Đàm luận Phật Pháp
Tỉnh thức trước bệnh tật và cái
chết
08. TỈNH THỨC TRƯỚC BỆNH TẬT
- 308 -
Lời Phật dạy trong kinh văn nguyên
thủy
VIII TỈNH THỨC TRƯỚC
BỆNH TẬT VIII.1 GIỚI THIỆU Trong chương này tôi tiếp tục chủ đề đối diện với nỗi đau bằng
niệm. Trong Chương 6, ngài Anuruddha đối diện với cơn đau đớn của
chính mình bằng cách an trú trong bốn pháp lập niệm (satipaṭṭhānas),
ở đây, trong chương này, ngài đến thăm một đệ tử cư sĩ bị bệnh tên
là Mānadiṇṇa (Ma-na-đề-na), cũng thực hành bốn pháp lập niệm cho
cùng một mục đích. Bài kinh ở đây là một trong các ví dụ chứng minh việc thực hành
bốn pháp lập niệm cho hàng cư sĩ đệ tử. Trái ngược với giả định đôi
khi được tìm thấy trong các tác phẩm hiện đại cho rằng chỉ có các tu
sĩ thực hành quán niệm trong thời cổ đại, bài kinh cho thấy ngay cả
trong thời đó cũng đã có nhiều vị đệ tử cư sĩ rất thành thạo trong
bốn pháp lập niệm, như trong bài kinh của Tạp A-hàm (SĀ 1038) và bài
kinh tương đương trong Tương ưng bộ (SN 47.30).
VIII.2 KINH VĂN SĀ 1038 Tôi nghe như vầy. Một thời Đức Phật trú bên ao Kiệt-già
(Gaggarā), tại nước Chiêm-bà (Campā). Bấy giờ có gia chủ
Ma-na-đề-na (Mānadinna) bị bệnh mới bớt. Lúc ấy người nam kia vâng lời gia chủ, đi đến chỗ Tôn giả
A-na-luật, đảnh lễ dưới chân, thưa Tôn giả rằng: “Gia chủ
Ma-na-đề-na xin kính lễ và hỏi thăm: ‘Bạch ngài, cuộc sống có
thoải mái, an lạc, ít bệnh, ít não không? Và trưa ngày mai, xin
ngài vì lòng bi mẫn, cùng bốn vị nhận lời thỉnh mời của tôi.’”
Rồi Tôn giả A-na-luật im lặng nhận lời mời. Bấy giờ người kia lại vì gia chủ Ma-na-đề-na thưa Tôn giả
A-na-luật: “Tôi là người thế tục bận nhiều công việc vương gia,
không thể đích thân đến rước được. Xin ngài vì lòng bi mẫn, cùng
bốn vị nhận lời thỉnh mời trưa ngày mai của tôi.” Tôn giả A-na-luật nói: “Ông cứ an tâm, tôi tự biết thời. Ngày
mai sẽ cùng bốn vị đến nhà gia chủ.” Sau đó, người này theo lời dạy của Tôn giả A-na-luật trở về
thưa lại gia chủ: “Thưa ngài, tôi đã đến gặp Tôn giả A-na-luật,
trình bày đầy đủ như ngài dặn bảo và Tôn giả A-na-luật nói rằng
gia chủ cứ an tâm, ngài tự biết thời.” Tối hôm đó, gia chủ Ma-na-đề-na sửa soạn đồ ăn thức uống tinh
khiết, thơm ngon. Sáng sớm, lại sai người kia đến chỗ Tôn giả
A-na-luật thưa đã đến giờ. Người kia liền vâng lời đi đến chỗ
Tôn giả A-na-luật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, bạch rằng: “Đồ
cúng dường đã sửa soạn xong, xin ngài biết đã đến giờ.” Rồi Tôn giả A-na-luật đắp y ôm bát cùng với bốn vị đi đến nhà
gia chủ. Trong lúc ấy, các nữ nhân đang đứng vây quanh gia chủ
Ma-na-đề-na, đứng trong cửa bên trái. Khi trông thấy Tôn giả
A-na-luật, gia chủ cúi người ôm chân kính lễ, đưa ngài đến chỗ
ngồi. Gia chủ lần lượt kính lễ và hỏi thăm sức khỏe mỗi vị, rồi
ngồi lui qua một bên. Tôn giả A-na-luật hỏi thăm gia chủ: “Cuộc sống có kham nhẫn,
an vui không?” Gia chủ đáp: “Vâng, thưa Tôn giả, con sống kham nhẫn an vui.
