Đàm luận Phật Pháp
- 211 -
Thiền quán niệm: Hướng dẫn thực
hành
VIII. Quán các triền cái
BỐN PHÁP LẬP
NIỆM Lược trích Này các tỳ-khưu, thế nào là tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp?
Ở đây, tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với năm triền cái. Và
thế nào là tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với năm triền
cái? Ở đây, khi trong tâm có tham dục, tỳ-khưu biết rõ: “Trong tâm tôi
có tham dục”; hay trong tâm không có tham dục, biết rõ: “Trong tâm
tôi không có tham dục”. Và vị ấy biết rõ như thế nào tham dục chưa
sinh, nay sinh khởi; biết rõ như thế nào tham dục đã sinh, nay được
đoạn diệt; và biết rõ như thế nào với tham dục đã được đoạn diệt,
trong tương lai không sinh khởi nữa. Khi trong tâm có sân hận, tỳ-khưu biết rõ: “Trong tâm tôi có sân
hận”; hay trong tâm không có sân hận, biết rõ: “Trong tâm tôi không
có sân hận”. Và vị ấy biết rõ như thế nào sân hận chưa sinh, nay
sinh khởi; biết rõ như thế nào sân hận đã sinh, nay được đoạn diệt;
và biết rõ như thế nào với sân hận đã được đoạn diệt, trong tương
lai không sinh khởi nữa. Khi trong tâm có hôn trầm thụy miên, tỳ-khưu biết rõ: “Trong tâm
tôi có hôn trầm thụy miên”; hay trong tâm không có hôn trầm thụy
miên, biết rõ: “Trong tâm tôi không có hôn trầm thụy miên”. Và vị ấy
biết rõ như thế nào hôn trầm thụy miên chưa sinh, nay sinh khởi;
biết rõ như thế nào hôn trầm thụy miên đã sinh, nay được đoạn diệt;
và biết rõ như thế nào với hôn trầm thụy miên đã được đoạn diệt,
trong tương lai không sinh khởi nữa. Khi trong tâm có trạo hối, tỳ-khưu biết rõ: “Trong tâm tôi có
trạo hối”; hay trong tâm không có trạo hối, biết rõ: “Trong tâm tôi
không có trạo hối”. Và vị ấy biết rõ như thế nào trạo hối chưa sinh,
nay sinh khởi; biết rõ như thế nào trạo hối đã sinh, nay được đoạn
diệt; và biết rõ như thế nào với trạo hối đã được đoạn diệt, trong
tương lai không sinh khởi nữa. Khi trong tâm có nghi ngờ, tỳ-khưu biết rõ: “Trong tâm tôi có
nghi ngờ”; hay trong tâm không có nghi ngờ, biết rõ: “Trong tâm tôi
không có nghi ngờ”. Và vị ấy biết rõ như thế nào nghi ngờ chưa sinh,
nay sinh khởi; biết rõ như thế nào nghi ngờ đã sinh, nay được đoạn
diệt; và biết rõ như thế nào với nghi ngờ đã được đoạn diệt, trong
tương lai không sinh khởi nữa. [ĐIỆP KHÚC]
– (Kinh Lập Niệm - Satipaṭṭhāna Sutta, MN10) Kinh Niệm Xứ (MA 98) Thế nào gọi là niệm xứ quán
pháp như pháp? Lại nữa, Tỳ-kheo quán pháp như pháp; Tỳ-kheo bên trong thật có ái
dục thì biết đúng như thật là đang có ái dục, bên trong thật không
có ái dục thì biết đúng như thật là không có ái dục. Ái dục chưa
sanh nay sanh, biết đúng như thật. Ái dục đã sanh và đã được đoạn
trừ, không sanh lại nữa, biết đúng như thật. Với sân nhuế, thùy
miên, điệu hối và nghi cũng giống như vậy. Bên trong thật có nghi,
biết đúng như thật là đang có nghi; bên trong thật không có nghi,
biết đúng như thật là không có nghi. Nghi chưa sanh, nay đã sanh,
biết đúng như thật. Nghi đã sanh và đã được đoạn trừ, không sanh lại
nữa, biết đúng như thật. Tỳ-kheo như vậy quán nội pháp đúng như pháp, quán ngoại pháp
đúng như pháp, lập niệm tại pháp, có tri, có kiến, có minh, có đạt.
