thiệt xúc, và do thiệt xúc làm nhân làm
duyên nên sinh ra cảm thọ khổ, hoặc lạc, hoặc không khổ không
lạc bên trong, phải không?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch Phật: “Bạch Thế
Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi tiếp: “Vì có thân nên có thân thức, phải không?”
Tỳ-khưu bị bệnh bạch: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi tiếp:
“Vì có thân thức nên có thân xúc, và do thân xúc làm nhân làm
duyên nên sinh ra cảm thọ khổ, hoặc lạc, hoặc không khổ không
lạc bên trong, phải không?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch Phật: “Bạch Thế
Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi tiếp: “Vì có ý nên có ý thức, phải không?” Tỳ-khưu
bị bệnh bạch: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi tiếp: “Vì có ý
thức nên có ý xúc, và do ý xúc làm nhân làm duyên nên sinh ra
cảm thọ khổ, hoặc lạc, hoặc không khổ không lạc bên trong, phải
không?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi tiếp: “Nếu không có mắt thì không có nhãn thức, phải
không?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi
tiếp: “Nếu không có nhãn thức thì không có nhãn xúc, và do đó,
không có nhãn xúc làm nhân làm duyên sinh ra cảm thọ khổ, hoặc
lạc, hoặc không khổ không lạc bên trong, phải không?” Tỳ-khưu bị
bệnh bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi tiếp: “Nếu không có tai thì không có nhĩ thức, phải
không?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi
tiếp: “Nếu không có nhĩ thức thì không có nhĩ xúc, và do đó,
không có nhĩ xúc làm nhân làm duyên sinh ra cảm thọ khổ, hoặc
lạc, hoặc không khổ không lạc bên trong, phải không?” Tỳ-khưu bị
bệnh bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi tiếp: “Nếu không có mũi thì không có tỷ thức, phải
không?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi
tiếp: “Nếu không có tỷ thức thì không có tỷ xúc, và do đó, không
có tỷ xúc làm nhân làm duyên sinh ra cảm thọ khổ, hoặc lạc, hoặc
không khổ không lạc bên trong, phải không?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch
Phật: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi tiếp: “Nếu không có lưỡi thì không có thiệt thức,
phải không?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
Phật hỏi tiếp: “Nếu không có thiệt thức thì không có thiệt xúc,
và do đó, không có thiệt xúc làm nhân làm duyên sinh ra cảm thọ
khổ, hoặc lạc, hoặc không khổ không lạc bên trong, phải không?”
Tỳ-khưu bị bệnh bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi tiếp: “Nếu không có thân thì không có thân thức,
phải không?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
Phật hỏi tiếp: “Nếu không có thân thức thì không có thân xúc, và
do đó, không có thân xúc làm nhân làm duyên sinh ra cảm thọ khổ,
hoặc lạc, hoặc không khổ không lạc bên trong, phải không?”
