Đàm luận Phật Pháp
Tỉnh thức trước bệnh tật và cái
chết
09. KHÔNG SỢ HÃI KHI LÂM BỆNH
- 309 -
Lời Phật dạy trong kinh văn nguyên
thủy
IX KHÔNG SỢ HÃI KHI
LÂM BỆNH IX.1 GIỚI THIỆU Chương này trình bày chi tiết về các phẩm chất từ việc đắc quả Dự lưu, cấp bậc đầu tiên của sự giác ngộ, đặc biệt liên quan đến đức hạnh. Nhân vật chính bị bệnh trong bài kinh được trích dịch trong chương này là gia chủ Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc) được ngài Trưởng lão Ānanda đến thăm. Ngài là một thị giả của Đức Phật. Trong Chương 16, tôi sẽ đề cập đến một bài kinh khác ghi lại khi ngài Ānanda cùng với ngài Trưởng lão Sāriputta (Xá-lợi-phất) đến thăm ông Anāthapiṇḍika khi ông lâm trọng bệnh và sau đó ông qua đời. Nói chung, trong các bài kinh của Phật giáo Sơ kỳ, gia chủ Anāthapiṇḍika được mô tả là một vị thí chủ mẫu mực của Đức Phật và các đệ tử của Ngài. Thật vậy, vườn Kỳ-đà (Jeta’s Grove) tại thành Xá-vệ (Sāvatthī), nơi Đức Phật và các đệ tử tu sĩ thường xuyên lưu trú, thường được gọi là vườn Cấp Cô Độc (Cô Độc viên, Anāthapiṇḍika’s Park), mang ý nghĩa khu vườn đã được ông Anāthapiṇḍika mua lại từ Hoàng tử Kỳ-đà (Jeta) và cúng dường đến chư Tăng. Một bài kinh trong Tương ưng bộ và các kinh tương đương trong bộ A-hàm ghi lại câu chuyện ông Anāthapiṇḍika rất xúc động khi lần đầu tiên nghe thông tin về một vị Phật đã xuất hiện trên thế gian. Cả đêm ông không thể ngủ và sáng sớm hối hả lên đường đi gặp Đức Phật mặc dù trời vẫn còn tối. Vào thời điểm đó, Đức Phật đang ở rừng Hàn Lâm, ngoại thành Vương Xá (Rājagaha). Vì phải đi xuyên qua một nghĩa địa trong bóng tối, nhiều lần ông chùn bước muốn quay về và phải cố gắng vượt qua cơn sợ. Trong cuộc gặp gỡ với Đức Phật, ông được Ngài giảng dạy về Tứ Thánh Đế và đắc quả Dự lưu. Hai chủ đề về sự sợ hãi và quả vị Dự lưu được trình bày trong bài kinh tiếp theo, được ghi trong Tạp A-hàm (SĀ 1031) và bài kinh tương đương trong Tương ưng bộ (SN 55.27). IX.2 KINH VĂN
IX.3 THẢO LUẬN Bài kinh Cấp Cô Độc (SĀ 1031 và SN 55.27) trình bày bốn chi phần của quả Dự lưu như nguồn phát sinh sự không sợ hãi khi bị bệnh. Bốn chi phần đó là:
Các chi phần ấy được đề cập thường xuyên trong các bài kinh như là các dấu hiệu đặc trưng của một bậc Dự lưu. Ba chi đầu tiên của quả Dự lưu phản ánh niềm tin vững chắc trong tâm trí của vị Dự lưu rằng Đức Phật thực sự chỉ dạy một con đường khả thi để tiến đến giác ngộ, rằng Giáo Pháp mà Ngài truyền giảng thực sự đưa đến mục đích này và rằng Cộng đồng những vị thực hành theo đó thực sự đang tu tập trên con đường đưa đến giải thoát. Chi thứ tư để chỉ hành vi đạo đức trở nên tự nhiên đối với một người đã nhập được vào dòng thánh giải thoát. Các bài kinh ghi lại sự kiện đắc quả vị Dự lưu thường đề cập đến việc khai mở Pháp nhãn, như trường hợp của gia chủ Nakula trình bày trong Chương 2 khi ông “thấy pháp, đắc pháp, biết pháp, thâm nhập pháp, vượt qua được mọi sự hồ nghi mà không do ai khác, tâm đạt được vô sở úy trong chánh pháp (SĀ 207).” Những mô tả như vậy rõ ràng đề cập đến một kinh nghiệm riêng biệt, trong đó với sự chứng ngộ đầu