Trước đây, con bị bệnh nặng nhưng hôm nay đã bớt rồi.” Tôn giả A-na-luật hỏi gia chủ: “Gia chủ sống, trụ tâm thế nào
để có thể khiến cho bệnh tật khổ não bớt dần?” Gia chủ bạch: “Thưa Tôn giả A-na-luật, con trụ vào bốn niệm
xứ, chuyên tu buộc niệm, cho nên các thứ bệnh tật khổ đau nơi
thân đều được đình chỉ. Những gì là bốn? “Sống quán niệm thân trên thân bên trong, nỗ lực tinh cần,
niệm và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian; sống quán niệm
thân trên thân bên ngoài, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác,
điều phục tham ưu thế gian; sống quán niệm thân trên thân bên
trong bên ngoài, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều phục
tham ưu thế gian. “Sống quán niệm thọ trên thọ bên trong, nỗ lực tinh cần, niệm
và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian; sống quán niệm thọ
trên thọ bên ngoài, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều
phục tham ưu thế gian; sống quán niệm thọ trên thọ bên trong bên
ngoài, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế
gian. “Sống quán niệm tâm trên tâm bên trong, nỗ lực tinh cần, niệm
và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian; sống quán niệm tâm
trên tâm bên ngoài, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều
phục tham ưu thế gian; sống quán niệm tâm trên tâm bên trong bên
ngoài, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế
gian. “Sống quán niệm pháp trên pháp bên trong, nỗ lực tinh cần,
niệm và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian; sống quán niệm
pháp trên pháp bên ngoài, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác,
điều phục tham ưu thế gian; sống quán niệm pháp trên pháp bên
trong bên ngoài, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều phục
tham ưu thế gian. Như vậy, bạch Tôn giả A-na-luật, con nhờ buộc tâm trụ vào bốn
niệm xứ cho nên mọi thứ bệnh tật khổ đau nơi thân đều được đình
chỉ. Thưa Tôn giả A-na-luật, nhờ trụ tâm được như thế, cho nên
mọi thứ tật bệnh khổ đau đều được đình chỉ.” Tôn giả A-na-luật bảo gia chủ: “Hôm nay, gia chủ vừa tự tuyên
bố về quả A-na-hàm (Bất lai).” Sau đó, gia chủ Ma-na-đề-na mang các thứ đồ ăn thức uống
thanh khiết, thơm ngon, tự tay cúng dường đầy đủ. Sau khi thọ
thực và súc rửa miệng xong, gia chủ Ma-na-đề-na lại ngồi nơi ghế
thấp nghe pháp. Tôn giả A-na-luật thuyết pháp, chỉ dạy, soi
sáng, làm cho người nghe an vui, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy ra về. VIII.3 THẢO LUẬN Phiên bản trong Tương ưng bộ tương đồng với bài kinh trong Tạp
A-hàm rằng ngài Anuruddha đã đưa ra kết luận rằng ông Mānadiṇṇa đã
đắc quả Bất lai, chỉ khác biệt ở điểm kết thúc ông cho biết khi an
trú vào bốn pháp lập niệm, ông đã đoạn tận năm hạ phần kiết sử. Tuy
nhiên, cần phải có thêm những mô tả khác về việc đắc quả vị này vì
mặc dù ông Mānadiṇṇa trình bày rất ấn tượng về việc thực hành bốn
pháp lập niệm khi lâm bệnh, điều đó vẫn chưa đủ để kết luận rằng ông
ấy phải là một vị Bất lai. Việc an trú trong bốn pháp lập niệm như
thế và nhờ đó có thể vượt qua một căn bệnh cũng có thể xảy ra cho
một hành giả chưa đạt đến trình độ cao như vậy trên con đường giải
thoát. Do đó, để ngài Anuruddha đi đến kết luận rằng Mānadiṇṇa đã
tuyên bố mình là một vị Bất lai, cần phải có các tham chiếu khác về
việc ông đã đoạn tận năm hạ phần kiết sử. Có lẽ các tham chiếu như
thế đã bị thất lạc trong bài kinh của Tạp A-hàm. Trong cả hai bài kinh về ông Mānadiṇṇa, đắc quả vị Bất lai là một
trong bốn giai đoạn tiến đến giác ngộ được công nhận trong Phật giáo
Sơ kỳ: • Dự lưu, Tiến độ thông qua các giai đoạn giác ngộ này diễn ra bằng cách
đoạn tận các kiết sử (saṃyojana). Có tất cả mười kiết sử cần phải
đoạn tận. Năm kiết sử đầu tiên, gọi là năm hạ phần kiết sử, phải
được đoạn tận để đắc quả vị Bất lai là: • Thân kiến, Ở đây, thân kiến để chỉ niềm tin vào một tự ngã trường tồn.
