Đàm luận Phật Pháp
- 314 -

Tỉnh thức trước bệnh tật và cái chết
Lời Phật dạy trong kinh văn nguyên thủy

14. TỈNH THỨC KHÔNG SẦU KHỔ  

 
1-mucluc14.jpg
1-mucluc14.jpg
1179 * 898
2-5phap_uan.jpg
2-5phap_uan.jpg
1184 * 844
3-37phanbode.jpg
3-37phanbode.jpg
1119 * 783

 

XIV

TỈNH THỨC KHÔNG SẦU KHỔ   
Bhikkhu Anālayo, Mindfully facing disease and death (2017)

XIV.1 GIỚI THIỆU

Bài kinh trong chương này ghi lại các phản ứng khác nhau về cái chết của ngài Trưởng lão Sāriputta (Xá-lợi-phất), vị đại đệ tử của Đức Phật, nổi tiếng về trí tuệ. Những phản ứng khác nhau này ghi nhận sự tương phản giữa thái độ điềm đạm thực tế của người thị giả của ngài, sa-di Cunda, và thái độ buồn rầu của ngài Trưởng lão Ānanda (A-nan). Theo chú giải Pāli truyền thống, Cunda là người em trai của ngài Sāriputta và hoàn toàn giác ngộ không bao lâu sau khi xuất gia thọ giới sa-di. Trong bài kinh, chú vẫn còn khá trẻ vì nếu lớn tuổi hơn, chú đã có thể trở thành tỳ-khưu, vì đó là điều thông thường trong thời Phật giáo sơ kỳ khi một vị tu sĩ đạt đến số tuối tối thiểu để thọ giới tỳ-khưu.

Bài kinh được dịch dưới đây là trích từ Tạp A-hàm (SĀ 638), và bài kinh tương đương trong Tương ưng bộ (SN 47.13), ghi lại câu chuyện sa-di Cunda đến gặp ngài Ānanda để thông báo về sự mệnh chung của ngài Sāriputta, và sau đó, ngài Ānanda bày tỏ sự đau buồn của mình với Đức Phật.

XIV.2 KINH VĂN

Tạp A-hàm, SĀ 638
THUẦN-ĐÀ
Hòa thượng Thích Đức Thắng dịch
Bình Anson hiệu đính dựa theo bản dịch tiếng Anh của Tỳ-khưu Anālayo

Tôi nghe như vầy. Một thời, Phật ở trong khu vườn trúc tại thành Vương xá (Rājagaha). Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất (Sāriputta) đang ở trong làng Ma-kiệt-đà (Magadha), thôn Na-la (Nālakagāma), bị bệnh. Sa-di Thuần-đà (Cunda) chăm sóc ngài. Do bệnh ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất mệnh chung, nhập Niết-bàn.

Sa-di Thuần-đà sau khi làm lễ hỏa táng Tôn giả Xá-lợi-phất, nhặt lấy xá-lợi còn lại, mang theo cùng với y bát của Tôn giả đến thành Vương xá. Đến nơi, thâu cất y bát, rửa chân xong, sa-di Thuần-đà đi đến chỗ Tôn giả A-nan (Ānanda), đảnh lễ rồi, lui đứng một bên, rồi nói: “Bạch Tôn giả, thầy của con là Tôn giả Xá-lợi-phất đã nhập Niết-bàn. Con đem xá-lợi và y bát về đây.”

Tôn giả A-nan nghe sa-di Thuần-đà báo tin ấy, liền đi đến chỗ Phật, bạch rằng: “Bạch Thế Tôn, hôm nay con tưởng chừng thân thể rã rời, bốn phương đổi khác, mờ ám, nghẹn ngào không nói nên lời. Sa-di Thuần-đà nói với con rằng: ‘Thầy của con là Tôn giả Xá-lợi-phất đã nhập Niết-bàn. Con đem xá-lợi và y bát về đây.’”

Phật hỏi: “Này A-nan, khi Xá-lợi-phất nhập Niết-bàn có đem theo giới uẩn không? Có đem theo định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn không?” Tôn giả A-nan bạch Phật: “Thưa không, bạch Thế Tôn”.

Phật bảo A-nan: “Về những pháp Ta đã truyền giảng, sau khi tự chứng tri và thành chánh đẳng giác, như bốn pháp lập niệm, bốn tinh cần, bốn như ý túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám chi thánh đạo, Xá-lợi-phất có đem theo các pháp này khi nhập Niết-bàn không?”

