Đàm luận Phật pháp - 201 -
Mùa an cư đầu tiên
sau khi Thành Đạo
01-sarnath.jpg 1539 * 918 |
02_sutta.jpg 1261 * 815 |
03_tuantu.jpg 1233 * 848 |
04_3kinhdanbai.jpg 1231 * 813 |
05_5uan.jpg 1296 * 770 |
06_thu-uan.jpg 1312 * 884 |
07_giao-hoa.jpg 1199 * 844 |
Mùa an cư đầu tiên sau khi Thành Đạo
* * * |
Trích Đại Phẩm (Mahāvagga),
Tạng Luật (Vinaya Pitaka) (...)
Sau đó, trong khi tuần tự du hành đức Thế Tôn đã ngự đến thành Bārāṇasī,
Isipatana, nơi vườn nai và đã đi đến gặp các tỳ khưu nhóm năm vị. Các tỳ
khưu nhóm năm vị đã nhìn thấy đức Thế Tôn từ đàng xa đang đi lại, sau
khi nhìn thấy các vị đã bàn bạc với nhau rằng: - Này các vị, Sa-môn Gotama ấy đang đi
đến. Ông ta là kẻ lợi dưỡng, đã bỏ
dở dang việc nỗ lực và quay trở lại
cuộc sống sung túc. Ông ta không đáng để
đảnh lễ, không đáng để đứng
dậy chào, y bát của ông ta không đáng để đón
nhận, và chỗ ngồi cũng không cần đặt
thêm, nếu ông ta muốn thì ông ta cứ việc ngồi. Nhưng khi đức Thế Tôn càng đi đến
gần thì các tỳ khưu nhóm năm vị ấy không còn
tuân theo điều bàn bạc của họ nữa và đã
đi ra tiếp đón đức Thế Tôn, một vị
đã nhận lấy y bát của đức Thế Tôn,
một vị đã sắp đặt chỗ ngồi,
một vị đã đem lại nước rửa chân,
ghế kê chân, tấm chà chân. Đức Thế Tôn đã
ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp
đặt sẵn. Sau khi ngồi xuống, đức
Thế Tôn đã rửa hai chân. Tuy nhiên, các vị vẫn
xưng hô với đức Thế Tôn bằng tên và
bằng tiếng gọi “Đạo hữu”
(āvuso). Khi được xưng hô như thế,
đức Thế Tôn đã nói với các tỳ khưu nhóm
năm vị điều này: - Này các tỳ khưu, chớ có xưng hô với
đức Như Lai bằng tên và bằng tiếng gọi
“Đạo hữu.” Này các tỳ khưu, đức
Như Lai là vị A-la-hán Chánh Đẳng Giác. Này các tỳ
khưu, hãy lắng tai nghe, ta sẽ chỉ dạy pháp
Bất Tử đã đạt được, ta sẽ
thuyết giảng Giáo Pháp. Trong khi thực hành theo như
đã được chỉ dạy thì chẳng bao lâu sau
ngay trong kiếp hiện tại này, các vị nhờ vào
thắng trí sẽ tự mình thực chứng, đạt
đến, và an trú vào điểm tối thượng
ấy là đích cuối cùng của Phạm hạnh, vì
mục đích này mà những người con trai của các
gia đình cao quý rời nhà xuất gia một cách chân chánh
sống không nhà. Khi được nói như thế, các tỳ khưu
nhóm năm vị đã nói với đức Thế Tôn
điều này: - Này đạo hữu Gotama, bằng hạnh kiểm
ấy, bằng sự thực hành ấy, bằng việc
theo đuổi khổ hạnh ấy còn không đạt
đến pháp thượng nhân và sự siêu việt
của tri kiến xứng đáng với bậc thánh, còn
giờ đây là kẻ lợi dưỡng, đã bỏ
dở dang việc nỗ lực, và quay trở lại
cuộc sống sung túc, làm thế nào đạo hữư
lại đạt đến pháp thượng nhân và sự
siêu việt của tri kiến xứng đáng với
bậc thánh? Khi được nói như thế, đức
Thế Tôn đã nói với các tỳ khưu nhóm năm
vị điều này: - Này các tỳ khưu, đức Như Lai không
phải là kẻ lợi dưỡng, không bỏ dở dang
việc nỗ lực, và không quay trở lại cuộc
sống sung túc. Này các tỳ khưu, đức Như Lai là
vị A-la-hán Chánh Đẳng Giác. Này các tỳ khưu, hãy
lắng tai nghe, ta sẽ chỉ dạy pháp Bất Tử
đã đạt được, ta sẽ thuyết
giảng Giáo Pháp. Trong khi thực hành theo như đã
được chỉ dạy thì chẳng bao lâu sau ngay trong
kiếp hiện tại này, các vị nhờ vào thắng trí
sẽ tự mình thực chứng, đạt đến,
và an trú vào điểm tối thượng ấy là đích
cuối cùng của Phạm hạnh, vì mục đích này mà
những người con trai của các gia đình cao quý
rời nhà xuất gia một cách chân chánh sống không nhà. Đến lần thứ nhì, các tỳ khưu nhóm
năm vị đã nói với đức Thế Tôn
điều này: ...(như trên)... Đến lần thứ nhì, đức Thế Tôn
đã nói với các tỳ khưu nhóm năm vị
điều này: ...(như trên)... Đến lần thứ ba, các tỳ khưu nhóm
năm vị đã nói với đức Thế Tôn
điều này: - Này đạo hữu Gotama, bằng hạnh kiểm
ấy, bằng sự thực hành ấy, bằng việc
theo đuổi khổ hạnh ấy còn không đạt
đến pháp thượng nhân và sự siêu việt
của tri kiến xứng đáng với bậc thánh, còn
giờ đây là kẻ lợi dưỡng, đã bỏ
dở dang việc nỗ lực, và quay trở lại
cuộc sống sung túc, làm thế nào đạo hữư
lại đạt đến pháp thượng nhân và sự
siêu việt của tri kiến xứng đáng với
bậc thánh? Khi được nói như thế, đức
Thế Tôn đã nói với các tỳ khưu nhóm năm
vị rằng: - Này các tỳ khưu, các vị có nhận ra rằng
điều này đã không được ta nói ra
trước đây hay không? - Bạch ngài, điều này không có (được
nói). - Này các tỳ khưu, đức Như Lai là vị
A-la-hán Chánh Đẳng Giác. Này các tỳ khưu, hãy lắng
tai nghe, ta sẽ chỉ dạy pháp Bất Tử đã
đạt được, ta sẽ thuyết giảng Giáo
Pháp. Trong khi thực hành theo như đã được
chỉ dạy thì chẳng bao lâu sau ngay trong kiếp
hiện tại này, các vị nhờ vào thắng trí sẽ
tự mình thực chứng, đạt đến, và an trú
vào điểm tối thượng ấy là đích
cuối cùng của Phạm hạnh, vì mục đích này mà
những người con trai của các gia đình cao quý
rời nhà xuất gia một cách chân chánh sống không nhà. Đức Thế Tôn đã có thể thuyết phục các tỳ khưu nhóm năm vị. Sau đó, các tỳ khưu nhóm năm vị đã lắng nghe, đã lắng tai, đã phục vụ bằng tâm ý khác.
