Đàm luận Phật Pháp
Tỉnh thức trước bệnh tật và cái
chết
07. CHỊU ĐỰNG ĐAU ĐỚN TRONG TỈNH THỨC
- 307 -
Lời Phật dạy trong kinh văn nguyên
thủy
VII CHỊU ĐỰNG ĐAU
ĐỚN TRONG TỈNH THỨC VII.1 GIỚI THIỆU Bài kinh được dịch trong chương này ghi lại một dịp khi chân Đức
Phật bị thương và Ngài phải chịu đau đớn dữ dội. Trong bài kinh còn
có các thiên tử bình luận ca ngợi về cách thức mẫu mực mà Ngài phải
đối mặt với cơn đau. Sự xuất hiện của các vị thiên tử là một đặc điểm thường thấy
trong các bài kinh nguyên thủy, trong đó ghi lại những câu chuyện mà
Đức Phật và các vị đệ tử nổi tiếng gặp gỡ đàm luận với các thiên tử.
Trái ngược với một vài khuynh hướng ngày nay cho rằng sự xuất hiện
của các thiên tử chỉ là biểu hiện những ý nghĩ phân vân trong tâm
trí của nhân vật chính trong câu chuyện, để thông hiểu rõ ràng ý
nghĩa của các bài kinh, chúng ta cần phải thừa nhận rằng dựa theo
kinh văn, Đức Phật và các vị đệ tử đã tin và khẳng định sự hiện hữu
của các thiên tử đó. Điều này không có nghĩa là người ta cần phải tin tuyệt đối vào sự
hiện hữu của các thiên tử để có thể hưởng được lợi ích từ bài kinh
có đề cập đến các vị ấy. Tuy nhiên, điều đó có nghĩa, để hiểu đúng
thông điệp được đưa ra trong bài kinh, tốt nhất là xem xét lời nói
của một thiên tử theo cách tương tự như xem xét lời nói của các nhân
vật chính được mô tả trong bài kinh. Trong trường hợp của bài kinh này, những lời bình luận của các
thiên tử về sự chịu đựng nỗi đau của Đức Phật cần được đọc giống như
chúng ta đọc về lời tuyên bố qua các câu kệ của một tỳ-khưu vô danh
ở phần cuối bài kinh của Tạp A-hàm đã trình bày trong Chương 5 (SĀ
727), trong đó vị ấy bình luận về tác dụng của việc trì tụng các chi
phần đưa đến giác ngộ khi Đức Phật bị bệnh, giải thích rằng việc trì
tụng đó làm cho Đức Phật trải nghiệm lại hương vị của sự giác ngộ.
Tương tự như vậy ở bài kinh trong chương này, thông tin về cách Đức
Phật đối phó cơn đau do thương tích được những người chung quanh nói
ra, ở đây, những người này là các thiên tử thay vì là chúng sinh
trong cõi người. Bài kinh dưới đây được dịch từ bộ sưu tập Tạp A-hàm thứ hai,
không còn toàn vẹn trong Hán tạng, gọi là Biệt dịch Tạp A-hàm (T
100). Bài kinh tương đương cũng được tìm thấy trong Tương ưng bộ (SN
1.38) và bộ sưu tập chính của Tạp A-hàm (SĀ 1289, T 99). Bộ Tạp
A-hàm chính này (T 99) có những bài kinh đa số được trích dịch trong
cuốn sách. VII.2 KINH VĂN
Tôi nghe như vầy. Một thời, Phật ở tại hang Thất Diệp
(Sattapaṇṇi) trên núi Tì-bà-la (Vebhāra). Chân Phật bị cây Khư-đà-la
đâm trúng rất đau đớn. Như Lai lặng yên chịu đựng. Tuy cơn đau dồn
dập xảy đến, Ngài vẫn không nói năng gì. Vào lúc đó, có tám vị thiên tử dung mạo đoan chánh đến gặp Phật.