Tôn giả A-nan bạch Phật: “Thưa không, bạch Thế Tôn. Mặc dù khi nhập Niết-bàn, Tôn giả Xá-lợi-phất không đem theo giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn, các lời dạy về bốn pháp lập niệm, bốn tinh cần, bốn như ý túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám chi thánh đạo, Tôn giả là người giữ giới, học nhiều, ít muốn, biết đủ, thường tu hạnh viễn ly, tinh cần, nhiếp niệm an trụ, nhất tâm chánh định. Tôn giả có trí tuệ bén nhạy, trí tuệ sâu xa, trí tuệ siêu việt, trí tuệ phân biệt, trí tuệ lớn, trí tuệ rộng, trí tuệ sâu, trí tuệ không ai bằng. Tôn giả có kho báu trí tuệ, có khả năng chỉ bày, dạy dỗ, soi sáng, làm cho hoan hỷ, khéo léo giảng pháp cho mọi người. Cho nên, bạch Thế Tôn, con vì pháp, vì những người lãnh thọ giáo pháp, cảm thấy buồn rầu khổ não.”

Phật bảo A-nan: “Ngươi chớ buồn rầu khổ não! Vì sao? Cái gì có sinh, có khởi, có tạo tác đều có bản chất hoạt diệt. Làm sao có thể không hoại diệt? Muốn cho không hoại diệt là điều không thể xảy ra. Trước đây Ta đã từng nói rằng tất cả những gì yêu thích, những gì hợp ý, tất cả đều có bản chất chia lìa, chẳng thể giữ mãi được.

“Ví như cội cây to, rễ, cành, nhánh, lá, hoa, trái sum sê tươi tốt, cành lớn gãy trước. Như núi báu lớn, đỉnh lớn sụp đổ trước. Cũng vậy, trong chúng đệ tử của Như Lai, các đại đệ tử nhập Niết-bàn trước.

“Phương nào Xá-lợi-phất an trụ thì Ta không quan tâm ở phương ấy. Vì có Xá-lợi-phất, phương ấy đối với Ta không phải trống không.

“Này A-nan, trước đây Ta đã nói với ngươi, tất cả những gì yêu thích, hợp ý đều có bản chất chia lìa. Bởi vậy cho nên đừng quá buồn rầu. Ngươi nên biết rằng Như Lai chẳng bao lâu cũng sẽ ra đi. Cho nên, này A-nan, hãy tự mình làm hòn đảo để tự nương tựa. Hãy lấy pháp làm hòn đảo, lấy pháp làm nơi nương tựa, đừng lấy chỗ nào khác làm hòn đảo, đừng nương tựa vào chỗ nào khác.”

Tôn giả A-nan bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, thế nào là tự mình làm hòn đảo, tự mình nương tựa chính mình? Thế nào là lấy pháp làm hòn đảo, lấy pháp làm nơi nương tựa? Thế nào là không lấy chỗ nào khác làm hòn đảo, không nương tựa vào chỗ nào khác?”

Phật đáp: “Đó là khi tỳ-khưu sống quán niệm thân trên thân bên trong, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian; sống quán niệm thân trên thân bên ngoài, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian; sống quán niệm thân trên thân bên trong và bên ngoài, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian.

“Sống quán niệm thọ trên thọ bên trong, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian; sống quán niệm thọ trên thọ bên ngoài, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian; sống quán niệm thọ trên thọ bên trong và bên ngoài, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian.

“Sống quán niệm tâm trên tâm bên trong, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian; sống quán niệm tâm trên tâm bên ngoài, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian; sống quán niệm tâm trên tâm bên trong và bên ngoài, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian.

“Sống quán niệm pháp trên pháp bên trong, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian; sống quán niệm pháp trên pháp bên ngoài, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian; sống quán niệm pháp trên pháp bên trong và bên ngoài, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian.

“Này A-nan, đó gọi là tự mình làm hòn đảo, tự mình nương tựa chính mình, lấy pháp làm hòn đảo, lấy pháp làm chỗ nương tựa, không lấy chỗ nào khác làm hòn đảo, không nương tựa vào chỗ nào khác.”

Phật dạy kinh này xong, các tỳ-khưu sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ thực hành theo.