Bái pháp đầu tiên - Kinh CHUYỂN PHÁP LUÂN
Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các
tỳ khưu nhóm năm vị rằng: - Này các tỳ khưu, đây là hai cực đoan mà
bậc xuất gia không nên thực hành: Đây là sự say
đắm về dục lạc trong các dục, kém cỏi,
thô thiển, tầm thường, không cao thượng,
không đem lại lợi ích, và đây là sự gắn bó
với việc hành hạ bản thân, đau khổ, không
cao thượng, không đem lại lợi ích. Này các tỳ
khưu, sau khi không tiếp cận cả hai cực đoan
ấy, lối thực hành trung hòa đã được
đức Như lai tự mình giác ngộ khiến cho
mắt được thấy, khiến cho trí
được sáng, dẫn đến tịch tịnh,
thắng trí, hoàn toàn giác ngộ, Niết Bàn. Này các tỳ
khưu, lối thực hành trung hòa ấy đã
được đức Như lai tự mình giác ngộ
khiến cho mắt được thấy, khiến cho trí
được sáng, dẫn đến tịch tịnh,
thắng trí, hoàn toàn giác ngộ, Niết Bàn là thế nào?
Đó chính là Thánh Đạo Tám Chi Phần tức là sự
hiểu biết chân chánh, suy nghĩ chân chánh, nói lời chân
chánh, nghề nghiệp chân chánh, nuôi mạng chân chánh, tinh
tấn chân chánh, ghi nhớ chân chánh, định tâm chân chánh.
[1] Này
các tỳ khưu, lối thực hành trung hòa ấy đã
được đức Như lai tự mình giác ngộ
khiến cho mắt được thấy, khiến cho trí
được sáng, dẫn đến tịch tịnh,
thắng trí, hoàn toàn giác ngộ, Niết Bàn.
Này các tỳ khưu, đây là Chân Lý Cao
Thượng tức là sự Khổ: Sanh là khổ, già là
khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sự gắn
bó với những gì không ưa thích là khổ, sự chia lìa
với những gì ưa thích là khổ, không đạt
được điều ước muốn là khổ,
một cách tóm tắt năm thủ uẩn là khổ. Này các tỳ khưu, đây là Chân Lý Cao Thượng
tức là Nguyên Nhân của Khổ. Điều ấy chính là
Ái đưa đến tái sanh, liên kết với khoái
lạc và say đắm, có sự thỏa thích ở nơi
này nơi khác tức là: Dục Ái, Hữu Ái, Phi Hữu Ái. Này các tỳ khưu, đây là Chân Lý Cao Thượng
tức là sự Diệt Khổ. Điều ấy là
sự dứt bỏ, sự dứt ra khỏi, sự
giải thoát, sự không còn chỗ nương tựa,
sự diệt tận và dứt bỏ lòng say đắm
không còn dư sót của chính Ái ấy. Này các tỳ khưu, đây là Chân Lý Cao Thượng
tức là sự Thực Hành theo Con Đường
đưa đến sự Diệt Khổ. Đó chính là
Thánh Đạo Tám Chi Phần tức là sự hiểu biết
chân chánh, ...(như trên)..., định tâm chân chánh.
Này các tỳ khưu, ta có được (Pháp) nhãn
đã sanh khởi, trí đã sanh khởi, tuệ đã sanh
khởi, minh đã sanh khởi, ánh sáng đã sanh khởi
đối với các Pháp trước đây chưa
từng được nghe: “Đây là Chân Lý Cao
Thượng tức là sự Khổ.” Này các tỳ
khưu, ta có được ...(như trên)... “Đây là
Chân Lý Cao Thượng tức là sự Khổ cần
được hiểu rõ.” Này các tỳ khưu, ta có
được (Pháp) nhãn đã sanh khởi, trí đã sanh
khởi, tuệ đã sanh khởi, minh đã sanh khởi,
ánh sáng đã sanh khởi đối với các Pháp
trước đây chưa từng được nghe: “Đây
là Chân Lý Cao Thượng tức là sự Khổ đã
được hiểu rõ.” Này các tỳ khưu, ta có được (Pháp) nhãn
đã sanh khởi, trí đã sanh khởi, tuệ đã sanh
khởi, minh đã sanh khởi, ánh sáng đã sanh khởi
đối với các Pháp trước đây chưa
từng được nghe: “Đây là Chân Lý Cao
Thượng tức là Nguyên Nhân của Khổ.” Này các
tỳ khưu, ta có được ...(như trên)... “Đây
là Chân Lý Cao Thượng tức là Nguyên Nhân của Khổ
cần được dứt bỏ.” Này các tỳ
khưu, ta có được (Pháp) nhãn đã sanh khởi, trí
đã sanh khởi, tuệ đã sanh khởi, minh đã sanh
khởi, ánh sáng đã sanh khởi đối với các Pháp
trước đây chưa từng được nghe: “Đây
là Chân Lý Cao Thượng tức là Nguyên Nhân của Khổ
đã được dứt bỏ.” Này các tỳ khưu, ta có được (Pháp) nhãn
đã sanh khởi, trí đã sanh khởi, tuệ đã sanh
khởi, minh đã sanh khởi, ánh sáng đã sanh khởi
đối với các Pháp trước đây chưa
từng được nghe: “Đây là Chân Lý Cao
Thượng tức là sự Diệt Khổ.” Này các
tỳ khưu, ta có được ...(như trên)... “Đây
là Chân Lý Cao Thượng tức là sự Diệt Khổ
cần được chứng ngộ.” Này các tỳ
khưu, ta có được (Pháp) nhãn đã sanh khởi, trí
đã sanh khởi, tuệ đã sanh khởi, minh đã sanh
khởi, ánh sáng đã sanh khởi đối với các Pháp
trước đây chưa từng được nghe: “Đây
là Chân Lý Cao Thượng tức là sự Diệt Khổ
đã được chứng ngộ.” Này các tỳ khưu, ta có được (Pháp) nhãn
đã sanh khởi, trí đã sanh khởi, tuệ đã sanh
khởi, minh đã sanh khởi, ánh sáng đã sanh khởi
đối với các Pháp trước đây chưa
từng được nghe: “Đây là Chân Lý Cao
Thượng tức là sự Thực Hành theo Con
Đường đưa đến sự Diệt
Khổ.” Này các tỳ khưu, ta có được
...(như trên)... “Đây là Chân Lý Cao Thượng tức
là sự Thực Hành theo Con Đường đưa
đến sự Diệt Khổ cần được tu
tập.” Này các tỳ khưu, ta có được (Pháp)
nhãn đã sanh khởi, trí đã sanh khởi, tuệ đã
sanh khởi, minh đã sanh khởi, ánh sáng đã sanh khởi
đối với các Pháp trước đây chưa
từng được nghe: “Đây là Chân Lý Cao
Thượng tức là sự Thực Hành theo Con
Đường đưa đến sự Diệt
Khổ đã được tu tập.”
