Đàm luận Phật Pháp
- 313 -

Tỉnh thức trước bệnh tật và cái chết
Lời Phật dạy trong kinh văn nguyên thủy

13. CÁI CHẾT KHÔNG THỂ TRÁNH ĐƯỢC  

 
1-mucluc13.jpg
1-mucluc13.jpg
1179 * 898
2-benh_gia_chet.jpg
2-benh_gia_chet.jpg
1231 * 929

 

XIII

CÁI CHẾT KHÔNG THỂ TRÁNH ĐƯỢC  
Bhikkhu Anālayo, Mindfully facing disease and death (2017)

XIII.1 GIỚI THIỆU

Nghiên cứu của tôi về các bản kinh nguyên thủy liên quan đến chủ đề về bệnh tật, trình bày trong mười hai chương trước, bây giờ chuyển sang chủ đề có liên quan chặt chẽ với bệnh tật là về cái chết, sẽ được trình bày trong mười hai chương còn lại.

Tình trạng khó khăn của cái chết được đưa ra rõ ràng trong sự thật đầu tiên của Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Thánh Đế) đã được trình bày trong Chương 1, như là một khuôn khổ nền tảng của Phật giáo về bệnh tật và cái chết. Sự thật đầu tiên này cho thấy cái chết cùng với sinh, già, và bệnh là một biểu hiện của Khổ (dukkha).

Sự thật thứ hai trong Tứ Thánh Đế xác định tham ái là nguồn gốc phát sinh Khổ. Trong trường hợp tử vong, khi người ta càng cố gắng nắm bắt, tham ái, và chấp trước thì sẽ càng thấy cái chết đe dọa nghiêm trọng. Do đó, sợ chết có thể được xem như là thước đo mức độ gắn bó của một người vào sự tồn tại của thân thể này.

Sự thật thứ ba có liên quan đến việc chấm dứt Khổ, ngụ ý rằng chúng ta có thể có thái độ tự do, không khổ lúc chết và lúc sắp chết. Buông bỏ tham ái và chấp trước làm gia tăng mức độ tự do khỏi nỗi sợ chết.

Sự thật thứ tư mô tả con đường thực tế cần được thực hiện để đạt đến tự do nội tâm thoát khỏi nỗi sợ chết. Con đường thực hành này kết hợp nền tảng đạo đức với hệ thống tu tập tâm ý. Theo cách ấy, mối đe dọa gây ra bởi cái chết và lúc sắp chết có thể trở thành một động lực mạnh mẽ để giúp chúng ta chú tâm sống đời đạo đức và tu tập tâm ý qua hành thiền.

Sự kiện cái chết đưa đến phát sinh Khổ có nhiều nguyên nhân, trong số đó có nỗi đau buồn do sự ra đi của những người thân yêu. Bài kinh dưới đây trình bày một trường hợp đau buồn như thế, liên quan đến vua Pasenadi (Ba-tư-nặc) của xứ Kosala (Kiều-tất-la). Vua Pasenadi thường được đề cập trong các bài kinh như là một người rất ngưỡng mộ Đức Phật và thường xuyên đến thăm Ngài.

Ngoài bài kinh trong Tạp A-hàm được đề cập trong chương này (SĀ 1227), còn có các bài kinh tương ứng trong Tương ưng bộ (SN 3.22), trong các bản Hán dịch của tạng A-hàm (SĀ 54, EĀ 26.7) và vài mảng tiếng Sanskrit.

XIII.2 KINH VĂN

Tạp A-hàm, SĀ 1227
BÀ NỘI
Hòa thượng Thích Đức Thắng dịch
Bình Anson hiệu đính theo bản Anh dịch của Bhikkhu Anālayo

Tôi nghe như vầy. Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, thành Xá-vệ. Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc (Pasenadi) có bà nội, người mà vua rất kính trọng, bỗng nhiên mạng chung. Vua đưa ra ngoài thành hỏa táng, thu gom tro cốt. Xong, với áo tang, tóc bù xù, đến gặp Phật, cúi đầu lễ dưới chân Ngài, ngồi lui qua một bên.

Thế Tôn hỏi vua Ba-tư-nặc: “Đại vương từ đâu lại, mặc đồ tang, tóc bù xù vậy?”

Vua Ba-tư-nặc thưa: “Bạch Thế Tôn, con đã mất bà nội mà con rất kính trọng. Bà đã bỏ con ra đi. Con đã đưa ra ngoài thành để hỏa táng, thu gom tro cốt, rồi đến đây gặp Thế Tôn.”

Phật bảo: “Đại vương thương kính bà nội lắm phải không?”

Vua Ba-tư-nặc bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, con rất kính trọng thương mến bà. Bạch Thế Tôn, nếu đem những gì có được ở trong nước như voi, ngựa, bảy báu cho đến ngai vàng đem bố thí hết cho người khác mà có thể cứu sống được bà nội thì con sẽ bố thí hết. Nhưng vĩnh viễn đã không thể cứu được; kẻ sống người chết mãi mãi xa lìa; nhớ thương, buồn khổ, không tự mình vượt nổi. Con đã từng nghe Thế Tôn nói: ‘Tất cả chúng sinh, tất cả côn trùng, cho đến tất cả quỷ thần, có sinh đều phải chết, rốt cùng cũng phải chấm dứt, không có ai sinh ra mà không chết.’ Hôm nay con mới nhận thấy lời Thế Tôn nói đúng.”

Phật bảo: “Đúng vậy! Đúng vậy! Tất cả chúng sinh, tất cả côn trùng, cho đến tất cả quỷ thần, có sinh đều phải chết, rốt cùng phải chấm dứt, không có ai sinh ra mà không chết.”

