Đàm luận Phật Pháp
- 305 -

Tỉnh thức trước bệnh tật và cái chết
Lời Phật dạy trong kinh văn nguyên thủy

05. TIỀM NĂNG CHỮA BỆNH CỦA CÁC GIÁC CHI

 

1-mucluc05.jpg
1-mucluc05.jpg
1179 * 898
2a-ba_kinh.jpg
2a-ba_kinh.jpg
961 * 900
2b-5triencai.jpg
2b-5triencai.jpg
1053 * 690
3-5cai7giac.jpg
3-5cai7giac.jpg
1112 * 825
4-7chi.jpg
4-7chi.jpg
1103 * 1305
5-chiquan.jpg
5-chiquan.jpg
1259 * 842

 

V

Tiềm năng chữa bệnh của các giác chi
Bhikkhu Anālayo, Mindfully facing disease and death (2017)

V.1 GIỚI THIỆU

Trong nhiều bài kinh nguyên thủy, Đức Phật thường xuyên nêu gương trong việc chăm sóc người bệnh, đặc biệt là với phẩm chất cuối cùng được đề cập trong bài kinh của Tăng chi bộ trình bày trong chương trước, đó là giảng dạy, khích lệ, làm cho người bệnh hoan hỷ qua các bài Pháp thoại. Động lực từ bi để giúp đỡ người bệnh thường được thực hiện qua hình thức cung cấp liều lượng Pháp dược thích hợp. Hình thức chăm sóc như thế là một chủ đề được trình bày trong chương này và các chương tiếp theo. Trong bài kinh của chương này (Ka 281-282), Đức Phật đảm nhận việc chăm sóc như vậy liên quan đến một trong những đệ tử nổi tiếng của ngài tên là Mahākassapa (Đại Ca-diếp).

Ngài Mahākassapa được được mô tả trong nhiều bài kinh là vị đệ tử nghiêm khắc, xuất sắc trong hạnh đầu đà (AN 1.188, EĀ 4.2). Trong bài kinh trình bày ở đây, ngài công nhận mình đang bị bệnh nặng cho thấy mức trầm trọng của chứng bệnh, không phải chỉ là sự khó chịu thông thường.

Lời dạy mà ngài Mahākassapa nhận được từ Đức Phật có liên quan đến bảy chi phần giác ngộ – thất giác chi, là bảy phẩm chất nêu ra trong pháp hành thiền của Phật giáo sơ kỳ để hướng tâm đến giác ngộ. Các chi phần này thường được xem là đối nghịch trực tiếp với năm phẩm chất tiêu cực của tâm trí, được gọi là năm chướng ngại hay triền cái. Tương tự với các phẩm chất tích cực và tiêu cực của bệnh nhân và người chăm sóc đã được thảo luận trong chương trước, pháp hành thiền trong Phật giáo sơ kỳ chẩn đoán tình trạng tâm thần của một người với những phiền não bằng cách liệt kê những yếu tố gây phương hại đến tâm trí, đó là năm chướng ngại; và những phẩm chất tích cực, bồi dưỡng sức khỏe tâm thần, gọi là bảy giác chi. Năm chướng ngại hay triền cái đó là:

• tham dục,
• sân hận,
• hôn thụy
• trạo hối,
• hoài nghi.

Ý nghĩa đầu tiên của năm chướng ngại này là cản trở sự hoạt động đúng đắn của tâm trí. Chúng đưa tâm theo hướng ngược lại với sự giác ngộ và ngăn cản, tạo khó khăn ngay cả cho những công việc bình thường như học tập một việc gì đó cho đúng cách. Danh sách năm yếu tố này thật ra bao gồm bảy trạng thái tinh thần tiêu cực, trong đó hôn thụy là một cặp đôi bao gồm hôn trầm (dã dượi) và thụy miên (buồn ngủ), và trạo hối bao gồm trạo cử (bồn chồn) và hối quá (hối hận). Kết hợp cặp đôi như thế có lẽ là do hiệu ứng và tính cách tương tự của chúng.

Vì năm chướng ngại trong thực tế bao gồm bảy trạng thái tinh thần riêng biệt, có thể xem như chúng tương ứng với bảy giác chi để đối trị thay thế, tạo ảnh hưởng lành mạnh cho tâm trí. Theo cách này, giống như chương trước đã trình bày năm phẩm chất bất lợi đối với năm phẩm chất có lợi trong trường hợp bệnh nhân và người chăm sóc, sự tương phản hiện tại là giữa bảy phẩm chất bất lợi và bảy phẩm chất có lợi cho tinh thần. Bảy yếu tố tinh thần đưa đến giác ngộ – giác chi – đưa tâm theo hướng đối nghịch lại các chướng ngại là:

• niệm,
• trạch pháp,
• tinh tấn,
• hỷ,
• khinh an,
• định,
• xả.