XIV.3 THẢO LUẬN

Sự tương phản giữa thái độ bình tĩnh của sa-di Cunda sắp xếp mọi công việc sau cái chết của người anh cũng là vị giáo thọ của mình và thái độ xáo trộn tâm trí của ngài Ānanda khi được tin về cái chết ấy phản ánh mức độ tiến bộ khác nhau trên con đường tu tập. Mặc dù tuổi còn trẻ, sa-di Cunda đã đạt đến cấp độ hoàn toàn giác ngộ, trong khi ngài Ānanda vẫn là một vị “hữu học”, mặc dù đã ghi nhớ rất nhiều lời dạy của Đức Phật, vẫn chưa hoàn toàn diệt trừ tất cả mọi lậu hoặc.

Tiếp theo đó, khi bàn về sự mệnh chung của ngài Sāriputta, Đức Phật đề cập đến sự phân chia các khía cạnh của con đường giải thoát xoay quanh năm “tập hợp” hay là năm “uẩn”, từ đó sử dụng thuật ngữ tương tự như sự phân tích cơ bản của kinh nghiệm cá nhân thành sắc, thọ, tưởng, hành, thức như là năm uẩn để chấp thủ, đã được thảo luận trong Chương 2. Trong khi chấp thủ vào năm uẩn này cản trở sự giác ngộ, năm uẩn của sự giải thoát được đề cập trong cuộc đối thoại của bài kinh là những gì đưa đến sự giác ngộ và phản ánh sự thành công. Ba uẩn đầu tiên tương ứng với ba sự huân tập, tam vô lậu học, được đề cập trong Chương 8; hai uẩn còn lại có liên quan đến việc hoàn tất sự huân tập đó. Toàn bộ năm uẩn này là:

• Giới,
• Định,
• Tuệ,
• Giải thoát,
• Giải thoát tri kiến.

Bài kinh Tạp A-hàm được trích dịch ở đây cũng đề cập đến một khía cạnh khác của giáo lý mà ngài Sāriputta không đem theo khi mệnh chung, mặc dù điều này không được tìm thấy trong bài kinh tương đương của Tăng chi bộ. Khía cạnh giảng dạy này là ba mươi bảy phẩm chất và thực hành để đưa đến giác ngộ (bodhipakkhiyā dhammā):

• Bốn pháp lập niệm,
• Bốn chánh cần,
• Bốn như ý túc,
• Năm căn,
• Năm lực,
• Bảy chi phần giác ngộ,
• Đường thánh tám chi.

Theo cách này, bài kinh trong Tạp A-hàm làm rõ thêm quan điểm đưa ra trong cả hai bài kinh có liên quan đến năm uẩn giải thoát, đó là sự mệnh chung của ngài Sāriputta không đưa đến sự mất mát hay thiệt hại nào cho các khía cạnh của con đường giải thoát và không ảnh hưởng gì đến những phẩm chất và sự thực hành để hành giả làm chủ tâm ý và cuối cùng đưa đến giác ngộ.

Ngoài việc trình bày sự tương phản giữa thái độ của một người hoàn toàn giác ngộ như sa-di Cunda và vị hữu học Ānanda về sự ra đi của ngài Sāriputta, bài kinh còn trình bày một phương cách đối phó sự buồn khổ, ví sự tự lực qua hình ảnh của một hòn đảo. Trở nên tự lực và chỉ nương tựa vào giáo pháp là phải biết tu tập bốn pháp lập niệm. Đây là phương cách trở thành một hòn đảo là nơi nương tựa cho chính mình và đồng thời lấy Pháp làm nơi nương tựa, cụ thể là thông qua thực hành chánh niệm. Chánh niệm giúp ta hiểu rõ thật sự những gì xảy ra bên trong và chung quanh ta, và cũng giúp ta hiểu biết điều này có liên quan đến giáo pháp như thế nào.

Trong trường hợp trải qua đau buồn vì cái chết của một người thân yêu, một khía cạnh chính yếu trong các lời dạy của Đức Phật phải được quán niệm thường xuyên là đặc tướng vô thường. Luôn luôn nhắc nhở bản thân rằng “cuộc sống kết thúc bằng cái chết (maraṇāntaṃ hi jīvitaṃ)”, hay “cái gì sinh ra ... đều có bản chất bị hoại diệt”, nhờ đó, cảm xúc mất mát người thân, cảm xúc về một sự bất công nào đó xảy ra cho mình, sẽ từ từ tan biến và chính cái chết đó có thể biến đổi từ một dịp đau buồn thành một cơ hội để phát triển tuệ giác.