Phật bảo tiếp: “Cho dù dòng họ bà-la-môn, sát-đế-lợi, hay gia chủ, nếu có sinh đều phải chết, không ai không chết. Cho dù là đại vương sát-đế-lợi, được thiên hạ đảnh lễ, làm vua bốn thiên hạ, có quyền lực khắp nơi; các nước thù địch đều hàng phục, cuối cùng cũng không thắng được cái chết.

“Lại nữa, Đại vương, dù sinh vào cõi trời trường thọ, làm vua thiên cung, vui hưởng khoái lạc, cuối cùng cũng phải chấm dứt.

“Lại nữa, Đại vương, các tỳ-khưu A-la-hán tuy lậu hoặc đã hết, đã lìa các gánh nặng, việc cần làm đã làm xong, đã được lợi mình, cắt đứt các kiết sử, tâm giải thoát với chánh trí, các vị ấy cuối cùng rồi cũng phải chấm dứt, xả thân, Bát-niết-bàn.

“Lại nữa, hàng Duyên giác, khéo điều phục, khéo tịch tĩnh, khi hết thân mạng này, cuối cùng rồi cũng phải chấm dứt, xả thân, Bát-niết-bàn.

“Chư Phật Thế Tôn đầy đủ mười lực, bốn vô sở úy, tiếng rống sư tử vô thượng, cuối cùng rồi cũng phải chấm dứt, xả thân, Bát-niết-bàn.

“Vì vậy, Đại vương nên biết, tất cả chúng sinh, tất cả côn trùng, cho đến tất cả quỷ thần, có sinh đều phải chết, rốt cùng phải chấm dứt, không có ai sinh ra mà không chết.”

Rồi Thế Tôn nói thêm kệ này:

“Tất cả loài chúng sinh,
Có mạng đều phải chết;
Chúng đi theo nghiệp mình,
Tự nhận quả thiện ác.

“Nghiệp ác vào địa ngục,
Làm lành lên cõi trời;
Tu tập đạo thắng diệu,
Lậu tận, Bát-niết-bàn.

“Như Lai và Duyên giác,
Thanh văn đệ tử Phật;
Đều phải bỏ thân mạng,
Huống là người phàm phu?”

Phật nói kinh này xong, vua Ba-tư-nặc nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tùy hỷ đảnh lễ ra về.

*

Tạp A-hàm, SĀ 1240
BA PHÁP
Hòa thượng Thích Đức Thắng dịch
Bình Anson hiệu đính theo bản Anh dịch của Bhikkhu Anālayo

Tôi nghe như vầy. Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, thành Xá-vệ. Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc (Pasenadi) một mình ở nơi chỗ yên tĩnh tư duy, tự nghĩ: ‘Có ba pháp mà tất cả thế gian không yêu, không mến. Đó là già, bệnh, chết. Nếu không có ba pháp này mà thế gian không yêu, không mến, thì chư Phật Thế Tôn không xuất hiện ở đời và thế gian cũng không biết có pháp mà chư Phật Như Lai đã giác ngộ rồi vì nhân loại mà diễn nói rộng rãi. Vì có ba pháp này mà tất cả thế gian không yêu, không mến là già, bệnh, chết nên chư Phật Như Lai mới xuất hiện ở đời và thế gian biết có pháp mà chư Phật Như Lai đã giác ngộ rồi vì nhân loại mà diễn nói rộng rãi.’

Vua Ba-tư-nặc nghĩ vậy rồi, đến gặp Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Ngài. Ngồi lui qua một bên, đem những điều suy nghĩ kia bạch Thế Tôn. Phật bảo vua Ba-tư-nặc: “Đúng vậy, Đại vương! Đúng vậy, Đại vương! Có ba pháp mà tất cả thế gian không yêu, không mến. Đó là già, bệnh, chết. Nếu không có ba pháp này mà thế gian không yêu, không mến, thì chư Phật Thế Tôn không xuất hiện ở đời và thế gian cũng không biết có pháp mà chư Phật Như Lai đã giác ngộ rồi vì nhân loại mà diễn nói rộng rãi. Vì có ba pháp này mà tất cả thế gian không yêu, không mến là già, bệnh, chết nên chư Phật Như Lai mới xuất hiện ở đời và thế gian biết có pháp mà chư Phật Như Lai đã giác ngộ rồi vì nhân loại mà diễn nói rộng rãi.

Rồi Thế Tôn nói thêm kệ này:

“Xe báu của vua đi,
Cuối cùng cũng hư hoại.
Thân này cũng như vậy,
Biến chuyển sẽ về già.

“Chỉ chánh pháp Như Lai,
Không có tướng suy, già.
Người nhận chánh pháp này,
Luôn đến chỗ an ổn.

“Phàm phu luôn suy yếu,
Hình tướng tệ, xấu xí;
Suy già đến tàn lụn,
Người ngu tâm mê muội.

“Người dù sống trăm tuổi,
Thường lo chết theo đến;
Già bệnh đuổi theo nhau,
Dò xét để phá hoại.”

Phật nói kinh này xong, vua Ba-tư-nặc nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tùy hỷ đảnh lễ ra về.

XII.3 THẢO LUẬN

Bài kinh được trình bày ở đây nhấn mạnh rằng cái chết là không thể tránh khỏi. Mặc dù ai cũng biết điều đó, nhưng khi nó xảy đến với những người gần gũi và thân yêu, người ta thường khó chấp nhận. Theo một số bài kinh tương đương khác, bà nội của vua Pasenadi đã 100 hoặc thậm chí 120 tuổi. Bà qua đời ở tuổi ấy không phải là điều bất ngờ. Mặc dù vậy, vua Pasenadi trải qua sự đau buồn sâu sắc đến nỗi nhà vua sẵn sàng cho đi tất cả những gì ông sở hữu nếu bà nội được sống trở lại.

