Đàm luận Phật Pháp
Tỉnh thức trước bệnh tật và cái
chết
06. GIẢM ĐAU TRONG TỈNH THỨC
- 306 -
Lời Phật dạy trong kinh văn nguyên
thủy
VI GIẢM
ĐAU TRONG TỈNH THỨC VI.1 GIỚI THIỆU Nhân vật chính của bài kinh trong chương này là về một vị đệ tử
nổi tiếng khác của Đức Phật tên là Anuruddha (A-na-luật,
A-nậu-lâu-đà). Trong các bài kinh nguyên thủy, ngài Anuruddha được
ghi lại như là một thiền giả thành tựu, đặc biệt xuất sắc trong số
các đệ tử của Đức Phật đạt được một khả năng siêu thường gọi là mắt
thần hay thiên nhãn thông (AN 1.14 và EĀ 4.2). Thiên nhãn thông, dựa
trên mức độ thành tựu tâm tập trung cao độ, là khả năng thấy được
những gì ở xa, kể cả các cõi giới hiện hữu trong vũ trụ Phật giáo.
Kinh Naḷakapāna trong Trung bộ (MN 68) và bài kinh tương đương
trong Trung A-hàm (MĀ 77) ghi lại khi ngài Anuruddha vừa xuất gia
cùng với ngài Nandiya và Kimbila, cả hai vị nầy cũng được đề cập
cùng tu tập với ngài Anuruddha ở một dịp khác trong kinh Tùy Phiền
Não (Upakkilesa-sutta, MN 128, MĀ 72), nhận được những lời chỉ dạy
của Đức Phật để đắc được mức định thâm sâu. Điều này cho thấy trong
những năm đầu tiên của đời xuất gia, ngài Anuruddha chung sống với
hai ngài Nandiya và Kimbila. Tiểu kinh Rừng Sừng Bò (Cūḷagosea-sutta, MN 31) và bài kinh tương
đương trong Tăng nhất A-hàm (EĀ 24.8) ghi lại một dịp khác khi ba vị
này cùng sống với nhau, ngài Anuruddha báo cáo với Đức Phật về sự
thành công của cả nhóm trong công phu hành thiền đắc định thâm sâu,
đạt đến mức “diệt thọ tưởng định”. Điều này có nghĩa là khả năng đạt
đến trạng thái không còn thể nghiệm bất kỳ một cảm giác nào. Trong bài kinh ở chương này, ngài Anuruddha không còn chung sống
với ngài Nandiya và Kimbila. Tuy nhiên, sự kiện ngài được một nhóm
các vị tỳ-khưu đến thăm viếng chứng tỏ bây giờ ngài đã nổi tiếng,
được nhiều người biết đến. Điều này cho thấy có lẽ câu chuyện xảy ra
trong khoảng thời kỳ sau trong đời tu của ngài, khi ngài đã đắc được
các mức định tâm thâm sâu mô tả trong tiểu kinh Rừng Sừng Bò và kinh
tương đương. Chú giải Tăng chi bộ còn cho biết ngài có được thiên
nhãn thông, sau khi đắc tứ thiền, trong những mùa hạ đầu tiên sau
khi xuất gia (Mp I.191). Điều đáng chú ý ở đây là mặc dù có khả năng an trú trong diệt thọ
tưởng định, bài kinh cho thấy khi phải chịu đựng những đau đớn thể
xác, ngài Anuruddha đã không dùng khả năng này. Cách tiếp cận của
ngài là không ngăn chận cơn đau bằng cách đem tâm an trú vào mức
định không còn những cảm giác. Thay vào đó, ngài quyết định đối mặt
với cơn đau bằng niệm, tỉnh thức. Đây là mẫu mực về thái độ đúng đắn đối với cơn đau, là chỉ đối
mặt với nó bằng niệm. Bất cứ ai có một mức độ tu tập tối thiểu cũng
đều có thể đối mặt với cơn đau bằng niệm, không nhất thiết đòi hỏi
