Đàm luận Phật Pháp
- 319 -

Tỉnh thức trước bệnh tật và cái chết
Lời Phật dạy trong kinh văn nguyên thủy

19. CHẾT TRONG TỈNH THỨC  

 
1-mucluc19.jpg
1-mucluc19.jpg
1221 * 923
2-sati_khung.jpg
2-sati_khung.jpg
1346 * 930
3-tho3.jpg
3-tho3.jpg
1106 * 714
4-tho108.jpg
4-tho108.jpg
1249 * 886
5-thoquan.jpg
5-thoquan.jpg
1235 * 782
6-luanhoi.jpg
6-luanhoi.jpg
1521 * 1433

 

XIX

19. CHẾT TRONG TỈNH THỨC    
Bhikkhu Anālayo, Mindfully facing disease and death (2017)

XIX.1 GIỚI THIỆU

Trong bài kinh được giới thiệu trong chương này, Đức Phật từ bi tự đi đến thăm một bệnh xá dành cho các vị tỳ-khưu và có những lời khuyên dạy các vị ấy. Tương tự như bài kinh giảng cho các cư sĩ thuộc bộ tộc Thích-ca, trong bài kinh ở đây, Đức Phật có những hướng dẫn tổng quát cho những người đang trên bờ vực của cái chết.

Chủ đề chính trong chương trước, Chương 18, là để giúp các đệ tử cư sĩ hướng dẫn, khuyên bảo các vị đệ tử cư sĩ khác, tập trung vào sự an ủi và khích lệ để buông bỏ những dính mắc thông thường liên quan đến đời sống tại gia. Trong bối cảnh của bài kinh ở chương này, thay vào đó, Đức Phật hướng dẫn các tu sĩ làm thế nào để đối diện với cái chết của chính họ. Trong tư duy của Phật giáo Sơ kỳ, quyết định xuất gia của một tu sĩ là do ước nguyện chuyên tâm tu tập hành thiền để tiến đến tuệ giác giải thoát. Do đó, bài kinh này đặc biệt thích hợp cho những ai có cùng một định hướng tương tự.

Trọng tâm của các hướng dẫn trong chương này là về kinh nghiệm của cảm thọ. Đây là một lựa chọn thích hợp áp dụng cho những người ốm đau. Lời giảng dạy hướng dẫn nêu rõ phương cách ba loại cảm thọ liên quan đến ba loại tùy miên, phiền não ngủ ngầm. Giống như phần trình bày trong Chương 3, trong toàn bộ danh sách bảy loại tùy miên (dục ái, sân, tà kiến, hoài nghi, ngã mạn, hữu ái, vô minh), ba loại tùy miên được chỉ ra có liên quan trực tiếp đến ba loại cảm thọ là:

• tùy miên về dục ái (<---> cảm thọ lạc),
• tùy miên về sân hận (<---> cảm thọ khổ),
• tùy miên về si mê (<---> cảm thọ trung tính).

Tương tự như ví dụ về hai mũi tên được trình bày trong bài kinh ở Chương 3, chỉ ghi nhận đơn thuần một cảm thọ mà không cần phản ứng là điểm then chốt bài kinh được trình bày dưới đây, trích từ Tạp A-hàm (SĀ 1028), tương đương với bài kinh được tìm thấy trong Tương ưng bộ (SN 36.7).

XIX.2 KINH VĂN

SĀ 1028
TẬT BỆNH
Hòa thượng Thích Đức Thắng dịch
Bình Anson hiệu đính dựa theo bản Anh dịch của Bhikkhu Ānalayo

Tôi nghe như vầy. Một thời Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ có nhiều tỳ-khưu cùng tụ tập ở bệnh xá (gilānasālā, già-lê-lệ). Lúc đó có nhiều tỳ-khưu bị bệnh.

Buổi chiều sau khi Thế Tôn từ thiền tịnh tỉnh giấc, đến bệnh xá, trải tòa ngồi trước đại chúng, rồi bảo các tỳ-khưu:

“Nên có niệm và tỉnh giác cho đến khi mệnh chung, theo các lời giáo huấn của Ta. Này các tỳ-khưu, thế nào là chánh niệm? Đó là tỳ-khưu sống quán niệm nội thân trên thân, tinh cần, niệm, tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian. Tỳ-khưu sống quán niệm ngoại thân trên thân, tinh cần, niệm, tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian. Tỳ-khưu sống quán niệm nội ngoại thân trên thân, tinh cần, niệm, tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian.

“Tỳ-khưu sống quán niệm nội thọ trên thọ, tinh cần, niệm, tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian. Tỳ-khưu sống quán niệm ngoại thọ trên thọ, tinh cần, niệm, tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian. Tỳ-khưu sống quán niệm nội ngoại thọ trên thọ, tinh cần, niệm, tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian.