Bài kinh tiếp tục cho thấy cùng một nguyên tắc áp dụng chung cho những người trong các gia đình nổi tiếng, liệt kê ba giai cấp cao hơn của xã hội Ấn Độ cổ đại: bà-la-môn, chiến sĩ, và thương gia. Nguyên tắc này cũng áp dụng cho vị vua cai trị toàn thế giới, qua bốn lục địa trong quan điểm về vũ trụ của Ấn Độ cổ đại.

Cái chết cũng xảy đến cho chư thiên, và các vị A-la-hán, vốn là các đệ tử của Đức Phật đã hoàn toàn giác ngộ. Tư tưởng Phật giáo Sơ kỳ đề cập đến một hạng Phật gọi là Paccekabuddha, Độc Giác hay Duyên Giác Phật, là vị tự mình giác ngộ nhưng không truyền dạy người khác, không giống như vị Phật Chánh Đẳng Giác. Vị Phật Độc Giác và A-la-hán đều hoàn toàn giác ngộ, nhưng vị Phật Độc Giác vượt trội hơn, vì đã tự mình đạt được mục đích cuối cùng, không nhận được hướng dẫn từ một vị Phật nào cả. Dù vậy, tất cả các vị Phật Độc Giác và A-la-hán rồi cũng sẽ chết.

Điều tương tự cũng xảy ra với vị Phật Chánh Đẳng Giác, vị vì lòng từ bi truyền giảng các giáo lý giải thoát, vượt trội so với Phật Độc Giác. Theo truyền thống, một vị Phật Chánh Đẳng Giác có mười sức mạnh tinh thần đặc biệt (Như lai Thập lực), ngoài ra vị ấy còn có bốn vô ngại trí [1]. Với các trí lực như thế, Ngài có thể vững vàng tranh luận với bất cứ người nào với sự tự tin, và từ đó truyền giảng Giáo Pháp một cách không sợ hãi như tiếng rống sư tử. Với một bậc đại nhân có mười lực và bốn trí như thế, vị ấy rồi cũng sẽ qua đời – theo ý nghĩa thân xác tứ đại ngưng hoạt động.

Các ví dụ được đưa ra như thế trình bày một cách sinh động toàn diện sức mạnh của cái chết. Một thông điệp chính nằm bên dưới những ví dụ đó là sự cần thiết xem cái chết là một phần tích hợp trong kinh nghiệm của mỗi người, thay vì để nó chỉ là một lý thuyết được thừa nhận rồi nhanh chóng quên đi. Một cách áp dụng điều này vào thực tế trong các hoạt động hằng ngày là thỉnh thoảng lưu ý rằng những người mà ta mới vừa gặp gỡ rồi cũng sẽ chết: không ai được miễn trừ số phận đó.

Một biểu thức cô đọng có thể được sử dụng để phản ánh thường xuyên trên bản chất tử vong của tất cả chúng sinh ra có thể được tìm thấy ở một câu kệ trong tập kinh Udānavarga (Pháp Tập Yếu Tụng Kinh 1.22), trong các bản kinh Pháp Cú khác nhau (chẳng hạn: Dhp 148) và các kinh văn khác như Mahāvastu (Đại Sự) và Divyāvadāna (Thiên Nghiệp Thí Dụ). Câu nói ngắn gọn này như sau:

- Sự sống kết thúc trong cái chết (maraṇāntaṃ hi jīvitaṃ)

Một câu ngắn gọn như thế, nếu để nó thấm sâu trong tâm trí bằng cách hồi ức lặp đi lặp lại, có thể tạo ra một hiệu ứng biến đổi rất đáng kể. Tôi sẽ trở lại sự thực hành pháp quán tưởng về cái chết của mỗi hành giả trong Chương 24.

Một suy tư khác và toàn diện hơn của chính vua Pasenadi được tìm thấy trong một bài kinh của Tạp A-hàm (SĀ 1240) và bài kinh tương đương trong Tăng nhất A-hàm (EĀ 26.6) và Tương ưng bộ (SN 3.3). Trong bài kinh, nhà vua tự suy nghĩ về tầm quan trọng của tuổi già, bệnh tật và cái chết. Để bổ sung cho bài kinh vừa nêu ra ở trên, tôi trích dịch phần đầu của bài kinh như sau:

Tôi nghe như vầy. Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, thành Xá-vệ. Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc (Pasenadi) một mình ở nơi chỗ yên tĩnh tư duy, tự nghĩ: ‘Có ba pháp mà tất cả thế gian không yêu, không mến. Đó là già, bệnh, chết. Nếu không có ba pháp này mà thế gian không yêu, không mến, thì chư Phật Thế Tôn không xuất hiện ở đời và thế gian cũng không biết có pháp mà chư Phật Như Lai đã giác ngộ rồi vì nhân loại mà diễn nói rộng rãi. Vì có ba pháp này mà tất cả thế gian không yêu, không mến là già, bệnh, chết nên chư Phật Như Lai mới xuất hiện ở đời và thế gian biết có pháp mà chư Phật Như Lai đã giác ngộ rồi vì nhân loại mà diễn nói rộng rãi.’ (SĀ 1240)

Bài kinh tiếp tục với việc vua Pasenadi trình bày suy tư của mình với Đức Phật và Ngài bày tỏ sự đồng ý. Ý tưởng tương tự cũng được tìm thấy trong Tăng chi bộ (AN 10.76) và các bài kinh tương đương trong Tạp A-hàm (SĀ 760, SĀ 346), qua đó, sự có mặt của cái chết cùng với tuổi già và bệnh tật là những gì thúc đẩy một vị Phật xuất hiện và giảng dạy trong thế giới này.