Này các tỳ khưu, và cho đến khi nào tri
kiến thấy đúng thực chất của ta về ba
Luân (ba vòng xoay tròn) và mười hai Thể (tính chất)
trong Bốn Chân Lý Cao Thượng này chưa
được thực sự thanh tịnh; này các tỳ
khưu, cho đến khi ấy ta chưa công bố về
sự tối thượng Chánh Đẳng Giác: “Ta đã
hoàn toàn giác ngộ” ở trong thế gian tính luôn cõi
của chư thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm thiên, cho
đến dòng dõi sa-môn, bà-la-môn, các hạng chư thiên và
loài người. Và này các tỳ khưu, bởi vì tri
kiến thấy đúng thực chất của ta về ba
Luân và mười hai Thể trong Bốn Chân Lý Cao
Thượng này đã được thực sự thanh
tịnh; này các tỳ khưu, khi ấy ta đã công bố
về sự tối thượng Chánh Đẳng Giác: “Ta
đã hoàn toàn giác ngộ” ở trong thế gian tính luôn
cõi của chư thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm thiên, cho
đến dòng dõi sa-môn, bà-la-môn, các hạng chư thiên và
loài người. Hơn nữa, trí tuệ và sự thấy
biết của ta đã sanh khởi: “Sự giải thoát
của ta không thể thay đổi, đây là lần sanh
cuối cùng, từ nay không có việc tái sanh nữa.” Trong khi bài kinh này được thuyết giảng,
Pháp nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ
đã sanh khởi đến đại đức
Koṇḍañña: “Điều gì có bản tánh
được sanh lên, toàn bộ điều ấy
đều có bản tánh hoại diệt.”
Khi bánh xe Pháp được chuyển vận
bởi đức Thế Tôn, chư thiên ở địa
cầu đã đồn đãi lời rằng: “Bánh xe
Pháp tối thượng ấy đã được
đức Thế Tôn chuyển vận ở
Bārāṇasī, tại Isipatana, nơi vườn
nai không thể bị chuyển vận nghịch lại
bởi sa-môn, bà-la-môn, Thiên nhân, Ma Vương, Phạm thiên,
hoặc bất cứ ai ở trên đời.” Sau khi nghe
được tiếng đồn của chư thiên
ở địa cầu, chư thiên ở cõi Tứ
Đại Thiên Vương đã đồn đãi lời
rằng: ...(như trên)... Sau khi nghe được tiếng
đồn của chư thiên ở cõi Tứ Đại
Thiên Vương, chư thiên ở cõi Đạo Lợi
đã đồn đãi lời rằng: ...(như trên)... chư
thiên ở cõi Dạ Ma ...(như trên)... chư thiên ở cõi
Đẩu Suất ...(như trên)... chư thiên ở cõi Hóa
Lạc Thiên ...(như trên)... chư thiên ở cõi Tha Hóa
Tự Tại ...(như trên)... chư thiên thuộc hàng
Phạm thiên đã đồn đãi lời rằng: “Bánh
xe Pháp tối thượng ấy đã được
đức Thế Tôn chuyển vận ở
Bārāṇasī, tại Isipatana, nơi vườn
nai không thể bị chuyển vận nghịch lại
bởi sa-môn, bà-la-môn, thiên nhân, Ma Vương, Phạm thiên,
hoặc bất cứ ai ở trên đời.” Vào
thời khắc ấy, vào giây phút ấy, lời
đồn đãi ấy đã đi đến các cõi
trời Phạm thiên. Và mười ngàn thế giới này
đã bị lay chuyển, rung động, chấn
động. Và ánh sáng tuyệt vời không thể đo
lường đã hiện ra ở thế gian, vượt
quá hào quang siêu phàm của chư thiên. Khi ấy, đức Thế Tôn đã thốt lên lời cảm hứng rằng: “Koṇḍañña đã hiểu được! Koṇḍañña đã hiểu được!” Do đó, đại đức Koṇḍañña đã có tên là “Aññākoṇḍañña.” [2]
Các vị tỳ-khưu đầu tiên
Sau đó, khi đã thấy được Pháp,
đã thành tựu được Pháp, đã hiểu
được Pháp, đã thấm nhuần Pháp, hoài nghi
đã không còn, sự lưỡng lự đã dứt
hẳn, đã thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của
bậc Đạo Sư, không còn cần sự trợ duyên
của người khác, đại đức
Aññākoṇḍañña đã nói với đức Thế
Tôn điều này: - Bạch ngài, con có thể xuất gia trong sự
hiện diện của đức Thế Tôn không? Con có
thể tu lên bậc trên không? Đức Thế Tôn đã nói rằng: - Này tỳ khưu, hãy đến. Pháp đã
được khéo thuyết giảng, hãy thực hành
Phạm hạnh một cách đúng đắn để
chấm dứt khổ đau. Chính điều ấy đã là sự tu lên bậc trên
của đại đức ấy.
