Đàm luận Phật Pháp
- 301 -
Tỉnh thức trước bệnh tật và cái
chết
Lời Phật dạy trong kinh văn nguyên
thủy
01. ĐỨC PHẬT LÀ VỊ Y SĨ TỐI THƯỢNG
01-mucluc01.jpg 1221 * 858 |
02-dai_y_vuong.jpg 1389 * 900 |
03-chuyenpl.jpg 1261 * 815 |
I
ĐỨC PHẬT LÀ VỊ Y SĨ TỐI THƯỢNG
Bhikkhu
Anālayo, Mindfully facing disease and death (2017)
I.1 GIỚI THIỆU
Bài kinh được dịch trong chương này, tạo điểm khởi đầu cho toàn
thể cuốn sách, trình bày so sánh Đức Phật với một vị y sĩ. Sự so
sánh này rất ý nghĩa vì có liên quan đến giáo lý trung tâm của Đạo
Phật: đó là Tứ thánh đế, bốn sự thật cao quý. Các sự thật này có
liên quan đến dukkha, một thuật ngữ có nhiều nghĩa, từ những gì đau
đớn cho đến những gì có bản chất không thỏa lòng. Trong những công
trình khảo cứu khác, tôi (Bhikkhu Anālayo) đã lập luận cho rằng nếu
chỉ dịch dukkha là “suffering” (khổ) có thể tạo hiểu lầm. Vì thế,
thay vì áp đặt một cách dịch theo quan điểm riêng của tôi, trong
phần tiếp theo đây, tôi chỉ đơn giản dùng từ Pāli là dukkha. Bốn sự
thật cao quý đó như sau:
• sự thật cao quý về dukkha (khổ đế),
• sự thật cao quý về sự phát sinh của dukkha (tập đế),
• sự thật cao quý về sự chấm dứt của dukkha (diệt đế),
• sự thật cao quý về con đường dẫn đến sự chấm dứt dukkha (đạo
đế).
Theo truyền thống, đây là giáo lý mà Đức Phật sau khi đắc đạo đã
truyền dạy cho các vị đệ tử đầu tiên. Giáo lý này dường như được mô
phỏng theo một sơ đồ chẩn đoán trong y học cổ xưa của Ấn Độ. Mặc dù
không có bằng chứng chắc chắn rằng y học cổ xưa của Ấn Độ có một sơ
đồ như thế, cũng cần nên nhớ rằng các tài liệu y học cổ truyền còn
tồn tại ngày nay là được viết ra trong thời kỳ sau, so với các bài
kinh giảng ban đầu của Đạo Phật. Cách trình bày trong bài kinh ở đây
và nhiều bài kinh nguyên thủy khác cho thấy có lẽ sơ đồ chẩn đoán y
học như thế đã phổ biến. Sự tương quan giữa chẩn đoán y học này và
giáo thuyết trung tâm của Đạo Phật có thể hình dung như sau:
• bệnh: dukkha,
• tác nhân gây bệnh: sự phát sinh dukkha,
• lành bệnh: sự chấm dứt dukkha,
• chữa bệnh: con đường tám chánh.
Sự tương quan giữa Tứ thánh đế với sự chẩn đoán y học qua bốn
bước, và sự so sánh giữa Đức Phật và một vị y sĩ đã được ghi trong
nhiều bài kinh. Ngoài bài kinh từ Tạp A-hàm được trích dịch trong
chương này (SĀ 389), còn có hai bài kinh khác tồn tại trong Hán tạng
(SĀ 254, T 219). Các trích đoạn có liên quan cũng được tìm thấy
trong các bộ luận tiếng Sanskrit và tiếng Tây Tạng. Thêm vào đó, một
phiên bản khác cũng được tìm thấy trong các mảnh rời tiếng Uighur
(Duy Ngô Nhĩ), một loại ngôn ngữ cổ của Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey), có lẽ
là được dịch từ tiếng Hán. Theo quan điểm truyền bá văn bản, các
phiên bản này được xếp vào hai nhóm chính, cho thấy rõ ràng rằng
trên cơ bản, sự trình bày Đức Phật như là một y sĩ không phải chỉ là
một phiên bản duy nhất được bảo tồn trong các thứ tiếng khác nhau.
Thay vào đó, đã có ít nhất là hai dòng truyền tải riêng biệt để
chứng thực cho bài kinh ở đây.
Mặc dù không tìm thấy bài kinh Pāli tương đương với bài kinh Tạp
A-hàm này, các bài kinh Pāli khác thường xuyên đề cập đến Đức Phật
như là một vị thầy thuốc. Hơn nữa, bài kinh trong Tăng chi bộ (AN
5.194) minh họa cho việc xua tan nỗi sầu khổ của một người nhờ lắng
nghe lời Phật dạy với ví dụ một người nhanh chóng khỏi bệnh nhờ có
một y sĩ lành nghề. Tóm tắt, so sánh Đức Phật với một vị y sĩ và
những lời giảng của Ngài như là phương pháp chữa bệnh là một chủ đề
phổ biến trong các bài kinh nguyên thủy.
