Đàm luận Phật Pháp
- 212 -
Thiền quán niệm: Hướng dẫn thực
hành
IX. Quán bảy giác chi
BỐN PHÁP LẬP
NIỆM Lược trích Này các tỳ-khưu, thế nào là tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp?
Ở đây, tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với bảy giác chi. Và
thế nào là tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với bảy giác chi? Ở đây, khi trong tâm có niệm giác chi, tỳ-khưu biết rõ: “Trong
tâm tôi có niệm giác chi”; hay trong tâm không có niệm giác chi,
biết rõ: “Trong tâm tôi không có niệm giác chi”. Vị ấy biết rõ như
thế nào niệm giác chi chưa sinh, nay sinh khởi; và biết rõ như thế
nào niệm giác chi đã sinh, nay được tu tập viên thành. Khi trong tâm có trạch pháp giác chi, tỳ-khưu biết rõ: “Trong tâm
tôi có trạch pháp giác chi;” hay trong tâm không có trạch pháp giác
chi, biết rõ: “Trong tâm tôi không có trạch pháp giác chi”. Vị ấy
biết rõ như thế nào trạch pháp giác chi chưa sinh, nay sinh khởi; và
biết rõ như thế nào trạch pháp giác chi đã sinh, nay được tu tập
viên thành. Khi trong tâm có tinh tấn giác chi, tỳ-khưu biết rõ: “Trong tâm
tôi có tinh tấn giác chi”; hay trong tâm không có tinh tấn giác chi,
biết rõ: “Trong tâm tôi không có tinh tấn giác chi”. Vị ấy biết rõ
như thế nào tinh tấn giác chi chưa sinh, nay sinh khởi; và biết rõ
như thế nào tinh tấn giác chi đã sinh, nay được tu tập viên thành. Khi trong tâm có hỷ giác chi, tỳ-khưu biết rõ: “Trong tâm tôi có
hỷ giác chi”; hay trong tâm không có hỷ giác chi, biết rõ: “Trong
tâm tôi không có hỷ giác chi”. Vị ấy biết rõ như thế nào hỷ giác chi
chưa sinh, nay sinh khởi; và biết rõ như thế nào hỷ giác chi đã
sinh, nay được tu tập viên thành. Khi trong tâm có khinh an giác chi, tỳ-khưu biết rõ: “Trong tâm
tôi có khinh an giác chi”; hay trong tâm không có khinh an giác chi,
biết rõ: “Trong tâm tôi không có khinh an giác chi”. Vị ấy biết rõ
như thế nào khinh an giác chi chưa sinh, nay sinh khởi; và biết rõ
như thế nào khinh an giác chi đã sinh, nay được tu tập viên thành. Khi trong tâm có định giác chi, tỳ-khưu biết rõ: “Trong tâm tôi
có định giác chi”; hay trong tâm không có định giác chi, biết rõ:
“Trong tâm tôi không có định giác chi”. Vị ấy biết rõ như thế nào
định giác chi chưa sinh, nay sinh khởi; và biết rõ như thế nào định
giác chi đã sinh, nay được tu tập viên thành. Khi trong tâm có xả giác chi, tỳ-khưu biết rõ: “Trong tâm tôi có
xả giác chi”; hay trong tâm không có xả giác chi, biết rõ: “Trong
tâm tôi không có xả giác chi”. Vị ấy biết rõ như thế nào xả giác chi
chưa sinh, nay sinh khởi; và biết rõ như thế nào xả giác chi đã
sinh, nay được tu tập viên thành. [ĐIỆP KHÚC]
– (Kinh Lập Niệm - Satipaṭṭhāna Sutta, MN10) Kinh Niệm Xứ (MA 98) Thế nào gọi là niệm xứ quán
pháp như pháp? Lại nữa, Tỳ-kheo quán pháp như pháp; Tỳ-kheo bên trong thật có
niệm giác chi thì biết đúng như thật là có niệm giác chi; bên trong
thật không có niệm giác chi thì biết đúng như thật là không có niệm
giác chi. Niệm giác chi chưa sinh nay sinh, biết đúng như thật. Niệm
giác chi đã sinh thì ghi nhớ không quên, không suy thoái, tu tập
càng lúc càng tăng trưởng, biết đúng như thật. Với trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định và xả cũng giống như
vậy. ... Bên trong thật có xả giác chi thì biết đúng như thật là
đang có xả giác chi, bên trong thật không có xả giác chi thì biết
đúng như thật là không có xả giác chi. Xả giác chi chưa sinh nay
sinh, biết đúng như thật, xả giác chi đã sinh thì ghi nhớ không
quên, không suy thoái, tu tập càng lúc càng tăng trưởng, biết đúng
như thật. Tỳ-kheo như vậy quán nội pháp đúng như pháp, quán ngoại pháp
đúng như pháp, lập niệm tại pháp, có tri, có kiến, có minh, có đạt.