Tỳ-khưu bị bệnh bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi tiếp: “Nếu không có ý thì không có ý thức, phải
không?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi
tiếp: “Nếu không có ý thức thì không có ý xúc, và do đó, không
có ý xúc làm nhân làm duyên sinh ra cảm thọ khổ, hoặc lạc, hoặc
không khổ không lạc bên trong, phải không?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch
Phật: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật bảo tiếp: “Cho nên, tỳ-khưu, phải khéo tư duy pháp như
vậy, thì lúc mệnh chung mới tốt đẹp được và đời sau cũng tốt
đẹp.” Bấy giờ, Thế Tôn vì tỳ-khưu bị bệnh mà nói pháp, chỉ dạy, soi
sáng, làm cho an vui, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy ra đi. Sau khi
Thế Tôn đi rồi, không lâu sau, tỳ-khưu mệnh chung. Khi sắp mệnh
chung, các căn của tỳ-khưu ấy vui tươi, tướng mạo thanh tịnh,
sắc da tươi sáng. Lúc ấy, nhiều tỳ-khưu đi đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân, rồi
ngồi lui qua một bên, bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, tỳ-khưu trẻ tuổi
kia bị bệnh nguy khốn, nay đã mệnh chung. Khi vị ấy sắp qua đời,
các căn vui tươi, tướng mạo thanh tịnh, sắc da tươi sáng. Bạch
Thế Tôn, tỳ-khưu ấy sinh về nơi nào? Thọ sinh ra sao? Đời sau
thế nào?” Phật bảo các tỳ-khưu: “Sự mệnh chung của tỳ-khưu ấy thật sự
là quý báu. Sau khi Ta nói Pháp, tỳ-khưu ấy hiểu biết rõ ràng,
an trú vào Pháp và không còn sợ hãi, đã đắc Bát-niết-bàn. Các
ông nên cung kính giữ gìn xá-lợi của vị ấy.” Bấy giờ, Thế Tôn thọ ký cho tỳ-khưu ấy là bậc nhất. Phật nói
kinh này xong, các tỳ-khưu nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng
hành. XXI.3 THẢO LUẬN Bài kinh trong chương này một lần nữa cho thấy tiềm năng giải
thoát lúc lâm chung. Bài kinh trong chương trước, Chương 20, nhấn
mạnh sự kiện một người trước đó khi còn khỏe mạnh đã không diệt trừ
được năm hạ phần kiết sử thì khi đến giờ phút lâm chung có thể đoạn
tận chúng, hoặc nếu đã diệt trừ được rồi thì có thể tiến đến giải
thoát hoàn toàn. Trong trường hợp của bài kinh ở đây trong Chương 21
này, toàn bộ tiến trình từ lúc còn là một phàm nhân cho đến lúc hoàn
toàn giải thoát đã xảy ra trong giờ phút lâm chung. Trường hợp này
có thể xem như bổ sung thêm cho câu chuyện ghi trong Chương 18, một
đệ tử cư sĩ cũng có khả năng giải thoát như một tu sĩ hoàn toàn giác
ngộ qua sự tự do thoát khỏi mọi chấp thủ tại thời điểm cận kề cái
chết. Tất cả những bài kinh như thế là để chỉ tiềm năng mạnh mẽ của
tuệ giác lúc mệnh chung. Phương thức không chấp thủ trình bày trong bài kinh và bản Pali
tương ứng dựa trên sáu nội và ngoại xứ, hay sáu căn và sáu trần,
được sử dụng trong hai phiên bản theo những cách khác nhau để để vun
trồng tuệ giác. Sáu nội ngoại xứ ấy là: • Mắt và các hình sắc, Điểm cơ bản đằng sau sự phân tích này là cho thấy bản chất tổng
hợp và do đó có tính chất điều kiện của các trải nghiệm. Mọi trải
nghiệm khác nhau được phân tích theo cách tiếp xúc và nhận thức qua
mỗi căn (nội xứ) và trần (ngoại xứ). Đáng chú ý ở đây là ý căn và
đối tượng được xem như ngang bằng với năm căn vật lý, thay vì xem
chúng là vượt trội hơn năm căn kia. Bằng cách lần lượt khảo sát từng
cặp căn và trần, tính điều kiện hay duyên sinh của mọ trải nghiệm có
thể được ghi nhận dễ dàng hơn. Theo phiên bản trong Tương ưng bộ (SN 35.74), tiếp theo đó, hành
giả phải quán sát tính vô thường của mỗi cặp căn-trần. Dựa vào đó,
hành giả sẽ nhận ra được rằng cái gì có bản chất vô thường, thay đổi
là khổ, và cái gì là khổ thì không đáng để xem “đây là của tôi, đây
là tôi, đây là cái ngã của tôi.” Đây là theo phương thức phát triển
tuệ quán về ba đặc tướng của đời sống như đã thảo luận ở Chương 17.