Sau đó, đức Thế Tôn đã giáo huấn,
đã chỉ dạy các vị tỳ khưu còn lại
bằng bài Pháp thoại. Khi ấy, trong khi đang
được giáo huấn, chỉ dạy bởi
đức Thế Tôn bằng bài Pháp thoại, Pháp nhãn không
nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã sanh
khởi đến đại đức Vappa và đại
đức Bhaddiya: “Điều gì có bản tánh
được sanh lên, toàn bộ điều ấy
đều có bản tánh hoại diệt.” Khi đã
thấy được Pháp, đã thành tựu
được Pháp, đã hiểu được Pháp,
đã thấm nhuần Pháp, hoài nghi đã không còn, sự
lưỡng lự đã dứt hẳn, đã thành tựu
niềm tin vào Giáo Pháp của bậc Đạo Sư, không
còn cần sự trợ duyên của người khác, các
vị ấy đã nói với đức Thế Tôn
điều này: - Bạch ngài, chúng con có thể xuất gia trong sự
hiện diện của đức Thế Tôn không? Chúng con
có thể tu lên bậc trên không? Đức Thế Tôn đã nói rằng: - Này các tỳ khưu, hãy đến. Pháp đã
được khéo thuyết giảng, hãy thực hành
Phạm hạnh một cách đúng đắn để
chấm dứt khổ đau. Chính điều ấy đã là sự tu lên bậc trên
của các đại đức ấy. Sau đó, với bữa ăn đã được
mang lại, đức Thế Tôn đã giáo huấn, đã
chỉ dạy các vị tỳ khưu còn lại bằng
bài Pháp thoại. Nhóm sáu vị sống bằng vật mà ba
vị tỳ khưu đã đi khất thực và mang
về. Khi ấy, trong khi đang được giáo
huấn, chỉ dạy bởi đức Thế Tôn
bằng bài Pháp thoại, Pháp nhãn không nhiễm bụi
trần, không vết nhơ đã sanh khởi đến
đại đức Mahānāma và đại
đức Assaji: “Điều gì có bản tánh
được sanh lên, toàn bộ điều ấy
đều có bản tánh hoại diệt.” Khi đã
thấy được Pháp, đã thành tựu
được Pháp, đã hiểu được Pháp,
đã thấm nhuần Pháp, hoài nghi đã không còn, sự
lưỡng lự đã dứt hẳn, đã thành tựu
niềm tin vào Giáo Pháp của bậc Đạo Sư, không
còn cần sự trợ duyên của người khác, các
vị ấy đã nói với đức Thế Tôn điều
này: - Bạch ngài, chúng con có thể xuất gia trong sự
hiện diện của đức Thế Tôn không? Chúng con
có thể tu lên bậc trên không? Đức Thế Tôn đã nói rằng: - Này các tỳ khưu, hãy đến. Pháp đã
được khéo thuyết giảng, hãy thực hành
Phạm hạnh một cách đúng đắn để
chấm dứt khổ đau. Chính điều ấy đã là sự tu lên bậc trên của các đại đức ấy.
Kinh VÔ NGÃ TƯỚNG
Sau đó, đức Thế Tôn đã bảo các
tỳ khưu nhóm năm vị rằng: - Này các tỳ khưu, Sắc là Vô Ngã (anattā). Này các
tỳ khưu, bởi vì nếu Sắc này là Ngã thì Sắc
này không thể đi đến bệnh hoạn và có
thể đạt được ở Sắc (theo ý
muốn) rằng: “Sắc của ta hãy là như vầy,
Sắc của ta đừng trở thành như vầy.”
Này các tỳ khưu, chính vì Sắc là Vô Ngã do đó Sắc
đi đến bệnh hoạn và không thể đạt
được ở Sắc (theo ý muốn) rằng: “Sắc
của ta hãy là như vầy, Sắc của ta đừng
trở thành như vầy.” Này các tỳ khưu, Thọ là Vô Ngã (anattā). Này các
tỳ khưu, bởi vì nếu Thọ này là Ngã thì Thọ
này không thể đi đến bệnh hoạn và có
thể đạt được ở Thọ (theo ý
muốn) rằng: “Thọ của ta hãy là như vầy,
Thọ của ta đừng trở thành như vầy.”
Này các tỳ khưu, chính vì Thọ là Vô Ngã do đó Thọ
đi đến bệnh hoạn và không thể đạt
được ở Thọ (theo ý muốn) rằng: “Thọ
của ta hãy là như vầy, Thọ của ta đừng
trở thành như vầy.” Này các tỳ khưu, Tưởng là Vô Ngã (anattā).
Này các tỳ khưu, bởi vì nếu Tưởng này là Ngã
thì Tưởng này không thể đi đến bệnh
hoạn và có thể đạt được ở
Tưởng (theo ý muốn) rằng: “Tưởng của
ta hãy là như vầy, Tưởng của ta đừng
trở thành như vầy.” Này các tỳ khưu, chính vì
Tưởng là Vô Ngã do đó Tưởng đi đến
bệnh hoạn và không thể đạt được
ở Tưởng (theo ý muốn) rằng: “Tưởng
của ta hãy là như vầy, Tưởng của ta
đừng trở thành như vầy.” Này các tỳ khưu, các Hành là Vô Ngã (anattā). Này các
tỳ khưu, bởi vì nếu các Hành này là Ngã thì các Hành này
không thể đi đến bệnh hoạn và có thể
đạt được ở các Hành (theo ý muốn)
rằng: “Các Hành của ta hãy là như vầy, các Hành
của ta đừng trở thành như vầy.” Này các
tỳ khưu, chính vì các Hành là Vô Ngã do đó các Hành đi
đến bệnh hoạn và không thể đạt
được ở các Hành (theo ý muốn) rằng: “Các
Hành của ta hãy là như vầy, các Hành của ta
đừng trở thành như vầy.” Này các tỳ khưu, Thức là Vô Ngã (anattā). Này các
tỳ khưu, bởi vì nếu Thức này là Ngã thì Thức
này không thể đi đến bệnh hoạn và có
thể đạt được ở Thức (theo ý
muốn) rằng: “Thức của ta hãy là như vầy,
Thức của ta đừng trở thành như vầy.”
Này các tỳ khưu, chính vì Thức là Vô Ngã do đó Thức
đi đến bệnh hoạn và không thể đạt
được ở Thức (theo ý muốn) rằng: “Thức
của ta hãy là như vầy, Thức của ta đừng
trở thành như vầy.”