phải có các mức tâm định thâm sâu. Cách thức tiếp cận với các cơn
đau thể xác trong bài kinh có thể áp dụng chung cho nhiều người,
không phải chỉ dành riêng cho các hành giả có nhiều thành tựu. Một bài kinh khác trong Tương ưng bộ ghi lại câu chuyện ngài
Anuruddha chịu đựng nỗi đau với niệm (SN 52.10). Có hai bài kinh
tương đương được tìm thấy trong trong Tạp A-hàm (SĀ 540 và 541), bài
kinh đầu ghi lại khi ngài còn đang bị bệnh và bài kinh sau ghi lại
khi ngài khỏi bệnh. Bài kinh đầu (SĀ 540) được trình bày ở đây. Trong bài kinh, tình trạng bệnh của ngài Anuruddha được mô tả
theo công thức tiêu chuẩn về một căn bệnh nghiêm trọng. Trong
Tạp A-hàm, mô tả đó chỉ được ghi ra một lần trong bài kinh về một vị
tỳ-khưu khác – ngài Khemaka (SĀ 103), sẽ được trình bày trong Chương
11, và trong các bài kinh tiếp theo, tình trạng bệnh trầm trọng chỉ
được ghi vắn tắt và quy chiếu về bài kinh đầu tiên. Các ví dụ sống động trong công thức tiêu chuẩn trên nên được hiểu
như là các mô tả về tình trạng của bệnh, không phải là biểu hiện của
bất kỳ nỗi thống khổ của người bệnh. Rõ ràng đây là trong trường hợp
của ngài Anuruddha, bởi vì toàn bộ luận điểm chính của bài kinh là
ngài không bị áp đảo bởi cơn đau thể xác mà ngài trải qua. VI.2 KINH VĂN SỞ HOẠN (SĀ 540) Tôi nghe như vầy. Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Tôn giả A-na-luật (Anuruddha) đang ở tại
tinh xá Tòng lâm (rừng cây tùng), nước Xá-vệ, thân bị bệnh và đau
đớn. Lúc ấy, có một nhóm các tỳ-khưu đi đến chỗ Tôn giả A-na-luật. Sau
khi lễ phép chào hỏi, họ đứng qua một bên, thưa với Tôn giả
A-na-luật: “Thưa Tôn giả A-na-luật, bệnh của tôn giả nặng hay nhẹ, có chịu
đựng được không? Bệnh giảm dần dần, không tăng thêm chăng?” Tôn giả A-na-luật đáp: “Bệnh tôi không yên, thật là khó chịu đựng. Toàn thân đau đớn,
càng lúc nặng thêm, không bớt. Giống như người có nhiều sức mạnh bắt
lấy người yếu đuối, dùng dây trói chặt vào đầu cùng hai tay, rồi
siết chặt làm cho đau đớn vô cùng. Hiện nay sự đau đớn của thân tôi
còn hơn cả người kia nữa. “Giống như tên đồ tể dùng dao bén mổ bụng bò lấy nội tạng ra. Làm
sao con bò có thể chịu nổi sự đau đớn ở bụng? Hiện nay sự đau đớn ở
bụng tôi còn hơn cả sự đau đớn của con bò kia. “Giống như hai lực sĩ bắt một người yếu đuối treo lên trên lửa
rồi đốt hai chân người ấy. Hiện nay hai chân của tôi còn nóng hơn
hai chân của người kia. Bệnh tôi càng lúc nặng thêm, không bớt. “Dù thân tôi bị đau đớn như thế này, nhưng tôi vẫn chịu đựng
được, với chánh niệm, chánh tri.” Các tỳ-khưu hỏi tôn giả A-na-luật: “Tâm an trụ ở chỗ nào mà có thể chịu đựng được cái khổ lớn như
vậy với chánh niệm, chánh tri?” Tôn giả A-na-luật bảo các tỳ-khưu: “Tâm tôi trụ bốn niệm xứ nên thân thể dù có đau đớn, tôi cũng có