Trong số đó, một vị nói: “Sa-môn Cồ Đàm quả thật là bậc Sư tử của
nhân loại. Tuy chịu cảm thọ đau đớn, vẫn không bỏ niệm giác, tâm
không bị phiền não, không thay đổi. Nếu có người nào phỉ báng Ngài,
bậc Sư tử của nhân loại, người ấy quả là rất ngu si”. Vị thiên tử thứ hai nói: “Sa-môn Cồ Đàm quả thật là bậc Long
tượng của nhân loại. Tuy chịu cảm thọ đau đớn, vẫn không bỏ niệm
giác, tâm không bị phiền não, không thay đổi. Nếu có người nào phỉ
báng Ngài, bậc Long tượng của nhân loại, người ấy quả là rất ngu
si”. Vị thiên tử thứ ba nói: “Sa-môn Cồ Đàm quả thật là bậc Như thiện
thừa ngưu của nhân loại. Tuy chịu cảm thọ đau đớn, vẫn không bỏ niệm
giác, tâm không bị phiền não, không thay đổi. Vị thiên tử thứ tư nói: “Sa-môn Cồ Đàm quả thật là bậc Như thiện
thừa mã của nhân loại. Tuy chịu cảm thọ đau đớn, vẫn không bỏ niệm
giác, tâm không bị phiền não, không thay đổi. Nếu có người nào phỉ
báng Ngài, bậc Như thiện thừa mã của nhân loại, người ấy quả là rất
ngu si”. Vị thiên tử thứ năm nói: “Sa-môn Cồ Đàm quả thật là bậc Ngưu
vương của nhân loại. Tuy chịu cảm thọ đau đớn, vẫn không bỏ niệm
giác, tâm không bị phiền não, không thay đổi. Nếu có người nào phỉ
báng Ngài, bậc Ngưu vương của nhân loại, người ấy quả là rất ngu
si”. Vị thiên tử thứ sáu nói: “Sa-môn Cồ Đàm quả thật là bậc Vô thượng
trượng phu của nhân loại. Tuy chịu cảm thọ đau đớn, vẫn không bỏ
niệm giác, tâm không bị phiền não, không thay đổi. Nếu có người nào
phỉ báng Ngài, bậc Trượng phu vô thượng của nhân loại, người ấy quả
là rất ngu si”. Vị thiên tử thứ bảy nói: “Sa-môn Cồ Đàm quả thật là bậc Liên hoa
của nhân loại. Tuy chịu cảm thọ đau đớn, vẫn không bỏ niệm giác, tâm
không bị phiền não, không thay đổi. Nếu có người nào phỉ báng Ngài,
bậc Liên hoa của nhân loại, người ấy quả là rất ngu si”. Vị Thiên tử thứ tám nói: “Sa-môn Cồ Đàm như đóa hoa sen trắng
(phân-đà-lợi, puṇḍarīka). Hãy xem thiền tịnh của Ngài, đạt định cực
tốt, không kiêu căng mà cũng không quỵ lụy. Ngài an định vì đã giải
thoát. Đã giải thoát nên Ngài an định”. Sau đó, vị Thiên tử này nói lên bài kệ: “Tâm đó chưa thanh tịnh Sau khi nói xong, tám vị Thiên tử đảnh lễ dưới chân Phật, rồi trở
về trú xứ. ---------- *-----*
Tôi nghe như vầy. Một thời, Đức Phật ở trong hang Thất Diệp, chỗ
của quỷ thần Kim-bà-la, nơi núi Kim-bà-la (Vebhāra), tại thành Vương
xá. Bấy giờ, Thế Tôn vừa bị cây thương vàng [kim thương] đâm chân
chưa bao lâu, nên khi cử động thân thể còn cảm thấy đau đớn; nhưng
Ngài xả tâm chánh trí, chánh niệm, kham nhẫn tự an, không có tưởng
thoái thất. Khi ấy có tám vị Thiên tử sơn thần tự nghĩ: ‘Hôm nay Thế
Tôn đang ở trong thất đá chỗ của quỷ thần núi Kim-bà-la tại thành
Vương xá. Ngài bị cây thương vàng đâm chân, cử động thấy đau, nhưng
Ngài có thể xả tâm, chánh niệm, chánh trí, kham nhẫn tự an, không có
tưởng thoái thất. Chúng ta phải đến tán thán trước Ngài.’ Nghĩ rồi,
đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân, ngồi lui qua một bên. Vị Thiên thần thứ nhất nói kệ tán thán: Sa-môn Cù-đàm, Thiên tử thứ hai lại tán thán: Bậc Đại sĩ đại long, Thiên tử thứ ba lại tán thán: Sa-môn Cù-đàm này, Thiên tử thứ tư lại tán thán: Người nào nghe lời nói Thiên tử thứ năm lại nói kệ: Quán định, tam-muội kia, Thiên tử thứ sáu lại nói kệ: Dù trải năm trăm năm, Thiên tử thứ bảy lại nói kệ: Vì bị dục bức bách, Thiên tử thứ tám lại nói kệ: Tâm trụ dục kiêu mạn, Sau khi tám Thiên tử sơn thần tán thán xong, đảnh lễ sát chân