Này các tỳ khưu, các vị nghĩ gì về
Sắc ấy, là thường hay vô thường? - Bạch ngài, là vô thường. - Vậy cái gì (đã) là vô thường thì cái ấy là
khổ hay lạc? - Bạch ngài, là khổ. - Vậy cái gì (đã) là vô thường, khổ, có
trạng thái thay đổi, có phải là đúng đắn
khi quán xét về cái ấy rằng: “Cái này là của ta, cái
này là ta, cái này là tự ngã của ta”? - Bạch ngài, điều ấy không đúng. Này các tỳ khưu, Thọ là thường hay vô
thường? - Bạch ngài, là vô thường. - Vậy cái gì (đã) là vô thường thì cái ấy là
khổ hay lạc? - Bạch ngài, là khổ. - Vậy cái gì (đã) là vô thường, khổ, có
trạng thái thay đổi, có phải là đúng đắn
khi quán xét về cái ấy rằng: “Cái này là của ta, cái
này là ta, cái này là tự ngã của ta”? - Bạch ngài, điều ấy không đúng. Này các tỳ khưu, Tưởng là thường hay vô
thường? - Bạch ngài, là vô thường. - Vậy cái gì (đã) là vô thường thì cái ấy là
khổ hay lạc? - Bạch ngài, là khổ. - Vậy cái gì (đã) là vô thường, khổ, có
trạng thái thay đổi, có phải là đúng đắn
khi quán xét về cái ấy rằng: “Cái này là của ta, cái
này là ta, cái này là tự ngã của ta”? - Bạch ngài, điều ấy không đúng. Này các tỳ khưu, các Hành là thường hay vô
thường? - Bạch ngài, là vô thường. - Vậy cái gì (đã) là vô thường thì cái ấy là
khổ hay lạc? - Bạch ngài, là khổ. - Vậy cái gì (đã) là vô thường, khổ, có
trạng thái thay đổi, có phải là đúng đắn
khi quán xét về cái ấy rằng: “Cái này là của ta, cái
này là ta, cái này là tự ngã của ta”? - Bạch ngài, điều ấy không đúng. Này các tỳ khưu, Thức là thường hay vô
thường? - Bạch ngài, là vô thường. - Vậy cái gì (đã) là vô thường thì cái ấy là
khổ hay lạc? - Bạch ngài, là khổ. - Vậy cái gì (đã) là vô thường, khổ, có
trạng thái thay đổi, có phải là đúng đắn
khi quán xét về cái ấy rằng: “Cái này là của ta, cái
này là ta, cái này là tự ngã của ta”? - Bạch ngài, điều ấy không đúng.
Này các tỳ khưu, như thế trong
trường hợp này, bất cứ Sắc nào thuộc
về quá khứ, hiện tại, vị lai, là trong thân, hay
ngoài thân, hay thô kệch, hay vi tế, hay kém cỏi, hay cao
quý, nên thấy được toàn bộ Sắc ấy,
dầu ở xa hay ở gần, đúng như bản
chất thật sự bằng trí tuệ chân chánh (như
vầy): “Cái này không phải là của ta, cái này không
phải là ta, cái này không phải là tự ngã của ta.” Này các tỳ khưu, như thế trong trường
hợp này, bất cứ Thọ nào thuộc về quá
khứ, hiện tại, vị lai, là trong thân, hay ngoài thân,
hay thô kệch, hay vi tế, hay kém cỏi, hay cao quý, nên
thấy được toàn bộ Thọ ấy, dầu
ở xa hay ở gần, đúng như bản chất
thật sự bằng trí tuệ chân chánh (như vầy): “Cái
này không phải là của ta, cái này không phải là ta, cái này
không phải là tự ngã của ta.” Này các tỳ khưu, như thế trong trường
hợp này, bất cứ Tưởng nào thuộc về quá
khứ, hiện tại, vị lai, là trong thân, hay ngoài thân,
hay thô kệch, hay vi tế, hay kém cỏi, hay cao quý, nên
thấy được toàn bộ Tưởng ấy,
dầu ở xa hay ở gần, đúng như bản
chất thật sự bằng trí tuệ chân chánh (như
vầy): “Cái này không phải là của ta, cái này không
phải là ta, cái này không phải là tự ngã của ta.” Này các tỳ khưu, như thế trong trường
hợp này, bất cứ các Hành nào thuộc về quá
khứ, hiện tại, vị lai, là trong thân, hay ngoài thân,
hay thô kệch, hay vi tế, hay kém cỏi, hay cao quý, nên
thấy được toàn bộ các Hành ấy, dầu
ở xa hay ở gần, đúng như bản chất
thật sự bằng trí tuệ chân chánh (như vầy): “Cái
này không phải là của ta, cái này không phải là ta, cái này
không phải là tự ngã của ta.” Này các tỳ khưu, như thế trong trường
hợp này, bất cứ Thức nào thuộc về quá
khứ, hiện tại, vị lai, là trong thân, hay ngoài thân,
hay thô kệch, hay vi tế, hay kém cỏi, hay cao quý, nên thấy
được toàn bộ Thức ấy, dầu ở xa
hay ở gần, đúng như bản chất thật
sự bằng trí tuệ chân chánh (như vầy): “Cái này
không phải là của ta, cái này không phải là ta, cái này không
phải là tự ngã của ta.”
Này các tỳ khưu, khi đã thấy
được như thế, vị Thinh Văn Thánh
đệ tử không còn hứng thú trong Sắc, không còn
hứng thú trong Thọ, không còn hứng thú trong
Tưởng, không còn hứng thú trong các Hành, không còn hứng
thú trong Thức; khi đã không còn hứng thú, vị ấy
không còn say đắm; do không còn say đắm vị ấy
được giải thoát; trong khi được
giải thoát, trí khởi lên rằng: “Đã
được giải thoát.” Vị ấy biết
được rằng: “Sự tái sanh đã cạn
kiệt, Phạm hạnh đã sống, việc cần làm
đã làm, không còn (đưa đến) bản ngã nào khác
(tương tợ) như vầy nữa.”
Đức Thế Tôn đã giảng về
điều ấy. Các tỳ khưu nhóm năm vị đã
hoan hỷ thâu nhận lời dạy của đức
Thế Tôn. Và trong khi bài kinh này được thuyết
giảng, các tâm của các tỳ khưu nhóm năm vị
đã không còn chấp thủ và đã được
giải thoát khỏi các lậu hoặc. Vào lúc bấy giờ, trên thế gian có sáu vị A-la-hán.
