Đàm luận Phật Pháp
- 207 -
Thiền quán niệm: Hướng dẫn thực
hành
IV. Quán tứ đại
BỐN PHÁP LẬP
NIỆM Lược trích –Tỳ-khưu sống quán thân như thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, chế
ngự tham ưu ở đời. Thế nào là tỳ-khưu sống quán thân như thân? Tỳ-khưu quán sát thân này, ở bất cứ vị trí hay oai nghi nào, chỉ
gồm có các phần tử: “Trong thân này có địa đại, thủy đại, hỏa đại và
phong đại”. Như một người đồ tể thiện xảo, hay học trò của người ấy, giết một
con bò rồi ngồi cắt chia từng phần tại ngã tư đường. Cũng vậy, này
các tỳ-khưu, tỳ-khưu quán sát thân này, ở bất cứ vị trí hay oai nghi
nào, chỉ gồm có các phần tử: “Trong thân này có địa đại, thủy đại,
hỏa đại và phong đại”. [Điệp khúc]
–(MN 10, Kinh Lập Niệm - Satipaṭṭhāna Sutta)
Kinh Niệm Xứ (MA 98) … Lại nữa, tỳ-khưu quán
thân như thân; tỳ-khưu quán sát giới trong thân rằng: ‘Trong thân
này của ta có địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới,
thức giới’. Như gã đồ tể mổ bò, lột hết bộ da, trải lên mặt đất,
phân thành sáu đoạn; cũng vậy, tỳ-khưu quán các giới trong thân rằng
‘Trong thân này của ta có địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới,
không giới, thức giới’. Tỳ-khưu khéo giữ tướng trạng tu quán, khéo
nhớ điều niệm, cũng giống như vậy. Tỳ-khưu như vậy, quán nội thân
như thân; quán ngoại thân như thân; lập niệm tại thân, có tri, có
kiến, có minh, có đạt. Như vậy gọi là tỳ-khưu quán thân như thân.
Kinh Nhất Nhập Đạo (SA
12.1) … Lại nữa, tỳ-khưu
quán thân này, phân biệt các giới; thân này có bốn đại chủng. Giống
như người khéo mổ bò, hoặc học trò người mổ bò, xẻ con bò từng phần
để tự xem xét: đây là chân, đây là tim, đây là đốt xương, đây là
đầu. Cũng vậy, tỳ-khưu kia phân biệt giới này mà tự quán sát: thân
này có các đại chủng đất, nước, lửa, gió. Tỳ-khưu quán sát thân như
vậy mà tự an trú. * * * TỨ ĐẠI, CATTĀRI
MAHĀ-BHŪTĀNI, CATTĀRI DHĀTU Dựa theo Buddhist Dictionary, Nyanatiloka Mahathera (1980) và
Phật Quang Đại từ điển: Tứ đại 四大 - cattāri mahā-bhūtāni, là tên gọi tắt của tứ đại
chủng, bốn loại lớn 四大種, còn gọi là 四界 Tứ giới - cattāri dhātu, được
hiểu theo quan kiến của người Ấn Độ thời Đức Phật là bốn tính chất
căn bản của vật chất hay sắc pháp. Đó là: 1) Đất (địa đại, địa giới, paṭhavī-dhātu): Chất có tính cứng,
chắc, thô. 2) Nước (thủy đại, thủy giới, āpo-dhātu): Chất có tính lỏng,
thấm ướt, dính, kết hợp. 3) Lửa (hỏa đại, hỏa giới, tejo-dhātu): Chất có có tính
nhiệt. 4) Gió (phong đại, phong giới, vāyo-dhātu): Chất có tính
chuyển động, dưỡng nuôi. Bốn chất căn bản hay nguyên tố (elements) nầy có mặt trong mọi
hiện tượng, đối tượng vật lý hay sắc pháp với những cường độ khác
nhau. 1) Lược trích Đại kinh Dụ Dấu Chân Voi
(MN 28): … Có nội địa giới, có ngoại địa giới. Thế nào là nội địa
giới? Cái gì thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thô phù, kiên cứng, bị
chấp thủ; như tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy,
thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bao
tử, phân, và bất cứ vật gì khác thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thô
phù, kiên cứng, bị chấp thủ. Như vậy gọi là nội địa giới. Những gì
thuộc nội địa giới và những gì thuộc ngoại địa giới đều thuộc về địa
giới. Cần phải như thật quán sát địa giới với chánh trí tuệ như sau:
“Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này
không phải tự ngã của tôi”. Sau khi như thật quán sát địa giới với
chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sinh yểm ly đối với địa giới, tâm từ bỏ
địa giới. … Có nội thủy giới, có ngoại thủy giới. Thế nào là nội
thủy giới? Cái gì thuộc về nội thân, thuộc cá nhân, thuộc nước,
thuộc chất lỏng, bị chấp thủ; như mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ,
nước mắt, mỡ da, nước miếng, niêm dịch, nước ở khớp xương, nước
tiểu, và bất cứ vật gì khác thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc
nước, thuộc chất lỏng, bị chấp thủ. Như vậy gọi là nội thủy giới.