“Tỳ-khưu sống quán niệm nội tâm trên tâm, tinh cần, niệm, tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian. Tỳ-khưu sống quán niệm ngoại tâm trên tâm, tinh cần, niệm, tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian. Tỳ-khưu sống quán niệm nội ngoại tâm trên tâm, tinh cần, niệm, tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian.

“Tỳ-khưu sống quán niệm nội pháp trên pháp, tinh cần, niệm, tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian. Tỳ-khưu sống quán niệm ngoại pháp trên pháp, tinh cần, niệm, tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian. Tỳ-khưu sống quán niệm nội ngoại pháp trên pháp, tinh cần, niệm, tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian. Đó gọi là có chánh niệm.

“Thế nào là tỉnh giác? Tỳ-khưu hoặc tới hoặc lui, an trụ tỉnh giác; khi nhìn trông, quán sát, co, duỗi, cúi, ngước, nắm cầm y bát, đi, đứng, ngồi, nằm, ngủ, thức cho đến năm mươi, sáu mươi lần, khi nói năng hay im lặng đều thực hành với tỉnh giác. Đó gọi là có tỉnh giác.

“Này các tỳ-khưu, vị tỳ-khưu nào an trụ vào chánh niệm và tỉnh giác như thế, các cảm thọ lạc có thể khởi sinh do nhân duyên chứ không phải không do nhân duyên. Thế nào là nhân duyên? Đó là duyên vào thân. Vị ấy khởi suy nghĩ: ‘Thân này của ta là vô thường, hữu vi; và tâm khởi sinh do duyên vào nó cũng là vô thường, hữu vi. Các cảm thọ lạc cũng vô thường, hữu vi; và tâm khởi sinh do duyên vào chúng cũng là vô thường, hữu vi.’

“Vị ấy quán sát thân và các cảm thọ lạc là vô thường, quán sát sự sinh diệt, quán sát sự ly dục, quán sát sự diệt tận, quán sát sự buông xả. Sau khi quán sát thân và các cảm thọ lạc như thế, kiết sử tham dục tùy miên vĩnh viễn không còn tác động nữa.

“Cũng vậy, vị tỳ-khưu nào an trụ vào chánh niệm và tỉnh giác như thế, các cảm thọ khổ có thể khởi sinh do nhân duyên chứ không phải không do nhân duyên. Thế nào là nhân duyên? Đó là duyên vào thân. Vị ấy khởi suy nghĩ: ‘Thân này của ta là vô thường, hữu vi; và tâm khởi sinh do duyên vào nó cũng là vô thường, hữu vi. Các cảm thọ khổ cũng vô thường, hữu vi; và tâm khởi sinh do duyên vào chúng cũng là vô thường, hữu vi.’

“Vị ấy quán sát thân và các cảm thọ khổ là vô thường, quán sát sự sinh diệt, quán sát sự ly dục, quán sát sự diệt tận, quán sát sự buông xả. Sau khi quán sát thân và các cảm thọ khổ như thế, kiết sử sân hận tùy miên vĩnh viễn không còn tác động nữa.

“Cũng vậy, vị tỳ-khưu nào an trụ vào chánh niệm và tỉnh giác như thế, các cảm thọ không khổ không lạc có thể khởi sinh do nhân duyên chứ không phải không do nhân duyên. Thế nào là nhân duyên? Đó là duyên vào thân. Vị ấy khởi suy nghĩ: ‘Thân này của ta là vô thường, hữu vi; và tâm khởi sinh do duyên vào nó cũng là vô thường, hữu vi. Các cảm thọ không khổ không lạc cũng vô thường, hữu vi; và tâm khởi sinh do duyên vào chúng cũng là vô thường, hữu vi.’

“Vị ấy quán sát thân và các cảm thọ không khổ không lạc là vô thường, quán sát sự sinh diệt, quán sát sự ly dục, quán sát sự diệt tận, quán sát sự buông xả. Sau khi quán sát thân và các cảm thọ không khổ không lạc như thế, kiết sử vô minh tùy miên vĩnh viễn không còn tác động nữa.

“Vị đa văn thánh đệ tử quán sát như vậy, trở nên nhàm chán sắc, nhàm chán thọ, nhàm chán tưởng, nhàm chán các hành, nhàm chán thức. Do nhàm chán, vị ấy ly dục. Do ly dục, vị ấy được giải thoát. Do giải thoát, vị ấy có tri kiến: ‘Đối với ta, sinh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những việc cần làm đã làm xong, ta tự biết không còn tái sinh vào đời sau nữa.’”

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ:

Khi đang cảm giác lạc;
Không biết cảm giác lạc.
Do kiết sử tham dục,
Nên không thấy xuất ly.

Khi đang cảm giác khổ,
Không biết cảm giác khổ.
Do kiết sử sân hận,
Nên không thấy xuất ly.

Cảm thọ không lạc, khổ,
Chánh Đẳng Giác đã nói,
Người kia không thể hiểu,
Nên không qua bờ kia.

Nếu tỳ-khưu tinh tấn,
Tỉnh giác, không xao động;
Tất cả các thọ kia,
Trí tuệ đều biết hết.