Bài kinh Thánh Cầu (Ariyapariyesanā-sutta, MN 26) và kinh tương đương (Trung A-hàm, MĀ 204) xác nhận rằng cái chết là một trong những yếu tố nổi bật của Khổ (dukkha) thúc đẩy vị Phật tương lai bắt đầu cuộc hành trình tìm kiếm cho riêng mình để tiến đến giác ngộ. Theo Giáo sư Roy C. Amore [2]:

… (Ngài Bồ-tát) quyết định xuất gia, thực hiện cuộc sống của một du sĩ là một nỗ lực để giải quyết vấn đề tồn tại của sự kiện “bị đưa dần đến cái chết”... mục tiêu của Ngài là chinh phục cái chết trong cuộc sống.

Sau khi giác ngộ và trước khi bắt đầu truyền giảng Giáo Pháp, theo kinh Thánh Cầu và bài kinh tương đương trong Trung A-hàm, Đức Phật tuyên bố ràng Ngài đã đạt đến trạng thái “bất tử”. Khi đã đạt được bất tử qua sự giác ngộ hoàn toàn, vị ấy không còn bị ảnh hưởng bởi cái chết của bản thân hay của các người khác.

*

GHI CHÚ:

[1] Mười trí lực (Dasabalañāṇa), hay mười Như Lai trí lực (Tathāgatabalañāṇa):

1. Trí hiểu nguyên lý và phi nguyên lý (Ṭhānāṭhānañāṇa, Xứ phi xứ trí lực), đức Như Lai biết rõ các sự kiện, cái gì có thể xảy ra và cái gì không thể xảy ra.

2. Trí biết quả nghiệp (Kammavipākañāṇa, Nghiệp dị thục trí lực), đức Như Lai biết rõ các hạnh nghiệp của chúng sinh, thiện ác dẫn đến quả dị thục tốt xấu ra sao, quả trổ với mức độ như thế nào.

3. Trí biết đạo lộ mọi sinh thú (Sabbatthagāminīpaṭipadāñāṇa, Tịnh lự giải thoát đẳng trì đẳng chí trí lực), đức Như Lai biết rõ các hành động nào là con đường dẫn đến tái sinh trong những cõi vui và cõi khổ, biết rõ hành động đưa đến lợi ích hiện tại, lợi ích tương lai và lợi ích tối thượng.

4. Trí biết bản chất dị biệt (Nānādhātuñāṇa, Căn thượng hạ trí lực), đức Như Lai biết rõ thế gian có bản chất đa dạng như uẩn sai biệt, xứ sai biệt, và giới sai biệt.

5. Trí biết khuynh hướng dị biệt (Nānādhimuttikañāṇa, Chủng chủng thắng giải trí lực), đức Như Lai biết rõ sự khác biệt khuynh hướng của chúng sinh, có chúng sinh khuynh hướng hạ liệt, có chúng sinh khuynh hướng cao thượng, chúng sinh đồng khuynh hướng sẽ thuận dòng với nhau, hạ liệt thân cận hạ liệt, cao thượng thân cận cao thượng, dù ở quá khứ hay hiện tại cũng vậy.

6. Trí biết thượng hạ căn (Indriyaparopariyattañāṇa, Chủng chủng giới trí lực), đức Như Lai biết rõ căn cơ cao thấp của chúng sinh, biết rõ chúng sinh có kiến chấp như vậy, tiềm miên như vậy, sở hành như vậy, có căn trì độn, có căn lanh lợi, có tính khó dạy, có tính dễ dạy, có khả năng giác ngộ hay không thể giác ngộ.

7. Trí biết sự nhiễm-tịnh-ly của thiền định (Jhānādisaṅkilesādiñāṇa, Biến thú hạnh trí lực), đức Như Lai biết rõ sự ô nhiễm, sự thanh tịnh, sự xuất ly của thiền định, nhập định và sự giải thoát.

8. Trí biết tiền kiếp (Pubbenivāsānussatiñāṇa, Túc trụ tùy niệm trí lực), đức Như Lai có trí nhớ chính xác và nhớ nhiều về các kiếp sống quá khứ, từng nét đại cương và chi tiết đa dạng.

9. Trí biết sự sinh tử (Cutūpapātañāṇa, Sinh tử trí lực), đức Như Lai với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, Ngài thấy rõ sự sống chết của chúng sinh; biết chúng sinh này sinh đến chỗ hèn hạ hoặc cao sang, xấu xí hay xinh đẹp, hạnh phúc hay đau khổ, là do hạnh nghiệp như vậy. Chúng sinh đi hay đến tùy theo nghiệp.

10. Trí đoạn lậu (Āsavakkhayañāṇa, Lậu tận trí lực), đức Như Lai tự mình thắng tri vô lậu tâm giải thoát, đoạn tận các lậu hoặc. Ngài biết rõ sự đoạn diệt hoàn toàn các lậu hoặc như vậy.