Những gì thuộc nội thủy giới và những gì thuộc ngoại thủy giới, đều
thuộc về thủy giới. Cần phải như thật quán sát thủy giới với chánh trí tuệ như sau:
“Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này
không phải tự ngã của tôi”. Sau khi như thật quán sát thủy giới với
chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sinh yểm ly đối với địa giới, tâm từ bỏ
thủy giới. … Có nội hỏa giới, có ngoại hỏa giới. Thế nào là nội hỏa
giới? Cái gì thuộc về nội thân, thuộc về cá nhân, thuộc lửa, thuộc
chất nóng, bị chấp thủ; như cái gì khiến cho hâm nóng, khiến cho hủy
hoại, khiến cho thiêu cháy; cái gì khiến cho những vật được ăn uống,
nhai, nếm, có thể khéo tiêu hóa, hay tất cả những vật gì khác thuộc
nội thân, thuộc cá nhân, thuộc lửa, thuộc chất nóng, bị chấp thủ.
Như vậy gọi là nội hỏa giới. Những gì thuộc nội hỏa giới và những gì
thuộc ngoại hỏa giới, đều thuộc về hỏa giới. Cần phải như thật quán sát hỏa giới với chánh trí tuệ như sau:
“Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này
không phải tự ngã của tôi”. Sau khi như thật quán sát hỏa giới với
chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sinh yểm ly đối với địa giới, tâm từ bỏ
hỏa giới. … Có nội phong giới, có ngoại phong giới. Thế nào là nội
phong giới? Cái gì thuộc về nội thân, thuộc cá nhân, thuộc gió,
thuộc động tánh, bị chấp thủ; như gió thổi lên, gió thổi xuống, gió
trong ruột, gió trong bụng dưới, gió thổi ngang tay chân, hơi thở
vô, hơi thở ra, và bất cứ vật gì khác thuộc nội thân, thuộc cá nhân,
thuộc gió, thuộc tánh động, bị chấp thủ. Như vậy gọi là nội phong
giới. Những gì thuộc nội phong giới và những gì thuộc ngoại phong
giới đều thuộc về phong giới. Cần phải như thật quán sát phong giới với chánh trí tuệ như sau:
“Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này
không phải tự ngã của tôi”. Sau khi như thật quán sát phong giới với
chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sinh yểm ly đối với phong giới, tâm từ
bỏ phong giới. 2) Lược trích Kinh Lập Niệm -
Satipaṭṭhāna Sutta, MN 10 –Tỳ-khưu sống quán thân như thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, chế
ngự tham ưu ở đời. Thế nào là tỳ-khưu sống quán thân như thân? Tỳ-khưu quán sát thân này, ở bất cứ vị trí hay oai nghi nào, chỉ
gồm có các phần tử: “Trong thân này có địa đại, thủy đại, hỏa đại và
phong đại”. Như một người đồ tể thiện xảo, hay học trò của người ấy, giết một
con bò rồi ngồi cắt chia từng phần tại ngã tư đường. Cũng vậy, này
các tỳ-khưu, tỳ-khưu quán sát thân này, ở bất cứ vị trí hay oai nghi
nào, chỉ gồm có các phần tử: “Trong thân này có địa đại, thủy đại,
hỏa đại và phong đại”. 3) Lược trích Thanh tịnh đạo, Vism 11.30
Cũng như người đồ tể cho bò ăn xong, đem nó tới lò thịt, trói nó
lại, làm thịt nó. Khi thấy nó đã bị giết, đã chết, người ấy vẫn
không mất cái tưởng “bò” cho đến khi nó bị phanh ra chia thành từng
phần. Khi người ấy đã chia con bò ra, khi ngồi đấy, mất cái tưởng
“bò” và cái tưởng “thịt” phát sinh. Người ấy không nghĩ: “Ta đang