tiên của Niết-bàn, người ấy sẽ thấy, đạt được, hiểu và theo một cách nào đó đi sâu vào chính bản chất của Pháp. Như đã được thảo luận trong chương trước, hành giả đoạn tận hoài nghi, một trong mười kiết sử trói buộc vào luân hồi, khi đắc quả Dự lưu và kết quả là vị ấy trở nên độc lập với các hướng dẫn của người khác. Sự tự lực như vậy là một nguồn đưa đến sự không sợ hãi, tâm vô úy. Khi nói đến việc thẩm định nhập dòng giải thoát, các bài kinh của Phật giáo Sơ kỳ tập trung vào những phẩm chất của trải nghiệm về “con mắt Pháp”. Theo cách này, người ta ít chú trọng đến việc xem xét kỹ lưỡng trải nghiệm thực tế của việc nhập dòng giải thoát để xác định xem điều này có chân thật hay không, như trường hợp trong một số trường thiền hiện đại, nhưng chú trọng nhiều hơn về sự thay đổi nội tâm mà vị Dự lưu phải trải qua. Điều này phù hợp với xu hướng chung tư tưởng Phật giáo Sơ kỳ, dường như phản ánh sự nhận thức rõ ràng về những nguy hiểm của việc cụ thể hóa một kinh nghiệm nào đó. Thay vào đó, cần phải chú trọng đến các đặc điểm chung của tất cả mọi trải nghiệm như là các tiến trình trống không và trong trường hợp về các kinh nghiệm hành thiền, vấn đề quan trọng là hiệu ứng biến đổi của chúng. Trong tư tưởng Phật giáo Sơ kỳ, hành thiền đòi hỏi có một nền tảng vững chắc trong hành vi đạo đức, là một trong ba tiến trình học tập đưa đến giải thoát – tam vô lậu học: giới, định, tuệ – được đề cập trong chương trước, và cũng là chi thứ tư của bốn Dự lưu phần được liệt kê trong bài kinh trong chương này. Trong trường hợp của quả Dự lưu, giới hạnh cao quý như thế là kết quả của tuệ giác đạt được khi thông hiểu bản chất của thực tế và đặc biệt là thông hiểu Tứ Thánh Đế. Điều này khiến cho một vị Dự lưu không thể vi phạm nghiêm trọng về năm giới. Những điều này đòi hỏi phải kiềm chế các hoạt động sau:
Một vị Dự lưu vẫn có thể vi phạm vài vấn đề đạo đức nhỏ – dù sao, kiết sử dục ái và sân vẫn chưa hoàn toàn được đoạn trừ trong tâm trí của vị ấy. Tuy nhiên, những vi phạm nghiêm trọng không còn có thể xảy ra. Người nào giữ giới không sát hại đều mang đến cho những người khác một món quà không sợ hãi, vô úy thí, vì họ không cần phải sợ rằng người này có ý định đoạt mạng sống của họ. Điều tương tự cũng xảy ra đối với các hành vi trộm cắp, hành vi sai trái về tình dục và hành vi giả dối, đó cũng là nguồn gây sợ hãi cho người khác. Say sưa cũng có tác động tương tự, những người say rượu hoặc chịu ảnh hưởng của ma túy có thể dễ dàng tạo ra nỗi sợ hãi cho người khác, vì người ta không thể biết chắc chắn người say ấy sẽ làm những gì. Như thế, hành vi của một người tuân thủ năm giới căn bản có liên quan trực tiếp đến sự an tâm, không sợ hãi, và một món quà an tâm như vậy có thể được tạo ra bởi bất kỳ ai tuân giữ giới luật, cho dù người ấy đã hoặc chưa nhập được vào dòng thánh giải thoát. Bài kinh giảng về sự không sợ hãi có liên quan trực tiếp đến việc xây dựng nền tảng đạo đức không thể thiếu cho việc tu tập của mỗi cá nhân. Xây dựng một nền tảng đạo đức như là một món quà cho người khác và là một nguồn an tâm, không sợ hãi làm gia tăng chiều kích vị tha của việc giữ giới luật. Sau khi đem đến sự an tâm, không sợ hãi đến cho người khác qua nhữnng hành vi đạo đức, tuân giữ giới luật, hành giả đạt được sự bình an, không sợ hãi cho chính mình tại thời điểm bị bệnh. Tầm quan trọng của sự tự do không hối hận có thể được nhìn thấy qua ví dụ trong một cuộc đối thoại tiêu chuẩn của Đức Phật đưa ra khi viếng thăm một tu sĩ bị bệnh (như trong bài kinh sẽ được trình bày trong chương tiếp theo). Khi nghe bệnh nhân có nhiều hối hận, Đức Phật lập tức chuyển sang vấn đề vi phạm giới luật. Gìn giữ đạo đức không bị chê trách thực sự là một tài sản lớn trong thời gian bị bệnh và là nguồn phát sinh an tâm, không sợ hãi. Đây là một chủ đề mà tôi sẽ trình bày trong Chương 20. Do đó, giới học hay phát triễn đức hạnh là pháp học trong tam vô lậu học giới-định-tuệ có tác dụng hỗ trợ đáng kể khi đối mặt với bệnh tật. Trong bài kinh được trích dịch ở đây, lời khuyến tấn của ngài Ānanda cho ông Anāthapiṇḍika để ông nhớ lại những đức tính và phẩm chất của chính mình đã giúp ông có được niềm an tâm, không sợ hãi. Theo ví dụ được đặt ra theo cách này, khi chăm sóc người bệnh, ta có thể khuyến khích người ấy nghĩ về những phẩm chất tốt đẹp của chính họ và ghi nhớ những việc làm thiện lành mà họ đã thực hiện trong cuộc sống. Điều này có thể làm giảm thiểu nỗi sợ hãi và giúp người ốm yếu đối mặt tình trạng bệnh tật với trạng thái tinh thần tích cực hơn. * * * |
SĀ 1031 Tôi nghe như vầy. Một thời Đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ Tôn giả A-nan nghe gia chủ Cấp Cô Độc thân bị bệnh khổ, đến nhà ông thăm. Từ xa gia chủ trông thấy Tôn giả A-nan, vịn giường muốn ngồi dậy. Tôn giả A-nan thấy thế liền bảo: “Gia chủ, chớ ngồi dậy mà tăng bệnh khổ.” Tôn giả A-nan ngồi xuống rồi hỏi gia chủ: “Thế nào gia chủ? Bệnh có thể chịu được không? Thân bệnh, đau đớn tăng hay giảm?” Gia chủ bạch: “Bệnh của tôi không bớt, thân không được an ổn, các thứ khổ bức bách càng tăng thêm, không cứu nổi. Giống như người có nhiều sức mạnh bắt lấy người gầy yếu đuối, dùng dây trói chặt vào đầu cùng hai tay, rồi siết chặt làm cho đau đớn vô cùng. Hiện tại sự thống khổ của tôi còn hơn cả người ấy nữa. Giống như tên đồ tể dùng dao bén mổ bụng bò lấy nội tạng nó ra; sự đau đớn nơi bụng con bò như thế nào có thể chịu nổi, còn hiện tại, sự đau đớn nơi bụng của tôi hơn cả sự đau của con bò kia. Như hai lực sĩ bắt một người yếu đuối treo lên trên lửa rồi đốt hai chân họ, hiện nay hai chân của tôi còn nóng hơn chân người ấy. Bệnh khổ chỉ tăng chứ không giảm.” Bấy giờ, Tôn giả A-nan bảo gia chủ: “Đừng sợ hãi! Chỉ có phàm phu ngu si vô học vì không tin Phật, không tin Pháp, không tin Tăng, không đầy đủ thánh giới, nên mới sợ hãi về cái chết và sợ hãi về cái khổ trong đời sau. Còn ông đối với sự bất tín ấy ngày nay đã đoạn, đã biết rõ và có đầy đủ lòng tin thanh tịnh đối với Phật, có đầy đủ lòng tin thanh tịnh đối với đối với Pháp, có đầy đủ lòng tin thanh tịnh đối với Tăng và đã thành tựu thánh giới.” Gia chủ thưa với Tôn giả A-nan: “Ngày nay con không còn sợ hãi