Giáo lý chính của Tứ thánh đế là cung cấp nền tảng và khuôn khổ
trong đó một giải pháp cho vấn đề cấp bách của bệnh tật và cái chết
có thể được tìm thấy. Giáo lý ấy không phải chỉ cung cấp một khuôn
khổ giúp con người đối diện với bệnh tật và cái chết, nhưng đồng
thời cũng đưa ra một viễn cảnh vượt qua mọi loại phiền não do bệnh
và chết. Viễn cảnh của mục tiêu tối hậu trong tu tập là điều kiện
của một tâm trí hoàn toàn khỏe mạnh qua sự giác ngộ.
Trong bài kinh, Đức Phật tự gọi mình là Như Lai (Tathāgata), sử
dụng một thuật ngữ phổ biến trong bối cảnh Ấn Độ cổ xưa, dành cho
một người đã hoàn toàn thực chứng. Thuật ngữ này có thể được hiểu
theo hai cách, để mô tả một người đã hoàn toàn giác ngộ như là người
ấy “đến như thế” (như lai) hay “đi như thế” (như khứ). Cả hai đều
hội tụ trong việc truyền đạt ý nghĩa về sự siêu việt triệt để, vượt
qua những giới hạn thế gian của một người được gọi là Như Lai.
I.2 KINH VĂN
Kinh Lương Y (SĀ 389)
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật trú trong vườn Lộc dã (Migadāya), Tiên nhân trú xứ
(Isipatana), nước Ba- la-nại (Benares). Bấy giờ Thế Tôn nói với các
tỳ-khưu:
“Có bốn pháp, nếu thành tựu thì được gọi là bậc đại y vương, đầy
đủ các chi phần cần phải có. Những gì là bốn? Một là khéo biết bệnh;
hai là khéo biết nguyên nhân của bệnh; ba là khéo biết cách đối trị
bệnh; bốn là khéo biết trị bệnh, để về sau bệnh không còn tái phát
nữa.
“Thế nào gọi là lương y khéo biết bệnh? Lương y biết rành các
chủng loại bệnh như vậy như vậy; đó gọi là lương y khéo biết bệnh.
“Thế nào là lương y khéo biết căn nguyên của bệnh? Lương y biết
rành bệnh này do gió gây nên, do đàm ấm gây nên, nước nhớt nước dãi
gây nên, khí lạnh gây nên, do các sự việc hiện tại gây nên, do thời
tiết gây nên; đó gọi là lương y khéo biết căn nguyên của bệnh.
“Thế nào là lương y khéo biết cách đối trị bệnh? Lương y biết
rành các loại bệnh, nên thoa thuốc, nên cho mửa, cho xổ, nên nhỏ
mũi, nên xông, nên cho ra mồ hôi; và những cách đối trị đại loại như
vậy; đó gọi là lương y khéo biết cách đối trị.
“Thế nào là lương y khéo biết trị bệnh rồi về sau bệnh không còn
tái phát nữa? Lương y khéo trị tất cả mọi chứng bệnh, khiến dứt trừ
hoàn toàn, vĩnh viễn không tái phát trở lại sau này nữa; đó gọi là
lương y khéo biết trị bệnh không còn tái phát nữa.
“Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác là bậc Đại Y Vương đã
thành tựu bốn đức, chữa lành bệnh chúng sanh cũng lại như vậy. Bốn
đức là gì?
"Đó là Như Lai biết như thật đây là Khổ Thánh đế; biết như thật
đây là Khổ tập Thánh đế; đã biết như thật đây là Khổ diệt Thánh đế,
biết như thật đây là Khổ diệt đạo Thánh đế.
“Này các tỳ-khưu, các lương y thế gian không biết như thật cách
đối trị đối với cội gốc sinh, không biết như thật cách đối trị đối
với cội gốc lão, không biết như thật cách đối trị đối với cội gốc
bệnh, không biết như thật cách đối trị đối với cội gốc tử, không
biết như thật cách đối trị đối với cội gốc ưu, không biết như thật
cách đối trị đối với cội gốc bi, không biết như thật cách đối trị
đối với cội gốc não, không biết như thật cách đối trị đối với cội
gốc khổ.
Còn Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác là vị Đại Y Vương,
biết như thật cách đối trị đối với cội gốc sinh, biết như thật cách
đối trị đối với cội gốc lão, biết như thật cách đối trị đối với cội
gốc tử, biết như thật cách đối trị đối với cội gốc ưu, biết như thật
cách đối trị đối với cội gốc bi, biết như thật cách đối trị đối với
cội gốc não, biết như thật cách đối trị đối với cội gốc khổ. Vì thế
nên Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác được gọi là Đại Y
Vương.”
Phật nói kinh này xong, các tỳ-khưu sau khi nghe những gì đức
Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
–Thích Đức Thắng dịch,
Bình Anson hiệu đính.
I.3 THẢO LUẬN
Mối tương quan giữa Tứ thánh đế và một sơ đồ chẩn đoán trong lĩnh
vực y học làm tăng thêm ý nghĩa thực dụng cho giáo lý trung tâm mà
Đức Phật truyền dạy sau khi thành đạo. Giáo lý này bắt đầu bằng cách
thừa nhận rõ ràng rằng có một sự khó chịu, không thoải mái
(dis-ease, khổ) trong cuộc sống. Sự kiện này trở nên hiển nhiên khi
ta bị bệnh hoặc già đi, và càng rõ rệt hơn khi ta phải đối diện với
cái chết của chính mình hay của người khác.
Nhưng ngay cả trong những trường hợp khác, sự “khó chịu” này cũng
xảy ra liên tục, bởi vì cho dù ta có cảm giác khoái lạc trong hiện
tại, nó không duy trì lâu dài. Sớm hay muộn gì nó cũng sẽ chấm dứt,
và do đó không thể cho ta một cảm giác hài lòng lâu dài. Không phải
lúc nào ta cũng được những gì mình mong muốn, thay vào đó là thường
phải trải qua những thất vọng về những trải nghiệm mà mình không
mong muốn. Có những lúc ta phải xa lìa những người mình yêu mến và
phải ở gần những người mình không ưa thích. Giáo lý đầu tiên của Đạo
Phật về sự thật cao quý thứ nhất tổng hợp tất cả các vấn đề đó vào
một thuật ngữ duy nhất: dukkha (khổ đế).
Trong khi sự thật cao quý đầu tiên là nhận thức thành thật về
dukkha, sự thật thứ hai chỉ ra rằng chính mình tạo ra dukkha cho
mình (tập đế). Mặc dù ai cũng muốn được hạnh phúc và thoải mái,
nhưng cách mà nhiều người cố gắng để đạt được điều đó lại là không
khéo léo. Người ấy bám víu và khao khát, và kết quả là phải chịu đau
khổ, chính xác là vì sự bám víu và khao khát ấy.
Sau khi luống cuống nhận ra rằng chính lòng tham ái của mình đã
đóng góp đáng kể vào sự trải nghiệm dukkha, sự thật cao quý thứ ba
cho thấy có thể có phương án thay thế cho tình trạng khó khăn này
(diệt đế). Đó là làm thế nào để tạo điều kiện không có tham ái để
tâm trí trở nên hoàn toàn khỏe mạnh trong mọi phương diện bằng cách
vượt qua các ảnh hưởng của những gì không thiện lành. Với những
tương đồng của y khoa, sự thật cao quý thứ ba này cho thấy rõ ràng
rằng quan niệm của Phật giáo sơ kỳ về sự lành mạnh của tâm trí vượt
xa những gì mà tâm lý học hiện đại xem như là một tình trạng lành
mạnh của tâm trí.
Sự thật cao quý thứ tư (đạo đế) vạch ra con đường thực tế cần
phải tu luyện để đạt đến điều kiện của một tâm trí lành mạnh. Con
đường này gọi là Bát chi Thánh đạo có tám phần tử hỗ trợ cho nhau để
phát triển tâm ý:
• Chánh kiến,
• Chánh tư duy,
• Chánh ngữ,
• Chánh nghiệp,
• Chánh mạng,
• Chánh tinh tấn,
• Chánh niệm,
• Chánh định.
Dựa trên sự đánh giá sơ bộ về bốn sự thật cao quý, hành giả thiết
lập chánh kiến, theo nghĩa có một cái nhìn về tình trạng khó khăn
của mình và của người khác, và khả năng có thể ra khỏi sự khó khăn
này. Đây gọi là có cái nhìn “chánh” hay “đúng”. Thực thi cái nhìn
chân chánh hay đúng đắn như thế sẽ chống lại việc bị ám ảnh bởi
những hành động sai trái của người khác hay là sự bất công của những
hoàn cảnh bất lợi. Thay vào đó, chánh kiến giúp tập trung những gì
có thể làm được trong hoàn cảnh hiện tại, nhất là để giúp hành giả
giảm thiểu sự bám víu và chấp trước của mình.
Trong tình huống thực tế khi phải đối diện với một trải nghiệm
sầu khổ hay đau đớn, hành giả bắt đầu nhận thức thẳng thắn rằng đây
chính là biểu hiện của dukkha. Tiếp đến, nhận thức được mức độ mình
đóng góp vào sự đau khổ đó, bằng bất cứ cách nào. Điều này đòi hỏi
một sự can đảm và thành thật. Tuy nhiên, sẽ có phần thưởng ngay lập
tức là khi hành giả chịu trách nhiệm về những gì mình đã hay đang
làm, hành giả có được sức mạnh để “tháo gỡ”, để thay đổi và tìm ra
lối thoát. Điều chỉnh để thay đổi tạo ra tác động đáng kể trong tình
huống trước mắt đôi khi đòi hỏi một sự tiếp cận dần dần, một con
đường tu tập. Tuy nhiên, có được một tầm nhìn cơ bản như thế và luôn
duy trì nó, dựa trên sự hiểu biết rằng chính mình là đồng lõa tạo ra
dukkha cho mình, hành giả từng bước đi đúng hướng. Các điều này có
liên quan thế nào đến sự đau khổ sẽ được giải trình trong các chương
kế tiếp.