Tiềm năng của các giác chi này không hạn chế chỉ về mặt sức khỏe tinh thần, vì chúng cũng có thể dẫn đến phục hồi thể chất. Đây là chủ đề của ba bài kinh liên tiếp trong Tương ưng bộ (SN 45.14, 15, 16). Một trong những bài kinh này ghi lại chính Đức Phật đã phục hồi sức khỏe khi một tỳ-khưu tụng đọc về bảy giác chi cho Ngài nghe (SN 45.15), trong Tạp A-hàm cũng có một bài kinh tương tự (SĀ 727). Tôi sẽ trở lại bài kinh nầy trong phần thảo luận tiếp theo. Hai bài kinh kia có ngài Mahāmoggallāna (SN 45.14) và ngài Mahākassapa (SN 45.15) được khỏi bệnh khi Đức Phật nói về bảy giác chi cho các vị ấy nghe. Bài kinh dạy cho ngài Mahāmoggallāna chỉ thấy ghi trong Tương ưng bộ, nhưng bài kinh dạy cho ngài Mahākassapa thì có một bản kinh tương ứng được lưu giữ ở Tây Tạng (Ka 281-282). Đây là bản kinh tôi trích dịch và trình bày trong chương này. Theo tài liệu lịch sử, bản kinh được một tu sĩ Sri Lanka đem đến truyền bá ở Tây Tạng và do đó bắt nguồn từ một dòng truyền thừa của hệ phái Theravāda, mặc dù cho thấy có một số biến thể khi so sánh với bản Pāli tương ứng.

V.2 KINH VĂN

Ka – Kanjur 281-282
GIẢNG DẠY MAHĀKASSAPA
Bình Anson dịch dựa theo bản tiếng Anh của Bhikkhu Anālayo

Một thời Thế Tôn trú ở Vương Xá, rừng Trúc Lâm, tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Lúc bấy giờ, Tôn giả Mahākassapa trú ở hang Pipphali lâm trọng bệnh, đau đớn.

Rồi vào buổi chiều, sau khi ngồi thiền, Thế Tôn đi đến gặp tôn giả Mahākassapa. Sau khi đến, Ngài ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Ngồi xuống, Ngài nói với tôn giả Mahākassapa:

“Này Kassapa, ông có ăn uống được không? Cơn đau có thuyên giảm hay trầm trọng hơn? Cách chữa trị có hiệu quả không?”

Tôn giả Mahākassapa đáp:

“Bạch Ngài, con không ăn uống được. Con đang chịu đau đớn vì trọng bệnh. Cách chữa trị không thấy có hiệu quả. Xin Ngài chỉ cho con phương cách chữa trị.”

Đức Phật nói:

“Ta giảng dạy về bảy giác chi, nếu được tu tập hoàn mãn sẽ đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Bảy giác chi đó là gì?

“Này Kassapa, ta giảng dạy về niệm giác chi, nếu được tu tập hoàn mãn sẽ đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

“Này Kassapa, ta giảng dạy về trạch pháp giác chi, nếu được tu tập hoàn mãn sẽ đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

“Này Kassapa, ta giảng dạy về tinh tấn giác chi, nếu được tu tập hoàn mãn sẽ đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

“Này Kassapa, ta giảng dạy về hỷ giác chi, nếu được tu tập hoàn mãn sẽ đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

“Này Kassapa, ta giảng dạy về khinh an giác chi, nếu được tu tập hoàn mãn sẽ đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

“Này Kassapa, ta giảng dạy về định giác chi, nếu được tu tập hoàn mãn sẽ đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

“Này Kassapa, ta giảng dạy về xả giác chi, nếu được tu tập hoàn mãn sẽ đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

“Này Kassapa, ta giảng dạy về bảy giác chi này, nếu được tu tập hoàn mãn sẽ đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.”

Tôn giả Mahākassapa thưa:

“Thật vậy, bạch Thế Tôn, bậc Thiện Thệ đã giảng dạy về bảy giác chi mà chúng con cần phải tu tập.”

Thế Tôn thuyết như vậy. Tôn giả Mahākassapa hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy. Ngay lúc ấy, tôn giả Mahākassapa liền hết bệnh. Sau khi phục hồi, tôn giả Mahākassapa ngồi dậy.