điều gì nữa. Lần đầu tiên con mới gặp Thế Tôn giữa bãi tha ma trong rừng Lạnh, thành Vương xá, con liền được lòng tin bất hoại đối với Phật, được lòng tin bất hoại đối với Pháp, được lòng tin bất hoại đối với Tăng và đã thành tựu thánh giới. Từ đó đến nay, tiền của trong nhà đều đem cúng dường cho Đức Phật và các vị đệ tử, đó là các tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di.” Tôn giả A-nan nói: “Lành thay, gia chủ! Ông tự ký thuyết quả Tu-đà-hoàn.” Gia chủ bạch Tôn giả A-nan: “Xin mời Tôn giả thọ thực tại đây.” Tôn giả A-nan im lặng nhận lời. Gia chủ liền cho sửa soạn các thứ đồ ăn thức uống tinh khiết, ngon lành để cúng dường Tôn giả A-nan. Sau khi thọ thực xong, Tôn giả lại vì gia chủ mà thuyết pháp, chỉ dạy, soi sáng, làm an vui, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy ra về. -------------------------- SN 55.27 Nhân duyên ở Sāvatthī. Lúc bấy giờ, gia chủ Anāthapiṇḍika bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh. Rồi gia chủ Anāthapiṇḍika bảo một người: “Này ông, hãy đi đến Tôn giả Ānanda; sau khi đến nhân danh ta, cúi đầu đảnh lễ chân Tôn giả Ānanda và nói: ‘Thưa Tôn giả, gia chủ Anāthapiṇḍika, bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh, xin cúi đầu đảnh lễ chân Tôn giả Ānanda.’ Rồi thưa: ‘Lành thay, thưa Tôn giả, nếu Tôn giả Ānanda vì lòng từ mẫn đi đến trú xứ của gia chủ Anāthapiṇḍika.’” “Thưa vâng, Gia chủ.” Người ấy vâng đáp gia chủ Anāthapiṇḍika, rồi đi đến Tôn giả Ānanda. Sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Ānanda rồi ngồi xuống một bên. Rồi người ấy thưa với Tôn giả Ānanda: “Thưa Tôn giả, gia chủ Anāthapiṇḍika, bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh, xin cúi đầu đảnh lễ chân Tôn giả Ānanda. Lành thay, thưa Tôn giả, nếu Tôn giả Ānanda vì lòng từ mẫn đi đến trú xứ của gia chủ Anāthapiṇḍika.” Tôn giả Ānanda im lặng nhận lời. Rồi Tôn giả Ānanda, vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát đi đến trú xứ của gia chủ Anāthapiṇḍika. Sau khi đến, ngồi xuống chỗ đã soạn sẵn. Ngồi xuống, Tôn giả Ānanda nói với gia chủ Anāthapiṇḍika: “Này Gia chủ, Gia chủ có kham nhẫn nổi không? Gia chủ có chịu đựng nổi không? Có phải khổ thọ giảm thiểu, không có tăng trưởng? Có phải có dấu hiệu giảm thiểu, không có tăng trưởng?” “Thưa Tôn giả, con không thể kham nhẫn. Con không thể chịu đựng. Kịch liệt là khổ thọ nơi con. Chúng tăng trưởng, không có giảm thiểu. Có dấu hiệu chúng tăng trưởng, không giảm thiểu.” “Này Gia chủ, kẻ vô văn phàm phu thành tựu bốn pháp nên run sợ, hoảng hốt, sợ hãi về cái chết, về đời sau. Thế nào là bốn? “Ở đây, này Gia chủ, kẻ vô văn phàm phu thành tựu lòng bất tín