Hoài
nghi đặc biệt có liên quan đến những nghi ngờ đáng kể về hiệu quả
của giáo lý trong Phật giáo Sơ kỳ trên con đường đưa đến giác ngộ.
Giới lễ nghi thủ là chấp thủ vào các giáo điều, nghi lễ với quan
niệm cho rằng như thế là cần thiết và đủ để đạt giác ngộ. Ba kiết sử này được khắc phục với trải nghiệm đầu tiên về
Niết-bàn khi nhập dòng giải thoát, đắc quả Dự lưu, mà tôi sẽ trình
bày chi tiết hơn trong chương tiếp theo. Trải nghiệm này là kết quả
của việc thực hiện các giáo lý Phật giáo Sơ kỳ về giới, định, tuệ mà
vị Dự lưu không còn bất kỳ nghi ngờ nào về hiệu quả của giáo lý này
đưa đến mục tiêu giác ngộ. Điều ấy cũng cho thấy rõ ràng rằng giới
hạnh là một cơ sở không thể thiếu cho sự tiến bộ trên đường đưa đến
giải thoát và do đó, việc chỉ tuân theo các giáo điều, hình thức lễ
nghi tự nó không đủ để để đạt đến mục tiêu ấy. Hai kiết sử kế tiếp, dục ái và sân hận, được giảm thiểu đáng kể
trong giai đoạn tiếp theo, khi đắc quả Nhất lai. Khi hành giả đắc
quả vị thứ ba, quả Bất lai, tất cả những ham muốn nhục cảm và sân
hận dưới bất kỳ hình thức nào đều bị trừ diệt và hai kiết sử đó
không còn phạm vi nào biểu lộ trong tâm trí của một vị đã đạt đến
giai đoạn đó. Bài kinh trong Tạp A-hàm ghi rõ ràng rằng, trong khi
vị gia chủ vẫn sống với gia đình, vị ấy đã có một mức độ tự do tinh
thần khá cao, mặc dù được vây quanh bởi các phụ nữ trong gia đình
trong khi chờ đợi ngài Anuruddha đến thọ thực. Dù đã đắc quả Bất
lai, không còn quan hệ dục tính với bất kỳ ai trong số các phụ nữ
ấy, ông vẫn sống như là một đệ tử cư sĩ tại gia. Trong hoàn cảnh
sống như thế, ông vẫn có khả năng đắc được quả vị giải thoát với cấp
độ cao. Đây có lẽ là điểm nổi bật nhất được rút ra từ chương này. Từ thời
xa xưa, các cư sĩ Phật tử đã được ghi nhận là tham gia hành thiền
nghiêm túc, đối diện thành công với các cơn đau đớn của bệnh tật với
chánh niệm, và đạt được các cấp độ cao trên con đường đưa đến giác
ngộ, chẳng hạn như đắc quả vị Bất lai như trong bài kinh này. Quả vị Bất lai trong phần kết luận của bài kinh Lập niệm trong
Trung bộ (MN 10) và Trung A-hàm (MĀ 98) là một trong hai quả vị đạt
được khi thực hành bền vững bốn pháp Lập niệm, quả vị kia là quả vị
A-la-hán, hoàn toàn giải thoát. Cả hai bài kinh đều cùng trình bày
tiềm năng của việc thực hành bốn pháp Lập niệm để hoàn toàn đoạn tận
dục ái và sân hận trong tâm trí. Bên cạnh tiềm năng của chánh niệm để giúp chúng ta chịu đựng được
những cơn đau của bệnh tật, như được ghi lại trong chương này và các
chương trước, bài kinh Lập niệm còn cho thấy những gì mà Phật giáo
Sơ kỳ xem như là sức khoẻ tối cao về tinh thần: Đó là sự tự do thoát
khỏi các ham muốn và sân hận, cuối cùng đưa đến đỉnh điểm của tu tập
là sự tự do thoát khỏi si mê với việc đắc quả giải thoát rốt ráo.