Phật, liền biến mất. ---------- VII.3 THẢO LUẬN Tám vị thiên tử trong bài kinh rất cảm hứng khi thấy khả năng của
Đức Phật chịu đựng nỗi đau và các vị ấy thốt lên nhưng lời thán phục
bằng nhiều so sánh khác nhau. Những so sánh này liên quan đến các
loài thú vật, mà trong tư tưởng Ấn Độ cổ đại biểu hiện những phẩm
chất tốt đẹp mẫu mực và cũng đề cập đến hoa sen, truyền tải ý tưởng
vươn lên trên mọi ràng buộc và tham ái của thế gian. Thiên tử cuối
cùng so sánh sự điềm tĩnh của Đức Phật với những gì mà các đạo sĩ
bà-la-môn thời đó xem như là thành tựu tột đĩnh, cụ thể là thông
thạo kinh điển Vệ-đà thiêng liêng của họ. Tám vị thiên tử trong bài kinh rất cảm hứng khi thấy khả năng của
Đức Phật chịu đựng nỗi đau và các vị ấy thốt lên những lời thán phục
bằng nhiều cách so sánh khác nhau. Những so sánh này liên quan đến
các loài thú vật, mà trong tư tưởng Ấn Độ cổ đại biểu hiện những
phẩm chất tốt đẹp mẫu mực và cũng đề cập đến hoa sen, truyền tải ý
tưởng vươn lên trên mọi ràng buộc và tham ái của thế gian. Vị thiên
tử cuối cùng so sánh sự điềm tĩnh của Đức Phật với những gì mà các
đạo sĩ bà-la-môn thời đó xem như là thành tựu tột đĩnh, cụ thể là
thông thạo kinh điển Vệ-đà thiêng liêng của họ. Bên cạnh những so sánh trên, một chủ đề khác mà chư thiên đưa ra
là sự dại dột điên rồ khi nói xấu một người thành tựu như Đức Phật.
Theo cách này, dựa trên những so sánh được sử dụng bởi các thiên tử,
sự điềm tĩnh của Đức Phật khi đối mặt với nỗi đau mạnh mẽ cho thấy
Ngài là một hành giả rất thành đạt, chỉ có người ngu xuẩn ngớ ngẩn
mới nói xấu về Ngài. Những lời khen tặng của chư thiên đều dựa vào sự kiện Đức Phật
dùng niệm để chịu đựng cơn đau. Hai bài kinh tương đương đều ghi
nhận rằng, khi chân bị tổn thương, Đức Phật đã chịu đựng những cơn
đau mạnh mẽ bằng cách dựa vào niệm. Hai bài kinh không xác định rõ
ràng rằng đây là chi phần niệm trong thất giác chi, chỉ đề cập đến
niệm và hiểu biết rõ ràng (tỉnh giác). Mặc dù có sự khác biệt nhỏ
này, nhưng điểm chung của ba phiên bản là nhấn mạnh về tiềm năng của
niệm, sự tỉnh thức, để đối diện với cơn đau. Điều này rõ ràng được
coi là có ý nghĩa quan trọng đến mức cả một nhóm các vị thiên tử đều
ca ngợi thái độ gương mẫu của Đức Phật tỉnh thức đối mặt với nỗi
đau. Sự kiện Đức Phật chịu đựng nỗi đau trong bài kinh ở chương này bổ
sung cho sự kiện Ngài hồi phục sức khỏe khi nghe trì tụng về các chi
phần đưa đến giác ngộ – thất giác chi, được đề cập ngắn gọn trong
Chương 5. Sự kiện tương tự được thảo luận trong Chương 6 về ngài
Anuruddha, rõ ràng ngài đã chọn cách áp dụng niệm để đối mặt với cơn
đau hơn là nhập tâm vào thiền diệt thọ tưởng định. Trong trường hợp
của ngài Anuruddha, và thậm chí còn hơn thế nữa trong trường hợp của
Đức Phật, với khả năng đắc định, không thể cho rằng các ngài không
có khả năng an trú tâm vào các mức thiền định thâm sâu khi thân bị
đau đớn. Thật thế, Đức Phật đã được ghi nhận dễ dàng nhập vào diệt
thọ tưởng định khi sắp nhập diệt. Hơn nữa, trong bài kinh được dịch ở đây, thiên tử thứ tám lưu ý
rõ ràng rằng Đức Phật, mặc dù đang bị đau đớn, đạt định cực kỳ tốt.