Theo cách này, triển vọng chữa bệnh do chánh kiến thúc đẩy hành
giả có sự suy nghĩ đúng (chánh tư duy), lời nói và việc làm đúng
(chánh ngữ và chánh nghiệp), và ngay cả khi hành giả kiếm sống qua
chánh mạng. Triển vọng đó cũng giúp cho một sự tu tập tâm ý có hệ
thống, đòi hỏi phải có nỗ lực đúng (chánh tinh tấn) để đẩy lùi các
điều kiện tâm ý bất thiện, có chánh niệm để biết rõ tình trạng tâm
trí, và sự an dịu của tâm khi có chánh định.
Trong các yếu tố kể trên, đặc biệt là chánh niệm qua dạng thức
thiết lập bốn cơ sở, bốn satipaṭṭhānas hay bốn pháp lập niệm, có
liên quan đáng kể để đối diện với bệnh tật và cái chết. Tầm quan
trọng của chánh niệm trong khía cạnh này sẽ được đề cập nhiều lần
trong các chương kế tiếp, cho thấy tiềm năng của việc thực hành
chánh niệm sẽ giúp chữa lành và giúp đối diện với cơn đau, vốn được
công nhận trong tư tưởng của Phật giáo sơ kỳ. Tuy nhiên, chức năng
của chánh niệm như là một khía cạnh tích hợp của Bát chi Thánh đạo
còn đi xa hơn. Mục đích của nó là mang lại thành tựu về sức khỏe
tinh thần toàn vẹn bằng cách xóa bỏ mọi phiền não trong tâm trí qua
sự giác ngộ.
* * * |
Kinh Lương Y (SĀ 389)
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật trú trong vườn Lộc dã (Migadāya), Tiên nhân trú xứ
(Isipatana), nước Ba- la-nại (Benares). Bấy giờ Thế Tôn nói với
các tỳ-khưu:
“Có bốn pháp, nếu thành tựu thì được gọi là bậc đại y vương,
đầy đủ các chi phần cần phải có. Những gì là bốn? Một là khéo
biết bệnh; hai là khéo biết nguyên nhân của bệnh; ba là khéo
biết cách
đối trị bệnh; bốn là khéo biết trị bệnh, để về sau bệnh không
còn tái phát nữa.
“Thế nào gọi là lương y khéo biết bệnh? Lương y biết rành các
chủng loại bệnh như vậy như vậy; đó gọi là lương y khéo biết
bệnh.
“Thế nào là lương y khéo biết căn nguyên của bệnh? Lương y
biết rành bệnh này do gió gây nên, do đàm ấm gây nên, nước nhớt
nước dãi gây nên, khí lạnh gây nên, do các sự việc hiện tại gây
nên, do thời tiết gây nên; đó gọi là lương y khéo biết căn
nguyên của bệnh.
“Thế nào là lương y khéo biết cách đối trị bệnh? Lương y biết
rành các loại bệnh, nên thoa thuốc, nên cho mửa, cho xổ, nên nhỏ
mũi, nên xông, nên cho ra mồ hôi; và những cách đối trị đại loại
như vậy; đó gọi là lương y khéo biết cách đối trị.
“Thế nào là lương y khéo biết trị bệnh rồi về sau bệnh không
còn tái phát nữa? Lương y khéo trị tất cả mọi chứng bệnh, khiến
dứt trừ hoàn toàn, vĩnh viễn không tái phát trở lại sau này nữa;
đó gọi là lương y khéo biết trị bệnh không còn tái phát nữa.
“Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác là bậc Đại Y Vương
đã thành tựu bốn đức, chữa lành bệnh chúng sanh cũng lại như
vậy. Bốn đức là gì? là Như Lai biết như thật đây là Khổ Thánh
đế; biết như thật đây là Khổ tập Thánh đế; đã biết như thật đây
là Khổ diệt Thánh đế, biết như thật đây là Khổ diệt đạo Thánh
đế.
“Này các tỳ-khưu, các lương y thế gian không biết như thật
cách đối trị đối với cội gốc sinh, không biết như thật cách đối
trị đối với cội gốc lão, không biết như thật cách đối trị đối
với cội gốc bệnh, không biết như thật cách đối trị đối với cội
gốc tử, không biết như thật cách đối trị đối với cội gốc ưu,
không biết như thật cách đối trị đối với cội gốc bi, không biết
như thật cách đối trị đối với cội gốc não, không biết như thật
cách đối trị đối với cội gốc khổ.