Thường biết các thọ rồi,
Hiện tại hết các lậu;
Trí tuệ lúc mạng chung,
Niết-bàn, không đọa lạc.

Phật nói kinh này xong, các tỳ-khưu nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

XIX.3 THẢO LUẬN

Những lời dạy của Đức Phật trong bài kinh nêu trên về cách trải nghiệm cảm thọ mà không khởi sinh phản ứng đặt trọng tâm vào việc phát triển và duy trì niệm, mà trong cả hai phiên bản Tạp A-hàm và Tương ưng bộ đều đề cập đến các pháp thiết lập niệm (satipaṭṭhāna). Phiên bản trong Tương ưng bộ (SN 36.7) không nêu rõ sự khác biệt về chiều hướng quán bên trong và bên ngoài của pháp lập niệm, nhưng điều này có thể ngầm hiểu được bao gồm trong đó, vì được đề cập trong tất cả các phiên bản của kinh Lập Niệm (Satipaṭṭhāna-sutta). Bên cạnh chánh niệm là phần nòng cốt trong bốn pháp lập niệm, bài kinh trong cả hai phiên bản đề cập đến tỉnh giác – sự hiểu biết rõ ràng, là một trong những bài tập thực hành để quán thân trong kinh Lập Niệm và các bản Trung A-hàm tương ứng.

Sau khi thiết lập một nền tảng vững chắc trong các bước hành thiền này, hành giả hướng tâm ghi nhận sự sinh khởi của cảm thọ. Đây là một mắt xích quan trọng trong chuỗi duyên sinh (paṭicca samuppāda). Giáo lý cốt lõi này của Phật giáo Sơ kỳ mô tả nguồn gốc của các duyên sinh ra Khổ (dukkha) bằng một chuỗi nhân duyên liên kết với nhau, thông thường nhưng không nhất thiết cố định qua dạng thức của mười hai nhân duyên liên kết như sau:

• vô minh,
• hành,
• thức,
• danh sắc,
• lục nhập,
• xúc,
• thọ,
• ái,
• thủ,
• hữu,
• sinh,
• già và chết.

Mắt xích liên kết quan trọng trong chuỗi nhân duyên này, trong đó chánh niệm đóng một vai trò quan trọng để bẻ gãy, là giữa thọ và ái. Trong khi sáu cửa (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), sự tiếp xúc qua sáu cửa đó, và sự sinh khởi tùy thuộc của cảm thọ là căn bản của loài người, cảm thọ không nhất thiết phải phát sinh tham ái. Chính xác tại thời điểm này, thông qua chánh niệm, tỉnh thức ghi nhận về bản chất của thọ, khuynh hướng tạo ra phản ứng với tham ái sẽ dần dần giảm thiểu và cuối cùng được diệt trừ.

Điều hướng chú tâm vào bản chất thay đổi của các cảm thọ, dựa vào chánh niệm và hiểu biết rõ ràng, sẽ giúp trực tiếp chống lại các tùy miên, phiền não ngủ ngầm. Đây là những mầm mống trong tâm trí để có xu hướng phản ứng với ái dục khi có cảm thọ dễ chịu, với sân hận khi có cảm thọ đau đớn, và với si mê khi có cảm thọ trung tính, không lạc không khổ. Theo cách này, tu tập chánh niệm có thể mang lại một thay đổi đáng kể trong tâm trí của hành giả. Hành giả cần phải liên tục ghi nhận trong tỉnh thức rằng các cảm thọ chỉ là những hiện tượng có tính vô thường.

Có được nhận thức cơ bản về sự vô thường của các cảm thọ, vốn là đặc điểm nổi bật khi trải nghiệm về bệnh tật và cái chết sắp xảy ra, sẽ đưa đến tâm buông xả và giải thoát. Theo cách này, quán niệm về các cảm thọ đau đớn khi bị bệnh và lúc cận kề cái chết có thể giúp đạt đến đỉnh điểm của giác ngộ. Bài kệ cuối cùng của bài kinh nêu trên trong Tạp A-hàm cho biết khi thông hiểu hoàn toàn về bản chất của những gì được cảm thọ, hành giả có thể vượt qua đến bờ bên kia và siêu thoát, không còn đọa lạc nữa.

* * *

 

SĀ 1028
TẬT BỆNH
Hòa thượng Thích Đức Thắng dịch
Bình Anson hiệu đính dựa theo bản Anh dịch của Bhikkhu Ānalayo

Tôi nghe như vầy. Một thời Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ có nhiều tỳ-khưu cùng tụ tập ở bệnh xá (gilānasālā, già-lê-lệ). Lúc đó có nhiều tỳ-khưu bị bệnh.