Trong bài kinh của Tạp A-hàm (SĀ 1025), bản chất duyên sinh của
cảm thọ được nhấn mạnh, khởi sinh do sự tiếp xúc qua sáu căn. Tính
duyên sinh này được thấy rõ ràng hơn qua sự tương phản khi không có
sự hiện diện của cảm thọ vì không có sự hiện diện của các điều kiện
cho nó sinh khởi. Tầm quan trọng của giải trình về sự không hiện
diện trong phiên bản Tạp A-hàm có thể dễ dàng được đánh giá quá thấp
vì cho rằng đó chỉ là để bổ sung cho phần giải trình của các đoạn
trước về sự hiện hữu của các cảm giác, v.v. Tầm quan trọng của giải
trình này sẽ được nhận ra khi chúng ta xem đó là chỉ về hướng
Niết-bàn, khi các căn và các đối tượng đều vắng mặt, cũng như bất kỳ
cảm thọ nào. Nếu hiểu như thế, lời giảng dạy của Đức Phật trong bài
kinh tiến hành từ việc giải trình tính duyên sinh của các trải
nghiệm cảm thọ để đưa tâm đến đối tượng vô vi, cả hai đều là một
phần của một hướng dẫn có chức năng rõ ràng như là một hướng dẫn
hành thiền. Trên quan điểm áp dụng thực tế, hành giả có thể kết hợp cả hai
phương pháp như được trình bày trong bài kinh ở Tạp A-hàm và ở Tương
ưng bộ. Trước hết, hành giả phải nhận ra rõ ràng rằng bất kỳ cảm thọ
nào được trải nghiệm cũng là sản phẩm do duyên sinh từ một giác quan
nào đó với sự nhận thức tương ứng. Cái gì do duyên sinh, nghĩa là có
điều kiện, cái đó có tính vô thường, thay đổi. Bơi vì nó có tính vô
thường, nó không thể mang lại sự hài lòng lâu dài, và vì thế không
thích hợp để nhận đó là tôi hay để chiếm hữu nó là của tôi. Dựa vào
tuệ quán đó, hành giả hướng tâm đến cái vô vi, không điều kiện. Tu
tập hướng tâm như thế trong giờ phút lâm chung, sau khi phân tích tỉ
mỉ những trải nghiệm thành các đơn vị cấu tạo như thế và phát khởi
tuệ quán sâu sắc về bản chất của chúng, có khả năng sẽ tạo ra một
tiềm năng giải thoát to lớn. * * *
1-mucluc21.jpg
1254 * 931
2-3kinh.jpg
1231 * 813
3-5uan6xu.jpg
1268 * 894
4-luachay.jpg
1393 * 837
5-nhanthuc.jpg
1302 * 871
6-108tho.jpg
1265 * 869
Bhikkhu Anālayo, Mindfully facing disease and death (2017)
TẬT BỆNH
Hòa thượng Thích Đức Thắng dịch
Bình Anson hiệu đính dựa theo bản Anh dịch của Bhikkhu Anālayo
• Tai và các âm thanh,
• Mũi và các mùi hương,
• Lưỡi và các vị nếm,
• Thân và các vật xúc chạm,
• Ý và các đối tượng của ý.