Tương tự như vậy, trong bài kinh ở Tương ưng bộ (SN 1.38), thiên tử
thứ tám nói rằng Đức Phật có mức thiền định tốt, và trong phiên bản
Tạp A-hàm (SĀ 1289), đó là vị thiên tử thứ năm tuyên bố rằng Đức
Phật có mức định tam-muội cao. Do đó, khả năng mà Đức Phật đắc định
vào dịp này là điểm chung giữa các bài kinh. Sự kiện mà Đức Phật và ngài Anuruddha lựa chọn áp dụng niệm thay
vì an trú tâm vào diệt thọ tưởng định để cắt bỏ nỗi đau cho chúng ta
thấy ngay cả những hành giả thành tựu cao tột cũng xem niệm là một
phương cách thích hợp để đối mặt với các cơn đau đớn mạnh mẽ. Đối mặt với nỗi đau với niệm cung cấp một lựa chọn mạnh mẽ mở ra
cho bất kỳ ai sẵn sàng thử thực hành, mà không cần phải đạt đến mức
thiền định thâm sâu, không giống như việc đắc diệt thọ tưởng định.
Một bài kinh trong Tương ưng bộ (SN 47.4) và trong Tạp A-hàm (SĀ
621) ghi lại lời dạy rõ ràng của Đức Phật rằng các tu sĩ mới xuất
gia phải lập tức được hướng dẫn tu tập bốn pháp lập niệm (pháp hành
tứ niệm xứ). Điều này cho thấy rõ ràng việc thực hành bốn pháp lập
niệm không phải xem như chỉ dành cho các hành giả thành tựu cao, mà
phải được xem là đáng khen ngợi, khuyến khích ngay cả đối với những
người vừa bắt đầu vào con đường tu tập. Tiềm năng của niệm trong việc trợ giúp ngay cả những người không
có nhiều kinh nghiệm hành thiền để đối mặt với nỗi đau thể xác và
tinh thần đã được quảng bá trong thời gian gần đây, đặc biệt là
thông qua phát triển các chương trình Giảm Căng Thẳng Dựa Trên Niệm
(Mindfulness-Based Stress Reduction). Thiền sư cư sĩ Kabat-Zinn mô
tả các nguyên tắc chính về cách áp dụng niệm để giảm căng thẳng và
giúp đối mặt với nỗi đau như sau: [*] Đau đớn là một phần tự nhiên của kinh nghiệm sống. Khổ là
một trong nhiều phản ứng đối với nỗi đau ... khổ không phải lúc
nào cũng là từ cơn đau mà là cách chúng ta nhận thức và phản ứng
với nó quyết định mức độ khổ sở mà chúng ta sẽ trải qua. Và đó
là nỗi khổ mà chúng ta sợ nhất, không phải nỗi đau ... Một số thí nghiệm cổ điển với cơn đau cấp tính cho thấy
điều chỉnh cảm xúc là cách hiệu quả để giảm mức độ đau khi cơn
đau dữ dội và kéo dài hơn là cách giúp bạn lãng quên nó ... cảm
giác, cảm xúc và nhận thức hay khái niệm về cơn đau đớn có thể
được tách rời ra, có nghĩa là chúng có thể được nhận thức như là
các khía cạnh độc lập của trải nghiệm ... hiện tượng tách rời
này có thể cho chúng ta các mức độ tự do mới để nghỉ ngơi trong
tỉnh thức và đối phó với bất cứ điều gì phát sinh trong bất kỳ
hoặc cả ba lĩnh vực này theo một cách hoàn toàn khác, giảm thiểu
đáng kể những đau khổ đang trải nghiệm. ------------------------------------- [*] Kabat-Zinn 1990/2013: Full Catastrophe Living, Using the
Wisdom of Your Body and Mind to Face Stress, Pain, and Illness,
New York: Bantam Books. * * *
01-mucluc07.jpg
1179 * 898
02-caccoi.jpg
1243 * 881
Bhikkhu Anālayo, Mindfully facing disease and death (2017)
SĀ(2) 287
Bình Anson dịch, dựa theo bản tiếng Anh của Bhikkhu
Anālayo
Nếu có người nào phỉ báng Ngài, bậc Như thiện thừa ngưu của nhân
loại, người ấy quả là rất ngu si”.
Dù trải một trăm năm
Tinh thông năm Vệ-đà
Bị giới cấm trói buộc
Đắm chìm trong bể ái
Không qua được bờ kia”. [*]
[*] So với bản kinh trong Tạp A-hàm (SĀ 1289) và Tương ưng bộ (SN
1.38), có lẽ bản biệt dịch nầy không đầy đủ, thiếu mất các câu kệ
tương ứng [ND].
KIM THƯƠNG
Hòa thượng Thích Đức Thắng dịch
Sư tử giữa người;
Thân gặp thống khổ,
Kham nhẫn tự an.
Chánh trí chánh niệm,
Không hề thoái thất.
Bậc Đại sĩ ngưu vương;
Đại sĩ phu dũng lực,
Đại sĩ phu ngựa hay.