đối với Phật. Khi vị ấy tự thấy lòng “Lại nữa, này Gia chủ, kẻ vô văn phàm phu thành tựu lòng bất tín đối với Pháp. Khi vị ấy tự thấy lòng bất tín của mình đối với Pháp, vị ấy run sợ, hoảng hốt, sợ hãi về cái chết, về đời sau. “Lại nữa, này Gia chủ, kẻ vô văn phàm phu thành tựu lòng bất tín đối với chúng Tăng. Khi vị ấy tự thấy lòng bất tín của mình đối với chúng Tăng, vị ấy run sợ, hoảng hốt, sợ hãi về cái chết, về đời sau. “Lại nữa, này Gia chủ, kẻ vô văn phàm phu thành tựu ác giới. Khi vị ấy tự thấy sự thành tựu ác giới của mình, vị ấy run sợ, hoảng hốt, sợ hãi về cái chết, về đời sau. “Do thành tựu bốn pháp này, này Gia chủ, kẻ vô văn phàm phu run sợ, hoảng hốt, sợ hãi về cái chết, về đời sau. “Này Gia chủ , do thành tựu bốn pháp, vị đa văn thánh đệ tử không có run sợ, không có hoảng hốt, không có sợ hãi về cái chết, về đời sau. Thế nào là bốn? “Ở đây, này Gia chủ, vị đa văn thánh đệ tử thành tựu tịnh tín bất động đối với Phật: ‘Ðây bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn’. Khi tự thấy lòng tịnh tín bất động của mình đối với Phật, vị ấy không run sợ, không hoảng hốt, không sợ hãi về cái chết, về đời sau. “Lại nữa, này Gia chủ, vị đa văn thánh đệ tử thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với Pháp: ‘Pháp do Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, có hiệu quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu’. Khi tự thấy lòng tịnh tín bất động của mình đối với Pháp, vị ấy không run sợ, không hoảng hốt, không sợ hãi về cái chết, về đời sau. “Lại nữa, này Gia chủ, vị đa văn thánh đệ tử thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với chúng Tăng: ‘Diệu hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Trực hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Ứng lý hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Chân chánh hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Tức là bốn đôi tám chúng. Chúng đệ tử của Thế Tôn là đáng cung kính, đáng cúng dường, đáng tôn trọng, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời.’ Khi tự thấy lòng tịnh tín bất động của mình đối với chúng Tăng, vị ấy không run sợ, không hoảng hốt, không sợ hãi về cái chết, về đời sau. “Lại nữa, này Gia chủ, vị đa văn thánh đệ tử thành tựu các giới được các bậc thánh ái kính, không bị phá hoại, không bị đâm cắt, không bị nhiễm ô, không bị uế nhiễm, đem lại giải thoát, được người trí tán thán, không bị chấp thủ, đưa đến thiền định. Khi tự thấy sự thành tựu của mình về các giới được các bậc thánh ái kính, vị ấy không run sợ, không hoảng hốt, không sợ hãi về cái chết, về đời sau. “Thành tựu bốn pháp này, này Gia chủ, bậc đa văn thánh đệ tử không có run sợ, không có hoảng hốt, không sợ hãi về cái chết, về đời sau. “Thưa Tôn giả Ānanda, con không sợ hãi. Sao con có thể sợ hãi? Con đã thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với Phật, đã thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với Pháp, đã thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với chúng Tăng. Thưa Tôn giả, phàm có những học giới cho hàng cư sĩ tại gia do Thế Tôn thuyết giảng, con tự thấy mình không vi phạm một giới nào.” “Lợi đắc thay cho ông, này Gia chủ! Khéo lợi đắc thay cho ông, này Gia chủ ! Này Gia chủ, ông đã tuyên bố về Dự lưu quả rồi.” * * ** * * |
Tỉnh thức
trước bệnh tật và cái chết Bhikkhu Analayo (2017). Mindfully Facing Disease and Death: Compassionate Advice from Early Buddhist Texts. MỤC LỤC TỔNG QUÁT
CÁC CHỦ ĐỀ GIÁO THUYẾT TRONG MỖI CHƯƠNG
* * * |