V.3 THẢO LUẬN

Cùng với các bài kinh ở các nguồn khác về tiềm năng chữa bệnh của các giác chi, phiên bản Tây Tạng cho thấy bảy phẩm chất của tâm trí này hỗ trợ đáng kể để chữa trị bệnh tật. Bản kinh trong Tạp A-hàm (SĀ 727) cho thấy tác dụng chữa bệnh của việc tụng đọc bảy giác chi trong trường hợp của chính Đức Phật, kết thúc với một bài kệ của một tỳ-khưu vô danh. Trong một đoạn của bài kệ này, khi nghe tụng đọc về bảy giác chi, Đức Phật đã trải nghiệm lại hương vị của sự toàn giác.

Trong việc chỉ tụng đọc các giác chi có tác dụng chữa bệnh như vậy, điều lý tưởng là bệnh nhân đã từng tận dụng tiềm năng giác ngộ của bảy phẩm chất này, như trường hợp của Đức Phật và hai vị đại đệ tử, ngài Mahāmoggallāna và ngài Mahākassapa. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là bài kinh đó chỉ liên quan đến các vị a-la-hán. Tụng đọc lại bài kinh, cũng như nhớ lại tầm quan trọng của bài kinh ấy, có thể là một nguồn vui cho bất cứ ai cảm thấy được truyền cảm hứng bởi mục tiêu giác ngộ nói chung, hay cụ thể hơn, bởi sự giác ngộ của Đức Phật và lời dạy của Ngài về con đường giải thoát. Bài kinh này trên thực tế là một trong những bài kinh tụng có sức mạnh hộ trì (paritta) sử dụng trong truyền thống Theravāda, được cho là có sức mạnh bảo vệ và chữa lành. Do đó, tụng đọc hoặc nhớ lại lời dạy ghi trong bài kinh chắc chắn có thể dùng để tạo một nguồn cảm hứng mạnh mẽ, những tác động có lợi ích không chỉ giới hạn ở những người thành thạo trong việc tu dưỡng các giác chi.

Bài kinh trong Tạp A-hàm ghi lại sự phục hồi của Đức Phật, nhấn mạnh tinh tấn là giác chi quan trọng mà ngài Bồ-tát tu tập để đạt quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Mặc dù chi tiết này không được đề cập trong bài kinh Pāli tương đương, nhưng nó phù hợp với câu chuyện truyền thống về sự tầm cầu giác ngộ của ngài Bồ-tát. Điểm nổi bật về giác chi tinh tấn này dường như ngụ ý rằng, tùy theo tính cách và khuynh hướng cá nhân, một hoặc các giác chi khác có thể có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự tiến bộ của cá nhân hướng đến giác ngộ. Đồng thời, trong ba phiên bản Pāli cũng như trong phiên bản Tây Tạng, toàn bộ bảy giác chi đóng góp cho sự thành công chữa bệnh, cho thấy rõ rằng khả năng chữa bệnh không chỉ dừng lại ở sự tinh tấn.

Để đánh giá tiềm năng chữa bệnh này, chúng ta cần phải xem xét kỹ hơn về cách thức mà các giác chi được tu tập. Các bài kinh nguyên thủy mô tả hai động lực chính trong việc tu tập bảy giác chi. Một động lực liên quan đến việc phát triển tuần tự, và động lực kia đòi hỏi phải cân bằng bảy giác chi.

Đầu tiên, trong công phu tu tập tuần tự, niệm phục vụ như một nền tảng. Khi niệm được phát triển vững chắc, hành giả sẽ thẩm tra các sự kiện chung quanh, tương ứng với giác chi thứ hai là trạch pháp. Trong khi thẩm tra, hành giả cần phải nỗ lực để tránh mất tập trung, và hoạt động trạch vấn lần lượt mang lại một xung lực khơi dậy thêm năng lượng. Kết hợp điều này dẫn đến việc thiết lập đầy đủ giác chi thứ ba là tinh tấn.

Cách thức tinh tấn thẩm tra như thế sẽ dẫn đến sự phát sinh của các trạng thái hân hoan lành mạnh, đó là giác chi thứ tư, hỷ, tiếp theo. Để điều này xảy ra, việc tu tập cần phải được theo dõi sao cho trạch pháp và tinh tấn không dẫn đến phát sinh căng thẳng và kích động, điều này có thể xảy ra khi việc tu tập trở nên quá bó buộc. Thay vào đó, trạch pháp và tinh tấn ở mức độ tốt nhất khi được thực hiện với mức quan tâm liên tục và duy trì trong trải nghiệm ngay trong thời khắc hiện tại. Duy trì được sự quan tâm bền vững này, hỷ có thể nảy sinh, và hỷ này lần lượt sẽ đưa đến trạng thái an tịnh của thân và tâm. An tịnh thân và tâm sau đó có thể trở thành biểu hiện của giác chi thứ năm là khinh an.