Con đường đưa đến một sức khỏe tinh thần tối cao như vậy đòi hỏi
hành giả phải tu tập trong ba phương diện, bao gồm: • Đức hạnh (Giới), Ba sự tu tập này, phải được phát triễn và hỗ trợ lẫn nhau, cung
cấp bối cảnh trong đó thực hành quán niệm được áp dụng trong Phật
giáo Sơ kỳ. Sau khi trình bày về mối quan hệ giữa chánh niệm và đối
diện với các cơn đau trong các chương trước, trong ba chương tiếp
theo, tôi sẽ chuyển sang trình bày về ba chủ đề giới, định, tuệ, đặc
biệt áp dụng trong lúc bị bệnh. * * *
mucluc08.jpg
1179 * 898
dgt_1.jpg
1234 * 870
dgt_2.jpg
1310 * 797
dgt_3.jpg
1177 * 853
dgt_4.jpg
1222 * 821
dgt_5.jpg
1332 * 920
dgt_6.jpg
1308 * 890
dgt_7.jpg
1265 * 824
Bhikkhu Anālayo, Mindfully facing disease and death (2017)
MA-NA-ĐỀ-NA
Hòa thượng Thích Đức Thắng dịch
Bình Anson hiệu đính, dựa theo bản dịch tiếng Anh của Bhikkhu Anāyo
Rồi gia chủ nói với một người nam: “Này thiện nam tử, ông hãy
đến chỗ Tôn giả A-na-luật (Anurudha), thay tôi đảnh lễ dưới
chân, hỏi thăm sức khỏe: ‘Bạch ngài, cuộc sống có thoải mái, an
lạc không? Ngày mai, xin ngài cùng bốn vị nhận lời thỉnh của
tôi’. Nếu ngài nhận lời, ông nên vì tôi bạch rằng tôi là người
thế tục, bận nhiều công việc trong vương quốc, không thể đích
thân đến rước được; xin ngài vì lòng bi mẫn, cùng bốn vị đến
đúng giờ theo lời thỉnh mời của tôi.”
• Nhất lai,
• Bất lai,
• A-la-hán, hoàn toàn giải thoát.
• Hoài nghi,
• Giới lễ nghi thủ,
• Dục ái,
• Sân hận.
• Tập trung tâm ý (Định),
• Trí tuệ (Tuệ).