Buổi chiều sau khi Thế Tôn từ thiền tịnh tỉnh giấc, đến bệnh xá, trải tòa ngồi trước đại chúng, rồi bảo các tỳ-khưu:

“Nên có niệm và tỉnh giác cho đến khi mệnh chung, theo các lời giáo huấn của Ta. Này các tỳ-khưu, thế nào là chánh niệm? Đó là tỳ-khưu sống quán niệm nội thân trên thân, tinh cần, niệm, tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian. Tỳ-khưu sống quán niệm ngoại thân trên thân, tinh cần, niệm, tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian. Tỳ-khưu sống quán niệm nội ngoại thân trên thân, tinh cần, niệm, tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian.

“Tỳ-khưu sống quán niệm nội thọ trên thọ, tinh cần, niệm, tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian. Tỳ-khưu sống quán niệm ngoại thọ trên thọ, tinh cần, niệm, tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian. Tỳ-khưu sống quán niệm nội ngoại thọ trên thọ, tinh cần, niệm, tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian.

“Tỳ-khưu sống quán niệm nội tâm trên tâm, tinh cần, niệm, tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian. Tỳ-khưu sống quán niệm ngoại tâm trên tâm, tinh cần, niệm, tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian. Tỳ-khưu sống quán niệm nội ngoại tâm trên tâm, tinh cần, niệm, tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian.

“Tỳ-khưu sống quán niệm nội pháp trên pháp, tinh cần, niệm, tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian. Tỳ-khưu sống quán niệm ngoại pháp trên pháp, tinh cần, niệm, tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian. Tỳ-khưu sống quán niệm nội ngoại pháp trên pháp, tinh cần, niệm, tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian. Đó gọi là có chánh niệm.

“Thế nào là tỉnh giác? Tỳ-khưu hoặc tới hoặc lui, an trụ tỉnh giác; khi nhìn trông, quán sát, co, duỗi, cúi, ngước, nắm cầm y bát, đi, đứng, ngồi, nằm, ngủ, thức cho đến năm mươi, sáu mươi lần, khi nói năng hay im lặng đều thực hành với tỉnh giác. Đó gọi là có tỉnh giác.

“Này các tỳ-khưu, vị tỳ-khưu nào an trụ vào chánh niệm và tỉnh giác như thế, các cảm thọ lạc có thể khởi sinh do nhân duyên chứ không phải không do nhân duyên. Thế nào là nhân duyên? Đó là duyên vào thân. Vị ấy khởi suy nghĩ: ‘Thân này của ta là vô thường, hữu vi; và tâm khởi sinh do duyên vào nó cũng là vô thường, hữu vi. Các cảm thọ lạc cũng vô thường, hữu vi; và tâm khởi sinh do duyên vào chúng cũng là vô thường, hữu vi.’

“Vị ấy quán sát thân và các cảm thọ lạc là vô thường, quán sát sự sinh diệt, quán sát sự ly dục, quán sát sự diệt tận, quán sát sự buông xả. Sau khi quán sát thân và các cảm thọ lạc như thế, kiết sử tham dục tùy miên vĩnh viễn không còn tác động nữa.

“Cũng vậy, vị tỳ-khưu nào an trụ vào chánh niệm và tỉnh giác như thế, các cảm thọ khổ có thể khởi sinh do nhân duyên chứ không phải không do nhân duyên. Thế nào là nhân duyên? Đó là duyên vào thân. Vị ấy khởi suy nghĩ: ‘Thân này của ta là vô thường, hữu vi; và tâm khởi sinh do duyên vào nó cũng là vô thường, hữu vi. Các cảm thọ khổ cũng vô thường, hữu vi; và tâm khởi sinh do duyên vào chúng cũng là vô thường, hữu vi.’

“Vị ấy quán sát thân và các cảm thọ khổ là vô thường, quán sát sự sinh diệt, quán sát sự ly dục, quán sát sự diệt tận, quán sát sự buông xả. Sau khi quán sát thân và các cảm thọ khổ như thế, kiết sử sân hận tùy miên vĩnh viễn không còn tác động nữa.

“Cũng vậy, vị tỳ-khưu nào an trụ vào chánh niệm và tỉnh giác như thế, các cảm thọ không khổ không lạc có thể khởi sinh do nhân duyên chứ không phải không do nhân duyên. Thế nào là nhân duyên? Đó là duyên vào thân. Vị ấy khởi suy nghĩ: ‘Thân này của ta là vô thường, hữu vi; và tâm khởi sinh do duyên vào nó cũng là vô thường, hữu vi. Các cảm thọ không khổ không lạc cũng vô thường, hữu vi; và tâm khởi sinh do duyên vào chúng cũng là vô thường, hữu vi.’

“Vị ấy quán sát thân và các cảm thọ không khổ không lạc là vô thường, quán sát sự sinh diệt, quán sát sự ly dục, quán sát sự diệt tận, quán sát sự buông xả. Sau khi quán sát thân và các cảm thọ không khổ không lạc như thế, kiết sử vô minh tùy miên vĩnh viễn không còn tác động nữa.