Đại sĩ phu thượng thủ,
Đại sĩ phu thù thắng.
Sĩ phu Phân-đà-lợi; [*]
Thân bị những thống khổ,
Mà vẫn hành tâm xả.
Trụ chánh trí, chánh niệm,
Kham nhẫn để tự an;
Mà không hề thoái thất.
Của Sa-môn Cù-đàm,
Sĩ phu Phân-đà-lợi,
Mà hiềm trái phản lại,
Người ấy sẽ khổ mãi,
Không được lợi ích nào.
Chỉ trừ người chân thật.
Khéo trụ nơi chánh thọ;
Giải thoát lìa các trần,
Không hiện cũng không ẩn.
Tâm kia trụ an ổn,
Mà được tâm giải thoát.
Tụng kinh Bà-la-môn;
Tinh cần tu khổ hạnh,
Không lìa trần giải thoát.
Ấy là hàng thấp kém,
Không qua được bờ kia.
Trì giới là trói buộc;
Dù dõng mãnh khổ hạnh,
Trải qua một trăm năm.
Tâm kia không giải thoát,
Không lìa các trần cấu;
Ấy là loại thấp kém,
Không qua đến bờ kia.
Không thể tự điều phục;
Không được định, tam-muội,
Chánh thọ của Mâu-ni.
Một mình ở rừng núi,
Tâm kia thường phóng dật;
Với quân ma chết kia,
Không qua được bờ kia.
[*] Hoa sen (puṇḍarīka) trong loài người
Biệt dịch Tạp A Hàm Kinh
(T 100) Tôi nghe như vầy. Một thời, Phật ở tại hang Thất Diệp
(Sattapaṇṇi) trên núi Tì-bà-la (Vebhāra). Chân Phật bị cây Khư-đà-la
đâm trúng rất đau đớn. Như Lai lặng yên chịu đựng. Tuy cơn đau dồn
dập xảy đến, Ngài vẫn không nói năng gì. Vào lúc đó, có tám vị thiên tử dung mạo đoan chánh đến gặp Phật.
Trong số đó, một vị nói: “Sa-môn Cồ Đàm quả thật là bậc Sư tử của
nhân loại. Tuy chịu cảm thọ đau đớn, vẫn không bỏ niệm giác, tâm
không bị phiền não, không thay đổi. Nếu có người nào phỉ báng Ngài,
bậc Sư tử của nhân loại, người ấy quả là rất ngu si”. Vị thiên tử thứ hai nói: “Sa-môn Cồ Đàm quả thật là bậc Long
tượng của nhân loại. Tuy chịu cảm thọ đau đớn, vẫn không bỏ niệm
giác, tâm không bị phiền não, không thay đổi. Nếu có người nào phỉ
báng Ngài, bậc Long tượng của nhân loại, người ấy quả là rất ngu
si”. Vị thiên tử thứ ba nói: “Sa-môn Cồ Đàm quả thật là bậc Như thiện
thừa ngưu của nhân loại. Tuy chịu cảm thọ đau đớn, vẫn không bỏ niệm
giác, tâm không bị phiền não, không thay đổi. Vị thiên tử thứ tư nói: “Sa-môn Cồ Đàm quả thật là bậc Như thiện thừa mã của nhân loại. Tuy chịu cảm thọ đau đớn, vẫn không bỏ niệm giác, tâm không bị phiền não, không thay đổi. Nếu có người nào phỉ báng Ngài, bậc Như thiện thừa mã của nhân loại, người ấy quả là rất ngu si”. Vị thiên tử thứ năm nói: “Sa-môn Cồ Đàm quả thật là bậc Ngưu vương của nhân loại. Tuy chịu cảm thọ đau đớn, vẫn không bỏ niệm giác, tâm không bị phiền não, không thay đổi. Nếu có người nào phỉ báng Ngài, bậc Ngưu vương của nhân loại, người ấy quả là rất ngu si”. Vị thiên tử thứ sáu nói: “Sa-môn Cồ Đàm quả thật là bậc Vô thượng trượng phu của nhân loại. Tuy chịu cảm thọ đau đớn, vẫn không bỏ niệm giác, tâm không bị phiền não, không thay đổi. Nếu có người nào phỉ báng Ngài, bậc Trượng phu vô thượng của nhân loại, người ấy quả là rất ngu si”. Vị thiên tử thứ bảy nói: “Sa-môn Cồ Đàm quả thật là bậc Liên hoa của nhân loại. Tuy chịu cảm thọ đau đớn, vẫn không bỏ niệm giác, tâm không bị phiền não, không thay đổi. Nếu có người nào phỉ báng Ngài, bậc Liên hoa của nhân loại, người ấy quả là rất ngu si”. Vị Thiên tử thứ tám nói: “Sa-môn Cồ Đàm như đóa hoa sen trắng (phân-đà-lợi, puṇḍarīka). Hãy xem thiền tịnh của Ngài, đạt định cực tốt, không kiêu căng mà cũng không quỵ lụy. Ngài an định vì đã giải thoát. Đã giải thoát nên Ngài an định”. Sau đó, vị Thiên tử này nói lên bài kệ:
Sau khi nói xong, tám vị Thiên tử đảnh lễ dưới chân Phật, rồi trở về trú xứ. ---------- Tạp A-hàm (SĀ 1289) Tôi nghe như vầy. Một thời, Đức Phật ở trong hang Thất Diệp, chỗ của quỷ thần Kim-bà-la, nơi núi Kim-bà-la (Vebhāra), tại thành Vương xá. Bấy giờ, Thế Tôn vừa bị cây thương vàng [kim thương] đâm chân chưa bao lâu, nên khi cử động thân thể còn cảm thấy đau đớn; nhưng Ngài xả tâm chánh trí, chánh niệm, kham nhẫn tự an, không có tưởng thoái thất. Khi ấy có tám vị Thiên tử sơn thần tự nghĩ: ‘Hôm nay Thế Tôn đang ở trong thất đá chỗ của quỷ thần núi Kim-bà-la tại thành Vương xá. Ngài bị cây thương vàng đâm chân, cử động thấy đau, nhưng Ngài có thể xả tâm, chánh niệm, chánh trí, kham nhẫn tự an, không có tưởng thoái thất. Chúng ta phải đến tán thán trước Ngài.’ Nghĩ rồi, đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân, ngồi lui qua một bên. Vị Thiên thần thứ nhất nói kệ tán thán:
Thiên tử thứ hai lại tán thán:
Thiên tử thứ ba lại tán thán:
Thiên tử thứ tư lại tán thán:
Thiên tử thứ năm lại nói kệ:
Thiên tử thứ sáu lại nói kệ:
Thiên tử thứ bảy lại nói kệ:
Thiên tử thứ tám lại nói kệ:
Sau khi tám Thiên tử sơn thần tán thán xong, đảnh lễ sát chân Phật, liền biến mất. ---------- SN 1.38 Tôi nghe như vầy. Một thời Thế Tôn ở tại Rājagaha (Vương Xá), tại Maddakucchi (vườn Nai). Lúc bấy giờ, chân Thế Tôn bị miếng đá bể đâm phải. Nhiều cảm thọ mãnh liệt dồn dập xảy ra. Thân cảm thọ khổ đau, nhói đau, nhức nhối, khốc liệt, không khoái tâm, không thích thú. Nhưng Thế Tôn chịu đựng, niệm và tỉnh giác, không phiền não. Rồi Thế Tôn cho trải áo saṅghāṭi (tăng-già-lê) xếp tư lại, nằm xuống phía hông bên phải như dáng điệu con sư tử, chân đặt trên chân, niệm và tỉnh giác. Rồi bảy trăm quần tiên Satullapa [*] ở cõi trời Ba Mươi Ba, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Maddakucchi, đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên, một vị Thiên đọc lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn: – Sa-môn Gotama thật là bậc Long tượng. Và với tư cách Long tượng, khi các cảm thọ nơi thân khởi lên, khổ đau, nhói đau, nhức nhối, khốc liệt, không khoái tâm, không thích thú, Ngài chịu đựng, niệm và tỉnh giác, không phiền não. Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn: – Sa-môn Gotama thật là bậc Sư tử. Và với tư cách Sư tử, khi các cảm thọ nơi thân khởi lên, khổ đau, nhói đau, nhức nhối, khốc liệt, không khoái tâm, không thích thú, Ngài chịu đựng, niệm và tỉnh giác, không phiền não. Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn: – Sa-môn Gotama thật là Lương tuấn mã. Và với tư cách Lương tuấn mã, khi các cảm thọ nơi thân khởi lên, khổ đau, nhói đau, nhức nhối, khốc liệt, không khoái tâm, không thích thú, Ngài chịu đựng, niệm và tỉnh giác, không phiền não. Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn: – Sa-môn Gotama thật là bậc Ngưu vương. Và với tư cách Ngưu vương, khi các cảm thọ nơi thân khởi lên, khổ đau, nhói đau, nhức nhối, khốc liệt, không khoái tâm, không thích thú, Ngài chịu đựng, niệm và tỉnh giác, không phiền não. Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn: – Sa-môn Gotama thật là bậc Nhẫn nại Kiên cường. Và với tư cách bậc Nhẫn nại Kiên cường, khi các cảm thọ nơi thân khởi lên, khổ đau, nhói đau, nhức nhối, khốc liệt, không khoái tâm, không thích thú, Ngài chịu đựng, niệm và tỉnh giác, không phiền não. Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn: – Sa-môn Gotama thật là một bậc Khéo điều phục. Và với tư cách là một bậc Khéo điều phục, khi các cảm thọ nơi thân khởi lên, khổ đau, nhói đau, nhức nhối, khốc liệt, không khoái tâm, không thích thú, Ngài chịu đựng, niệm và tỉnh giác, không phiền não. Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn: – Hãy xem Ngài khéo tu tập thiền định và tâm đã giải thoát, không có nổi lên, không có chìm xuống, không bị ngăn trở hay khống chế bởi bất kỳ áp lực nào. Ai có thể nghĩ mình đi ngược lại một bậc Long tượng như vậy, một bậc Sư tử như vậy, một bậc Lương tuấn mã như vậy, một bậc Ngưu vương như vậy, một bậc Nhẫn nại Kiên cường như vậy, một bậc Khéo điều phục như vậy, trừ phi là một người mù?