SĀ 1038 Tôi nghe như vầy. Một thời Đức Phật trú bên ao Kiệt-già (Gaggarā), tại nước Chiêm-bà (Campā). Bấy giờ có gia chủ Ma-na-đề-na (Mānadinna) bị bệnh mới bớt. Rồi gia chủ nói với một người nam: “Này thiện nam tử, ông hãy đến chỗ Tôn giả A-na-luật (Anurudha), thay tôi đảnh lễ dưới chân, hỏi thăm sức khỏe: ‘Bạch ngài, cuộc sống có thoải mái, an lạc không? Ngày mai, xin ngài cùng bốn vị nhận lời thỉnh của tôi’. Nếu ngài nhận lời, ông nên vì tôi bạch rằng tôi là người thế tục, bận nhiều công việc trong vương quốc, không thể đích thân đến rước được; xin ngài vì lòng bi mẫn, cùng bốn vị đến đúng giờ theo lời thỉnh mời của tôi.” Lúc ấy người nam kia vâng lời gia chủ, đi đến chỗ Tôn giả A-na-luật, đảnh lễ dưới chân, thưa Tôn giả rằng: “Gia chủ Ma-na-đề-na xin kính lễ và hỏi thăm: ‘Bạch ngài, cuộc sống có thoải mái, an lạc, ít bệnh, ít não không? Và trưa ngày mai, xin ngài vì lòng bi mẫn, cùng bốn vị nhận lời thỉnh mời của tôi.’” Rồi Tôn giả A-na-luật im lặng nhận lời mời. Bấy giờ người kia lại vì gia chủ Ma-na-đề-na thưa Tôn giả A-na-luật: “Tôi là người thế tục bận nhiều công việc vương gia, không thể đích thân đến rước được. Xin ngài vì lòng bi mẫn, cùng bốn vị nhận lời thỉnh mời trưa ngày mai của tôi.” Tôn giả A-na-luật nói: “Ông cứ an tâm, tôi tự biết thời. Ngày mai sẽ cùng bốn vị đến nhà gia chủ.” Sau đó, người này theo lời dạy của Tôn giả A-na-luật trở về thưa lại gia chủ: “Thưa ngài, tôi đã đến gặp Tôn giả A-na-luật, trình bày đầy đủ như ngài dặn bảo và Tôn giả A-na-luật nói rằng gia chủ cứ an tâm, ngài tự biết thời.” Tối hôm đó, gia chủ Ma-na-đề-na sửa soạn đồ ăn thức uống tinh khiết, thơm ngon. Sáng sớm, lại sai người kia đến chỗ Tôn giả A-na-luật thưa đã đến giờ. Người kia liền vâng lời đi đến chỗ Tôn giả A-na-luật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, bạch rằng: “Đồ cúng dường đã sửa soạn xong, xin ngài biết đã đến giờ.” Rồi Tôn giả A-na-luật đắp y ôm bát cùng với bốn vị đi đến nhà gia chủ. Trong lúc ấy, các nữ nhân đang đứng vây quanh gia chủ Ma-na-đề-na, đứng trong cửa bên trái. Khi trông thấy Tôn giả A-na-luật, gia chủ cúi người ôm chân kính lễ, đưa ngài đến chỗ ngồi. Gia chủ lần lượt kính lễ và hỏi thăm sức khỏe mỗi vị, rồi ngồi lui qua một bên. Tôn giả A-na-luật hỏi thăm gia chủ: “Cuộc sống có kham nhẫn, an vui không?” Gia chủ đáp: “Vâng, thưa Tôn giả, con sống kham nhẫn an vui. Trước đây, con bị bệnh nặng nhưng hôm nay đã bớt rồi.” Tôn giả A-na-luật hỏi gia chủ: “Gia chủ sống, trụ tâm thế nào để có thể khiến cho bệnh tật khổ não bớt dần?” Gia chủ bạch: “Thưa Tôn giả A-na-luật, con trụ vào bốn niệm xứ, chuyên tu buộc niệm, cho nên các thứ bệnh tật khổ đau nơi thân đều được đình chỉ. Những gì là bốn? “Sống quán niệm thân trên thân bên trong, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian; sống quán niệm thân trên thân bên ngoài, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian; sống quán niệm thân trên thân bên trong bên ngoài, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian. “Sống quán niệm thọ trên thọ bên trong, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian; sống quán niệm thọ trên thọ bên ngoài, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian; sống quán niệm thọ trên thọ bên trong bên ngoài, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian. “Sống quán niệm tâm trên tâm bên trong, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian; sống quán niệm tâm trên tâm bên