Như vậy gọi là Tỳ-kheo quán pháp như pháp, nghĩa là quán bảy giác
chi. Kinh Nhất Nhập Đạo (SA
12.1)
Thế nào là Tỳ-kheo tu niệm xứ, quán tướng của pháp nơi pháp?
Ở đây, Tỳ-kheo tu niệm giác chi, y quán, y vô dục, y diệt tận, trừ
bỏ các pháp ác. Tu trạch pháp giác chi, tu tinh tấn giác chi, tu hỷ
giác chi, tu khinh an giác chi, tu định giác chi, tu xả giác chi, y
quán, y vô dục, y diệt tận, trừ bỏ các pháp ác. Như vậy, Tỳ-kheo tu
niệm xứ, quán tướng của pháp nơi pháp. * * * Tỳ-khưu Analayo sinh năm 1962 tại Đức. Sư xuất gia gieo duyên năm
1990 tại chùa Wat Suan Mokkh ở miền nam Thái Lan. Năm 1994, Sư đến
Sri Lanka xuất gia với ngài Hòa thượng Balangoda Ananda Maitreya, và
sau đó thọ giới tỳ-khưu với Hòa thượng Pemasiri vào năm 2007 trong
hệ phái Shwegyin Nikaya (bắt nguồn từ hệ phái chính Amarapura
Nikaya). Tuy nhiên, Bhikkhu Bodhi là vị thầy chính. Sư hoàn tất chương trình tiến sĩ tại University of Peradeniya năm
2000 và luận án tiến sĩ được xuất bảm thành sách với tựa đề
“Satipaṭṭhāna, the Direct Path to Realization”. Cuốn sách được nhiều
người khen ngợi, đã được tái bản nhiều lần và dịch sang 10 thứ
tiếng. Bản tiếng Việt được Cư sĩ Nguyễn Văn Ngân dịch, với tựa đề
“Satipaṭṭhāna, Con đường thẳng tới giác ngộ”, xuất bản năm 2017. Hiện nay, Sư là giáo sư Phật học tại Trung tâm Phật học của Đại
học Hamburg, Đức quốc (Centre for Buddhist Studies, University of
Hamburg), Đại học Phật giáo Pháp Cổ, Đài Loan (Dharma Drum Buddhist
College, Taiwan). Sư là đồng sáng lập viên Nhóm Nghiên cứu A-hàm
(Āgama Research Group) và là giảng sư của Trung tâm Phật học Barre,
Hoa Kỳ (Barre Center for Buddhist Studies). Hiện nay (2018), ngài trú và tịnh tu tại Trung tâm Phật học
Barre, bang Massachusetts, Hoa Kỳ. Các nguồn thông tin: 1) Wikipedia:
https://en.wikipedia.org/wiki/Bhikkhu_Analayo ------------------ Cư sĩ NGUYỄN VĂN NGÂN
Cư sĩ Dhammaruci Nguyễn Văn Ngân cư ngụ tại Canada, là dịch giả
các cuốn sách: Abhidhamma Áp Dụng (2002)
Kinh Lập Niệm
Satipaṭṭhāna Sutta, MN 10
Bằng cách ấy, vị ấy sống quán pháp như các pháp bên trong … bên
ngoài … bên trong và bên ngoài. Hay vị ấy sống quán tính sinh khởi …
diệt tận trong pháp … sinh và diệt trong pháp. Hay niệm “có pháp
đây”được thiết lập nơi vị ấy với mức độ cần thiết để hiểu biết và
ghi nhớ đầy đủ. Và vị ấy sống độc lập, không bám chấp điều gì trên
đời. Như vậy là tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với bảy giác
chi.
Trung A-hàm, kinh số 98
Tạp A-hàm, Phẩm 12, Kinh số 1
Bhikkhu ANALAYO (1962-)
Centre for Buddhist Studies, University of Hamburg, Germany
2) University of Hamburg:
https://www.buddhismuskunde.uni-hamburg.de/en/personen/analayo.html
Giải Thoát Bằng Năm Tập Hợp (2003)
Phân Tích (2005)
Đạo Vô Ngại Giải (2006); tái bản (2015)
Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật (2016)
Satipaṭṭhāna, Con đường thẳng tới giác ngộ (2017)
[ Home ]
19-11-2018