thể chịu đựng được với chánh niệm, chánh tri. Bốn niệm xứ ấy là gì? “Đó là niệm xứ quán thân trên nội thân, tinh cần, niệm, chánh
tri, điều phục tham ưu thế gian. Niệm xứ quán thân trên ngoại thân,
tinh cần, niệm, chánh tri, điều phục tham ưu thế gian. Niệm xứ quán
thân trên nội ngoại thân, tinh cần, niệm, chánh tri, điều phục tham
ưu thế gian. Niệm xứ quán thọ trên nội thọ, tinh cần, niệm, chánh tri, điều
phục tham ưu thế gian. Niệm xứ quán thọ trên ngoại thọ, tinh cần,
niệm, chánh tri, điều phục tham ưu thế gian. Niệm xứ quán thọ trên
nội ngoại thọ, tinh cần, niệm, chánh tri, điều phục tham ưu thế
gian. Niệm xứ quán tâm trên nội tâm, tinh cần, niệm, chánh tri, điều
phục tham ưu thế gian. Niệm xứ quán tâm trên ngoại tâm, tinh cần,
niệm, chánh tri, điều phục tham ưu thế gian. Niệm xứ quán tâm trên
nội ngoại tâm, tinh cần, niệm, chánh tri, điều phục tham ưu thế
gian. Niệm xứ quán pháp trên nội pháp, tinh cần, niệm, chánh tri, điều
phục tham ưu thế gian. Niệm xứ quán pháp trên ngoại pháp, tinh cần,
niệm, chánh tri, điều phục tham ưu thế gian. Niệm xứ quán pháp trên
nội ngoại pháp, tinh cần, niệm, chánh tri, điều phục tham ưu thế
gian. Đó gọi là trụ bốn niệm xứ, có thể chịu đựng tất cả mọi đau đớn
nơi thân, với chánh niệm, chánh tri.” Các vị tỳ-khưu cùng nhau bàn luận xong, tùy hỷ hoan hỷ, mỗi người
từ chỗ ngồi đứng dậy ra đi. VI.3 THẢO LUẬN Bài kinh Pāli và bài kinh trong Hán tạng đều nhấn mạnh về việc
ngài Anuruddha thực hành bốn pháp lập niệm, satipaṭṭhāna (tứ niệm
xứ): • quán thân, Thuật ngữ “pháp” (Pāli: dhamma, Sanskrit: dharma) có nhiều ý
nghĩa. Hai ý nghĩa nổi bật là: Pháp là lời dạy của Đức Phật và pháp
nói chung là những hiện tượng. Cả hai ý nghĩa này đều liên quan đến
sự lập niệm thứ tư, quán các pháp. Để đánh giá tốt hơn về tầm quan trọng của pháp trong bối cảnh của
lập niệm thứ tư, chúng ta có thể nghiên cứu so sánh bài kinh Lập
Niệm của Pāli (Satipaṭṭhāna-sutta, MN 10) và bài kinh tương đương
trong Trung A-hàm thuộc Hán tạng (kinh Niệm Xứ, MĀ 98) để tìm ra các
quan điểm hữu ích. Từ đó, mục đích chính của pháp lập niệm thứ tư
này – quán các pháp – dường như là sự tu dưỡng trạng thái tâm để
tiến đến giác ngộ. Theo cách này, quán các pháp liên kết trực tiếp
đến chủ đề của chương trước về bảy chi phần đưa đến giác ngộ – thất
giác chi. Thật vậy, phát triển thất giác chi là sự tu tập chung về
quán các pháp trong bản kinh Pāli và các bài kinh tương đương trong
Hán tạng. Tương tự như thế, nghiên cứu so sánh bài kinh Lập Niệm của Pāli
(Satipaṭṭhāna-sutta, MN 10) và bài kinh tương đương trong Trung
A-hàm thuộc Hán tạng cũng cho thấy những điểm tương đồng về pháp lập
niệm đầu tiên, niệm thân. Chủ yếu ở đây là nuôi dưỡng sự hiểu biết
về bản chất thật sự của cơ thể, nhất là tính bất mỹ hay bất tịnh,
tính trống rỗng của các phần tử tạo dựng, và tính tàn diệt của nó.