“Vị đa văn thánh đệ tử quán sát như vậy, trở nên nhàm chán sắc, nhàm chán thọ, nhàm chán tưởng, nhàm chán các hành, nhàm chán thức. Do nhàm chán, vị ấy ly dục. Do ly dục, vị ấy được giải thoát. Do giải thoát, vị ấy có tri kiến: ‘Đối với ta, sinh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những việc cần làm đã làm xong, ta tự biết không còn tái sinh vào đời sau nữa.’”

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ:

Khi đang cảm giác lạc;
Không biết cảm giác lạc.
Do kiết sử tham dục,
Nên không thấy xuất ly.

Khi đang cảm giác khổ,
Không biết cảm giác khổ.
Do kiết sử sân hận,
Nên không thấy xuất ly.

Cảm thọ không lạc, khổ,
Chánh Đẳng Giác đã nói,
Người kia không thể hiểu,
Nên không qua bờ kia.

Nếu tỳ-khưu tinh tấn,
Tỉnh giác, không xao động;
Tất cả các thọ kia,
Trí tuệ đều biết hết.

Thường biết các thọ rồi,
Hiện tại hết các lậu;
Trí tuệ lúc mạng chung,
Niết-bàn, không đọa lạc.

Phật nói kinh này xong, các tỳ-khưu nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.


SN 36.7
BỆNH XÁ
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch
Bình Anson hiệu đính dựa theo bản Anh dịch của Bhikkhu Bodhi

Một thời Thế Tôn trú ở Vesali, Ðại Lâm, tại giảng đường của ngôi nhà nóc nhọn. Rồi Thế Tôn, vào buổi chiều, từ chỗ tịnh cư đứng dậy, đi đến bệnh xá. Sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn, rồi nói với các tỳ-khưu:

“Này các tỳ-khưu, tỳ-khưu cần phải có niệm, tỉnh giác cho đến khi mệnh chung. Ðây là lời giáo giới của Ta cho các ông.

“Và này các tỳ-khưu, thế nào là tỳ-khưu có niệm? Ở đây, này các tỳ-khưu, tỳ-khưu sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Tỳ-khưu sống quán thọ trên các cảm thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Tỳ-khưu sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Tỳ-khưu sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Như vậy là tỳ-khưu có niệm.

“Và này các tỳ-khưu, như thế nào là tỳ-khưu có tỉnh giác?

“Ở đây, này các tỳ-khưu, tỳ-khưu khi đi tới, khi đi lui đều tỉnh giác; khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh giác; khi co tay, khi duỗi tay, đều tỉnh giác; khi mang các y, bình bát đều tỉnh giác; khi ăn, uống, nhai, nếm đều tỉnh giác; khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác; khi đi, đứng, ngồi, nằm, thức, nói, im lặng đều tỉnh giác. Như vậy là tỳ-khưu có tỉnh giác.

“Này các tỳ-khưu, tỳ-khưu cần phải có niệm, tỉnh giác cho đến khi mệnh chung. Ðây là lời giáo giới của Ta cho các ông.

“Này các tỳ-khưu, nếu tỳ-khưu sống với niệm, tỉnh giác, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần như vậy, nếu có lạc thọ khởi lên, vị ấy biết rõ như sau: ‘Lạc thọ này khởi lên nơi ta. Lạc thọ ấy có duyên, không phải là không có duyên. Do duyên gì? Do duyên chính thân này. Nhưng thân này là vô thường, hữu vi, do duyên sinh. Khi lạc thọ khởi lên do duyên nơi thân vốn là vô thường, hữu vi, duyên sinh, thì làm sao lạc thọ ấy là thường tồn?’ Vị ấy quán về vô thường đối với thân và lạc thọ, quán về tiêu vong, quán về ly tham, quán về đoạn diệt, quán về từ bỏ. Do vị ấy quán như thế, tham tùy miên đối với thân và tham tùy miên đối với lạc thọ được đoạn diệt.

“Này các tỳ-khưu, nếu tỳ-khưu sống với niệm, tỉnh giác, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần như vậy, nếu có khổ thọ khởi lên, vị ấy biết rõ như sau: ‘Khổ thọ này khởi lên nơi ta. Khổ thọ ấy có duyên, không phải là không có duyên. Do duyên gì? Do duyên chính thân này. Nhưng thân này là vô thường, hữu vi, do duyên sinh. Khi khổ thọ khởi lên do duyên nơi thân vốn là vô thường, hữu vi, duyên sinh, thì làm sao khổ thọ ấy là thường tồn?’ Vị ấy quán về vô thường đối với thân và khổ thọ, quán về tiêu vong, quán về ly tham, quán về đoạn diệt, quán về từ bỏ. Do vị ấy quán như thế, sân tùy miên đối với thân và sân tùy miên đối với khổ thọ được đoạn diệt.