Khi hành giả trở thành một hòn đảo bằng cách dựa vào Pháp theo cách này, hành giả sẽ trở thành một nguồn hỗ trợ thực sự cho những người khác khi họ bị tác động về cái chết của những người thân yêu. Chánh niệm chính xác tạo điều kiện để mở rộng con tim của hành giả trước nỗi đau buồn của người khác nhưng không sầu khổ cùng với họ, chỉ đơn giản là ghi nhận nỗi buồn của họ trong không gian rộng mở của tâm ý mà không có những phán xét hay phản ứng. Do đó, công cụ đơn giản của chánh niệm là cung cấp một trung đạo tiếp cận, tránh hai phản ứng cực đoan khi đối mặt với nỗi sầu khổ: tìm quên, trốn tránh qua các thú vui (có thể là gợi cảm) hoặc đắm mình trong u sầu, đau khổ. Thay vào đó, hành giả trở thành một hòn đảo cho chính mình và cho người khác chỉ bằng cách tỉnh thức đối diện.

Lời khuyên mạnh mẽ của Đức Phật để trở thành một hòn đảo cho chính mình đưa tôi (Tỳ-khưu Anālayo) trở lại chủ đề chánh niệm và bốn pháp lập niệm, được đề cập trong các bài kinh khi đối mặt với bệnh tật hoặc đau đớn. Dù là bệnh tật của cơ thể hoặc bất an trong tâm qua các nỗi ưu sầu, buồn khổ, tiềm năng của chánh niệm là một chủ đề được nêu ra thường xuyên trong lời giảng dạy được ghi trong các bài kinh của Phật giáo sơ kỳ.

* * *

 

Tạp A-hàm, SĀ 638
THUẦN-ĐÀ
Hòa thượng Thích Đức Thắng dịch
Bình Anson hiệu đính dựa theo bản dịch tiếng Anh của Tỳ-khưu Anālayo

Tôi nghe như vầy. Một thời, Phật ở trong khu vườn trúc tại thành Vương xá (Rājagaha). Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất (Sāriputta) đang ở trong làng Ma-kiệt-đà (Magadha), thôn Na-la (Nālakagāma), bị bệnh. Sa-di Thuần-đà (Cunda) chăm sóc ngài. Do bệnh ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất mệnh chung, nhập Niết-bàn.

Sa-di Thuần-đà sau khi làm lễ hỏa táng Tôn giả Xá-lợi-phất, nhặt lấy xá-lợi còn lại, mang theo cùng với y bát của Tôn giả đến thành Vương xá. Đến nơi, thâu cất y bát, rửa chân xong, sa-di Thuần-đà đi đến chỗ Tôn giả A-nan (Ānanda), đảnh lễ rồi, lui đứng một bên, rồi nói: “Bạch Tôn giả, thầy của con là Tôn giả Xá-lợi-phất đã nhập Niết-bàn. Con đem xá-lợi và y bát về đây.”

Tôn giả A-nan nghe sa-di Thuần-đà báo tin ấy, liền đi đến chỗ Phật, bạch rằng: “Bạch Thế Tôn, hôm nay con tưởng chừng thân thể rã rời, bốn phương đổi khác, mờ ám, nghẹn ngào không nói nên lời. Sa-di Thuần-đà nói với con rằng: ‘Thầy của con là Tôn giả Xá-lợi-phất đã nhập Niết-bàn. Con đem xá-lợi và y bát về đây.’”

Phật hỏi: “Này A-nan, khi Xá-lợi-phất nhập Niết-bàn có đem theo giới uẩn không? Có đem theo định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn không?” Tôn giả A-nan bạch Phật: “Thưa không, bạch Thế Tôn”.

Phật bảo A-nan: “Về những pháp Ta đã truyền giảng, sau khi tự chứng tri và thành chánh đẳng giác, như bốn pháp lập niệm, bốn tinh cần, bốn như ý túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám chi thánh đạo, Xá-lợi-phất có đem theo các pháp này khi nhập Niết-bàn không?”