Yasa, vị cư sĩ Dự Lưu đầu tiên
Vào lúc bấy giờ, ở Bārāṇasī
có người con trai gia đình danh giá tên Yasa. Yasa là con trai
nhà đại phú và có vóc dáng mảnh mai. Chàng trai có ba tòa lâu
đài: một dành cho mùa lạnh, một dành cho mùa nóng, và
một dành cho mùa mưa. Vào bốn tháng mùa mưa ở trong
tòa lâu đài, chàng luôn được vây quanh bởi các
nữ công tấu nhạc và không bước xuống phía
dưới của tòa lâu đài. Khi ấy, trong lúc
được phú cho, được thừa hưởng,
được phục vụ bởi năm phần
dục lạc, [3] người
con trai gia đình danh giá Yasa đã nằm xuống ngủ
trước rồi sau đó đám hầu thiếp mới
nằm xuống ngủ. Và cây đèn dầu thường
được đốt thâu đêm. Khi ấy, người con trai gia đình danh giá Yasa sau
khi thức dậy trước đã nhìn thấy đám
hầu thiếp của mình đang ngủ, cây đàn ở
khuỷu tay của nàng nọ, cái trống con ở cổ
của nàng kia, cái trống ở đùi của nàng khác, nàng
nọ có (đầu tóc) xổ ra, nàng kia nhễu
nước dãi, các nàng khác thì nói lảm nhảm, chàng
nghĩ rằng bãi tha ma như đang ở đâu đây.[4] Sau
khi nhìn thấy, chàng trai đã khởi lên sự chán nản
và đã lập tâm từ bỏ. Khi ấy, người con
trai gia đình danh giá Yasa đã thốt lên lời cảm
thán rằng: “Thật là chán nản! Thật là khổ
sở!” Sau đó, người con trai gia đình danh giá
Yasa đã mang vào đôi hài bằng vàng và đi đến
cánh cửa lớn của dinh thự. Các phi nhân đã
mở cánh cửa ra (nghĩ rằng): “Chớ có ai gây
trở ngại đến việc rời nhà xuất gia
sống không nhà của người con trai gia đình danh giá
Yasa.” Sau đó, người con trai gia đình danh giá Yasa
đã đi đến cổng thành phố. Các phi nhân đã
mở cánh cửa ra (nghĩ rằng): “Chớ có ai gây
trở ngại đến việc rời nhà xuất gia
sống không nhà của người con trai gia đình danh giá
Yasa.” Sau đó, người con trai gia đình danh giá Yasa
đã đi đến Isipatana, chỗ vườn nai.
Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn sau khi
thức dậy vào lúc hừng sáng của đêm đang
đi kinh hành ở ngoài trời. Đức Thế Tôn
đã nhìn thấy người con trai gia đình danh giá Yasa
từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy
đã rời đường kinh hành và ngồi xuống
trên chỗ ngồi được sắp đặt
sẵn. Khi ấy, ở không xa đức Thế Tôn
lắm người con trai gia đình danh giá Yasa đã
thốt lên lời cảm thán rằng: “Thật là chán
nản! Thật là khổ sở!” Khi ấy, đức
Thế Tôn đã nói với người con trai gia đình
danh giá Yasa điều này: - Này Yasa, việc này không chán nản, việc này không
khổ sở. Này Yasa, hãy đến và ngồi xuống. Ta
sẽ thuyết giảng Giáo Pháp cho ngươi. Khi ấy, người con trai gia đình danh giá Yasa
(nghĩ rằng): “Nghe nói việc này không chán nản, việc
này không khổ sở” nên mừng rỡ phấn chấn
rồi đã cởi ra đôi hài bằng vàng và đi
đến gần đức Thế Tôn, sau khi đến
đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi
ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn
đã thuyết Pháp theo thứ lớp đến
người con trai gia đình danh giá Yasa đang ngồi một
bên. Tức là ngài đã giảng giải bài thuyết về
bố thí, bài thuyết về giới cấm, bài thuyết
về cõi trời, sự ô nhiễm hạ liệt tai
hại của các dục, sự lợi ích của việc
xuất ly. Khi đức Thế Tôn biết được
tâm của người con trai gia đình danh giá Yasa đã
sẵn sàng, dễ uốn nắn, không còn chướng
ngại, hướng thượng, tịnh tín, ngài
đã phô bày Pháp thuyết giảng đã được
chư Phật khai mở là: Khổ, Tập, Diệt,
Đạo. Cũng giống như tấm vải đã được làm
sạch, không còn vết nhơ, có thể nhuộm màu một
cách toàn vẹn; tương tợ như thế, ngay
tại chỗ ngồi ấy Pháp nhãn không nhiễm bụi
trần, không vết nhơ đã sanh khởi đến
người con trai gia đình danh giá Yasa: “Điều gì
có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều
ấy đều có bản tánh hoại diệt.”
Cha ông Yasa, vị nam cư sĩ quy y Tam Bảo đầu tiên
Sau đó, mẹ của người con trai gia
đình danh giá Yasa đã đi lên tòa lâu đài và không
thấy người con trai gia đình danh giá Yasa nên đã
đi đến gặp người gia chủ đại
phú, sau khi đến đã nói với người gia
chủ đại phú điều này: - Gia chủ ơi, không có nhìn thấy con trai ông là Yasa. Khi ấy, người gia chủ đại phú đã
phân công cho các sứ giả phi ngựa bốn phương
còn chính bản thân đã đi đến Isipatana, chỗ
vườn nai. Người gia chủ đại phú đã
nhìn thấy dấu vết in (xuống đất) của
đôi hài bằng vàng nên đã đi theo dấu vết
ấy. Đức Thế Tôn đã nhìn thấy người
gia chủ đại phú từ đàng xa đang đi
lại, sau khi nhìn thấy đức Thế Tôn đã
khởi ý điều này: “Hay là ta nên thực hiện
thần thông để cho người gia chủ
đại phú ngồi ở đây không thể nhìn thấy
người con trai gia đình danh giá Yasa đang ngồi
ở đây.” Rồi đức Thế Tôn đã
thực hiện thần thông như thế ấy. Sau
đó, người gia chủ đại phú đã đi
đến gần đức Thế Tôn, sau khi đến
đã nói với đức Thế Tôn điều này: - Bạch ngài, vậy chớ đức Thế Tôn có
thể nhìn thấy người con trai gia đình danh giá Yasa
không? - Này gia chủ, như thế thì ông hãy ngồi
xuống đi. Có lẽ khi ông ngồi xuống ở
đây, ông có thể nhìn thấy người con trai gia
đình danh giá Yasa đang ngồi ở đây. Khi ấy, người gia chủ đại phú
(nghĩ rằng): “Nghe nói khi ta ngồi xuống ở
chính nơi đây, ta sẽ nhìn thấy người con trai
gia đình danh giá Yasa đang ngồi ở đây” nên
mừng rỡ phấn chấn rồi đã đảnh
lễ đức Thế Tôn và ngồi xuống ở
một bên. Đức Thế Tôn đã thuyết Pháp theo
thứ lớp đến người gia chủ
đại phú đang ngồi một bên. Tức là ngài
đã giảng giải bài thuyết về bố thí, bài
thuyết về giới cấm, bài thuyết về cõi
trời, sự ô nhiễm hạ liệt tai hại của
các dục, sự lợi ích của việc xuất ly. Khi
đức Thế Tôn biết được tâm của người
gia chủ đại phú đã sẵn sàng, dễ uốn
nắn, không còn chướng ngại, hướng
thượng, tịnh tín, ngài đã phô bày Pháp thuyết
giảng đã được chư Phật khai mở là:
Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng giống như tấm vải đã được
làm sạch, không còn vết nhơ, có thể nhuộm màu một cách toàn vẹn; tương
tợ như thế, ngay tại chỗ ngồi ấy Pháp
nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã
sanh khởi đến người gia chủ đại
phú: “Điều gì có bản tánh được sanh lên,
toàn bộ điều ấy đều có bản tánh
hoại diệt.” Sau đó, khi đã thấy được Pháp, đã
thành tựu được Pháp, đã hiểu
được Pháp, đã thấm nhuần Pháp, hoài nghi
đã không còn, sự lưỡng lự đã dứt
hẳn, đã thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của
bậc Đạo Sư, không còn cần sự trợ duyên
của người khác, người gia chủ đại
phú đã nói với đức Thế Tôn điều này: - Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài,
thật là tuyệt vời! Bạch ngài, giống như
người có thể lật ngửa vật đã
được úp lại, mở ra vật đã bị che
kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, đem
lại cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ
rằng): “Những người có mắt sẽ nhìn
thấy được các hình dáng;” tương tợ
như thế, Pháp đã được đức Thế
Tôn giảng rõ bằng nhiều phương tiện.
