Đàm luận Phật Pháp
- 209 -
Thiền quán niệm: Hướng dẫn thực
hành
VI. Quán các cảm thọ
BỐN PHÁP LẬP
NIỆM Lược trích Này các tỳ-khưu, tỳ-khưu sống quán thân như thân, nhiệt tâm, tỉnh
giác, niệm, chế ngự tham ưu ở đời. Thế nào là tỳ-khưu sống quán thọ
như các thọ? [QUÁN THỌ] Ở đây tỳ-khưu khi cảm giác lạc thọ, biết rõ: “Tôi cảm giác lạc
thọ;” khi cảm giác khổ thọ, biết rõ: “Tôi cảm giác khổ thọ;” khi cảm
giác bất khổ bất lạc thọ, biết rõ: “Tôi cảm giác bất khổ bất lạc
thọ”. Hay khi cảm giác lạc thọ thuộc vật chất, biết rõ: “Tôi cảm giác
lạc thọ thuộc vật chất;” hay khi cảm giác lạc thọ không thuộc vật
chất, biết rõ: “Tôi cảm giác lạc thọ không thuộc vật chất”. Hay khi cảm giác khổ thọ thuộc vật chất, biết rõ: “Tôi cảm giác
khổ thọ thuộc vật chất;” hay khi cảm giác khổ thọ không thuộc vật
chất, biết rõ: “Tôi cảm giác khổ thọ không thuộc vật chất”. Hay khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ thuộc vật chất, biết rõ:
“Tôi cảm giác bất khổ bất lạc thọ thuộc vật chất;” hay khi cảm giác
bất khổ bất lạc thọ không thuộc vật chất, biết rõ: “Tôi cảm giác bất
khổ bất lạc thọ không thuộc vật chất”. Như vậy, vị ấy sống quán thọ như các thọ bên trong; hay sống
quán thọ như các thọ bên ngoài; hay sống quán thọ như các thọ bên
trong và bên ngoài. Hay vị ấy sống quán tính sinh khởi trong các
thọ, hay sống quán tính diệt tận trong các thọ; hay sống quán tánh
sinh và diệt trong các thọ. Hay nhận thức “có cảm thọ đây”được thiết
lập nơi vị ấy với mức độ cần thiết để hiểu biết và ghi nhớ đầy đủ.
Và vị ấy không nương tựa, không chấp trước vật gì trên đời. Này các
tỳ-khưu, như vậy là tỳ-khưu sống quán thọ như các thọ.
– (Kinh Lập Niệm - Satipaṭṭhāna Sutta, MN10) Kinh Niệm Xứ (MA 98) “Thế nào gọi là niệm xứ quán
thọ như thọ?
Tỳ-khưu khi thọ nhận cảm giác lạc liền biết đang thọ nhận cảm
giác lạc, khi thọ nhận cảm giác khổ liền biết đang thọ nhận cảm giác
khổ, khi thọ nhận cảm giác không lạc không khổ liền biết đang thọ
nhận cảm giác không lạc không khổ.
Khi thân thọ nhận cảm giác lạc, thân thọ nhận cảm giác khổ, thân
thọ nhận cảm giác không lạc không khổ;
khi tâm thọ nhận cảm giác lạc, tâm thọ nhận cảm giác khổ, tâm thọ
nhận cảm giác không lạc không khổ;
cảm giác lạc khi ăn, cảm giác khổ khi ăn, cảm giác không lạc
không khổ khi ăn; cảm giác lạc khi không ăn, cảm giác khổ khi không
ăn, cảm giác không lạc không khổ khi không ăn;
cảm giác lạc khi có dục, cảm giác khổ khi có dục, cảm giác không
khổ không lạc khi có dục; cảm giác lạc khi không có dục, cảm giác
khổ khi không có dục, cảm giác không lạc không khổ khi không có dục.
Tỳ-khưu như vậy, quán thọ nơi nội thọ, quán thọ nơi ngoại thọ,
dựng niệm tại thọ, có tri, có kiến, có minh, có đạt. Như vậy gọi là
tỳ-khưu quán thọ như thọ. Nếu tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni từng chi tiết quán
thọ như thọ như vậy, gọi là niệm xứ quán thọ như thọ.” Kinh Nhất Nhập Đạo (SA
12.1) “Thế nào là
Tỳ-khưu quán thọ nơi nội thọ?
Ở đây, Tỳ-khưu khi có cảm thọ lạc, tức thì tự giác tri rằng ta có
cảm thọ lạc. Khi có cảm thọ khổ, tức thì tự giác tri rằng ta có cảm
thọ khổ. Khi có cảm thọ không lạc không khổ, tự giác tri rằng ta có
cảm thọ không lạc không khổ.
Nếu khi được cảm thọ lạc bởi vật dục, liền tự giác tri ta được
cảm thọ lạc bởi vật dục. Nếu khi được cảm thọ khổ bởi vật dục, liền
tự giác tri ta được cảm thọ khổ bởi vật dục. Nếu khi được cảm thọ
không lạc không khổ bởi vật dục, liền tự giác tri ta được cảm thọ
không lạc không khổ bởi vật dục.