Khi hành giả sống với sự an tịnh của thân và tâm, giác chi thứ sáu – định – tiếp theo sẽ khởi sinh khi tâm tập trung, xa rời các xao lãng. Với tâm trí cân bằng tinh tế theo cách này, hành giả đạt đến một sự thăng bằng hay bình thản, đó là giác chi thứ bảy – xả.

Động lực thứ hai được mô tả trong các bài kinh nguyên thủy có liên quan đến việc cân bằng các giác chi, phân biệt những giác chi tạo an chỉ với những giác chi tạo năng lực. Trạch pháp, tinh tấn và hỷ là những giác chi tạo năng lực, trong khi khinh an, định và xả là những giác chi làm an chỉ. Trong khi sáu giác chi đó đòi hỏi sự cân bằng, niệm là giác chi cần thiết trong mọi tình huống.

Trong thực tế, một khi sự tu tập tuần tự đã thiết lập, niệm là nền tảng để phái triển sáu giác chi kia, nếu hành giả thấy rằng tâm trí bắt đầu trì trệ, vị ấy nỗ lực vào trạch pháp, tinh tấn và hỷ để tạo năng lực tu tập. Nếu tâm trí có vẻ bị kích động, hành giả nỗ lực tu tập khinh an, định và xả. Bằng cách điều hướng khéo léo như thế để đối phó với bất kỳ biến động nào, bảy giác chi ngày càng được thiết lập tốt trong tâm trí và cuối cùng có thể đạt đến mục đích tối hậu là tạo điều kiện để đưa đến giác ngộ.

Khi xem xét hai động lực chính này trong việc tu tập các giác chi, giác chi niệm nổi bật như là nền tảng cho việc phát triển tuần tự cũng như là một yếu tố cần thiết cho việc thiết lập quân bình. Vai trò nổi bật của niệm nhìn qua khía cạnh này không chỉ liên quan đến những vị đã giác ngộ hoàn toàn, mà còn cho thấy tiềm năng của nó trong trường hợp bất kỳ ai nghiêm túc tu tập phẩm chất đó. Tiềm năng này không phải chỉ giúp chữa lành ở cấp độ thân xác, vì niệm đối mặt với nỗi đau của bệnh tật. Trong ba chương tiếp theo, tôi sẽ tiếp tục khám phá vai trò của niệm, một vai trò mà tôi trở lại một lần nữa liên quan đến chủ đề đối mặt với cái chết trong các chương sau của cuốn sách.

 

* * *

 

AN 1.188
Phẩm NGƯỜI TỐI THẮNG


4. Này các tỳ-khưu, trong các vị đệ tử thuyết về hạnh đầu đà, tối thắng là Mahākassapa.

*
EĀ 4.2
Phẩm ĐỆ TỬ

… Tỳ-khưu bậc nhất trong chúng Thanh văn của Ta về hành mười hai hạnh đầu đà khó hành là Tỳ-khưu Ðại Ca-diếp.


Ka – Kanjur 281-282
GIẢNG DẠY MAHĀKASSAPA
Bình Anson dịch dựa theo bản tiếng Anh của Bhikkhu Anālayo

Một thời Thế Tôn trú ở Vương Xá, rừng Trúc Lâm, tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Lúc bấy giờ, Tôn giả Mahākassapa trú ở hang Pipphali lâm trọng bệnh, đau đớn.

Rồi vào buổi chiều, sau khi ngồi thiền, Thế Tôn đi đến gặp tôn giả Mahākassapa. Sau khi đến, Ngài ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Ngồi xuống, Ngài nói với tôn giả Mahākassapa:

“Này Kassapa, ông có ăn uống được không? Cơn đau có thuyên giảm hay trầm trọng hơn? Cách chữa trị có hiệu quả không?”

Tôn giả Mahākassapa đáp:

“Bạch Ngài, con không ăn uống được. Con đang chịu đau đớn vì trọng bệnh. Cách chữa trị không thấy có hiệu quả. Xin Ngài chỉ cho con phương cách chữa trị.”

Đức Phật nói:

“Ta giảng dạy về bảy giác chi, nếu được tu tập hoàn mãn sẽ đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Bảy giác chi đó là gì?