ngoài, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian; sống quán niệm tâm trên tâm bên trong bên ngoài, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian. “Sống quán niệm pháp trên pháp bên trong, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian; sống quán niệm pháp trên pháp bên ngoài, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian; sống quán niệm pháp trên pháp bên trong bên ngoài, nỗ lực tinh cần, niệm và tỉnh giác, điều phục tham ưu thế gian. Như vậy, bạch Tôn giả A-na-luật, con nhờ buộc tâm trụ vào bốn niệm xứ cho nên mọi thứ bệnh tật khổ đau nơi thân đều được đình chỉ. Thưa Tôn giả A-na-luật, nhờ trụ tâm được như thế, cho nên mọi thứ tật bệnh khổ đau đều được đình chỉ.” Tôn giả A-na-luật bảo gia chủ: “Hôm nay, gia chủ vừa tự tuyên bố về quả A-na-hàm (Bất lai).” Sau đó, gia chủ Ma-na-đề-na mang các thứ đồ ăn thức uống thanh khiết, thơm ngon, tự tay cúng dường đầy đủ. Sau khi thọ thực và súc rửa miệng xong, gia chủ Ma-na-đề-na lại ngồi nơi ghế thấp nghe pháp. Tôn giả A-na-luật thuyết pháp, chỉ dạy, soi sáng, làm cho người nghe an vui, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy ra về. * * *
SN 47.30 Một thời Tôn giả Ānanda trú ở Vương Xá (Rājagaha), tại Trúc Lâm, chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Lúc bấy giờ, gia chủ Mānadinna bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh. Rồi gia chủ Mānadinna bảo một người: “Ông hãy đến gặp Tôn giả Ānanda; nhân danh ta, cúi đầu đảnh lễ dưới chân ngài Ananda và thưa: ‘Thưa Tôn giả, gia chủ Mānadinna bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh. Gia chủ cúi đầu đảnh lễ dưới chân ngài.’ Rồi thưa như vầy: ‘Lành thay, thưa Tôn giả, nếu Tôn giả Ānanda đi đến trú xứ của gia chủ Mānadinna vì lòng bi mẫn’”. “Thưa vâng, gia chủ.” Người ấy vâng đáp, rồi đến gặp Tôn giả Ānanda, đảnh lễ, ngồi xuống một bên và chuyển lời thỉnh mời của gia chủ Mānadinna. Tôn giả Ānanda im lặng nhận lời. Sáng hôm sau, Tôn giả Ānanda đắp y, cầm y bát đi đến nhà của gia chủ Mānadinna. Sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn, rồi nói với gia chủ Mānadinna: “Này gia chủ, tôi mong rằng ông có thể chịu đựng được, có thể thấy khá hơn, các cảm thọ đau đớn có phần giảm thiểu và không gia tăng, và sự giảm thiểu, không gia tăng đó được nhận thấy rõ ràng.” “Thưa Tôn giả, con khó có thể chịu đựng được, không thấy khá hơn, các cảm thọ đau đớn có phần gia tăng và không giảm thiểu, và sự gia tăng, không giảm thiểu đó được nhận thấy rõ ràng.” “Vậy, này gia chủ, hãy thực tập như sau: ‘Tôi sẽ trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Tôi sẽ trú, quán thọ trên các cảm thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Tôi sẽ trú, quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Tôi sẽ trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.’ Này gia chủ, ông cần phải thực tập như thế.” “Thưa Tôn giả, về bốn pháp lập niệm này đã được Thế Tôn thuyết giảng, những pháp ấy có ở trong con, và con sống phù hợp với các pháp ấy. Thưa Tôn giả, con trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Con trú, quán thọ trên các cảm thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Con trú, quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Con trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. “Và thưa Tôn giả, về năm hạ phần kiết sử đã được Thế Tôn thuyết giảng, con không thấy có một kiết sử nào mà không được đoạn tận ở nơi con.” “Lợi đắc thay cho ông, này gia chủ! Thật khéo lợi đắc thay cho ông, này gia chủ! Này gia chủ, ông đã tuyên bố về quả Bất lai.” * * ** * * |