– Đại kinh Sư tử hống, MN 12; kinh Sư tử, AN 10.21

*

Bốn vô sở úy (Vesārajja) hay bốn vô ngại trí (Vesārajjañāṇa) của Đức Phật:

1. Ngài tự nhận là bậc Chánh Đẳng Giác (Sammāsambuddhapatiññā, Chư pháp hiện đẳng giác vô uý), Ngài không sợ ai bắt bẻ buộc tội, vì Ngài đã thật sự chứng đạt quả vị Chánh Đẳng Giác.

2. Ngài tự nhận là bậc đoạn lậu (Khīṇāsavapatiññā, Lậu vĩnh tận vô uý), Ngài không sợ ai bắt bẻ chỉ trích, vì Ngài đã thật sự đoạn trừ các lậu hoặc.

3. Ngài tuyên bố pháp chướng ngại (Anta-rāyikadhammavāda, Thuyết chướng pháp vô uý), Ngài không sợ ai phản bác lời Ngài nói là sai, vì Ngài đã thật sự biết rõ pháp chướng ngại là chướng ngại.

4. Ngài thuyết pháp hướng thượng (Niyyānika-dhammadesanā, Thuyết xuất đạo vô uý), Ngài không sợ ai chỉ trích pháp Ngài thuyết là vô ích, vì thật sự Ngài đã thể nhập các pháp hướng thượng.

Bốn vô sở úy này là điều song song với thập lực Như Lai trí, là cơ sở để Ngài tự nhận địa vị Ngưu Vương, rống tiếng rống sư tử giữa các hội chúng, vận chuyển Pháp Luân.

– Đại kinh Sư tử hống, MN 12; kinh Vô sở úy, AN 4.8

[2] Amore, R.C. 1974: “The Heterodox Philosophical Systems”, in Death and Eastern Thought: Understanding Death in Eastern Religions and Philosophies, F. Holck (ed.), 114–63, Nashville:
Abingdon Press.

* * *

 

Tạp A-hàm, SĀ 1227
BÀ NỘI
Hòa thượng Thích Đức Thắng dịch
Bình Anson hiệu đính theo bản Anh dịch của Bhikkhu Anālayo

Tôi nghe như vầy. Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, thành Xá-vệ. Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc (Pasenadi) có bà nội, người mà vua rất kính trọng, bỗng nhiên mạng chung. Vua đưa ra ngoài thành hỏa táng, thu gom tro cốt. Xong, với áo tang, tóc bù xù, đến gặp Phật, cúi đầu lễ dưới chân Ngài, ngồi lui qua một bên.

Thế Tôn hỏi vua Ba-tư-nặc:

“Đại vương từ đâu lại, mặc đồ tang, tóc bù xù vậy?”

Vua Ba-tư-nặc thưa:

“Bạch Thế Tôn, con đã mất bà nội mà con rất kính trọng. Bà đã bỏ con ra đi. Con đã đưa ra ngoài thành để hỏa táng, thu gom tro cốt, rồi đến đây gặp Thế Tôn.”

Phật bảo:

“Đại vương thương kính bà nội lắm phải không?”

Vua Ba-tư-nặc bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, con rất kính trọng thương mến bà. Bạch Thế Tôn, nếu đem những gì có được ở trong nước như voi, ngựa, bảy báu cho đến ngai vàng đem bố thí hết cho người khác mà có thể cứu sống được bà nội thì con sẽ bố thí hết. Nhưng vĩnh viễn đã không thể cứu được; kẻ sống người chết mãi mãi xa lìa; nhớ thương, buồn khổ, không tự mình vượt nổi.

“Con đã từng nghe Thế Tôn nói: ‘Tất cả chúng sinh, tất cả côn trùng, cho đến tất cả quỷ thần, có sinh đều phải chết, rốt cùng cũng phải chấm dứt, không có ai sinh ra mà không chết.’ Hôm nay con mới nhận thấy lời Thế Tôn nói đúng.”

Phật bảo:

“Đúng vậy! Đúng vậy! Tất cả chúng sinh, tất cả côn trùng, cho đến tất cả quỷ thần, có sinh đều phải chết, rốt cùng phải chấm dứt, không có ai sinh ra mà không chết.”

Phật bảo tiếp:

“Cho dù dòng họ bà-la-môn, sát-đế-lợi, hay gia chủ, nếu có sinh đều phải chết, không ai không chết. Cho dù là đại vương sát-đế-lợi, được thiên hạ đảnh lễ, làm vua bốn thiên hạ, có quyền lực khắp nơi; các nước thù địch đều hàng phục, cuối cùng cũng không thắng được cái chết.

“Lại nữa, Đại vương, dù sinh vào cõi trời trường thọ, làm vua thiên cung, vui hưởng khoái lạc, cuối cùng cũng phải chấm dứt.

“Lại nữa, Đại vương, các tỳ-khưu A-la-hán tuy lậu hoặc đã hết, đã lìa các gánh nặng, việc cần làm đã làm xong, đã được lợi mình, cắt đứt các kiết sử, tâm giải thoát với chánh trí, các vị ấy cuối cùng rồi cũng phải chấm dứt, xả thân, Bát-niết-bàn.

“Lại nữa, hàng Duyên giác, khéo điều phục, khéo tịch tĩnh, khi hết thân mạng này, cuối cùng rồi cũng phải chấm dứt, xả thân, Bát-niết-bàn.

“Chư Phật Thế Tôn đầy đủ mười lực, bốn vô sở úy, tiếng rống sư tử vô thượng, cuối cùng rồi cũng phải chấm dứt, xả thân, Bát-niết-bàn.

“Vì vậy, Đại vương nên biết, tất cả chúng sinh, tất cả côn trùng, cho đến tất cả quỷ thần, có sinh đều phải chết, rốt cùng phải chấm dứt, không có ai sinh ra mà không chết.”