Còn Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác là vị Đại Y
Vương, biết như thật cách đối trị đối với cội gốc sinh, biết như
thật cách đối trị đối với cội gốc lão, biết như thật cách đối
trị đối với cội gốc tử, biết như thật cách đối trị đối với cội
gốc ưu, biết như thật cách đối trị đối với cội gốc bi, biết như
thật cách đối trị đối với cội gốc não, biết như thật cách đối
trị đối với cội gốc khổ. Vì thế nên Như Lai, Ứng Cúng, Chánh
Đẳng Chánh Giác được gọi là Đại Y Vương.”
Phật nói kinh này xong, các tỳ-khưu sau khi nghe những gì đức
Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
–Thích Đức Thắng dịch, Bình Anson hiệu
đính.
Kinh Bà-la-môn Kāraṇapālī (AN
5.194)
… Tôn giả Piṅgiyānī tán thán Đức Thế Tôn với bà-la-môn
Kāraṇapālī:
–Thưa Tôn giả Kāraṇapālī, (…) ví như một người bị bệnh, khổ
đau, bị trọng bệnh, rồi có vị lương y lập tức chữa cho khỏi
bệnh. Cũng vậy, khi đã được nghe pháp của Tôn giả Gotama, như
khế kinh (discourses), phúng tụng (mixed proses), ký thuyết
(expositions), vị tằng hữu pháp (amazing accounts), khi ấy, sầu,
bi, khổ, ưu, não đều đi đến tiêu diệt.
(…)
* Theo Bhikkhu Analayo, bài kinh Lương Y (SĀ 389) không tìm
thấy trong tạng Nikāya. Tuy nhiên, có bài kinh trong đó, Đức Phật tự
xưng là Vô thượng Y vương (Supreme Physician) như sau:
Bậc Chánh Giác ra đời,
Thật thiên nan vạn nan!
Ta là bậc Chánh Giác,
Bậc Y vương vô thượng,
Ôi, Tôn giả Phạm chí!
-(Kinh Sela, MN 92, Sn 3.7)
I am the one whose presence in the world
Is very rarely come upon,
I am the Fully Enlightened One,
I, O brahmin, am the supreme physician [*]
[*] sallakatto anuttaro
Một đoạn kinh khác trong tập Phật tự thuyết - Itivuttaka:
Ahamasmi, bhikkhave, brāhmaṇo yācayogo sadā payatapāṇi
antimadehadharo anuttaro bhisakko sallakatto.
Này các tỳ-khưu, Ta là vị Bà-la-môn, người được đến yêu cầu
(giáo pháp), tay luôn luôn thanh tịnh, mang thân cuối cùng, một
vị y sĩ phẫu thuật vô thượng. (It 4.1)
Bhikkhus, I am a brahmin, responsive to requests,
open-handed, bearing my last body, an unsurpassed doctor and
surgeon.
Kinh Chuyển Pháp Luân
Dhammacakkappavattana Sutta (SN 56.11)
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Bārānasi, tại Isipatana, chỗ Vườn Nai
(Migadāya).
2) Tại đấy, Thế Tôn bảo chúng năm tỳ-khưu:
-- Có hai cực đoan này, này các tỳ-khưu, một người xuất gia
không nên thực hành theo. Thế nào là hai?
3) Một là đắm say trong các dục (kāmesu), hạ liệt, đê tiện,
phàm phu, không xứng bậc Thánh, không liên hệ đến mục đích. Hai
là tự hành khổ mình, khổ đau, không xứng bậc thánh, không liên
hệ đến mục đích. Tránh xa hai cực đoan này, này các tỳ-khưu, là
con đường Trung đạo, do Như Lai chánh giác, tác thành mắt, tác
thành trí, đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.
4) Và thế nào là con đường Trung đạo, này các tỳ-khưu, do Như
Lai chánh giác, tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh,
thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn? Chính là con đường Thánh đạo Tám
ngành, tức là: chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh
nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Ðây
là con đường trung đạo, này các tỳ-khưu, do Như Lai chánh giác,
tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh, thắng trí, giác
ngộ, Niết-bàn.
*
5) Ðây là Thánh đế về Khổ, này các tỳ-khưu. Sinh là khổ, già
là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu, bi, khổ, ưu, não là khổ,
oán gặp nhau là khổ, ái biệt ly là khổ, cầu không được là khổ.
Tóm lại, năm thủ uẩn là khổ.
6) Ðây là Thánh đế về Khổ tập, này các tỳ-khưu, chính là ái
này đưa đến tái sinh, câu hữu với hỷ và tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ
này chỗ kia. Tức là dục ái, hữu ái, phi hữu ái.
7) Ðây là Thánh đế về Khổ diệt, này các tỳ-khưu, chính là ly
tham, đoạn diệt, không có dư tàn khát ái ấy, sự quăng bỏ, từ bỏ,
giải thoát, không có chấp trước.