Như thế, hiểu biết về bản chất thực sự của cơ thể, nhận thức về
bản chất của các cảm thọ, nhận thức về bản chất của tâm trí, và vun
trồng các điều kiện tinh thần để tiến đến giác ngộ là các chủ đề
trung tâm của bốn pháp lập niệm. Theo bài kinh trong chương này, bốn
pháp này cùng cung hiến một điểm thuận lợi để đối mặt với cơn đau,
trong sự tỉnh thức – niệm, và sự hiểu biết rõ ràng – tỉnh giác. Xét
về các chủ đề trung tâm của bốn pháp lập niệm, khi đối mặt với bệnh
tật với niệm có thể giúp ta thấy được những hạn chế vốn có của cơ
thể, mà bản chất của nó là sẽ bị bệnh, không tránh khỏi. Đối mặt
tỉnh thức với bệnh tật giúp cho ta thấy rõ ràng sự thay đổi của các
cảm thọ và bản chất tối hậu chủa chúng là không thỏa mãn, và thậm
chí còn cho thấy phẩm chất tâm ta rõ ràng hơn khi phải đối mặt với
những trải nghiệm không mong muốn nhất: đó là nỗi đau đớn cùng tột
của thân thể. Từ đó, ngay cả căn bệnh nghiêm trọng cũng có thể trở
thành một cơ hội để ta trau dồi những phẩm chất và sự hiểu biết liên
quan tuệ giác, tất cả đều được xây dựng và hội tụ vào niệm, sự tỉnh
thức. Như đã đề cập trước đó, vai trò trung tâm của niệm là đặc biệt
đáng chú ý trong trường hợp của ngài Anuruddha. Câu chuyện về ngài
có ngụ ý rằng sống trong chánh niệm là một lựa chọn thích hợp hơn là
việc đưa tâm vào trong một trạng thái hoàn toàn cách ly với mọi cảm
thọ. Bài kinh cho thấy rõ ràng rằng các cảm thọ đau đớn mà ngài đang
trải qua không phải chỉ khó chịu đựng, mà càng lúc càng tăng lên,
một tình huống mà thông thường bệnh nhân chỉ muốn làm sao để thoát
ra. Tuy nhiên, đây không phải là phản ứng của ngài Anuruddha. Ý nghĩa của khía cạnh này trong bài kinh có thể thấy qua câu hỏi
của các tỳ-khưu khác khi viếng thăm ngài. Trong cả hai phiên bản,
các vị ấy đều hỏi ngài an trú tâm như thế nào để đối diện với cơn
đau đớn khốc liệt. Trong phiên bản của Tương ưng bộ, các vị ấy đặt
câu hỏi ngay khi gặp ngài. Dĩ nhiên, đây là một câu hỏi thông thường
khi người ta đến thăm một bệnh nhân có khả năng chịu đựng các cơn
bệnh trầm trọng. Ngay cả ngài Anuruddha cũng đặt câu hỏi tương tự
khi đến thăm một đệ tử cư sĩ, ghi trong một bài kinh khác sẽ được đề
cập ở Chương 8. Các vị tỳ-khưu trong trong bài kinh ở đây có lẽ đã
biết về khả năng hành thiền thâm sâu của ngài, cho nên họ muốn biết
ngài đã an trú trong tầng thiền-na nào để đối phó với cơn đau. Tuy
nhiên, ngài Anuruddha chọn việc thực hành bốn pháp lập niệm. Điều
này cho thấy năng lực của chánh niệm để sống với nỗi đau, hoàn toàn
nhận thức từng thời khắc của cơn đau như nó thật sự là như thế. Tôi
sẽ tiếp tục khai thác vai trò nầy của niệm liên quan đến cơn đau thể
xác trong hai chương tiếp theo. Trọng tâm trong tất cả các điều này là sức mạnh của niệm khi được
tu tập như một hình thức chú tâm đơn thuần ghi nhận vào bất kỳ biểu
hiện nào trong thời điểm hiện tại, thay vì phản ứng ngay lập tức với
nó. Hòa thượng Nyanaponika giải thích sức mạnh này như sau [*]: Giống như các cử động phản xạ tự động bảo vệ cơ thể, tâm
trí cũng cần tự bảo vệ tinh thần và đạo đức một cách nhanh
chóng. Sự tu tập về chú tâm đơn thuần cung cấp chức năng quan
trọng đó. … Hậu quả nghiêm trọng sẽ xảy ra nếu chỉ dựa vào suy tưởng:
chúng ta vội vã phản ứng vội vàng hoặc theo thói quen sau khi
nhận được một vài tín hiệu đầu tiên từ sự suy tưởng. Nhưng nếu
chúng ta dùng niệm lực để kiềm chế, tạm dừng mọi phản ứng, chỉ
để chú tâm đơn thuần, thì các tiến trình vật chất và tinh thần
đó ... sẽ không còn bị kéo vào vòng xoáy của tự ngã, [nhưng]
được phép hoạt động trước con mắt cảnh giác của niệm. ...