“Này Kassapa, ta giảng dạy về niệm giác chi, nếu được tu tập hoàn mãn sẽ đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

“Này Kassapa, ta giảng dạy về trạch pháp giác chi, nếu được tu tập hoàn mãn sẽ đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

“Này Kassapa, ta giảng dạy về tinh tấn giác chi, nếu được tu tập hoàn mãn sẽ đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

“Này Kassapa, ta giảng dạy về hỷ giác chi, nếu được tu tập hoàn mãn sẽ đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

“Này Kassapa, ta giảng dạy về khinh an giác chi, nếu được tu tập hoàn mãn sẽ đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

“Này Kassapa, ta giảng dạy về định giác chi, nếu được tu tập hoàn mãn sẽ đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

“Này Kassapa, ta giảng dạy về xả giác chi, nếu được tu tập hoàn mãn sẽ đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

“Này Kassapa, ta giảng dạy về bảy giác chi này, nếu được tu tập hoàn mãn sẽ đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.”

Tôn giả Mahākassapa thưa:

“Thật vậy, bạch Thế Tôn, bậc Thiện Thệ đã giảng dạy về bảy giác chi mà chúng con cần phải tu tập.”

Thế Tôn thuyết như vậy. Tôn giả Mahākassapa hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy. Ngay lúc ấy, tôn giả Mahākassapa liền hết bệnh. Sau khi phục hồi, tôn giả Mahākassapa ngồi dậy.


SN 46.14
BỆNH (1)
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Vương Xá, rừng Trúc Lâm, tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Lúc bấy giờ, Tôn giả Mahākassapa trú ở hang Pipphali, bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh.

Rồi Thế Tôn, vào buổi chiều sau khi thiền tịnh, đến gặp Tôn giả Mahākassapa. Sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn, rồi Thế Tôn nói với Tôn giả Mahākassapa :

“Này Kassapa, Ông có kham nhẫn được chăng? Ông có chịu đựng được chăng? Có phải khổ thọ giảm thiểu, không có tăng trưởng? Có phải có triệu chứng giảm thiểu, không có tăng trưởng?”

“Bạch Thế Tôn, con không thể kham nhẫn, con không thể chịu đựng. Khổ thọ kịch liệt tăng trưởng nơi con, không có giảm thiểu. Có triệu chứng tăng trưởng, không có giảm thiểu.”

“Này Kassapa, bảy giác chi này do Ta chân chánh thuyết giảng, nếu được tu tập, được làm cho sung mãn, thì sẽ đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Thế nào là bảy? Niệm giác chi, này Kassapa, do Ta chân chánh thuyết giảng, nếu được tu tập, được làm cho sung mãn, thì sẽ đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Trạch pháp ... Tinh tấn … Hỷ … Khinh an … Định … Xả giác chi, này Kassapa, do Ta chân chánh thuyết giảng, nếu được tu tập, được làm cho sung mãn, thì sẽ đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

“Này Kassapa, bảy giác chi này do Ta chân chánh thuyết giảng, nếu được tu tập, được làm cho sung mãn, thì sẽ đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.”

“Thật vậy, bạch Thế Tôn, đó là những chi phần đưa đến giác ngộ. Thật vậy, bạch Thiện Thệ, đó là những chi phần đưa đến giác ngộ.”

Thế Tôn thuyết như vậy, Tôn giả Mahākassapa hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy. Và Tôn giả Mahākassapa thoát khỏi bệnh ấy. Đó là phương cách mà Tôn giả Mahākassapa chữa trị bệnh.

*

SN 46.15
BỆNH (2)
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

(Hoàn toàn giống kinh trên, chỉ khác đây là trường hợp ngài Mahāmoggallāna).

*

SN 46.16
BỆNH (3)
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Vương Xá, rừng Trúc Lâm, tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Lúc bấy giờ, Thế Tôn bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh.

Rồi Tôn giả Mahācunda đến gặp Thế Tôn. Sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi Thế Tôn nói với Tôn giả Mahācunda:

“Này Cunda, hãy tụng về bảy chi phần đưa đến giác ngộ.”

“Bạch Thế Tôn, có bảy giác chi này do Thế Tôn chân chánh thuyết giảng, nếu được tu tập, được làm cho sung mãn, thì sẽ đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Thế nào là bảy? Niệm giác chi do Thế Tôn chân chánh thuyết giảng, nếu được tu tập, được làm cho sung mãn, thì sẽ đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Trạch pháp ... Tinh tấn … Hỷ … Khinh an … Định … Xả giác chi do Thế Tôn chân chánh thuyết giảng, nếu được tu tập, được làm cho sung mãn, thì sẽ đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

“Bảy giác chi này do Thế Tôn chân chánh thuyết giảng, nếu được tu tập, được làm cho sung mãn, thì sẽ đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.”