Bhikkhu ANALAYO (1962-) Centre for Buddhist Studies, University of Hamburg, Germany Tỳ-khưu Analayo sinh năm 1962 tại Đức. Sư xuất gia gieo duyên năm 1990 tại chùa Wat Suan Mokkh ở miền nam Thái Lan. Năm 1994, Sư đến Sri Lanka xuất gia với ngài Hòa thượng Balangoda Ananda Maitreya, và sau đó thọ giới tỳ-khưu với Hòa thượng Pemasiri vào năm 2007 trong hệ phái Shwegyin Nikaya (bắt nguồn từ hệ phái chính Amarapura Nikaya). Tuy nhiên, Bhikkhu Bodhi là vị thầy chính. Sư hoàn tất chương trình tiến sĩ tại University of Peradeniya năm 2000 và luận án tiến sĩ được xuất bảm thành sách với tựa đề “Satipaṭṭhāna, the Direct Path to Realization”. Cuốn sách được nhiều người khen ngợi, đã được tái bản nhiều lần và dịch sang 10 thứ tiếng. Bản tiếng Việt được Cư sĩ Nguyễn Văn Ngân dịch, với tựa đề “Satipaṭṭhāna, Con đường thẳng tới giác ngộ”, xuất bản năm 2017. Hiện nay, Sư là giáo sư Phật học tại Trung tâm Phật học của Đại học Hamburg, Đức quốc (Centre for Buddhist Studies, University of Hamburg), Đại học Phật giáo Pháp Cổ, Đài Loan (Dharma Drum Buddhist College, Taiwan). Sư là đồng sáng lập viên Nhóm Nghiên cứu A-hàm (Āgama Research Group) và là giảng sư của Trung tâm Phật học Barre, Hoa Kỳ (Barre Center for Buddhist Studies). Hiện nay (2018), ngài trú và tịnh tu tại Trung tâm Phật học Barre, bang Massachusetts, Hoa Kỳ. Các nguồn thông tin: 1) Wikipedia:
https://en.wikipedia.org/wiki/Bhikkhu_Analayo ------------------ Giáo sư AMING TU Giáo sư Aming Tu (杜正民 - Đỗ Chính Dân, Du Zhengmin) là một sáng lập viên của hội CBETA (Chinese Buddhist Electronic Text Association, Hiệp hội Kinh văn Điện tử Phật giáo Trung Hoa) và đã từng là Giám đốc Điều hành của Hội (1998-2006). Ông là giáo sư Tin học và đã có nhiều đóng góp quan trọng trong dự án số hóa Tam tạng Kinh điển tiếng Hán. Năm 2005, ông bị bệnh và được chẩn đoán là bị bệnh ung thư gan, phải vào bệnh viện 10 ngày và trải qua một cơn đau đớn rất khắc nghiệt. Sau khi rời bệnh viện, ông tìm đọc các bản kinh trong Hán tạng và tạng Pali có ghi lại các lời dạy của Đức Phật và các vị đại đệ tử để đối phó với cơn đau, bệnh tật và cái chết. Ông suy ngẫm và thực hành theo đó, và nhờ vậy, đã giúp ông rất nhiều để chịu đựng các cơn đau và viễn ảnh của cái chết không thể tránh được. Ông thảo luận các vấn đề nầy với tỳ-khưu Anālayo – lúc ấy, Sư đang nghiên cứu và dịch các bản kinh A-hàm. Ông đề nghị Sư khai triển thành một cuốn sách với nội dung về phương cách đối diện với bệnh tật và cái chết, dựa theo các bản kinh của Phật giáo Sơ kỳ – bộ A-hàm trong Hán tạng và Nikāya trong tạng Pāli, cùng với những hướng dẫn thực tế để hành thiền, giúp hành giả có đủ nghị lực, hiểu biết và tỉnh thức để trực diện với các vấn đề tất yếu đó của kiếp người. Sau khi Sư hoàn tất viết cuốn sách, Gs Tu đọc bản thảo, rất hoan hỷ và viết Lời Bạt, đề cập đến nguyên nhân ra đời của cuốn sách. Cuốn sách được xuất bản vào đầu năm 2017 và được nhiều vị thiền sư, học giả khen ngợi, tán thán. Một điều buồn là Gs Aming Tu không thấy được ấn bản chính thức. Ông qua đời vào tháng 11 năm 2016. * * * |
[ Home ]
25-05-2020