Bằng cách phát triển thói quen tạm dừng để chỉ chú tâm đơn
thuần, ta ngày càng trở nên dễ dàng hơn ... trong sự từ bỏ các
phản ứng vô dụng. ... Bằng cách kiềm chế việc làm rối tâm một cách không cần
thiết, những xung đột bên ngoài sẽ giảm đi và từ đó sẽ làm dịu
đi những căng thẳng bên trong do các xung đột ấy mang đến. [*] Nyanaponika Thera (1968, 1986). The Power of Mindfulness,
Kandy: Buddhist Publication Society. * * *
muc-luc06.jpg
1179 * 898
Bhikkhu Anālayo, Mindfully facing disease and death (2017)
Hòa thượng Thích Đức Thắng dịch Việt
Bình Anson hiệu đính, dựa theo bản Anh dịch của Bhikkhu Anālayo
• quán thọ,
• quán tâm,
• quán các pháp.
AN 1.188 Phẩm NGƯỜI TỐI THẮNG … 5. Này các tỳ-khưu, trong các vị đệ tử với thiên nhãn, tối thắng là Anuruddha. * EĀ 4.2 * SĀ 540 Tôi nghe như vầy. Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Tôn giả A-na-luật (Anuruddha) đang ở tại tinh xá Tòng lâm (rừng cây tùng), nước Xá-vệ, thân bị bệnh và đau đớn. Lúc ấy, có một nhóm các tỳ-khưu đi đến chỗ Tôn giả A-na-luật. Sau khi lễ phép chào hỏi, họ đứng qua một bên, thưa với Tôn giả A-na-luật: “Thưa Tôn giả A-na-luật, bệnh của tôn giả nặng hay nhẹ, có chịu đựng được không? Bệnh giảm dần dần, không tăng thêm chăng?” Tôn giả A-na-luật đáp: “Bệnh tôi không yên, thật là khó chịu đựng. Toàn thân đau đớn, càng lúc nặng thêm, không bớt. Giống như người có nhiều sức mạnh bắt lấy người yếu đuối, dùng dây trói chặt vào đầu cùng hai tay, rồi siết chặt làm cho đau đớn vô cùng. Hiện nay sự đau đớn của thân tôi còn hơn cả người kia nữa. “Giống như tên đồ tể dùng dao bén mổ bụng bò lấy nội tạng ra. Làm sao con bò có thể chịu nổi sự đau đớn ở bụng? Hiện nay sự đau đớn ở bụng tôi còn hơn cả sự đau đớn của con bò kia. “Giống như hai lực sĩ bắt một người yếu đuối treo lên trên lửa rồi đốt hai chân người ấy. Hiện nay hai chân của tôi còn nóng hơn hai chân của người kia. Bệnh tôi càng lúc nặng thêm, không bớt. “Dù thân tôi bị đau đớn như thế này, nhưng tôi vẫn chịu đựng được, với chánh niệm, chánh tri.” Các tỳ-khưu hỏi tôn giả A-na-luật: “Tâm an trụ ở chỗ nào mà có thể chịu đựng được cái khổ lớn như vậy với chánh niệm, chánh tri?” Tôn giả A-na-luật bảo các tỳ-khưu: “Tâm tôi trụ bốn niệm xứ nên thân thể dù có đau đớn, tôi cũng có thể chịu đựng được với chánh niệm, chánh tri. Bốn niệm xứ ấy là gì? “Đó là niệm xứ quán thân trên nội thân, tinh cần, niệm, chánh tri, điều phục tham ưu thế gian. Niệm xứ quán thân trên ngoại thân, tinh cần, niệm, chánh tri, điều phục tham ưu thế gian. Niệm xứ quán thân trên nội ngoại thân, tinh cần, niệm, chánh tri, điều phục tham ưu thế gian. Niệm xứ quán thọ trên nội