“Thật vậy, Cunda, đó là những chi phần đưa đến giác ngộ. Thật vậy, Cunda, đó là những chi phần đưa đến giác ngộ.”

Tôn giả Cunda tụng như vậy. Bậc Đạo Sư chấp nhận. Và Thế Tôn thoát khỏi bệnh ấy. Đó là phương cách mà Thế Tôn chữa trị bệnh.


SĀ 727
KINH 727. CÂU-DI-NA (Gilāna, Bệnh)
Hòa thượng Thích Đức Thắng dịch

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại thôn Lực Sĩ, du hành trong nhân gian, đến khoảng giữa thành Câu-di-na-kiệt và sông Ni-liên, ở ven thôn. Bấy giờ Thế Tôn bảo Tôn giả A-nan:

“Hôm nay, Ta bị đau lưng, muốn nằm nghỉ một chút. Hãy gấp Uất-đa-la-tăng (uttarāsaṅga, thượng y) làm bốn lớp cho Thế Tôn.”

Tôn giả A-nan liền vâng lời dạy, gấp làm bốn lớp, trải Uất-đa-la-tăng xong, bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn, con đã gấp làm bốn lớp và đã trải Uất-đa-la-tăng rồi, xin Thế Tôn biết cho.”

Bấy giờ, Thế Tôn gối đầu lên Tăng-già-lê (saṃghāti, đại y) gấp dày, nằm nghiêng hông bên phải, hai chân xếp chồng nhau, cột niệm vào tướng sáng, chánh niệm chánh trí, với giác tưởng muốn trỗi dậy, bảo Tôn giả A-nan:

“Ông hãy nói về bảy giác chi.”

Tôn giả A-nan liền bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, đó là Niệm giác chi, được Thế Tôn nói sau khi tự giác ngộ, thành Đẳng chánh giác, y viễn ly, y vô dục, y diệt, hướng đến xả. Đó là Trạch pháp … Tinh tấn … Hỷ … Khinh an … Định … Xả giác chi, được Thế Tôn nói sau khi thành Đẳng chánh giác, y viễn ly, y dục, y diệt, hướng đến xả.”

Phật bảo A-nan:

“Ông nói tinh tấn chăng?”

A-nan bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, con nói tinh tấn. Bạch Thiện Thệ, con nói tinh tấn.”

Phật bảo A-nan:

“Chỉ tu tập tinh tấn, tu tập nhiều, sẽ được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Nói xong, Ngài ngồi ngay thẳng, cột niệm. Lúc ấy, có một tỳ-khưu liền nói kệ rằng:

Thích nghe pháp vi diệu,
Chịu đau, bảo người thuyết.
Tỳ-khưu liền nói pháp,
Nói về bảy giác chi.

Lành thay, Ngài A-nan!
Hiểu rõ, khéo diễn thuyết,
Pháp thanh thịnh thù thắng,
Thuyết vi diệu, lìa cấu.

Niệm, trạch pháp, tinh tấn,
Hỷ, khinh an, định, xả;
Đó là bảy giác chi,
Pháp vi diệu, khéo nói.

Nghe nói bảy ciác chi,
Vị Chánh giác thấm sâu;
Thân nhận nhiều thọ khổ,
Gắng chịu ngồi lắng nghe.

Hãy nhìn đấng Vua Pháp,
Thường diễn thuyết cho người;
Mà còn thích nghe nói,
Huống chi người chưa nghe.

Trí tuệ lớn bậc nhất,
Mười lực, bậc đáng lễ;
Ngài cũng lại vội vàng,
Đến nghe thuyết chánh pháp.

Người hiểu biết thông đạt,
Khế kinh, A-tỳ-đàm;
Người thông suốt pháp luật,
Còn nghe huống người khác.

Nghe nói pháp như thật,
Chuyên tâm tĩnh giác nghe;
Những pháp Phật đã dạy,
Được ly dục, vui sướng.

Vui sướng, thân nhẹ nhàng,
Tâm tự vui cũng vậy;
Tâm vui được chứng nhập,
Chánh quán trong việc làm.

Chán hữu, ba đường dữ,
Ly dục, tâm giải thoát;
Chán các hữu, đường dữ,
Không tạo nhân trời, người.

Vô dư, như đèn tắt,
Cứu cánh Bát-niết-bàn;
Nghe pháp nhiều phước lợi,
Những lời dạy tối thắng;
Cho nên luôn tư duy,
Nghe lời Đại Sư dạy.