SĀ 1025 Tôi nghe như vầy. Một thời Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ có một tỳ-khưu tuổi trẻ mới học, xuất gia trong pháp và luật này chưa được lâu, ít người thân quen, một mình làm lữ khách, không có người cung cấp, đang trú ở nhà dành cho khách tăng ngoài rìa xóm làng, bệnh đau nguy khốn. Bấy giờ có một nhóm tỳ-khưu đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân, rồi
ngồi lui qua một bên, bạch Phật: Bấy giờ, Thế Tôn im lặng nhận lời. Buổi chiều, sau khi từ thiền tịnh dậy, Thế Tôn đến trú xứ này. Tỳ-khưu bị bệnh này từ xa trông thấy Thế Tôn, vịn giường muốn ngồi dậy. Phật bảo tỳ-khưu: “Hãy nằm nghỉ, chớ ngồi dậy! Tỳ-khưu có thể chịu đựng được khổ đau không?” Tỳ-khưu bạch Phật: “Bệnh của con không thuyên giảm và thân con không được an ổn; các thứ khổ bức bách càng tăng thêm, không giảm bớt. Giống như người có nhiều sức mạnh bắt lấy người gầy yếu đuối, dùng dây trói chặt vào đầu rồi dùng hai tay siết chặt làm cho đau đớn vô cùng. Hiện tại sự đau đớn của con còn hơn thế nữa. “Giống như tên đồ tể dùng dao bén mổ bụng bò lấy nội tạng nó ra. Làm sao con bò ấy chịu đựng được sự đau đớn ở bụng? Hiện tại bụng của con còn đau đớn hơn thế nữa. “Giống như hai lực sĩ bắt một người yếu đuối treo lên trên lửa rồi đốt hai chân. Hiện tại hai chân của con còn nóng hơn thế nữa. Bệnh khổ của con chỉ gia tăng, không giảm bớt.” Phật bảo tỳ-khưu bị bệnh: “Bây giờ Ta hỏi ông, cứ đáp cho Ta theo ý của ông. Ông có hối hận về điều gì chăng?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, thật sự, con có hối hận.” Phật bảo tỳ-khưu bị bệnh: “Ông có phạm giới chăng?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, thật sự, con không phạm giới.” Phật bảo tỳ-khưu bị bệnh: “Nếu ông không phạm giới, tại sao ông lại hối hận?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch Phật: “Con tuổi trẻ xuất gia chưa bao lâu, đối với pháp thượng nhân và tri kiến thắng diệu chưa có sở đắc. Con tự nghĩ, lúc mệnh chung không biết sẽ sinh về nơi đâu? Cho nên con sinh ra hối hận.” Phật bảo tỳ-khưu bị bệnh: “Nay Ta hỏi ông, cứ đáp cho Ta theo ý của ông. Vì có mắt nên có nhãn thức, phải không?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi tiếp: “Vì có nhãn thức nên có nhãn xúc, và do nhãn xúc làm nhân làm duyên nên sinh ra cảm thọ khổ, hoặc lạc, hoặc không khổ không lạc bên trong, phải không?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi tiếp: “Vì có tai nên có nhĩ thức, phải không?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi tiếp: “Vì có nhĩ thức nên có nhĩ xúc, và do nhĩ xúc làm nhân làm duyên nên sinh ra cảm thọ khổ, hoặc lạc, hoặc không khổ không lạc bên trong, phải không?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi tiếp: “Vì có mũi nên có tỷ thức, phải không?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi tiếp: “Vì có tỷ thức nên có tỷ xúc, và do tỷ xúc làm nhân làm duyên nên sinh ra cảm thọ khổ, hoặc lạc, hoặc không khổ không lạc bên trong, phải không?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi tiếp: “Vì có lưỡi nên có thiệt thức, phải không?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi tiếp: “Vì có thiệt thức nên có thiệt xúc, và do thiệt xúc làm nhân làm duyên nên sinh ra cảm thọ khổ, hoặc lạc, hoặc không khổ không lạc bên trong, phải không?