8) Ðây là Thánh đế về Con Ðường đưa đến Khổ diệt, này các
tỳ-khưu, chính là con đường Thánh đạo Tám ngành, tức là chánh
tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng,
chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
*
9) Ðây là Thánh đế về Khổ, này các tỳ-khưu, đối với các pháp
từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh,
minh sinh, quang sinh. Ðây là Thánh đế về Khổ cần phải liễu tri,
này các tỳ-khưu, đối với các pháp, từ trước Ta chưa từng nghe,
nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh. Ðây là
Thánh đế về Khổ đã được liễu tri, này các tỳ-khưu, đối với các
pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sinh, trí sinh, tuệ
sinh, minh sinh, quang sinh.
10) Ðây là Thánh đế về Khổ tập, này các tỳ-khưu, đối với các
pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sinh, trí sinh, tuệ
sinh, minh sinh, quang sinh. Ðây là Thánh đế về Khổ tập cần phải
đoạn tận, này các tỳ-khưu, đối với các pháp từ trước Ta chưa
từng được nghe, nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang
sinh. Ðây là Thánh đế về Khổ tập đã được đoạn tận, này các
tỳ-khưu, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn
sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh.
11) Ðây là Thánh đế về Khổ diệt, này các tỳ-khưu, đối với các
pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sinh, trí sinh, tuệ
sinh, minh sinh, quang sinh. Ðây là Thánh đế về Khổ diệt cần
phải chứng ngộ, này các tỳ-khưu, đối với các pháp từ trước Ta
chưa từng được nghe, nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh,
quang sinh. Ðây là Thánh đế về Khổ diệt đã được chứng ngộ, này
các tỳ-khưu, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe,
nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh.
12) Ðây là Thánh đế về Con Ðường đưa đến khổ diệt, này các
tỳ-khưu, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn
sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh. Ðây là Thánh đế
về Con Ðường đưa đến Khổ diệt cần phải tu tập, này các tỳ-khưu,
đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sinh, trí
sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh. Ðây là Thánh đế về Con
Ðường đưa đến Khổ diệt đã được tu tập, này các tỳ-khưu, đối với
các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sinh, trí sinh,
tuệ sinh, minh sinh, quang sinh.
*
13) Cho đến khi nào, này các tỳ-khưu, trong bốn Thánh đế này,
với ba chuyển và mười hai hành tướng như vậy, tri kiến như thật
không khéo thanh tịnh ở nơi Ta; thời này các tỳ-khưu, cho đến
khi ấy, trong thế giới này với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên
giới, với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người,
Ta không chứng tri đã chánh giác vô thượng Chánh Ðẳng Giác.
14) Và cho đến khi nào, này các tỳ-khưu, trong bốn Thánh đến
này, với ba chuyển và mười hai hành tướng như vậy, tri kiến như
thật đã được khéo thanh tịnh ở nơi Ta; cho đến khi ấy, này các
tỳ-khưu, trong thế giới này với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên
giới, với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người,
Ta mới chứng tri đã chánh giác vô thượng Chánh Ðẳng Giác. Tri
kiến khởi lên nơi Ta: "Bất động là tâm giải thoát của Ta. Ðây là
đời sống cuối cùng, nay không còn tái sinh nữa".
*
15) Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Chúng năm tỳ-khưu hoan hỷ,
tín thọ lời Phật dạy. Trong khi lời dạy này được tuyên bố, Tôn
giả Kondañña khởi lên pháp nhãn thanh tịnh, không cấu uế như
sau: "Phàm vật gì được tập khởi, tất cả pháp ấy cũng bị đoạn
diệt".
16) Và khi Pháp luân này được Thế Tôn chuyển vận như vậy, chư
Thiên cõi đất này lớn tiếng nói lên: "Nay vô thượng Pháp luân
này được Thế Tôn ở Ba-la-nại, chỗ chư Tiên đọa xứ, tại Vườn Nai,
chuyển vận một Pháp luân chưa từng được ai chuyển vận, Sa-môn,
Bà-la-môn, chư Thiên, Ma vương, Phạm thiên, hay bất cứ một ai ở
đời".
17) Sau khi được nghe tiếng chư Thiên ở cõi đất, Tứ đại Thiên
vương thiên lên tiếng nói lên: "Nay vô thượng Pháp luân này được
Thế Tôn ở Ba-la-nại, chỗ chư Tiên đọa xứ, tại Vườn Nai, chuyển
vận một Pháp luân chưa từng được ai chuyển vận, Sa-môn,
Bà-la-môn, chư Thiên, Ma vương, Phạm thiên hay bất cứ một ai ở
đời".
18) Sau khi được nghe tiếng của chư Thiên ở Tứ đại Thiên
vương thiên, thời chư Thiên ở cõi trời Ba mươi ba... chư Thiên
Yāmā (Dạ-ma)... chư Thiên Tusitā (Đâu-suất-đà)... chư Hóa lạc
thiên... chư Tha hóa tự tại thiên... chư Thiên ở Phạm thiên giới
lớn tiếng nói lên: "Nay vô thượng Pháp luân này được Thế Tôn ở
Ba-la-nại, chỗ chư Tiên đọa xứ, tại Vườn Nai, chuyển vận Sa-môn,
Bà-la-môn, chư Thiên, Ma vương, Phạm thiên hay bất cứ một ai ở
đời".