Rồi Thế Tôn nói thêm kệ này:

“Tất cả loài chúng sinh,
Có mạng đều phải chết;
Chúng đi theo nghiệp mình,
Tự nhận quả thiện ác.

“Nghiệp ác vào địa ngục,
Làm lành lên cõi trời;
Tu tập đạo thắng diệu,
Lậu tận, Bát-niết-bàn.

“Như Lai và Duyên giác,
Thanh văn đệ tử Phật;
Đều phải bỏ thân mạng,
Huống là người phàm phu?”

Phật nói kinh này xong, vua Ba-tư-nặc nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tùy hỷ đảnh lễ ra về.

*

Tạp A-hàm, SĀ 1240
BA PHÁP
Hòa thượng Thích Đức Thắng dịch
Bình Anson hiệu đính theo bản Anh dịch của Bhikkhu Anālayo

Tôi nghe như vầy. Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, thành Xá-vệ. Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc (Pasenadi) một mình ở nơi chỗ yên tĩnh tư duy, tự nghĩ: ‘Có ba pháp mà tất cả thế gian không yêu, không mến. Đó là già, bệnh, chết. Nếu không có ba pháp này mà thế gian không yêu, không mến, thì chư Phật Thế Tôn không xuất hiện ở đời và thế gian cũng không biết có pháp mà chư Phật Như Lai đã giác ngộ rồi vì nhân loại mà diễn nói rộng rãi. Vì có ba pháp này mà tất cả thế gian không yêu, không mến là già, bệnh, chết nên chư Phật Như Lai mới xuất hiện ở đời và thế gian biết có pháp mà chư Phật Như Lai đã giác ngộ rồi vì nhân loại mà diễn nói rộng rãi.’

Vua Ba-tư-nặc nghĩ vậy rồi, đến gặp Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Ngài. Ngồi lui qua một bên, đem những điều suy nghĩ kia bạch Thế Tôn.

Phật bảo vua Ba-tư-nặc:

“Đúng vậy, Đại vương! Đúng vậy, Đại vương! Có ba pháp mà tất cả thế gian không yêu, không mến. Đó là già, bệnh, chết. Nếu không có ba pháp này mà thế gian không yêu, không mến, thì chư Phật Thế Tôn không xuất hiện ở đời và thế gian cũng không biết có pháp mà chư Phật Như Lai đã giác ngộ rồi vì nhân loại mà diễn nói rộng rãi. Vì có ba pháp này mà tất cả thế gian không yêu, không mến là già, bệnh, chết nên chư Phật Như Lai mới xuất hiện ở đời và thế gian biết có pháp mà chư Phật Như Lai đã giác ngộ rồi vì nhân loại mà diễn nói rộng rãi.

Rồi Thế Tôn nói thêm kệ này:

“Xe báu của vua đi,
Cuối cùng cũng hư hoại.
Thân này cũng như vậy,
Biến chuyển sẽ về già.

“Chỉ chánh pháp Như Lai,
Không có tướng suy, già.
Người nhận chánh pháp này,
Luôn đến chỗ an ổn.

“Phàm phu luôn suy yếu,
Hình tướng tệ, xấu xí;
Suy già đến tàn lụn,
Người ngu tâm mê muội.

“Người dù sống trăm tuổi,
Thường lo chết theo đến;
Già bệnh đuổi theo nhau,
Dò xét để phá hoại.”

Phật nói kinh này xong, vua Ba-tư-nặc nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tùy hỷ đảnh lễ ra về.


Tương ưng bộ, SN 3.22
TỔ MẪU
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch
Bình Anson hiệu đính theo bản Anh dịch của Bhikkhu Bodhi

Tại Sāvatthī. Vào một buổi trưa nọ, vua Pasenadi nước Kosala đến gặp Thế Tôn. Thế Tôn nói với vua Pasenadi nước Kosala ngồi một bên:

“Ðại vương đi từ đâu lại, giữa trưa như thế này?”

“Bạch Thế Tôn, tổ mẫu của con đã mệnh chung. Già nua, tuổi tác, suy yếu theo năm tháng, đã đến giai đoạn cuối của cuộc đời, đã mệnh chung, được một trăm hai mươi tuổi.

“Bạch Thế Tôn, con rất thương mến tổ mẫu. Nếu cho một voi báu để tổ mẫu con khỏi chết, con sẽ cho voi báu để tổ mẫu con khỏi chết. Nếu con cho một ngựa báu để tổ mẫu con khỏi chết, con sẽ cho ngựa báu để tổ mẫu con khỏi chết. Nếu con cho một thôn làng tốt đẹp để tổ mẫu con khỏi chết, con sẽ cho một thôn làng tốt đẹp để tổ mẫu con khỏi chết. Nếu con cho một quốc độ để tổ mẫu con khỏi chết, con sẽ cho quốc độ để tổ mẫu con khỏi chết.”

“Thưa Ðại vương, tất cả chúng sinh đều phải chết, đều kết thúc trong cái chết, đều không vượt qua cái chết.”

“Thật là vi diệu, bạch Thế Tôn! Thật là hy hữu, bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã khéo nói: ‘Tất cả chúng sinh đều phải chết, đều kết thúc trong cái chết, đều không vượt qua sự chết.’”

“Phải là như vậy, thưa Ðại vương! Phải là như vậy, thưa Ðại vương! Tất cả chúng sinh đều phải chết, đều kết thúc trong cái chết, đều không vượt qua cái chết. Ví như tất cả đồ gốm do người thợ gốm làm ra, chưa nung chín hay đã nung chín, tất cả đồ gốm ấy đều phải bể, đều kết thúc trong bể nát, đều không vượt qua bể nát, cũng như vậy, tất cả chúng sinh đều phải chết, đều kết thúc trong cái chết, đều không vượt qua cái chết.