------------------------------------- Phàm nhân lẫn thánh nhân đều tu tập bốn pháp lập niệm (bốn niệm xứ) SN 47.4 Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú giữa dân chúng Kosala tại một làng bà-la-môn tên là Sālā. Tại đó, Thế Tôn nói với các tỳ-khưu như sau: “Này các tỳ-khưu, những tỳ-khưu nào mới thọ giới, xuất gia chẳng bao lâu, mới đến trong Pháp và Luật này; những tỳ-khưu ấy cần phải được các ông khích lệ, hướng dẫn, an trú tu tập bốn lập niệm. Thế nào là bốn? “(Các ông nên hướng dẫn họ:) ‘Hãy đến, này các hiền giả, hãy trú, quán thân trong thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chuyên chú, với tâm thanh tịnh, định tĩnh, nhất tâm, để biết như thật đối với thân. Hãy trú, quán thọ trong các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chuyên chú, với tâm thanh tịnh, định tĩnh, nhất tâm để biết như thật đối với các thọ. Hãy trú, quán tâm trong tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chuyên chú, với tâm thanh tịnh, định tĩnh, nhất tâm, để biết như thật đối với tâm. Hãy trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chuyên chú, với tâm thanh tịnh, định tĩnh, nhất tâm, để biết như thật đối với các pháp’. “Này các tỳ-khưu, có những tỳ-khưu hữu học, tâm chưa thành tựu, đang sống cần cầu vô thượng an ổn, khỏi các khổ ách. Các vị ấy cũng trú, quán thân trong thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chuyên chú, với tâm thanh tịnh, định tĩnh, nhất tâm để liễu tri về thân. Các vị ấy cũng trú, quán thọ trong các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chuyên chú, với tâm thanh tịnh, định tĩnh, nhất tâm để liễu tri về thọ. Các vị ấy trú, quán tâm trong tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chuyên chú, với tâm thanh tịnh, định tĩnh, nhất tâm để liễu tri về tâm. Các vị ấy trú, quán pháp trong các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chuyên chú, với tâm thanh tịnh, định tĩnh, nhất tâm để liễu tri về các pháp. “Này các tỳ-khưu, có những tỳ-khưu là bậc A-la-hán, các lậu đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, hoàn toàn giải thoát với tuệ giác. Các vị ấy cũng trú, quán thân trong thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chuyên chú, với tâm thanh tịnh, định tĩnh, nhất tâm, xả ly đối với thân. Các vị ấy cũng trú, quán thọ trong các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chuyên chú, với tâm thanh tịnh, định tĩnh, nhất tâm, xả ly đối với các thọ. Các vị ấy trú, quán tâm trong tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chuyên chú, với tâm thanh tịnh, định tĩnh, nhất tâm, xả ly đối với tâm. Các vị ấy trú, quán pháp trong các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chuyên chú, với tâm thanh tịnh, định tĩnh, nhất tâm, xả ly đối với các pháp. “Này các tỳ-khưu, những tỳ-khưu nào mới thọ giới, xuất gia chẳng bao lâu, mới đến trong Pháp và Luật này; những tỳ-khưu ấy cần phải được các ông khích lệ, hướng dẫn, an trú tu tập bốn lập niệm này”. * SĀ 621 * * * |
Tỉnh thức
trước bệnh tật và cái chết Bhikkhu Analayo (2017). Mindfully Facing Disease and Death: Compassionate Advice from Early Buddhist Texts. MỤC LỤC TỔNG QUÁT