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi tiếp: “Vì có thân nên có thân thức, phải không?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi tiếp: “Vì có thân thức nên có thân xúc, và do thân xúc làm nhân làm duyên nên sinh ra cảm thọ khổ, hoặc lạc, hoặc không khổ không lạc bên trong, phải không?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi tiếp: “Vì có ý nên có ý thức, phải không?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi tiếp: “Vì có ý thức nên có ý xúc, và do ý xúc làm nhân làm duyên nên sinh ra cảm thọ khổ, hoặc lạc, hoặc không khổ không lạc bên trong, phải không?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi tiếp: “Nếu không có mắt thì không có nhãn thức, phải không?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi tiếp: “Nếu không có nhãn thức thì không có nhãn xúc, và do đó, không có nhãn xúc làm nhân làm duyên sinh ra cảm thọ khổ, hoặc lạc, hoặc không khổ không lạc bên trong, phải không?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi tiếp: “Nếu không có tai thì không có nhĩ thức, phải không?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi tiếp: “Nếu không có nhĩ thức thì không có nhĩ xúc, và do đó, không có nhĩ xúc làm nhân làm duyên sinh ra cảm thọ khổ, hoặc lạc, hoặc không khổ không lạc bên trong, phải không?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi tiếp: “Nếu không có mũi thì không có tỷ thức, phải không?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi tiếp: “Nếu không có tỷ thức thì không có tỷ xúc, và do đó, không có tỷ xúc làm nhân làm duyên sinh ra cảm thọ khổ, hoặc lạc, hoặc không khổ không lạc bên trong, phải không?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi tiếp: “Nếu không có lưỡi thì không có thiệt thức, phải không?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi tiếp: “Nếu không có thiệt thức thì không có thiệt xúc, và do đó, không có thiệt xúc làm nhân làm duyên sinh ra cảm thọ khổ, hoặc lạc, hoặc không khổ không lạc bên trong, phải không?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi tiếp: “Nếu không có thân thì không có thân thức, phải không?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi tiếp: “Nếu không có thân thức thì không có thân xúc, và do đó, không có thân xúc làm nhân làm duyên sinh ra cảm thọ khổ, hoặc lạc, hoặc không khổ không lạc bên trong, phải không?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi tiếp: “Nếu không có ý thì không có ý thức, phải không?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật hỏi tiếp: “Nếu không có ý thức thì không có ý xúc, và do đó, không có ý xúc làm nhân làm duyên sinh ra cảm thọ khổ, hoặc lạc, hoặc không khổ không lạc bên trong, phải không?” Tỳ-khưu bị bệnh bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Phật bảo tiếp: “Cho nên, tỳ-khưu, phải khéo tư duy pháp như vậy, thì lúc mệnh chung mới tốt đẹp được và đời sau cũng tốt đẹp.” Bấy giờ, Thế Tôn vì tỳ-khưu bị bệnh mà nói pháp, chỉ dạy, soi sáng, làm cho an vui, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy ra đi. Sau khi Thế Tôn đi rồi, không lâu sau, tỳ-khưu mệnh chung. Khi sắp mệnh chung, các căn của tỳ-khưu ấy vui tươi, tướng mạo thanh tịnh, sắc da tươi sáng. Lúc ấy, nhiều tỳ-khưu đi đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, tỳ-khưu trẻ tuổi kia bị bệnh nguy khốn, nay đã mệnh chung. Khi vị ấy sắp qua đời, các căn vui tươi, tướng