Bạch ngài, con đây xin quy y đức Thế Tôn, Giáo Pháp,
và Hội chúng tỳ khưu. Xin đức Thế Tôn
chấp nhận con là nam cư sĩ đã được
quy y kể từ hôm nay cho đến trọn đời. Và ông ta đã trở thành vị nam cư sĩ
đọc ba câu (tevāciko) quy y [5] đầu
tiên ở thế gian.
Yasa, vị cư sĩ đầu tiên đắc A-la-hán trước khi xuất gia Sau đó, trong khi Giáo Pháp đang được giảng giải cho người cha, thì người con trai gia đình danh giá Yasa trong khi quán sát bản chất như đã được thấy như đã được biết, tâm của vị ấy đã không còn chấp thủ và đã được giải thoát khỏi các lậu hoặc. Khi ấy, đức Thế Tôn đã khởi ý điều này: “Trong khi Giáo Pháp đang được giảng giải cho người cha, thì người con trai gia đình danh giá Yasa trong khi quán sát bản chất như đã được thấy như đã được biết, tâm của vị ấy đã không còn chấp thủ và đã được giải thoát khỏi các lậu hoặc. Người con trai gia đình danh giá Yasa quả không thể nào quay trở lại đời sống thấp kém để thọ hưởng các dục lạc giống như trước đây khi còn ở tại gia, hay là ta nên thu hồi sự thi triển thần thông ấy?” Sau đó, đức Thế Tôn đã thu hồi sự
thể hiện thần thông ấy. Người gia chủ
đại phú đã nhìn thấy người con trai gia
đình danh giá Yasa đang ngồi, sau khi nhìn thấy đã
nói với người con trai gia đình danh giá Yasa
điều này: - Này Yasa yêu quý, mẹ của con bị sầu khổ
đã than vãn. Hãy đem lại cho mẹ cuộc sống. Khi ấy, người con trai gia đình danh giá Yasa
đã nhìn lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức
Thế Tôn đã nói với người gia chủ
đại phú điều này: - Này gia chủ, ngươi nghĩ gì về việc
ấy đối với người con trai gia đình danh
giá Yasa? Cũng giống như việc ngươi đã
nhìn thấy Pháp bằng trí của vị hữu học,
bằng sự hiểu biết của vị hữu
học, chàng trai ấy trong khi quán sát bản chất như
đã được thấy như đã được
biết, tâm đã không còn chấp thủ và đã
được giải thoát khỏi các lậu hoặc. Này
gia chủ, có thể nào Yasa quay lui đời sống
thấp kém để thọ hưởng các dục lạc
giống như trước đây khi còn ở tại gia
hay không? - Bạch ngài, điều ấy không thể nào. - Này gia chủ, đối với người con trai
gia đình danh giá Yasa cũng giống như việc
ngươi đã nhìn thấy Pháp bằng trí của vị
hữu học bằng sự hiểu biết của
vị hữu học, chàng trai ấy trong khi quán sát bản
chất như đã được thấy như đã
được biết, tâm đã không còn chấp thủ và
đã được giải thoát khỏi các lậu
hoặc. Này gia chủ, Yasa không thể nào quay lui đời
sống thấp kém để thọ hưởng các
dục lạc giống như trước đây khi còn
ở tại gia. - Bạch ngài, thật là lợi ích cho người con
trai gia đình danh giá Yasa! Thật khéo thành tựu cho
người con trai gia đình danh giá Yasa! Như là việc
tâm của người con trai gia đình danh giá Yasa đã
không còn chấp thủ và đã được giải thoát
khỏi các lậu hoặc. Bạch ngài, xin đức
Thế Tôn nhận lời con về bữa thọ trai ngày
mai cùng với người con trai gia đình danh giá Yasa làm
sa-môn thị giả.
Khi ấy, người gia chủ
đại phú hiểu được sự nhận
lời của đức Thế Tôn nên đã từ chỗ
ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức
Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra
đi. - Bạch ngài, con có thể xuất gia trong sự
hiện diện của đức Thế Tôn không? Con có
thể tu lên bậc trên không? Đức Thế Tôn đã nói rằng: - Này tỳ khưu, hãy đến. Pháp đã
được khéo thuyết giảng, hãy thực hành
Phạm hạnh một cách đúng đắn để
chấm dứt khổ đau. Chính điều ấy đã là sự tu lên bậc trên
của đại đức ấy. Vào lúc bấy giờ, trên thế gian có bảy vị A-la-hán.