thọ, tinh cần, niệm, chánh tri, điều phục tham ưu thế gian. Niệm xứ quán thọ trên ngoại thọ, tinh cần, niệm, chánh tri, điều phục tham ưu thế gian. Niệm xứ quán thọ trên nội ngoại thọ, tinh cần, niệm, chánh tri, điều phục tham ưu thế gian. Niệm xứ quán tâm trên nội tâm, tinh cần, niệm, chánh tri, điều phục tham ưu thế gian. Niệm xứ quán tâm trên ngoại tâm, tinh cần, niệm, chánh tri, điều phục tham ưu thế gian. Niệm xứ quán tâm trên nội ngoại tâm, tinh cần, niệm, chánh tri, điều phục tham ưu thế gian. Niệm xứ quán pháp trên nội pháp, tinh cần, niệm, chánh tri, điều phục tham ưu thế gian. Niệm xứ quán pháp trên ngoại pháp, tinh cần, niệm, chánh tri, điều phục tham ưu thế gian. Niệm xứ quán pháp trên nội ngoại pháp, tinh cần, niệm, chánh tri, điều phục tham ưu thế gian. Đó gọi là trụ bốn niệm xứ, có thể chịu đựng tất cả mọi đau đớn nơi thân, với chánh niệm, chánh tri.” Các vị tỳ-khưu cùng nhau bàn luận xong, tùy hỷ hoan hỷ, mỗi người từ chỗ ngồi đứng dậy ra đi. * SN 52.10 Một thời, Tôn giả Anuruddha trú ở Sāvatthī, tại rừng Andha (rừng Người Mù), bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh. Rồi nhiều vị tỳ-khưu đi đến Tôn giả Anuruddha và nói với Tôn giả: “Tôn giả Anuruddha an trú như thế nào, khiến cho khổ thọ về thân khởi lên mà không có ảnh hưởng gì đến tâm?” “Thưa chư hiền, do tôi khéo an trú tâm trên bốn niệm xứ, cho nên các khổ thọ về thân khởi lên mà không có ảnh hưởng gì đến tâm. Thế nào là bốn? “Ở đây, thưa chư hiền, tôi khéo an trú quán thân như thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Tôi khéo an trú quán thọ như thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Tôi khéo an trú quán tâm như tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Tôi khéo an trú quán các pháp như các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. “Thưa chư hiền, do tôi khéo an trú tâm trên bốn niệm xứ như thế, cho nên các khổ thọ về thân khởi lên mà không có ảnh hưởng gì đến tâm.” * * * |
Tỉnh thức
trước bệnh tật và cái chết Bhikkhu Analayo (2017). Mindfully Facing Disease and Death: Compassionate Advice from Early Buddhist Texts. MỤC LỤC TỔNG QUÁT
CÁC CHỦ ĐỀ GIÁO THUYẾT TRONG MỖI CHƯƠNG
* * * |
Bhikkhu ANALAYO (1962-) Centre for Buddhist Studies, University of Hamburg, Germany Tỳ-khưu Analayo sinh năm 1962 tại Đức. Sư xuất gia gieo duyên năm 1990 tại chùa Wat Suan Mokkh ở miền nam Thái Lan. Năm 1994, Sư đến Sri Lanka xuất gia với ngài Hòa thượng Balangoda Ananda Maitreya, và sau đó thọ giới tỳ-khưu với Hòa thượng Pemasiri vào năm 2007 trong hệ phái Shwegyin Nikaya (bắt nguồn từ hệ phái chính Amarapura Nikaya). Tuy nhiên, Bhikkhu Bodhi