mạo thanh tịnh, sắc da tươi sáng. Bạch Thế Tôn, tỳ-khưu ấy sinh về nơi nào? Thọ sinh ra sao? Đời sau thế nào?” Phật bảo các tỳ-khưu: “Sự mệnh chung của tỳ-khưu ấy thật sự là quý báu. Sau khi Ta nói Pháp, tỳ-khưu ấy hiểu biết rõ ràng, an trú vào Pháp và không còn sợ hãi, đã đắc Bát-niết-bàn. Các ông nên cung kính giữ gìn xá-lợi của vị ấy.” Bấy giờ, Thế Tôn thọ ký cho tỳ-khưu ấy là bậc nhất. Phật nói kinh này xong, các tỳ-khưu nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. SN 35.74 Nhân duyên ở Sāvatthi. Rồi một tỳ-khưu đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, đảnh lễ, ngồi xuống một bên, tỳ-khưu ấy bạch Thế Tôn: “Trong tịnh xá của chúng con, bạch Thế Tôn, có một tỳ-khưu mới thọ giới, ít người biết đến, bị bệnh hoạn, đau đớn, bị trọng bệnh. Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn đi đến tỳ-khưu ấy vì lòng từ mẫn.” Rồi Thế Tôn sau khi nghe những từ “mới thọ giới” và “bệnh”, và biết được tỳ-khưu ấy ít được người biết đến, liền đi đến tỳ-khưu ấy. Tỳ-khưu ấy thấy đức Phật từ xa đi đến, liền gượng dậy trên giường. Thế Tôn liền nói với tỳ-khưu ấy: “Thôi, này tỳ-khưu, ông chớ có gượng dậy trên giường. Có những chỗ ngồi đã soạn sẵn, Ta sẽ ngồi tại đấy.” Rồi Thế Tôn ngồi trên chỗ ngồi đã soạn sẵn và nói với tỳ-khưu ấy: “Này tỳ-khưu, ông có kham nhẫn được không? Ông có chịu đựng được không? Có phải khổ thọ giảm thiểu, không tăng trưởng? Có phải có triệu chứng giảm thiểu, không phải tăng trưởng?” “Bạch Thế Tôn, con không thể kham nhẫn, không thể chịu đựng. Con cảm giác các khổ thọ rất mãnh liệt. Chúng tăng trưởng, không có giảm thiểu. Có triệu chứng tăng trưởng, không giảm thiểu.” “Này tỳ-khưu, mong rằng ông không có gì nghi ngờ, không có gì hối hận.” “Bạch Thế Tôn, con có nhiều nghi ngờ, nhiều hối hận.” “Này tỳ-khưu, mong rằng ông không có gì nghi ngờ, không có gì hối hận về giới hạnh của mình.” “Bạch Thế Tôn, con không có gì nghi ngờ, không có gì hối hận về giới hạnh của mình.” “Này tỳ-khưu, nếu đối với giới hạnh của mình, ông không có gì đáng để khiển trách, thì tại sao ông có nhiều nghi ngờ, nhiều hối hận?” “Bạch Thế Tôn, con hiểu rằng Pháp mà Thế Tôn đã giảng dạy không phải vì mục đích thanh tịnh trì giới.” “Này tỳ-khưu, nếu ông hiểu rằng Pháp mà Ta đã giảng dạy không phải vì mục đích thanh tịnh trì giới, thì ông hiểu Pháp mà Ta đã giảng dạy là vì mục đích gì?” “Bạch Thế Tôn, con hiểu rằng Pháp do Thế Tôn đã giảng dạy là để ly tham.” “Lành thay, lành thay, này tỳ-khưu! Lành thay, này tỳ-khưu, ông hiểu rằng Pháp do Ta đã giảng dạy là để ly tham. Pháp do Ta đã giảng dạy là để đoạn tận ái. “Ông nghĩ thế nào, này tỳ-khưu, mắt là thường hay vô thường?” – “Là vô thường, bạch Thế Tôn.” – “Cái gì vô thường là khổ hay lạc?” – “Là khổ, bạch Thế Tôn.” – “Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng nếu quán cái ấy là: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?” – “Thưa không, bạch Thế Tôn.” “Tai là thường hay vô thường?” – “Là vô thường, bạch Thế Tôn.” – “Cái gì vô thường là khổ hay lạc?” – “Là khổ, bạch Thế Tôn.” – “Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng nếu quán cái ấy là: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?” – “Thưa không, bạch Thế Tôn.” “Mũi là thường hay vô thường?” – “Là vô thường, bạch Thế Tôn.” – “Cái gì vô thường là khổ hay lạc?” – “Là khổ, bạch Thế