Tôn giả A-nan bạch Phật: “Thưa không, bạch Thế Tôn. Mặc dù khi nhập Niết-bàn, Tôn giả Xá-lợi-phất không đem theo giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn, các lời dạy về bốn pháp lập niệm, bốn tinh cần, bốn như ý túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám chi thánh đạo, Tôn giả là người giữ giới, học nhiều, ít muốn, biết đủ, thường tu hạnh viễn ly, tinh cần, nhiếp niệm an trụ, nhất tâm chánh định. Tôn giả có trí tuệ bén nhạy, trí tuệ sâu xa, trí tuệ siêu việt, trí tuệ phân biệt, trí tuệ lớn, trí tuệ rộng, trí tuệ sâu, trí tuệ không ai bằng. Tôn giả có kho báu trí tuệ, có khả năng chỉ bày, dạy dỗ, soi sáng, làm cho hoan hỷ, khéo léo giảng pháp cho mọi người. Cho nên, bạch Thế Tôn, con vì pháp, vì những người lãnh thọ giáo pháp, cảm thấy buồn rầu khổ não.”

Phật bảo A-nan: “Ngươi chớ buồn rầu khổ não! Vì sao? Cái gì có sinh, có khởi, có tạo tác đều có bản chất hoạt diệt. Làm sao có thể không hoại diệt? Muốn cho không hoại diệt là điều không thể xảy ra. Trước đây Ta đã từng nói rằng tất cả những gì yêu thích, những gì hợp ý, tất cả đều có bản chất chia lìa, chẳng thể giữ mãi được.

“Ví như cội cây to, rễ, cành, nhánh, lá, hoa, trái sum sê tươi tốt, cành lớn gãy trước. Như núi báu lớn, đỉnh lớn sụp đổ trước. Cũng vậy, trong chúng đệ tử của Như Lai, các đại đệ tử nhập Niết-bàn trước.

“Phương nào Xá-lợi-phất an trụ thì Ta không quan tâm ở phương ấy. Vì có Xá-lợi-phất, phương ấy đối với Ta không phải trống không.

“Này A-nan, trước đây Ta đã nói với ngươi, tất cả những gì yêu thích, hợp ý đều có bản chất chia lìa. Bởi vậy cho nên đừng quá buồn rầu. Ngươi nên biết rằng Như Lai chẳng bao lâu cũng sẽ ra đi. Cho nên, này A-nan, hãy tự mình làm hòn đảo để tự nương tựa. Hãy lấy pháp làm hòn đảo, lấy pháp làm nơi nương tựa, đừng lấy chỗ nào khác làm hòn đảo, đừng nương tựa vào chỗ nào khác.”

Tôn giả A-nan bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, thế nào là tự mình làm hòn đảo, tự mình nương tựa chính mình? Thế nào là lấy pháp làm hòn đảo, lấy pháp làm nơi nương tựa? Thế nào là không lấy chỗ nào khác làm hòn đảo, không nương tựa vào chỗ nào khác?”

Phật đáp: “Đó là khi tỳ-khưu sống quán niệm thân trên thân bên trong, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian; sống quán niệm thân trên thân bên ngoài, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian; sống quán niệm thân trên thân bên trong và bên ngoài, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian.

“Sống quán niệm thọ trên thọ bên trong, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian; sống quán niệm thọ trên thọ bên ngoài, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian; sống quán niệm thọ trên thọ bên trong và bên ngoài, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian.

“Sống quán niệm tâm trên tâm bên trong, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian; sống quán niệm tâm trên tâm bên ngoài, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian; sống quán niệm tâm trên tâm bên trong và bên ngoài, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian.

“Sống quán niệm pháp trên pháp bên trong, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian; sống quán niệm pháp trên pháp bên ngoài, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian; sống quán niệm pháp trên pháp bên trong và bên ngoài, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian.

“Này A-nan, đó gọi là tự mình làm hòn đảo, tự mình nương tựa chính mình, lấy pháp làm hòn đảo, lấy pháp làm chỗ nương tựa, không lấy chỗ nào khác làm hòn đảo, không nương tựa vào chỗ nào khác.”

Phật dạy kinh này xong, các tỳ-khưu sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ thực hành theo.


Tương ưng bộ, SN 47.13
CUNDA
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch
Bình Anson hiệu đính dựa theo bản dịch tiếng Anh của Tỳ-khưu Bodhi

Một thời Thế Tôn trú ở Sāvatthi, tại khu vườn của ông Cấp Cô Ðộc (Anāthapiṇḍika) trong rừng Kỳ-đà (Jeta). Lúc bấy giờ, Tôn giả Sāriputta trú ở Magadha, tại làng Nāla (Nālakagāma), bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh. Và sa-di Cunda là thị giả của Tôn giả Sāriputta. Rồi Tôn giả nhập Niết-bàn vì bệnh ấy.