CÁC CHỦ ĐỀ GIÁO THUYẾT TRONG MỖI CHƯƠNG
* * * |
Bhikkhu ANALAYO (1962-) Centre for Buddhist Studies, University of Hamburg, Germany Tỳ-khưu Analayo sinh năm 1962 tại Đức. Sư xuất gia gieo duyên năm 1990 tại chùa Wat Suan Mokkh ở miền nam Thái Lan. Năm 1994, Sư đến Sri Lanka xuất gia với ngài Hòa thượng Balangoda Ananda Maitreya, và sau đó thọ giới tỳ-khưu với Hòa thượng Pemasiri vào năm 2007 trong hệ phái Shwegyin Nikaya (bắt nguồn từ hệ phái chính Amarapura Nikaya). Tuy nhiên, Bhikkhu Bodhi là vị thầy chính. Sư hoàn tất chương trình tiến sĩ tại University of Peradeniya năm 2000 và luận án tiến sĩ được xuất bảm thành sách với tựa đề “Satipaṭṭhāna, the Direct Path to Realization”. Cuốn sách được nhiều người khen ngợi, đã được tái bản nhiều lần và dịch sang 10 thứ tiếng. Bản tiếng Việt được Cư sĩ Nguyễn Văn Ngân dịch, với tựa đề “Satipaṭṭhāna, Con đường thẳng tới giác ngộ”, xuất bản năm 2017. Hiện nay, Sư là giáo sư Phật học tại Trung tâm Phật học của Đại học Hamburg, Đức quốc (Centre for Buddhist Studies, University of Hamburg), Đại học Phật giáo Pháp Cổ, Đài Loan (Dharma Drum Buddhist College, Taiwan). Sư là đồng sáng lập viên Nhóm Nghiên cứu A-hàm (Āgama Research Group) và là giảng sư của Trung tâm Phật học Barre, Hoa Kỳ (Barre Center for Buddhist Studies). Hiện nay (2018), ngài trú và tịnh tu tại Trung tâm Phật học Barre, bang Massachusetts, Hoa Kỳ. Các nguồn thông tin: 1) Wikipedia:
https://en.wikipedia.org/wiki/Bhikkhu_Analayo ------------------ Giáo sư AMING TU Giáo sư Aming Tu (杜正民 - Đỗ Chính Dân, Du Zhengmin) là một sáng lập viên của hội CBETA (Chinese Buddhist Electronic Text Association, Hiệp hội Kinh văn Điện tử Phật giáo Trung Hoa) và đã từng là Giám đốc Điều hành của Hội (1998-2006). Ông là giáo sư Tin học và đã có nhiều đóng góp quan trọng trong dự án số hóa Tam tạng Kinh điển tiếng Hán. Năm 2005, ông bị bệnh và được chẩn đoán là bị bệnh ung thư gan, phải vào bệnh viện 10 ngày và trải qua một cơn đau đớn rất khắc nghiệt. Sau khi rời bệnh viện, ông tìm đọc các bản kinh trong Hán tạng và tạng Pali có ghi lại các lời dạy của Đức Phật và các vị đại đệ tử để đối phó với cơn đau, bệnh tật và cái chết. Ông suy ngẫm và thực hành theo đó, và nhờ vậy, đã giúp ông rất nhiều để chịu đựng các cơn đau và viễn ảnh của cái chết không thể tránh được. Ông thảo luận các vấn đề nầy với tỳ-khưu Anālayo – lúc ấy, Sư đang nghiên cứu và dịch các bản kinh A-hàm. Ông đề nghị Sư khai triển thành một cuốn sách với nội dung về phương cách đối diện với bệnh tật và cái chết, dựa theo các bản kinh của Phật giáo Sơ kỳ – bộ A-hàm trong Hán tạng và Nikāya trong tạng Pāli, cùng với những hướng dẫn thực tế để hành thiền, giúp hành giả có đủ nghị lực, hiểu biết và tỉnh thức để trực diện với các vấn đề tất yếu đó của kiếp người. Sau khi Sư hoàn tất viết cuốn sách, Gs Tu đọc bản thảo, rất hoan hỷ và viết Lời Bạt, đề cập đến nguyên nhân ra đời của cuốn sách. Cuốn sách được xuất bản vào đầu năm 2017 và được nhiều vị thiền sư, học giả khen ngợi, tán thán. Một điều buồn là Gs Aming Tu không thấy được ấn bản chính thức. Ông qua đời vào tháng 11 năm 2016. * * * |
[ Home ]
11-05-2020