19) Như vậy, trong sát-na ấy, trong khoảnh khắc ấy, trong
giây phút ấy, tiếng ấy lên đến Phạm thiên giới. Và mười ngàn thế
giới chuyển động, rung động, chuyển động mạnh. Và một hào quang
vô lượng, quảng đại phát chiếu ra ở đời, vượt quá uy lực chư
Thiên.
20) Rồi Thế Tôn thốt lên lời cảm hứng sau đây: "Chắc chắn đã
giác hiểu là Kondañña (Kiều-trần-như)! Chắc chắn đã giác hiểu là
Kondañña!"
Như vậy Tôn giả Kondañña được tên là Aññata Kondañña (A-nhã
Kiều-trần-như).
* * * |
Tỉnh thức
trước bệnh tật và cái chết
Lời Phật dạy trong kinh văn nguyên thủy
Bhikkhu Analayo (2017).
Mindfully Facing Disease and Death: Compassionate Advice from Early
Buddhist Texts.
MỤC LỤC TỔNG QUÁT
Dẫn nhập
BỆNH TẬT
Chương 01 - Đức Phật như là một vị y sĩ vô thượng
Chương 02 - Thân bệnh và tâm khỏe
Chương 03 - Mũi tên của đau khổ
Chương 04 - Phẩm chất của bệnh nhân và y tá
Chương 05 - Tiềm năng chữa bệnh của các chi phần giác
ngộ
Chương 06 - Giảm thiểu cơn đau trong tỉnh thức
Chương 07 - Chịu đựng cơn đau trong tỉnh thức
Chương 08 - Tỉnh thức đối mặt bệnh tật
Chương 09 - Không sợ hãi khi bị bệnh
Chương 10 - Liều thuốc nội quán
Chương 11 - Những lời dạy giải thoát từ một bệnh nhân
Chương 12 - Chương trình hành thiền chữa bệnh
CÁI CHẾT
Chương 13 - Chết là điều tất nhiên
Chương 14 - Tự do tỉnh thức không buồn rầu
Chương 15 - Cận tử và các phạm trú
Chương 16 - Các hướng dẫn trước khi chết
Chương 17 - Không chấp thủ và bệnh bất trị mạt kỳ
Chương 18 - Lời khuyên về chăm sóc thoa dịu
Chương 19 - Chết trong tỉnh thức
Chương 20 - Tiềm năng giải thoát của cái chết
Chương 21 - Sức mạnh của nội quán lúc cận tử
Chương 22 - Những lời cuối của một đệ tử cư sĩ thành đạt
Chương 23 - Trạng thái thiền của Đức Phật khi nhập diệt
Chương 24 - Quán tưởng về cái chết
Kết luận và các hướng dẫn hành thiền
Dẫn nhập
Các hướng dẫn hành thiền cho ngài Girimānanda
(1) Quán vô thường
(2) Quán vô ngã
(3) Quán bất tịnh
(4) Quán nguy hại
(5) Quán từ bỏ
(6) Quán xả ly
(7) Quán diệt tận
(8) Quán không tham luyến vào toàn thế giới
(9) Quán các hành là vô thường
(10) Quán hơi thở
CÁC CHỦ ĐỀ GIÁO THUYẾT TRONG MỖI CHƯƠNG
Chương 01 - Tứ thánh đế và Bát chi thánh đạo, danh
hiệu của Như Lai
Chương 02 - Năm uẩn chấp thủ, vị ngọt và nguy hại
Chương 03 - Bảy khuynh hướng ngủ ngầm và ba loại cảm thọ
Chương 04 - Bốn phạm trú
Chương 05 - Năm triền cái, bảy chi phần giác ngộ và cách
tu dưỡng
Chương 06 - Bốn pháp lập niệm, pháp nhãn, và đạt thiền
diệt
Chương 07 - Tầm quan trọng của chư thiên
Chương 08 - Bốn cấp bậc giác ngộ, năm hạ phần kiết sử,
và tam vô lậu học
Chương 09 - Bốn chi phần Dự Lưu và ngũ giới
Chương 10 - Hai mươi loại thân kiến và ba lậu hoặc
Chương 11 - Vô ngã và sự khác biệt giữa Dự Lưu và giác
ngộ hoàn toàn
Chương 12 - Bốn tưởng điên đảo
Chương 13 - Phật Độc Giác và mười lực, bốn pháp vô sở
úy của Như Lai
Chương 14 - Năm vô lậu học và ba mươi bảy chi phần đưa
đến giác ngộ
Chương 15 - Vai trò các cõi trời
Chương 16 - Tam Bảo và đường đến quả Dự Lưu
Chương 17 - Ba tướng và bốn loại thức ăn
Chương 18 - Tinh luyện tiệm tiến của hạnh phúc
Chương 19 - Duyên sinh
Chương 20 - Chánh kiến lúc cận tử
Chương 21 - Sáu căn
Chương 22 - Tầm quan trọng của Chuyển Luân Vương
Chương 23 - Bốn tầng thiền hữu sắc và bốn tầng thiền vô
sắc
Chương 24 - Quán tưởng về cái chết
* * * |
Bhikkhu ANALAYO (1962-)
Centre for Buddhist Studies, University of Hamburg, Germany
tỳ-khưu Analayo sinh năm 1962 tại Đức. Sư xuất gia gieo duyên năm
1990 tại chùa Wat Suan Mokkh ở miền nam Thái Lan. Năm 1994, Sư đến
Sri Lanka xuất gia với ngài Hòa thượng Balangoda Ananda Maitreya, và
sau đó thọ giới tỳ-khưu với Hòa thượng Pemasiri vào năm 2007 trong
hệ phái Shwegyin Nikaya (bắt nguồn từ hệ phái chính Amarapura
Nikaya). Tuy nhiên, Bhikkhu Bodhi là vị thầy chính.