Sau đó sa-di Cunda cầm lấy y bát của Tôn giả Sāriputta đi đến Sāvatthi, tại khu vườn của ông Cấp Cô Ðộc (Anāthapiṇḍika) trong rừng Kỳ-đà (Jeta), rồi đến gặp Tôn giả Ānanda. Sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả, ngồi xuống một bên, rồi nói với Tôn giả: “Bạch Tôn giả, Tôn giả Sāriputta đã mệnh chung. Ðây là y bát của ngài ấy.”

“Này Hiền giả Cunda, chúng ta hãy đến yết kiến Thế Tôn và báo tin này.”

“Thưa vâng, bạch Tôn giả,” sa-di Cunda vâng đáp.

Rồi Tôn giả Ānanda và sa-di Cunda đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Tôn giả Ānanda bạch Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, sa-di Cunda cho biết Tôn giả Sāriputta đã mệnh chung, và đây là y và bát của ngài ấy. Bạch Thế Tôn, khi con nghe tin Tôn giả Sāriputta đã mệnh chung, thân con cảm thấy yếu ớt như lau sậy, con cảm thấy mất phương hướng, giáo pháp không còn rõ ràng cho con.”

“Này Ānanda, tại sao như thế? Khi mệnh chung, Sāriputta có đem theo giới uẩn không? Có đem theo định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn khi mệnh chung không?”

“Thưa không, bạch Thế Tôn. Khi mệnh chung, Tôn giả Sāriputta không đem theo giới uẩn, không đem theo định uẩn, không đem theo tuệ uẩn, không đem theo giải thoát uẩn khi mệnh chung, không đem theo giải thoát tri kiến uẩn khi mệnh chung. Nhưng Tôn giả Sāriputta là vị giáo giới cho con, là bậc giáo thọ, là vị khai thị, khích lệ, tạo cảm hứng cho con, làm cho con hoan hỷ. Tôn giả là vị thuyết pháp không biết mệt mỏi, là vị hộ trì cho các bạn đồng phạm hạnh. Chúng con đều ghi nhớ rằng Tôn giả Sāriputta là tinh ba của pháp, là tài sản của pháp, là hộ trì của pháp.”

“Này Ānanda, có phải trước đây Ta đã từng tuyên bố rằng mọi pháp khả ái, khả ý đều có bản chất chia lìa, xa cách? Này Ānanda, làm sao lời ước nguyền này: ‘Mong rằng cái gì được sinh, được thành, là pháp hữu vi, là pháp bị hoại diệt sẽ không bị hoại diệt!’ có thể thành tựu được ở đây? Sự kiện như vậy không thể xảy ra.

“Này Ānanda, ví như một cành cây lớn bị gãy đổ từ một cây lớn mọc thẳng, có lõi cây, cũng vậy, từ trong hội chúng các cao tăng tỳ-khưu, Sāriputta đã nhập Niết-bàn. Này Ānanda, làm sao lời ước nguyền này: ‘Mong rằng cái gì được sinh, được thành, là pháp hữu vi, là pháp bị hoại diệt sẽ không bị hoại diệt!’ có thể thành tựu được ở đây? Sự kiện như vậy không thể xảy ra.

“Do vậy, này Ānanda, hãy tự mình là hòn đảo cho chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một cái gì khác. Dùng Chánh pháp làm hòn đảo, dùng Chánh pháp làm nơi nương tựa, không nương tựa một điều gì khác. Này Ānanda, thế nào là tỳ-khưu tự mình là hòn đảo cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một cái gì khác; dùng Chánh pháp làm hòn đảo, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một điều gì khác?

“Ở đây, này Ānanda, tỳ-khưu trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Tỳ-khưu trú, quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Tỳ-khưu trú, quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Tỳ-khưu trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.

“Này Ānanda, những tỳ-khưu nào hiện nay hay sau khi Ta diệt độ, tự mình là hòn đảo cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một cái gì khác, dùng Chánh pháp làm hòn đảo, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một điều gì khác, là những tỳ-khưu tối thượng tha thiết học tập trong hàng tỳ-khưu của Ta.”