bán bò” hoặc “Họ đang đem bò đi” mà nghĩ: “Ta đang bán thịt” hoặc
“Họ đang mang thịt đi”. Cũng vậy, tỳ-khưu này khi còn là phàm phu ngu si – dù đang làm cư
sĩ hay đã xuất gia – không mất cái tưởng “chúng sinh” hay “người”
hay “ngã tính” bao lâu chưa quán sát thân này, bằng lối phân tích
thành bốn đại chủng, dù ở trong tư thế nào, dù được sử dụng cách
nào, cũng đều chỉ gồm có tứ đại. Nhưng khi tỳ-khưu ấy đã phân tích
thân này là gồm tứ đại, thì vị ấy mất đi cái tưởng “chúng sinh” và
tâm vị ấy an trú trên bốn đại chủng. * * * Tỳ-khưu Analayo sinh năm 1962 tại Đức. Sư xuất gia gieo duyên năm
1990 tại chùa Wat Suan Mokkh ở miền nam Thái Lan. Năm 1994, Sư đến
Sri Lanka xuất gia với ngài Hòa thượng Balangoda Ananda Maitreya, và
sau đó thọ giới tỳ-khưu với Hòa thượng Pemasiri vào năm 2007 trong
hệ phái Shwegyin Nikaya (bắt nguồn từ hệ phái chính Amarapura
Nikaya). Tuy nhiên, Bhikkhu Bodhi là vị thầy chính. Sư hoàn tất chương trình tiến sĩ tại University of Peradeniya năm
2000 và luận án tiến sĩ được xuất bảm thành sách với tựa đề
“Satipaṭṭhāna, the Direct Path to Realization”. Cuốn sách được nhiều
người khen ngợi, đã được tái bản nhiều lần và dịch sang 10 thứ
tiếng. Bản tiếng Việt được Cư sĩ Nguyễn Văn Ngân dịch, với tựa đề
“Satipaṭṭhāna, Con đường thẳng tới giác ngộ”, xuất bản năm 2017. Hiện nay, Sư là giáo sư Phật học tại Trung tâm Phật học của Đại
học Hamburg, Đức quốc (Centre for Buddhist Studies, University of
Hamburg), Đại học Phật giáo Pháp Cổ, Đài Loan (Dharma Drum Buddhist
College, Taiwan). Sư là đồng sáng lập viên Nhóm Nghiên cứu A-hàm
(Āgama Research Group) và là giảng sư của Trung tâm Phật học Barre,
Hoa Kỳ (Barre Center for Buddhist Studies). Hiện nay (2018), ngài trú và tịnh tu tại Trung tâm Phật học
Barre, bang Massachusetts, Hoa Kỳ. Các nguồn thông tin: 1) Wikipedia:
https://en.wikipedia.org/wiki/Bhikkhu_Analayo ------------------ Cư sĩ NGUYỄN VĂN NGÂN
Cư sĩ Dhammaruci Nguyễn Văn Ngân cư ngụ tại Canada, là dịch giả
các cuốn sách: Abhidhamma Áp Dụng (2002)
Kinh Lập Niệm
Satipaṭṭhāna Sutta, MN 10
Bằng cách ấy, vị ấy sống quán thân như thân bên trong hay sống quán
thân như thân bên ngoài; hay sống quán thân như thân bên trong và
bên ngoài. Hay vị ấy sống quán tính sinh khởi trong thân; hay sống
quán tính diệt tận trong thân; hay sống quán tính sinh và diệt trong
thân. Hay niệm “có thân đây”được thiết lập nơi vị ấy với mức độ cần
thiết để hiểu biết và ghi nhớ đầy đủ. Và vị ấy sống độc lập, không
bám chấp điều gì trên đời. Như vậy là tỳ-khưu sống quán thân như
thân.
Trung A-hàm, kinh số 98
Tạp A-hàm, Phẩm 12, Kinh số 1
Bhikkhu ANALAYO (1962-)
Centre for Buddhist Studies, University of Hamburg, Germany
2) University of Hamburg:
https://www.buddhismuskunde.uni-hamburg.de/en/personen/analayo.html
Giải Thoát Bằng Năm Tập Hợp (2003)
Phân Tích (2005)
Đạo Vô Ngại Giải (2006); tái bản (2015)
Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật (2016)
Satipaṭṭhāna, Con đường thẳng tới giác ngộ (2017)
[ Home ]
14-10-2018