Tôn.” – “Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng nếu quán cái ấy là: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?” – “Thưa không, bạch Thế Tôn.” “Lưỡi là thường hay vô thường?” – “Là vô thường, bạch Thế Tôn.” – “Cái gì vô thường là khổ hay lạc?” – “Là khổ, bạch Thế Tôn.” – “Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng nếu quán cái ấy là: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?” – “Thưa không, bạch Thế Tôn.” “Thân là thường hay vô thường?” – “Là vô thường, bạch Thế Tôn.” – “Cái gì vô thường là khổ hay lạc?” – “Là khổ, bạch Thế Tôn.” – “Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng nếu quán cái ấy là: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?” – “Thưa không, bạch Thế Tôn.” “Ý là thường hay vô thường?” – “Là vô thường, bạch Thế Tôn.” – “Cái gì vô thường là khổ hay lạc?” – “Là khổ, bạch Thế Tôn.” – “Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng nếu quán cái ấy là: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?” – “Thưa không, bạch Thế Tôn.” “Thấy vậy, này tỳ-khưu, bậc đa văn thánh đệ tử nhàm chán đối với mắt, nhàm chán đối với tai, nhàm chán đối với mũi, nhàm chán đối với lưỡi, nhàm chán đối với thân, nhàm chán đối với ý. Do nhàm chán, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên: ‘Ta đã được giải thoát.’ Vị ấy biết rõ: ‘Sinh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa.’” Thế Tôn thuyết như vậy, tỳ-khưu ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy. Và trong khi lời dạy này được nói lên, tỳ-khưu ấy khởi lên pháp nhãn ly trần vô cấu: “Phàm cái gì có sinh khởi, tất cả cái ấy đều có đoạn diệt.”
Itipi so Bhagavā Arahaṃ Sammāsambuddho Svākkhāto bhagavato dhammo Supaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho Đầu ngọn
cờ "Này các Tỳ-khưu, Ta nói như sau: Khi quý vị đi vào rừng, đi đến gốc cây hay đi đến nhà trống, nếu run sợ, hoảng hốt, hay lông tóc dựng ngược có khởi lên, trong khi ấy hãy niệm nhớ đến Ta: 'Ngài là Thế Tôn, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn'. Này các Tỳ-khưu, khi quý vị niệm nhớ đến Ta, thời sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược có khởi lên, sẽ được tiêu diệt. Nếu quý vị không niệm nhớ đến Ta, hãy niệm nhớ đến Pháp: 'Ðây là Pháp do Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, có quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, do người trí tự mình giác hiểu.' Này các Tỳ-khưu, khi quý vị niệm nhớ đến Pháp, thời sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược có khởi lên sẽ tiêu diệt. Nếu quý vị không niệm nhớ đến Pháp, hãy niệm nhớ đến chúng Tăng: 'Chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Thiện hạnh; chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Trực hạnh; chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Chánh hạnh; chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Như pháp hạnh, tức là bốn đôi, tám chúng. Chúng Tăng đệ tử này của Thế Tôn đáng được cúng dường, đáng được hiến dâng, đáng được bố thí, đáng được chấp tay, là vô thượng phước điền ở trên đời.' Này các Tỳ-khưu, khi quý vị niệm nhớ đến chúng Tăng, thời sợ hãi, hoảng hốt, hay lông tóc dựng ngược có khởi lên sẽ tiêu diệt. Vì sao? Này các Tỳ-khưu, Như Lai, bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri đã ly tham, ly sân, ly si, không nhát gan, không hoảng hốt, không hoảng sợ, không hoảng chạy. * * * * * * |