“Này các tỳ-khưu, nếu tỳ-khưu sống với niệm, tỉnh giác, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần như vậy, nếu có bất khổ bất lạc thọ khởi lên, vị ấy biết rõ như sau: ‘Bất khổ bất lạc thọ này khởi lên nơi ta. Bất khổ bất lạc thọ ấy có duyên, không phải là không có duyên. Do duyên gì? Do duyên chính thân này. Nhưng thân này là vô thường, hữu vi, do duyên sinh. Khi bất khổ bất lạc thọ khởi lên do duyên nơi thân vốn là vô thường, hữu vi, duyên sinh, thì làm sao bất khổ bất lạc thọ ấy là thường tồn?’ Vị ấy quán về vô thường đối với thân và bất khổ bất lạc thọ, quán về tiêu vong, quán về ly tham, quán về đoạn diệt, quán về từ bỏ. Do vị ấy quán như thế, si tùy miên đối với thân và si tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ được đoạn diệt.

“Nếu vị ấy cảm giác lạc thọ, vị ấy biết rõ: ‘Thọ ấy là vô thường,’ vị ấy biết rõ: ‘Ta không chấp trước thọ ấy,’ vị ấy biết rõ: ‘Ta không hoan hỷ về thọ ấy.’ Nếu vị ấy cảm giác khổ thọ, vị ấy biết rõ: ‘Thọ ấy là vô thường,’ vị ấy biết rõ: ‘Ta không chấp trước thọ ấy,’ vị ấy biết rõ: ‘Ta không hoan hỷ về thọ ấy.’
Nếu vị ấy cảm giác bất khổ bất lạc thọ, vị ấy biết rõ: ‘Thọ ấy là vô thường,’ vị ấy biết rõ: ‘Ta không chấp trước thọ ấy,’ vị ấy biết rõ: ‘Ta không hoan hỷ về thọ ấy.’

“Nếu vị ấy cảm giác lạc thọ, vị ấy cảm giác thọ ấy như người không bị trói buộc. Nếu vị ấy cảm giác khổ thọ, vị ấy cảm giác thọ ấy như người không bị trói buộc. Nếu vị ấy cảm giác bất khổ bất lạc thọ, vị ấy cảm giác thọ ấy như người không bị trói buộc.

“Khi vị ấy cảm giác thọ cùng tàn diệt với thân, vị ấy biết rõ: ‘Ta đang cảm giác thọ cùng tàn diệt với thân.’ Khi vị ấy cảm giác thọ cùng tàn diệt với sinh mệnh, vị ấy biết rõ: ‘Ta đang cảm giác thọ cùng tàn diệt với sinh mệnh.’ Vị ấy biết rõ: ‘Sau khi thân hoại mạng chung, tất cả những gì được cảm giác là không có gì đáng hoan hỷ, sẽ đi đến lắng dịu ngay tại đó.’

“Ví như, này các tỳ-khưu, do duyên dầu và do duyên tim bấc, một ngọn đèn dầu được cháy đỏ. Khi dầu khô cạn, tim bấc cháy hết vì không được tiếp thêm nhiên liệu, ngọn đèn sẽ tắt. Cũng vậy, này các tỳ-khưu, khi tỳ-khưu cảm giác thọ cùng tàn diệt với thân, vị ấy biết rõ: ‘Ta đang cảm giác thọ cùng tàn diệt với thân.’ Khi vị ấy cảm giác thọ cùng tàn diệt với sinh mệnh, vị ấy biết rõ: ‘Ta đang cảm giác thọ cùng tàn diệt với sinh mệnh.’ Vị ấy biết rõ: ‘Sau khi thân hoại mạng chung, tất cả những gì được cảm giác là không có gì đáng hoan hỷ, sẽ đi đến lắng dịu ngay tại đó.’”


 

Itipi so Bhagavā Arahaṃ Sammāsambuddho
Vijjācaraṇasampanno Sugato Lokavidū
Anuttaro Purisadammasārathi
Satthā devamanussānaṃ
Buddho Bhagavāti.

Svākkhāto bhagavato dhammo
Sandiṭṭhiko akāliko ehipassiko
Opanayiko paccattaṃ veditabbo viññūhīti.

Supaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho
Ujupaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho
Ñāyapaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho
Sāmīcipaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho
Yadidaṃ cattāri purisayugāṇi atthapurisapuggalā
Esa bhagavato sāvakasaṅgho
Āhuneyyo pāhuneyyo dakkhiṇeyyo añjalikaranīyo
Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassāti.

Đầu ngọn cờ
Dhajagga Sutta, SN 11.3

"Này các Tỳ-khưu, Ta nói như sau: Khi quý vị đi vào rừng, đi đến gốc cây hay đi đến nhà trống, nếu run sợ, hoảng hốt, hay lông tóc dựng ngược có khởi lên, trong khi ấy hãy niệm nhớ đến Ta: 'Ngài là Thế Tôn, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn'.

Này các Tỳ-khưu, khi quý vị niệm nhớ đến Ta, thời sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược có khởi lên, sẽ được tiêu diệt.

Nếu quý vị không niệm nhớ đến Ta, hãy niệm nhớ đến Pháp: 'Ðây là Pháp do Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, có quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, do người trí tự mình giác hiểu.'