Sư hoàn tất chương trình tiến sĩ tại University of Peradeniya năm
2000 và luận án tiến sĩ được xuất bảm thành sách với tựa đề
“Satipaṭṭhāna, the Direct Path to Realization”. Cuốn sách được nhiều
người khen ngợi, đã được tái bản nhiều lần và dịch sang 10 thứ
tiếng. Bản tiếng Việt được Cư sĩ Nguyễn Văn Ngân dịch, với tựa đề
“Satipaṭṭhāna, Con đường thẳng tới giác ngộ”, xuất bản năm 2017.
Hiện nay, Sư là giáo sư Phật học tại Trung tâm Phật học của Đại
học Hamburg, Đức quốc (Centre for Buddhist Studies, University of
Hamburg), Đại học Phật giáo Pháp Cổ, Đài Loan (Dharma Drum Buddhist
College, Taiwan). Sư là đồng sáng lập viên Nhóm Nghiên cứu A-hàm
(Āgama Research Group) và là giảng sư của Trung tâm Phật học Barre,
Hoa Kỳ (Barre Center for Buddhist Studies).
Hiện nay (2018), ngài trú và tịnh tu tại Trung tâm Phật học
Barre, bang Massachusetts, Hoa Kỳ.
Các nguồn thông tin:
1) Wikipedia:
https://en.wikipedia.org/wiki/Bhikkhu_Analayo
2) University of Hamburg:
https://www.buddhismuskunde.uni-hamburg.de/en/personen/analayo.html
------------------
Giáo sư AMING TU
Giáo sư Aming Tu (杜正民 - Đỗ Chính Dân, Du Zhengmin) là một sáng
lập viên của hội CBETA (Chinese Buddhist Electronic Text
Association, Hiệp hội Kinh văn Điện tử Phật giáo Trung Hoa) và đã
từng là Giám đốc Điều hành của Hội (1998-2006). Ông là giáo sư Tin
học và đã có nhiều đóng góp quan trọng trong dự án số hóa Tam tạng
Kinh điển tiếng Hán. Năm 2005, ông bị bệnh và được chẩn đoán là bị
bệnh ung thư gan, phải vào bệnh viện 10 ngày và trải qua một cơn đau
đớn rất khắc nghiệt.
Sau khi rời bệnh viện, ông tìm đọc các bản kinh trong Hán tạng và
tạng Pali có ghi lại các lời dạy của Đức Phật và các vị đại đệ tử để
đối phó với cơn đau, bệnh tật và cái chết. Ông suy ngẫm và thực hành
theo đó, và nhờ vậy, đã giúp ông rất nhiều để chịu đựng các cơn đau
và viễn ảnh của cái chết không thể tránh được.
Ông thảo luận các vấn đề nầy với tỳ-khưu Anālayo – lúc ấy, Sư
đang nghiên cứu và dịch các bản kinh A-hàm. Ông đề nghị Sư khai
triển thành một cuốn sách với nội dung về phương cách đối diện với
bệnh tật và cái chết, dựa theo các bản kinh của Phật giáo Sơ kỳ – bộ
A-hàm trong Hán tạng và Nikāya trong tạng Pāli, cùng với những hướng
dẫn thực tế để hành thiền, giúp hành giả có đủ nghị lực, hiểu biết
và tỉnh thức để trực diện với các vấn đề tất yếu đó của kiếp người.
Sau khi Sư hoàn tất viết cuốn sách, Gs Tu đọc bản thảo, rất hoan
hỷ và viết Lời Bạt, đề cập đến nguyên nhân ra đời của cuốn sách.
Cuốn sách được xuất bản vào đầu năm 2017 và được nhiều vị thiền sư,
học giả khen ngợi, tán thán. Một điều buồn là Gs Aming Tu không thấy
được ấn bản chính thức. Ông qua đời vào tháng 11 năm 2016.
* * * |
[
Home ]
13/04/2020