Nếu khi được cảm thọ lạc phi vật dục, liền tự giác tri ta được
cảm thọ lạc phi vật dục. Nếu được cảm thọ khổ phi vật dục, liền tự
giác tri ta được cảm thọ khổ phi vật dục. Nếu khi được cảm thọ không
lạc không khổ phi vật dục, liền tự giác tri ta được cảm thọ không
lạc không khổ phi vật dục. Tỳ-khưu bên tự quán nội thọ như vậy.
“Lại nữa, nếu Tỳ-khưu lúc được cảm thọ lạc, lúc ấy không có cảm thọ
khổ, bấy giờ tự giác tri ta đang cảm thọ lạc. Nếu lúc được cảm thọ
khổ, lúc ấy không có cảm thọ lạc, bấy giờ tự giác tri ta đang cảm
thọ khổ. Nếu khi được cảm thọ không lạc không khổ, lúc đó không có
lạc, không có khổ, thì tự giác tri ta đang cảm thọ không lạc không
khổ. “Vị đó quán pháp tập khởi mà tự an trú, cũng quán pháp
diệt tận, lại quán pháp tập diệt. Hoặc lại có thọ hiện ở trước mà có
thể biết, có thể thấy; vị ấy tư duy nguồn gốc của nó, không nương
tựa vào đâu mà tự an trú, không khởi niệm tưởng về thế gian. Ở trong
đó cũng không kinh sợ. Do không kinh sợ mà đạt đến Niết-bàn, như
thật biết rằng: ‘Sinh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc phải làm đã
làm xong, không còn tái sinh đời sau nữa.’ Tỳ-khưu tự quán nội thọ
như vậy, trừ bỏ loạn niệm không có sầu lo. Tự quán ngoại thọ, quán
nội ngoại thọ, trừ bỏ loạn niệm không có sầu lo. Như vậy Tỳ-khưu nội
ngoại quán thọ." * * * Tỳ-khưu Analayo sinh năm 1962 tại Đức. Sư xuất gia gieo duyên năm
1990 tại chùa Wat Suan Mokkh ở miền nam Thái Lan. Năm 1994, Sư đến
Sri Lanka xuất gia với ngài Hòa thượng Balangoda Ananda Maitreya, và
sau đó thọ giới tỳ-khưu với Hòa thượng Pemasiri vào năm 2007 trong
hệ phái Shwegyin Nikaya (bắt nguồn từ hệ phái chính Amarapura
Nikaya). Tuy nhiên, Bhikkhu Bodhi là vị thầy chính. Sư hoàn tất chương trình tiến sĩ tại University of Peradeniya năm
2000 và luận án tiến sĩ được xuất bảm thành sách với tựa đề
“Satipaṭṭhāna, the Direct Path to Realization”. Cuốn sách được nhiều
người khen ngợi, đã được tái bản nhiều lần và dịch sang 10 thứ
tiếng. Bản tiếng Việt được Cư sĩ Nguyễn Văn Ngân dịch, với tựa đề
“Satipaṭṭhāna, Con đường thẳng tới giác ngộ”, xuất bản năm 2017. Hiện nay, Sư là giáo sư Phật học tại Trung tâm Phật học của Đại
học Hamburg, Đức quốc (Centre for Buddhist Studies, University of
Hamburg), Đại học Phật giáo Pháp Cổ, Đài Loan (Dharma Drum Buddhist
College, Taiwan). Sư là đồng sáng lập viên Nhóm Nghiên cứu A-hàm
(Āgama Research Group) và là giảng sư của Trung tâm Phật học Barre,
Hoa Kỳ (Barre Center for Buddhist Studies). Hiện nay (2018), ngài trú và tịnh tu tại Trung tâm Phật học
Barre, bang Massachusetts, Hoa Kỳ. Các nguồn thông tin: 1) Wikipedia:
https://en.wikipedia.org/wiki/Bhikkhu_Analayo ------------------ Cư sĩ NGUYỄN VĂN NGÂN
Cư sĩ Dhammaruci Nguyễn Văn Ngân cư ngụ tại Canada, là dịch giả
các cuốn sách: Abhidhamma Áp Dụng (2002)
Kinh Lập Niệm
Satipaṭṭhāna Sutta, MN 10
Trung A-hàm, kinh số 98
Tạp A-hàm, Phẩm 12, Kinh số 1
Bhikkhu ANALAYO (1962-)
Centre for Buddhist Studies, University of Hamburg, Germany
2) University of Hamburg:
https://www.buddhismuskunde.uni-hamburg.de/en/personen/analayo.html
Giải Thoát Bằng Năm Tập Hợp (2003)
Phân Tích (2005)
Đạo Vô Ngại Giải (2006); tái bản (2015)
Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật (2016)
Satipaṭṭhāna, Con đường thẳng tới giác ngộ (2017)
[ Home ]
26-10-2018