Này các Tỳ-khưu, khi quý vị niệm nhớ đến Pháp, thời sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược có khởi lên sẽ tiêu diệt.

Nếu quý vị không niệm nhớ đến Pháp, hãy niệm nhớ đến chúng Tăng: 'Chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Thiện hạnh; chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Trực hạnh; chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Chánh hạnh; chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Như pháp hạnh, tức là bốn đôi, tám chúng. Chúng Tăng đệ tử này của Thế Tôn đáng được cúng dường, đáng được hiến dâng, đáng được bố thí, đáng được chấp tay, là vô thượng phước điền ở trên đời.'

Này các Tỳ-khưu, khi quý vị niệm nhớ đến chúng Tăng, thời sợ hãi, hoảng hốt, hay lông tóc dựng ngược có khởi lên sẽ tiêu diệt.

Vì sao? Này các Tỳ-khưu, Như Lai, bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri đã ly tham, ly sân, ly si, không nhát gan, không hoảng hốt, không hoảng sợ, không hoảng chạy.

* * * * * *

 

Tỉnh thức trước bệnh tật và cái chết
Lời Phật dạy trong kinh văn nguyên thủy

Bhikkhu Analayo (2017). Mindfully Facing Disease and Death: Compassionate Advice from Early Buddhist Texts.

MỤC LỤC TỔNG QUÁT

Dẫn nhập

BỆNH TẬT

Chương 01 - Đức Phật như là một vị y sĩ vô thượng
Chương 02 - Thân bệnh, tâm an
Chương 03 - Mũi tên của đau khổ
Chương 04 - Phẩm chất của bệnh nhân và người chăm sóc
Chương 05 - Tiềm năng chữa bệnh của các chi phần giác ngộ
Chương 06 - Giảm thiểu cơn đau trong tỉnh thức
Chương 07 - Chịu đựng cơn đau trong tỉnh thức
Chương 08 - Tỉnh thức đối mặt bệnh tật
Chương 09 - Không sợ hãi khi bị bệnh
Chương 10 - Liều thuốc nội quán
Chương 11 - Những lời dạy giải thoát từ một bệnh nhân
Chương 12 - Chương trình hành thiền chữa bệnh

CÁI CHẾT

Chương 13 - Chết là điều tất nhiên
Chương 14 - Tự do tỉnh thức không buồn rầu
Chương 15 - Cận tử và các phạm trú
Chương 16 - Các hướng dẫn trước khi chết
Chương 17 - Không chấp thủ và bệnh bất trị mạt kỳ
Chương 18 - Lời khuyên về chăm sóc thoa dịu
Chương 19 - Chết trong tỉnh thức
Chương 20 - Tiềm năng giải thoát của cái chết
Chương 21 - Sức mạnh của nội quán lúc cận tử
Chương 22 - Những lời cuối của một đệ tử cư sĩ thành đạt
Chương 23 - Trạng thái thiền của Đức Phật khi nhập diệt
Chương 24 - Quán tưởng về cái chết

Kết luận và các hướng dẫn hành thiền

Dẫn nhập
Các hướng dẫn hành thiền cho ngài Girimānanda
(1) Quán vô thường
(2) Quán vô ngã
(3) Quán bất tịnh
(4) Quán nguy hại
(5) Quán từ bỏ
(6) Quán xả ly
(7) Quán diệt tận
(8) Quán không tham luyến vào toàn thế giới
(9) Quán các hành là vô thường
(10) Quán hơi thở

 


CÁC CHỦ ĐỀ GIÁO THUYẾT TRONG MỖI CHƯƠNG

Chương 01 - Tứ thánh đế và Bát chi thánh đạo, danh hiệu của Như Lai
Chương 02 - Năm uẩn chấp thủ, vị ngọt và nguy hại
Chương 03 - Bảy khuynh hướng ngủ ngầm và ba loại cảm thọ
Chương 04 - Bốn phạm trú
Chương 05 - Năm triền cái, bảy chi phần giác ngộ và cách tu dưỡng
Chương 06 - Bốn pháp lập niệm, pháp nhãn, và đạt thiền diệt
Chương 07 - Tầm quan trọng của chư thiên
Chương 08 - Bốn cấp bậc giác ngộ, năm hạ phần kiết sử, và tam vô lậu học
Chương 09 - Bốn chi phần Dự Lưu và ngũ giới
Chương 10 - Hai mươi loại thân kiến và ba lậu hoặc
Chương 11 - Vô ngã và sự khác biệt giữa Dự Lưu và giác ngộ hoàn toàn
Chương 12 - Bốn tưởng điên đảo