Tỉnh thức
trước bệnh tật và cái chết Bhikkhu Analayo (2017). Mindfully Facing Disease and Death: Compassionate Advice from Early Buddhist Texts. MỤC LỤC TỔNG QUÁT
CÁC CHỦ ĐỀ GIÁO THUYẾT TRONG MỖI CHƯƠNG
* * * |
Bhikkhu ANALAYO (1962-) Centre for Buddhist Studies, University of Hamburg, Germany Tỳ-khưu Analayo sinh năm 1962 tại Đức. Sư xuất gia gieo duyên năm 1990 tại chùa Wat Suan Mokkh ở miền nam Thái Lan. Năm 1994, Sư đến Sri Lanka xuất gia với ngài Hòa thượng Balangoda Ananda Maitreya, và sau đó thọ giới tỳ-khưu với Hòa thượng Pemasiri vào năm 2007 trong hệ phái Shwegyin Nikaya (bắt nguồn từ hệ phái chính Amarapura Nikaya). Tuy nhiên, Bhikkhu Bodhi là vị thầy chính. Sư hoàn tất chương trình tiến sĩ tại University of Peradeniya năm 2000 và luận án tiến sĩ được xuất bảm thành sách với tựa đề “Satipaṭṭhāna, the Direct Path to Realization”. Cuốn sách được nhiều người khen ngợi, đã được tái bản nhiều lần và dịch sang 10 thứ tiếng. Bản tiếng Việt được Cư sĩ Nguyễn Văn Ngân dịch, với tựa đề “Satipaṭṭhāna, Con đường thẳng tới giác ngộ”, xuất bản năm 2017. Hiện nay, Sư là giáo sư Phật học tại Trung tâm Phật học của Đại học Hamburg, Đức quốc (Centre for Buddhist Studies, University of Hamburg), Đại học Phật giáo Pháp Cổ, Đài Loan (Dharma Drum Buddhist College, Taiwan). Sư là đồng sáng lập viên Nhóm Nghiên cứu A-hàm (Āgama Research Group) và là giảng sư của Trung tâm Phật học Barre, Hoa Kỳ (Barre Center for Buddhist Studies). Hiện nay (2018), ngài trú và tịnh tu tại Trung tâm Phật học Barre, bang Massachusetts, Hoa Kỳ. Các nguồn thông tin: 1) Wikipedia:
https://en.wikipedia.org/wiki/Bhikkhu_Analayo ------------------ Giáo sư AMING TU Giáo sư Aming Tu (杜正民 - Đỗ Chính Dân, Du Zhengmin) là một sáng lập viên của hội CBETA (Chinese Buddhist Electronic Text Association, Hiệp hội Kinh văn Điện tử Phật giáo Trung Hoa) và đã từng là Giám đốc Điều hành của Hội (1998-2006). Ông là giáo sư Tin học và đã có nhiều đóng góp quan trọng trong dự án số hóa Tam tạng Kinh điển tiếng Hán. Năm 2005, ông bị bệnh và được chẩn đoán là bị bệnh ung thư gan, phải vào bệnh viện 10 ngày và trải qua một cơn đau đớn rất khắc nghiệt. Sau khi rời bệnh viện, ông tìm đọc các bản kinh trong Hán tạng và tạng Pali có ghi lại các lời dạy của Đức Phật và các vị đại đệ tử để đối phó với cơn đau, bệnh tật và cái chết. Ông suy ngẫm và thực hành theo đó, và nhờ vậy, đã giúp ông rất nhiều để chịu đựng các cơn đau và viễn ảnh của cái chết không thể tránh được. Ông thảo luận các vấn đề nầy với tỳ-khưu Anālayo – lúc ấy, Sư đang nghiên cứu và dịch các bản kinh A-hàm. Ông đề nghị Sư khai triển thành một cuốn sách với nội dung về phương cách đối diện với bệnh tật và cái chết, dựa theo các bản kinh của Phật giáo Sơ kỳ – bộ A-hàm trong Hán tạng và Nikāya trong tạng Pāli, cùng với những hướng dẫn thực tế để hành thiền, giúp hành giả có đủ nghị lực, hiểu biết và tỉnh thức để trực diện với các vấn đề tất yếu đó của kiếp người. Sau khi Sư hoàn tất viết cuốn sách, Gs Tu đọc bản thảo, rất hoan hỷ và viết Lời Bạt, đề cập đến nguyên nhân ra đời của cuốn sách. Cuốn sách được xuất bản vào đầu năm 2017 và được nhiều vị thiền sư, học giả khen ngợi, tán thán. Một điều buồn là Gs Aming Tu không thấy được ấn bản chính thức. Ông qua đời vào tháng 11 năm 2016. * * * |
[ Home ]
25-05-2020