Tỳ-khưu này nói kệ xong, từ chỗ ngồi đứng dậy mà đi.

* * *

 

Tỉnh thức trước bệnh tật và cái chết
Lời Phật dạy trong kinh văn nguyên thủy

Bhikkhu Analayo (2017). Mindfully Facing Disease and Death: Compassionate Advice from Early Buddhist Texts.

MỤC LỤC TỔNG QUÁT

Dẫn nhập

BỆNH TẬT

Chương 01 - Đức Phật như là một vị y sĩ vô thượng
Chương 02 - Thân bệnh, tâm an
Chương 03 - Mũi tên của đau khổ
Chương 04 - Phẩm chất của bệnh nhân và người chăm sóc
Chương 05 - Tiềm năng chữa bệnh của các chi phần giác ngộ
Chương 06 - Giảm thiểu cơn đau trong tỉnh thức
Chương 07 - Chịu đựng cơn đau trong tỉnh thức
Chương 08 - Tỉnh thức đối mặt bệnh tật
Chương 09 - Không sợ hãi khi bị bệnh
Chương 10 - Liều thuốc nội quán
Chương 11 - Những lời dạy giải thoát từ một bệnh nhân
Chương 12 - Chương trình hành thiền chữa bệnh

CÁI CHẾT

Chương 13 - Chết là điều tất nhiên
Chương 14 - Tự do tỉnh thức không buồn rầu
Chương 15 - Cận tử và các phạm trú
Chương 16 - Các hướng dẫn trước khi chết
Chương 17 - Không chấp thủ và bệnh bất trị mạt kỳ
Chương 18 - Lời khuyên về chăm sóc thoa dịu
Chương 19 - Chết trong tỉnh thức
Chương 20 - Tiềm năng giải thoát của cái chết
Chương 21 - Sức mạnh của nội quán lúc cận tử
Chương 22 - Những lời cuối của một đệ tử cư sĩ thành đạt
Chương 23 - Trạng thái thiền của Đức Phật khi nhập diệt
Chương 24 - Quán tưởng về cái chết

Kết luận và các hướng dẫn hành thiền

Dẫn nhập
Các hướng dẫn hành thiền cho ngài Girimānanda
(1) Quán vô thường
(2) Quán vô ngã
(3) Quán bất tịnh
(4) Quán nguy hại
(5) Quán từ bỏ
(6) Quán xả ly
(7) Quán diệt tận
(8) Quán không tham luyến vào toàn thế giới
(9) Quán các hành là vô thường
(10) Quán hơi thở

 


CÁC CHỦ ĐỀ GIÁO THUYẾT TRONG MỖI CHƯƠNG

Chương 01 - Tứ thánh đế và Bát chi thánh đạo, danh hiệu của Như Lai
Chương 02 - Năm uẩn chấp thủ, vị ngọt và nguy hại
Chương 03 - Bảy khuynh hướng ngủ ngầm và ba loại cảm thọ
Chương 04 - Bốn phạm trú
Chương 05 - Năm triền cái, bảy chi phần giác ngộ và cách tu dưỡng
Chương 06 - Bốn pháp lập niệm, pháp nhãn, và đạt thiền diệt
Chương 07 - Tầm quan trọng của chư thiên
Chương 08 - Bốn cấp bậc giác ngộ, năm hạ phần kiết sử, và tam vô lậu học
Chương 09 - Bốn chi phần Dự Lưu và ngũ giới
Chương 10 - Hai mươi loại thân kiến và ba lậu hoặc
Chương 11 - Vô ngã và sự khác biệt giữa Dự Lưu và giác ngộ hoàn toàn
Chương 12 - Bốn tưởng điên đảo

Chương 13 - Phật Độc Giác và mười lực, bốn pháp vô sở úy của Như Lai
Chương 14 - Năm vô lậu học và ba mươi bảy chi phần đưa đến giác ngộ
Chương 15 - Vai trò các cõi trời
Chương 16 - Tam Bảo và đường đến quả Dự Lưu
Chương 17 - Ba tướng và bốn loại thức ăn
Chương 18 - Tinh luyện tiệm tiến của hạnh phúc
Chương 19 - Duyên sinh
Chương 20 - Chánh kiến lúc cận tử
Chương 21 - Sáu căn
Chương 22 - Tầm quan trọng của Chuyển Luân Vương
Chương 23 - Bốn tầng thiền hữu sắc và bốn tầng thiền vô sắc
Chương 24 - Quán tưởng về cái chết