“Mọi chúng sinh sẽ chết,
Chết kết thúc mạng sống.
Tùy nghiệp, họ sẽ đi,
Nhận lãnh quả thiện ác:
Ác nghiệp, đọa địa ngục,
Thiện nghiệp, lên thiên giới.

“Do vậy hãy làm lành,
Tích lũy cho đời sau.
Công đức cho đời sau,
Làm hậu cứ cho người.”

*

Tương ưng bộ, SN 3.3
VUA
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch
Bình Anson hiệu đính theo bản Anh dịch của Bhikkhu Bodhi

Tại Sāvatthī. Ngồi một bên, vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế Tôn:

“Bạch Thế Tôn, có cái gì sinh mà không già và không chết không?”

“Thưa Ðại vương, không có cái gì sinh mà không già và không chết.

“Dù cho những vị sát-đế-lỵ là những bậc đại phú – phú hào, có tiền của lớn, có tài sản lớn, có nhiều vàng và bạc, có nhiều tài sản vật dụng, có nhiều tiền của, ngũ cốc – vì các vị ấy đã sinh ra nên không thể thoát khỏi già và chết.

“Dù cho những vị bà-la-môn là những bậc đại phú – phú hào, có tiền của lớn, có tài sản lớn, có nhiều vàng bạc, có nhiều tài sản vật dụng, có nhiều tiền của, ngũ cốc – vì các vị ấy đã sinh ra nên không thể thoát khỏi già và chết.

“Ngay cả các vị tỳ-khưu, những bậc A-la-hán, đã đoạn tận các lậu hoặc, phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích tối hậu, đã đoạn được các hữu kiết sử, đã được giải thoát nhờ chánh trí, thân thể của các vị ấy cũng phải bị hủy hoại, cũng phải bị từ bỏ.

“Xe vua dù mỹ diệu,
Rồi cũng phải hư hoại.
Thân thể này cũng vậy,
Rồi cũng phải già yếu.
Chỉ thiện pháp không già,
Bậc thiện nhân nói vậy.”

* * ** * *

 

Tỉnh thức trước bệnh tật và cái chết
Lời Phật dạy trong kinh văn nguyên thủy

Bhikkhu Analayo (2017). Mindfully Facing Disease and Death: Compassionate Advice from Early Buddhist Texts.

MỤC LỤC TỔNG QUÁT

Dẫn nhập

BỆNH TẬT

Chương 01 - Đức Phật như là một vị y sĩ vô thượng
Chương 02 - Thân bệnh, tâm an
Chương 03 - Mũi tên của đau khổ
Chương 04 - Phẩm chất của bệnh nhân và người chăm sóc
Chương 05 - Tiềm năng chữa bệnh của các chi phần giác ngộ
Chương 06 - Giảm thiểu cơn đau trong tỉnh thức
Chương 07 - Chịu đựng cơn đau trong tỉnh thức
Chương 08 - Tỉnh thức đối mặt bệnh tật
Chương 09 - Không sợ hãi khi bị bệnh
Chương 10 - Liều thuốc nội quán
Chương 11 - Những lời dạy giải thoát từ một bệnh nhân
Chương 12 - Chương trình hành thiền chữa bệnh

CÁI CHẾT

Chương 13 - Chết là điều tất nhiên
Chương 14 - Tự do tỉnh thức không buồn rầu
Chương 15 - Cận tử và các phạm trú
Chương 16 - Các hướng dẫn trước khi chết
Chương 17 - Không chấp thủ và bệnh bất trị mạt kỳ
Chương 18 - Lời khuyên về chăm sóc thoa dịu
Chương 19 - Chết trong tỉnh thức
Chương 20 - Tiềm năng giải thoát của cái chết
Chương 21 - Sức mạnh của nội quán lúc cận tử
Chương 22 - Những lời cuối của một đệ tử cư sĩ thành đạt
Chương 23 - Trạng thái thiền của Đức Phật khi nhập diệt
Chương 24 - Quán tưởng về cái chết

Kết luận và các hướng dẫn hành thiền

Dẫn nhập
Các hướng dẫn hành thiền cho ngài Girimānanda
(1) Quán vô thường
(2) Quán vô ngã
(3) Quán bất tịnh
(4) Quán nguy hại
(5) Quán từ bỏ
(6) Quán xả ly
(7) Quán diệt tận
(8) Quán không tham luyến vào toàn thế giới
(9) Quán các hành là vô thường
(10) Quán hơi thở

 


CÁC CHỦ ĐỀ GIÁO THUYẾT TRONG MỖI CHƯƠNG

Chương 01 - Tứ thánh đế và Bát chi thánh đạo, danh hiệu của Như Lai
Chương 02 - Năm uẩn chấp thủ, vị ngọt và nguy hại
Chương 03 - Bảy khuynh hướng ngủ ngầm và ba loại cảm thọ
Chương 04 - Bốn phạm trú
Chương 05 - Năm triền cái, bảy chi phần giác ngộ và cách tu dưỡng
Chương 06 - Bốn pháp lập niệm, pháp nhãn, và đạt thiền diệt
Chương 07 - Tầm quan trọng của chư thiên
Chương 08 - Bốn cấp bậc giác ngộ, năm hạ phần kiết sử, và tam vô lậu học
Chương 09 - Bốn chi phần Dự Lưu và ngũ giới
Chương 10 - Hai mươi loại thân kiến và ba lậu hoặc
Chương 11 - Vô ngã và sự khác biệt giữa Dự Lưu và giác ngộ hoàn toàn
Chương 12 - Bốn tưởng điên đảo