* * ** * *

 

Tỉnh thức trước bệnh tật và cái chết
Lời Phật dạy trong kinh văn nguyên thủy

Bhikkhu Analayo (2017). Mindfully Facing Disease and Death: Compassionate Advice from Early Buddhist Texts.

MỤC LỤC TỔNG QUÁT

Dẫn nhập

BỆNH TẬT

Chương 01 - Đức Phật như là một vị y sĩ vô thượng
Chương 02 - Thân bệnh, tâm an
Chương 03 - Mũi tên của đau khổ
Chương 04 - Phẩm chất của bệnh nhân và người chăm sóc
Chương 05 - Tiềm năng chữa bệnh của các chi phần giác ngộ
Chương 06 - Giảm thiểu cơn đau trong tỉnh thức
Chương 07 - Chịu đựng cơn đau trong tỉnh thức
Chương 08 - Tỉnh thức đối mặt bệnh tật
Chương 09 - Không sợ hãi khi bị bệnh
Chương 10 - Liều thuốc nội quán
Chương 11 - Những lời dạy giải thoát từ một bệnh nhân
Chương 12 - Chương trình hành thiền chữa bệnh

CÁI CHẾT

Chương 13 - Chết là điều tất nhiên
Chương 14 - Tự do tỉnh thức không buồn rầu
Chương 15 - Cận tử và các phạm trú
Chương 16 - Các hướng dẫn trước khi chết
Chương 17 - Không chấp thủ và bệnh bất trị mạt kỳ
Chương 18 - Lời khuyên về chăm sóc thoa dịu
Chương 19 - Chết trong tỉnh thức
Chương 20 - Tiềm năng giải thoát của cái chết
Chương 21 - Sức mạnh của nội quán lúc cận tử
Chương 22 - Những lời cuối của một đệ tử cư sĩ thành đạt
Chương 23 - Trạng thái thiền của Đức Phật khi nhập diệt
Chương 24 - Quán tưởng về cái chết

Kết luận và các hướng dẫn hành thiền

Dẫn nhập
Các hướng dẫn hành thiền cho ngài Girimānanda
(1) Quán vô thường
(2) Quán vô ngã
(3) Quán bất tịnh
(4) Quán nguy hại
(5) Quán từ bỏ
(6) Quán xả ly
(7) Quán diệt tận
(8) Quán không tham luyến vào toàn thế giới
(9) Quán các hành là vô thường
(10) Quán hơi thở

 


CÁC CHỦ ĐỀ GIÁO THUYẾT TRONG MỖI CHƯƠNG

Chương 01 - Tứ thánh đế và Bát chi thánh đạo, danh hiệu của Như Lai
Chương 02 - Năm uẩn chấp thủ, vị ngọt và nguy hại
Chương 03 - Bảy khuynh hướng ngủ ngầm và ba loại cảm thọ
Chương 04 - Bốn phạm trú
Chương 05 - Năm triền cái, bảy chi phần giác ngộ và cách tu dưỡng
Chương 06 - Bốn pháp lập niệm, pháp nhãn, và đạt thiền diệt
Chương 07 - Tầm quan trọng của chư thiên
Chương 08 - Bốn cấp bậc giác ngộ, năm hạ phần kiết sử, và tam vô lậu học
Chương 09 - Bốn chi phần Dự Lưu và ngũ giới
Chương 10 - Hai mươi loại thân kiến và ba lậu hoặc
Chương 11 - Vô ngã và sự khác biệt giữa Dự Lưu và giác ngộ hoàn toàn
Chương 12 - Bốn tưởng điên đảo

Chương 13 - Phật Độc Giác và mười lực, bốn pháp vô sở úy của Như Lai
Chương 14 - Năm vô lậu học và ba mươi bảy chi phần đưa đến giác ngộ
Chương 15 - Vai trò các cõi trời
Chương 16 - Tam Bảo và đường đến quả Dự Lưu
Chương 17 - Ba tướng và bốn loại thức ăn
Chương 18 - Tinh luyện tiệm tiến của hạnh phúc
Chương 19 - Duyên sinh
Chương 20 - Chánh kiến lúc cận tử
Chương 21 - Sáu căn
Chương 22 - Tầm quan trọng của Chuyển Luân Vương
Chương 23 - Bốn tầng thiền hữu sắc và bốn tầng thiền vô sắc
Chương 24 - Quán tưởng về cái chết

* * *

 

Bhikkhu ANALAYO (1962-)
Centre for Buddhist Studies, University of Hamburg, Germany

Tỳ-khưu Analayo sinh năm 1962 tại Đức. Sư xuất gia gieo duyên năm 1990 tại chùa Wat Suan Mokkh ở miền nam Thái Lan. Năm 1994, Sư đến Sri Lanka xuất gia với ngài Hòa thượng Balangoda Ananda Maitreya, và sau đó thọ giới tỳ-khưu với Hòa thượng Pemasiri vào năm 2007 trong hệ phái Shwegyin Nikaya (bắt nguồn từ hệ phái chính Amarapura Nikaya). Tuy nhiên, Bhikkhu Bodhi là vị thầy chính.