Như vậy gọi là Tỳ-kheo quán pháp như pháp, nghĩa là quán năm triền
cái. Kinh Nhất Nhập Đạo (SA
12.1) Lại nữa, Tỳ-kheo
đã giải thoát khỏi ái dục, trừ pháp ác bất thiện, có tầm, có tứ, có
hỷ và lạc do viễn ly sinh, chứng nhập và an trú sơ thiền. Như vậy,
Tỳ-kheo tu niệm xứ, quán tướng của pháp nơi pháp. Lại nữa, Tỳ-kheo
xả tầm và tứ, nội tâm tịch tĩnh, chuyên nhất ý, không tầm, không tứ,
có hỷ lạc do định sinh, chứng nhập và an trú nhị thiền. Như vậy,
Tỳ-kheo tu niệm xứ, quán tướng của pháp nơi pháp. Lại nữa, Tỳ-kheo
ly hỷ, an trú xả, hằng tự giác tri, thân có tri giác lạc, điều mà
các hiền thánh nói là xả, niệm, an trú lạc, chứng nhập và an trú tam
thiền. Như vậy, Tỳ-kheo tu niệm xứ, quán tướng của pháp nơi pháp.
Lại nữa, Tỳ-kheo xả tâm lạc khổ, ưu và hỷ từ trước đã trừ, không lạc
không khổ, xả, niệm thanh tịnh, an trú nơi tứ thiền. Như vậy,
Tỳ-kheo tu niệm xứ, quán tướng của pháp nơi pháp. * * * Tỳ-khưu Analayo sinh năm 1962 tại Đức. Sư xuất gia gieo duyên năm
1990 tại chùa Wat Suan Mokkh ở miền nam Thái Lan. Năm 1994, Sư đến
Sri Lanka xuất gia với ngài Hòa thượng Balangoda Ananda Maitreya, và
sau đó thọ giới tỳ-khưu với Hòa thượng Pemasiri vào năm 2007 trong
hệ phái Shwegyin Nikaya (bắt nguồn từ hệ phái chính Amarapura
Nikaya). Tuy nhiên, Bhikkhu Bodhi là vị thầy chính. Sư hoàn tất chương trình tiến sĩ tại University of Peradeniya năm
2000 và luận án tiến sĩ được xuất bảm thành sách với tựa đề
“Satipaṭṭhāna, the Direct Path to Realization”. Cuốn sách được nhiều
người khen ngợi, đã được tái bản nhiều lần và dịch sang 10 thứ
tiếng. Bản tiếng Việt được Cư sĩ Nguyễn Văn Ngân dịch, với tựa đề
“Satipaṭṭhāna, Con đường thẳng tới giác ngộ”, xuất bản năm 2017. Hiện nay, Sư là giáo sư Phật học tại Trung tâm Phật học của Đại
học Hamburg, Đức quốc (Centre for Buddhist Studies, University of
Hamburg), Đại học Phật giáo Pháp Cổ, Đài Loan (Dharma Drum Buddhist
College, Taiwan). Sư là đồng sáng lập viên Nhóm Nghiên cứu A-hàm
(Āgama Research Group) và là giảng sư của Trung tâm Phật học Barre,
Hoa Kỳ (Barre Center for Buddhist Studies). Hiện nay (2018), ngài trú và tịnh tu tại Trung tâm Phật học
Barre, bang Massachusetts, Hoa Kỳ. Các nguồn thông tin: 1) Wikipedia:
https://en.wikipedia.org/wiki/Bhikkhu_Analayo ------------------ Cư sĩ NGUYỄN VĂN NGÂN
Cư sĩ Dhammaruci Nguyễn Văn Ngân cư ngụ tại Canada, là dịch giả
các cuốn sách: Abhidhamma Áp Dụng (2002)
Kinh Lập Niệm
Satipaṭṭhāna Sutta, MN 10
Bằng cách ấy, vị ấy sống quán pháp như các pháp bên trong … bên
ngoài … bên trong và bên ngoài. Hay vị ấy sống quán tính sinh khởi …
diệt tận trong pháp … sinh và diệt trong pháp. Hay niệm “có pháp
đây”được thiết lập nơi vị ấy với mức độ cần thiết để hiểu biết và
ghi nhớ đầy đủ. Và vị ấy sống độc lập, không bám chấp điều gì trên
đời. Như vậy là tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với năm
triền cái.
Trung A-hàm, kinh số 98
Tạp A-hàm, Phẩm 12, Kinh số 1
Bhikkhu ANALAYO (1962-)
Centre for Buddhist Studies, University of Hamburg, Germany
2) University of Hamburg:
https://www.buddhismuskunde.uni-hamburg.de/en/personen/analayo.html
Giải Thoát Bằng Năm Tập Hợp (2003)
Phân Tích (2005)
Đạo Vô Ngại Giải (2006); tái bản (2015)
Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật (2016)
Satipaṭṭhāna, Con đường thẳng tới giác ngộ (2017)
[ Home ]
11-11-2018