* * *

 

Bhikkhu ANALAYO (1962-)
Centre for Buddhist Studies, University of Hamburg, Germany

Tỳ-khưu Analayo sinh năm 1962 tại Đức. Sư xuất gia gieo duyên năm 1990 tại chùa Wat Suan Mokkh ở miền nam Thái Lan. Năm 1994, Sư đến Sri Lanka xuất gia với ngài Hòa thượng Balangoda Ananda Maitreya, và sau đó thọ giới tỳ-khưu với Hòa thượng Pemasiri vào năm 2007 trong hệ phái Shwegyin Nikaya (bắt nguồn từ hệ phái chính Amarapura Nikaya). Tuy nhiên, Bhikkhu Bodhi là vị thầy chính.

Sư hoàn tất chương trình tiến sĩ tại University of Peradeniya năm 2000 và luận án tiến sĩ được xuất bảm thành sách với tựa đề “Satipaṭṭhāna, the Direct Path to Realization”. Cuốn sách được nhiều người khen ngợi, đã được tái bản nhiều lần và dịch sang 10 thứ tiếng. Bản tiếng Việt được Cư sĩ Nguyễn Văn Ngân dịch, với tựa đề “Satipaṭṭhāna, Con đường thẳng tới giác ngộ”, xuất bản năm 2017.

Hiện nay, Sư là giáo sư Phật học tại Trung tâm Phật học của Đại học Hamburg, Đức quốc (Centre for Buddhist Studies, University of Hamburg), Đại học Phật giáo Pháp Cổ, Đài Loan (Dharma Drum Buddhist College, Taiwan). Sư là đồng sáng lập viên Nhóm Nghiên cứu A-hàm (Āgama Research Group) và là giảng sư của Trung tâm Phật học Barre, Hoa Kỳ (Barre Center for Buddhist Studies).

Hiện nay (2018), ngài trú và tịnh tu tại Trung tâm Phật học Barre, bang Massachusetts, Hoa Kỳ.

Các nguồn thông tin:

1) Wikipedia: https://en.wikipedia.org/wiki/Bhikkhu_Analayo 
2) University of Hamburg: https://www.buddhismuskunde.uni-hamburg.de/en/personen/analayo.html 

------------------

Giáo sư AMING TU

Giáo sư Aming Tu (杜正民 - Đỗ Chính Dân, Du Zhengmin) là một sáng lập viên của hội CBETA (Chinese Buddhist Electronic Text Association, Hiệp hội Kinh văn Điện tử Phật giáo Trung Hoa) và đã từng là Giám đốc Điều hành của Hội (1998-2006). Ông là giáo sư Tin học và đã có nhiều đóng góp quan trọng trong dự án số hóa Tam tạng Kinh điển tiếng Hán. Năm 2005, ông bị bệnh và được chẩn đoán là bị bệnh ung thư gan, phải vào bệnh viện 10 ngày và trải qua một cơn đau đớn rất khắc nghiệt.

Sau khi rời bệnh viện, ông tìm đọc các bản kinh trong Hán tạng và tạng Pali có ghi lại các lời dạy của Đức Phật và các vị đại đệ tử để đối phó với cơn đau, bệnh tật và cái chết. Ông suy ngẫm và thực hành theo đó, và nhờ vậy, đã giúp ông rất nhiều để chịu đựng các cơn đau và viễn ảnh của cái chết không thể tránh được.

Ông thảo luận các vấn đề nầy với tỳ-khưu Anālayo – lúc ấy, Sư đang nghiên cứu và dịch các bản kinh A-hàm. Ông đề nghị Sư khai triển thành một cuốn sách với nội dung về phương cách đối diện với bệnh tật và cái chết, dựa theo các bản kinh của Phật giáo Sơ kỳ – bộ A-hàm trong Hán tạng và Nikāya trong tạng Pāli, cùng với những hướng dẫn thực tế để hành thiền, giúp hành giả có đủ nghị lực, hiểu biết và tỉnh thức để trực diện với các vấn đề tất yếu đó của kiếp người.

Sau khi Sư hoàn tất viết cuốn sách, Gs Tu đọc bản thảo, rất hoan hỷ và viết Lời Bạt, đề cập đến nguyên nhân ra đời của cuốn sách. Cuốn sách được xuất bản vào đầu năm 2017 và được nhiều vị thiền sư, học giả khen ngợi, tán thán. Một điều buồn là Gs Aming Tu không thấy được ấn bản chính thức. Ông qua đời vào tháng 11 năm 2016.

* * *

[ Home ]

03-05-2010