Chương 13 - Phật Độc Giác và mười lực, bốn pháp vô sở úy của Như Lai
Chương 14 - Năm vô lậu học và ba mươi bảy chi phần đưa đến giác ngộ
Chương 15 - Vai trò các cõi trời
Chương 16 - Tam Bảo và đường đến quả Dự Lưu
Chương 17 - Ba tướng và bốn loại thức ăn
Chương 18 - Tinh luyện tiệm tiến của hạnh phúc
Chương 19 - Duyên sinh
Chương 20 - Chánh kiến lúc cận tử
Chương 21 - Sáu căn
Chương 22 - Tầm quan trọng của Chuyển Luân Vương
Chương 23 - Bốn tầng thiền hữu sắc và bốn tầng thiền vô sắc
Chương 24 - Quán tưởng về cái chết

* * *

 

Bhikkhu ANALAYO (1962-)
Centre for Buddhist Studies, University of Hamburg, Germany

Tỳ-khưu Analayo sinh năm 1962 tại Đức. Sư xuất gia gieo duyên năm 1990 tại chùa Wat Suan Mokkh ở miền nam Thái Lan. Năm 1994, Sư đến Sri Lanka xuất gia với ngài Hòa thượng Balangoda Ananda Maitreya, và sau đó thọ giới tỳ-khưu với Hòa thượng Pemasiri vào năm 2007 trong hệ phái Shwegyin Nikaya (bắt nguồn từ hệ phái chính Amarapura Nikaya). Tuy nhiên, Bhikkhu Bodhi là vị thầy chính.

Sư hoàn tất chương trình tiến sĩ tại University of Peradeniya năm 2000 và luận án tiến sĩ được xuất bảm thành sách với tựa đề “Satipaṭṭhāna, the Direct Path to Realization”. Cuốn sách được nhiều người khen ngợi, đã được tái bản nhiều lần và dịch sang 10 thứ tiếng. Bản tiếng Việt được Cư sĩ Nguyễn Văn Ngân dịch, với tựa đề “Satipaṭṭhāna, Con đường thẳng tới giác ngộ”, xuất bản năm 2017.

Hiện nay, Sư là giáo sư Phật học tại Trung tâm Phật học của Đại học Hamburg, Đức quốc (Centre for Buddhist Studies, University of Hamburg), Đại học Phật giáo Pháp Cổ, Đài Loan (Dharma Drum Buddhist College, Taiwan). Sư là đồng sáng lập viên Nhóm Nghiên cứu A-hàm (Āgama Research Group) và là giảng sư của Trung tâm Phật học Barre, Hoa Kỳ (Barre Center for Buddhist Studies).

Hiện nay (2018), ngài trú và tịnh tu tại Trung tâm Phật học Barre, bang Massachusetts, Hoa Kỳ.

Các nguồn thông tin:

1) Wikipedia: https://en.wikipedia.org/wiki/Bhikkhu_Analayo 
2) University of Hamburg: https://www.buddhismuskunde.uni-hamburg.de/en/personen/analayo.html 

------------------

Giáo sư AMING TU

Giáo sư Aming Tu (杜正民 - Đỗ Chính Dân, Du Zhengmin) là một sáng lập viên của hội CBETA (Chinese Buddhist Electronic Text Association, Hiệp hội Kinh văn Điện tử Phật giáo Trung Hoa) và đã từng là Giám đốc Điều hành của Hội (1998-2006). Ông là giáo sư Tin học và đã có nhiều đóng góp quan trọng trong dự án số hóa Tam tạng Kinh điển tiếng Hán. Năm 2005, ông bị bệnh và được chẩn đoán là bị bệnh ung thư gan, phải vào bệnh viện 10 ngày và trải qua một cơn đau đớn rất khắc nghiệt.

Sau khi rời bệnh viện, ông tìm đọc các bản kinh trong Hán tạng và tạng Pali có ghi lại các lời dạy của Đức Phật và các vị đại đệ tử để đối phó với cơn đau, bệnh tật và cái chết. Ông suy ngẫm và thực hành theo đó, và nhờ vậy, đã giúp ông rất nhiều để chịu đựng các cơn đau và viễn ảnh của cái chết không thể tránh được.

Ông thảo luận các vấn đề nầy với tỳ-khưu Anālayo – lúc ấy, Sư đang nghiên cứu và dịch các bản kinh A-hàm. Ông đề nghị Sư khai triển thành một cuốn sách với nội dung về phương cách đối diện với bệnh tật và cái chết, dựa theo các bản kinh của Phật giáo Sơ kỳ – bộ A-hàm trong Hán tạng và Nikāya trong tạng Pāli, cùng với những hướng dẫn thực tế để hành thiền, giúp hành giả có đủ nghị lực, hiểu biết và tỉnh thức để trực diện với các vấn đề tất yếu đó của kiếp người.

Sau khi Sư hoàn tất viết cuốn sách, Gs Tu đọc bản thảo, rất hoan hỷ và viết Lời Bạt, đề cập đến nguyên nhân ra đời của cuốn sách. Cuốn sách được xuất bản vào đầu năm 2017 và được nhiều vị thiền sư, học giả khen ngợi, tán thán. Một điều buồn là Gs Aming Tu không thấy được ấn bản chính thức. Ông qua đời vào tháng 11 năm 2016.

* * *

[ Home ]

10-08-2020