là vị thầy chính. Sư hoàn tất chương trình tiến sĩ tại University of Peradeniya năm 2000 và luận án tiến sĩ được xuất bảm thành sách với tựa đề “Satipaṭṭhāna, the Direct Path to Realization”. Cuốn sách được nhiều người khen ngợi, đã được tái bản nhiều lần và dịch sang 10 thứ tiếng. Bản tiếng Việt được Cư sĩ Nguyễn Văn Ngân dịch, với tựa đề “Satipaṭṭhāna, Con đường thẳng tới giác ngộ”, xuất bản năm 2017. Hiện nay, Sư là giáo sư Phật học tại Trung tâm Phật học của Đại học Hamburg, Đức quốc (Centre for Buddhist Studies, University of Hamburg), Đại học Phật giáo Pháp Cổ, Đài Loan (Dharma Drum Buddhist College, Taiwan). Sư là đồng sáng lập viên Nhóm Nghiên cứu A-hàm (Āgama Research Group) và là giảng sư của Trung tâm Phật học Barre, Hoa Kỳ (Barre Center for Buddhist Studies). Hiện nay (2018), ngài trú và tịnh tu tại Trung tâm Phật học Barre, bang Massachusetts, Hoa Kỳ. Các nguồn thông tin: 1) Wikipedia:
https://en.wikipedia.org/wiki/Bhikkhu_Analayo ------------------ Giáo sư AMING TU Giáo sư Aming Tu (杜正民 - Đỗ Chính Dân, Du Zhengmin) là một sáng lập viên của hội CBETA (Chinese Buddhist Electronic Text Association, Hiệp hội Kinh văn Điện tử Phật giáo Trung Hoa) và đã từng là Giám đốc Điều hành của Hội (1998-2006). Ông là giáo sư Tin học và đã có nhiều đóng góp quan trọng trong dự án số hóa Tam tạng Kinh điển tiếng Hán. Năm 2005, ông bị bệnh và được chẩn đoán là bị bệnh ung thư gan, phải vào bệnh viện 10 ngày và trải qua một cơn đau đớn rất khắc nghiệt. Sau khi rời bệnh viện, ông tìm đọc các bản kinh trong Hán tạng và tạng Pali có ghi lại các lời dạy của Đức Phật và các vị đại đệ tử để đối phó với cơn đau, bệnh tật và cái chết. Ông suy ngẫm và thực hành theo đó, và nhờ vậy, đã giúp ông rất nhiều để chịu đựng các cơn đau và viễn ảnh của cái chết không thể tránh được. Ông thảo luận các vấn đề nầy với tỳ-khưu Anālayo – lúc ấy, Sư đang nghiên cứu và dịch các bản kinh A-hàm. Ông đề nghị Sư khai triển thành một cuốn sách với nội dung về phương cách đối diện với bệnh tật và cái chết, dựa theo các bản kinh của Phật giáo Sơ kỳ – bộ A-hàm trong Hán tạng và Nikāya trong tạng Pāli, cùng với những hướng dẫn thực tế để hành thiền, giúp hành giả có đủ nghị lực, hiểu biết và tỉnh thức để trực diện với các vấn đề tất yếu đó của kiếp người. Sau khi Sư hoàn tất viết cuốn sách, Gs Tu đọc bản thảo, rất hoan hỷ và viết Lời Bạt, đề cập đến nguyên nhân ra đời của cuốn sách. Cuốn sách được xuất bản vào đầu năm 2017 và được nhiều vị thiền sư, học giả khen ngợi, tán thán. Một điều buồn là Gs Aming Tu không thấy được ấn bản chính thức. Ông qua đời vào tháng 11 năm 2016. * * * |
[ Home ]
11-05-2020