Sư hoàn tất chương trình tiến sĩ tại University of Peradeniya năm 2000 và luận án tiến sĩ được xuất bảm thành sách với tựa đề “Satipaṭṭhāna, the Direct Path to Realization”. Cuốn sách được nhiều người khen ngợi, đã được tái bản nhiều lần và dịch sang 10 thứ tiếng. Bản tiếng Việt được Cư sĩ Nguyễn Văn Ngân dịch, với tựa đề “Satipaṭṭhāna, Con đường thẳng tới giác ngộ”, xuất bản năm 2017.

Hiện nay, Sư là giáo sư Phật học tại Trung tâm Phật học của Đại học Hamburg, Đức quốc (Centre for Buddhist Studies, University of Hamburg), Đại học Phật giáo Pháp Cổ, Đài Loan (Dharma Drum Buddhist College, Taiwan). Sư là đồng sáng lập viên Nhóm Nghiên cứu A-hàm (Āgama Research Group) và là giảng sư của Trung tâm Phật học Barre, Hoa Kỳ (Barre Center for Buddhist Studies).

Hiện nay (2018), ngài trú và tịnh tu tại Trung tâm Phật học Barre, bang Massachusetts, Hoa Kỳ.

Các nguồn thông tin:

1) Wikipedia: https://en.wikipedia.org/wiki/Bhikkhu_Analayo 
2) University of Hamburg: https://www.buddhismuskunde.uni-hamburg.de/en/personen/analayo.html 

------------------

Giáo sư AMING TU

Giáo sư Aming Tu (杜正民 - Đỗ Chính Dân, Du Zhengmin) là một sáng lập viên của hội CBETA (Chinese Buddhist Electronic Text Association, Hiệp hội Kinh văn Điện tử Phật giáo Trung Hoa) và đã từng là Giám đốc Điều hành của Hội (1998-2006). Ông là giáo sư Tin học và đã có nhiều đóng góp quan trọng trong dự án số hóa Tam tạng Kinh điển tiếng Hán. Năm 2005, ông bị bệnh và được chẩn đoán là bị bệnh ung thư gan, phải vào bệnh viện 10 ngày và trải qua một cơn đau đớn rất khắc nghiệt.

Sau khi rời bệnh viện, ông tìm đọc các bản kinh trong Hán tạng và tạng Pali có ghi lại các lời dạy của Đức Phật và các vị đại đệ tử để đối phó với cơn đau, bệnh tật và cái chết. Ông suy ngẫm và thực hành theo đó, và nhờ vậy, đã giúp ông rất nhiều để chịu đựng các cơn đau và viễn ảnh của cái chết không thể tránh được.

Ông thảo luận các vấn đề nầy với tỳ-khưu Anālayo – lúc ấy, Sư đang nghiên cứu và dịch các bản kinh A-hàm. Ông đề nghị Sư khai triển thành một cuốn sách với nội dung về phương cách đối diện với bệnh tật và cái chết, dựa theo các bản kinh của Phật giáo Sơ kỳ – bộ A-hàm trong Hán tạng và Nikāya trong tạng Pāli, cùng với những hướng dẫn thực tế để hành thiền, giúp hành giả có đủ nghị lực, hiểu biết và tỉnh thức để trực diện với các vấn đề tất yếu đó của kiếp người.

Sau khi Sư hoàn tất viết cuốn sách, Gs Tu đọc bản thảo, rất hoan hỷ và viết Lời Bạt, đề cập đến nguyên nhân ra đời của cuốn sách. Cuốn sách được xuất bản vào đầu năm 2017 và được nhiều vị thiền sư, học giả khen ngợi, tán thán. Một điều buồn là Gs Aming Tu không thấy được ấn bản chính thức. Ông qua đời vào tháng 11 năm 2016.

* * *

[ Home ]

06-07-2020