Chương 13 - Phật Độc Giác và mười lực, bốn pháp vô sở úy của Như Lai
Chương 14 - Năm vô lậu học và ba mươi bảy chi phần đưa đến giác ngộ
Chương 15 - Vai trò các cõi trời
Chương 16 - Tam Bảo và đường đến quả Dự Lưu
Chương 17 - Ba tướng và bốn loại thức ăn
Chương 18 - Tinh luyện tiệm tiến của hạnh phúc
Chương 19 - Duyên sinh
Chương 20 - Chánh kiến lúc cận tử
Chương 21 - Sáu căn
Chương 22 - Tầm quan trọng của Chuyển Luân Vương
Chương 23 - Bốn tầng thiền hữu sắc và bốn tầng thiền vô sắc
Chương 24 - Quán tưởng về cái chết

* * *

 

Bhikkhu ANALAYO (1962-)
Centre for Buddhist Studies, University of Hamburg, Germany

Tỳ-khưu Analayo sinh năm 1962 tại Đức. Sư xuất gia gieo duyên năm 1990 tại chùa Wat Suan Mokkh ở miền nam Thái Lan. Năm 1994, Sư đến Sri Lanka xuất gia với ngài Hòa thượng Balangoda Ananda Maitreya, và sau đó thọ giới tỳ-khưu với Hòa thượng Pemasiri vào năm 2007 trong hệ phái Shwegyin Nikaya (bắt nguồn từ hệ phái chính Amarapura Nikaya). Tuy nhiên, Bhikkhu Bodhi là vị thầy chính.

Sư hoàn tất chương trình tiến sĩ tại University of Peradeniya năm 2000 và luận án tiến sĩ được xuất bảm thành sách với tựa đề “Satipaṭṭhāna, the Direct Path to Realization”. Cuốn sách được nhiều người khen ngợi, đã được tái bản nhiều lần và dịch sang 10 thứ tiếng. Bản tiếng Việt được Cư sĩ Nguyễn Văn Ngân dịch, với tựa đề “Satipaṭṭhāna, Con đường thẳng tới giác ngộ”, xuất bản năm 2017.

Hiện nay, Sư là giáo sư Phật học tại Trung tâm Phật học của Đại học Hamburg, Đức quốc (Centre for Buddhist Studies, University of Hamburg), Đại học Phật giáo Pháp Cổ, Đài Loan (Dharma Drum Buddhist College, Taiwan). Sư là đồng sáng lập viên Nhóm Nghiên cứu A-hàm (Āgama Research Group) và là giảng sư của Trung tâm Phật học Barre, Hoa Kỳ (Barre Center for Buddhist Studies).

Hiện nay (2018), ngài trú và tịnh tu tại Trung tâm Phật học Barre, bang Massachusetts, Hoa Kỳ.

Các nguồn thông tin:

1) Wikipedia: https://en.wikipedia.org/wiki/Bhikkhu_Analayo 
2) University of Hamburg: https://www.buddhismuskunde.uni-hamburg.de/en/personen/analayo.html 

------------------

Giáo sư AMING TU

Giáo sư Aming Tu (杜正民 - Đỗ Chính Dân, Du Zhengmin) là một sáng lập viên của hội CBETA (Chinese Buddhist Electronic Text Association, Hiệp hội Kinh văn Điện tử Phật giáo Trung Hoa) và đã từng là Giám đốc Điều hành của Hội (1998-2006). Ông là giáo sư Tin học và đã có nhiều đóng góp quan trọng trong dự án số hóa Tam tạng Kinh điển tiếng Hán. Năm 2005, ông bị bệnh và được chẩn đoán là bị bệnh ung thư gan, phải vào bệnh viện 10 ngày và trải qua một cơn đau đớn rất khắc nghiệt.

Sau khi rời bệnh viện, ông tìm đọc các bản kinh trong Hán tạng và tạng Pali có ghi lại các lời dạy của Đức Phật và các vị đại đệ tử để đối phó với cơn đau, bệnh tật và cái chết. Ông suy ngẫm và thực hành theo đó, và nhờ vậy, đã giúp ông rất nhiều để chịu đựng các cơn đau và viễn ảnh của cái chết không thể tránh được.

Ông thảo luận các vấn đề nầy với tỳ-khưu Anālayo – lúc ấy, Sư đang nghiên cứu và dịch các bản kinh A-hàm. Ông đề nghị Sư khai triển thành một cuốn sách với nội dung về phương cách đối diện với bệnh tật và cái chết, dựa theo các bản kinh của Phật giáo Sơ kỳ – bộ A-hàm trong Hán tạng và Nikāya trong tạng Pāli, cùng với những hướng dẫn thực tế để hành thiền, giúp hành giả có đủ nghị lực, hiểu biết và tỉnh thức để trực diện với các vấn đề tất yếu đó của kiếp người.

Sau khi Sư hoàn tất viết cuốn sách, Gs Tu đọc bản thảo, rất hoan hỷ và viết Lời Bạt, đề cập đến nguyên nhân ra đời của cuốn sách. Cuốn sách được xuất bản vào đầu năm 2017 và được nhiều vị thiền sư, học giả khen ngợi, tán thán. Một điều buồn là Gs Aming Tu không thấy được ấn bản chính thức. Ông qua đời vào tháng 11 năm 2016.

* * *

[ Home ]

22-06-2020