Tỉnh thức
trước bệnh tật và cái chết Bhikkhu Analayo (2017). Mindfully Facing Disease and Death: Compassionate Advice from Early Buddhist Texts. MỤC LỤC TỔNG QUÁT
CÁC CHỦ ĐỀ GIÁO THUYẾT TRONG MỖI CHƯƠNG
* * * |
Bhikkhu ANALAYO (1962-) Centre for Buddhist Studies, University of Hamburg, Germany Tỳ-khưu Analayo sinh năm 1962 tại Đức. Sư xuất gia gieo duyên năm 1990 tại chùa Wat Suan Mokkh ở miền nam Thái Lan. Năm 1994, Sư đến Sri Lanka xuất gia với ngài Hòa thượng Balangoda Ananda Maitreya, và sau đó thọ giới tỳ-khưu với Hòa thượng Pemasiri vào năm 2007 trong hệ phái Shwegyin Nikaya (bắt nguồn từ hệ phái chính Amarapura Nikaya). Tuy nhiên, Bhikkhu Bodhi là vị thầy chính. Sư hoàn tất chương trình tiến sĩ tại University of Peradeniya năm 2000 và luận án tiến sĩ được xuất bảm thành sách với tựa đề “Satipaṭṭhāna, the Direct Path to Realization”. Cuốn sách được nhiều người khen ngợi, đã được tái bản nhiều lần và dịch sang 10 thứ tiếng. Bản tiếng Việt được Cư sĩ Nguyễn Văn Ngân dịch, với tựa đề “Satipaṭṭhāna, Con đường thẳng tới giác ngộ”, xuất bản năm 2017. Hiện nay, Sư là giáo sư Phật học tại Trung tâm Phật học của Đại học Hamburg, Đức quốc (Centre for Buddhist Studies, University of Hamburg), Đại học Phật giáo Pháp Cổ, Đài Loan (Dharma Drum Buddhist College, Taiwan). Sư là đồng sáng lập viên Nhóm Nghiên cứu A-hàm (Āgama Research Group) và là giảng sư của Trung tâm Phật học Barre, Hoa Kỳ (Barre Center for Buddhist Studies). Hiện nay (2018), ngài trú và tịnh tu tại Trung tâm Phật học Barre, bang Massachusetts, Hoa Kỳ. Các nguồn thông tin: 1) Wikipedia:
https://en.wikipedia.org/wiki/Bhikkhu_Analayo ------------------ Giáo sư AMING TU Giáo sư Aming Tu (杜正民 - Đỗ Chính Dân, Du Zhengmin) là một sáng lập viên của hội CBETA (Chinese Buddhist Electronic Text Association, Hiệp hội Kinh văn Điện tử Phật giáo Trung Hoa) và đã từng là Giám đốc Điều hành của Hội (1998-2006). Ông là giáo sư Tin học và đã có nhiều đóng góp quan trọng trong dự án số hóa Tam tạng Kinh điển tiếng Hán. Năm 2005, ông bị bệnh và được chẩn đoán là bị bệnh ung thư gan, phải vào bệnh viện 10 ngày và trải qua một cơn đau đớn rất khắc nghiệt. Sau khi rời bệnh viện, ông tìm đọc các bản kinh trong Hán tạng và tạng Pali có ghi lại các lời dạy của Đức Phật và các vị đại đệ tử để đối phó với cơn đau, bệnh tật và cái chết. Ông suy ngẫm và thực hành theo đó, và nhờ vậy, đã giúp ông rất nhiều để chịu đựng các cơn đau và viễn ảnh của cái chết không thể tránh được. Ông thảo luận các vấn đề nầy với tỳ-khưu Anālayo – lúc ấy, Sư đang nghiên cứu và dịch các bản kinh A-hàm. Ông đề nghị Sư khai triển thành một cuốn sách với nội dung về phương cách đối diện với bệnh tật và cái chết, dựa theo các bản kinh của Phật giáo Sơ kỳ – bộ A-hàm trong Hán tạng và Nikāya trong tạng Pāli, cùng với những hướng dẫn thực tế để hành thiền, giúp hành giả có đủ nghị lực, hiểu biết và tỉnh thức để trực diện với các vấn đề tất yếu đó của kiếp người. Sau khi Sư hoàn tất viết cuốn sách, Gs Tu đọc bản thảo, rất hoan hỷ và viết Lời Bạt, đề cập đến nguyên nhân ra đời của cuốn sách. Cuốn sách được xuất bản vào đầu năm 2017 và được nhiều vị thiền sư, học giả khen ngợi, tán thán. Một điều buồn là Gs Aming Tu không thấy được ấn bản chính thức. Ông qua đời vào tháng 11 năm 2016. * * * |
[ Home ]
24-08-2020