Mẹ và vợ ông Yasa, hai vị nữ cư sĩ Dự Lưu quy y Tam Bảo đầu tiên
Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn
đã mặc y, cầm y bát, đi đến tư gia
của người gia chủ đại phú cùng với
đại đức Yasa làm sa-môn thị giả, sau khi
đến đã ngồi xuống chỗ ngồi
được sắp đặt sẵn. Khi ấy,
người mẹ và người vợ cũ của đại đức Yasa đã đi đến
gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã
đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi
xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã
thuyết Pháp theo thứ lớp đến các người
nữ ấy. Tức là ngài đã giảng giải bài
thuyết về bố thí, bài thuyết về giới
cấm, bài thuyết về cõi trời, sự ô nhiễm
hạ liệt tai hại của các dục, sự lợi
ích của việc xuất ly. Khi đức Thế Tôn
biết được tâm của các người nữ
ấy đã sẵn sàng, dễ uốn nắn, không còn chướng
ngại, hướng thượng, tịnh tín, ngài
đã phô bày Pháp thuyết giảng đã được
chư Phật khai mở là: Khổ, Tập, Diệt,
Đạo. Cũng giống như tấm vải đã được làm sạch, không còn vết nhơ, có thể nhuộm
màu một cách toàn vẹn; tương tợ như thế, ngay
tại chỗ ngồi ấy Pháp nhãn không nhiễm bụi
trần, không vết nhơ đã sanh khởi đến các
người nữ ấy: “Điều gì có bản tánh
được sanh lên, toàn bộ điều ấy
đều có bản tánh hoại diệt.” Sau đó, khi đã thấy được Pháp, đã
thành tựu được Pháp, đã hiểu
được Pháp, đã thấm nhuần Pháp, hoài nghi
đã không còn, sự lưỡng lự đã dứt
hẳn, đã thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của
bậc Đạo Sư, không còn cần sự trợ duyên
của người khác, các người nữ ấy đã
nói với đức Thế Tôn điều này: - Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài,
thật là tuyệt vời! Bạch ngài, giống như người
có thể lật ngửa vật đã được úp
lại, mở ra vật đã bị che kín, chỉ
đường cho kẻ lạc lối, đem lại cây
đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng): “Những
người có mắt sẽ nhìn thấy được các
hình dáng;” tương tợ như thế, Pháp đã
được đức Thế Tôn chỉ rõ bằng
nhiều phương tiện. Bạch ngài, chúng con đây
xin quy y đức Thế Tôn, Giáo Pháp, và Hội chúng tỳ
khưu. Xin đức Thế Tôn chấp nhận chúng con là
các nữ cư sĩ đã được quy y kể
từ hôm nay cho đến trọn đời. Và các người nữ ấy đã trở thành
những nữ cư sĩ đọc ba câu (tevācikā)
quy y
đầu tiên ở thế gian. Sau đó, khi đã tự tay làm hài lòng và thỏa mãn
hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng
đầu với thức ăn thượng hạng
loại cứng loại mềm, đến khi đức
Thế Tôn đã thọ thực xong bàn tay đã rời
khỏi bình bát, người mẹ người cha và
người vợ cũ của đại
đức Yasa đã ngồi xuống ở một bên Khi
ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức
tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi
cho người mẹ người cha và người vợ
cũ của đại đức Yasa bằng
bài Pháp thoại, rồi đã từ chỗ ngồi đứng
dậy, và ra đi.
Mười một vị A-la-hán
Bốn người bạn tại gia của
đại đức Yasa (tên) Vimala, Subāhu,
Puṇṇaji, Gavampati là những người con trai
của các gia đình đại phú và khá giả ở thành
Bārāṇasī đã nghe được rằng: “Nghe
nói người con trai gia đình danh giá Yasa đã cạo
bỏ râu tóc, khoác lên các tấm vải màu ca-sa, và rời nhà
xuất gia sống không nhà.” Sau khi nghe, các người
ấy đã khởi ý điều này: “Pháp và Luật
ấy chắc chắn không phải là tầm thường!
Việc xuất gia ấy không phải là tầm
thường khi mà người con trai gia đình danh giá Yasa
đã cạo bỏ râu tóc, khoác lên các tấm vải màu
ca-sa, và rời nhà xuất gia sống không nhà!” Các
người ấy đã đi đến gặp
đại đức Yasa, sau khi đến đã
đảnh lễ đại đức Yasa rồi
đứng ở một bên. Khi ấy, đại
đức Yasa đã dẫn bốn người bạn
tại gia ấy đi đến gặp đức
Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ
đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một
bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại
đức Yasa đã nói với đức Thế Tôn
điều này: - Bạch ngài, bốn người bạn tại gia
này của con (tên) Vimala, Subāhu, Puṇṇaji, Gavampati là
những người con trai của các gia đình đại
phú và khá giả ở thành Bārāṇasī. Xin
đức Thế Tôn hãy giáo huấn và chỉ dạy cho
những người này. Đức Thế Tôn đã thuyết Pháp theo thứ
lớp đến những người ấy. Tức là
ngài đã giảng giải bài thuyết về bố thí, bài
thuyết về giới cấm, bài thuyết về cõi
trời, sự ô nhiễm hạ liệt tai hại của
các dục, sự lợi ích của việc xuất ly. Khi
đức Thế Tôn biết được tâm của
những người ấy đã sẵn sàng, dễ
uốn nắn, không còn chướng ngại, hướng
thượng, tịnh tín, ngài đã phô bày Pháp thuyết
giảng đã được chư Phật khai mở là:
Khổ, Tập, Diệt, Đạo.
Cũng giống như tấm vải đã được làm sạch, không còn vết nhơ, có thể nhuộm
màu một cách toàn vẹn; tương
tợ như thế, ngay tại chỗ ngồi ấy Pháp
nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã
sanh khởi đến những người ấy: “Điều
gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ
điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.” Sau đó, khi đã thấy được Pháp, đã
thành tựu được Pháp, đã hiểu
được Pháp, đã thấm nhuần Pháp, hoài nghi
đã không còn, sự lưỡng lự đã dứt
hẳn, đã thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của
bậc Đạo Sư, không còn cần sự trợ duyên
của người khác, những người ấy đã
nói với đức Thế Tôn điều này: - Bạch ngài, chúng con có thể xuất gia trong sự
hiện diện của đức Thế Tôn không? Chúng con
có thể tu lên bậc trên không? Đức Thế Tôn đã nói rằng: - Này các tỳ khưu, hãy đến. Pháp đã
được khéo thuyết giảng, hãy thực hành
Phạm hạnh một cách đúng đắn để
chấm dứt khổ đau. Chính điều ấy đã là sự tu lên bậc trên
của các đại đức ấy. Sau đó, đức Thế Tôn đã giáo huấn và
chỉ dạy cho các vị tỳ khưu ấy bằng bài
Pháp thoại. Trong khi được đức Thế Tôn
giáo huấn và chỉ dạy bằng bài Pháp thoại, tâm
của các vị ấy đã không còn chấp thủ và
đã được giải thoát khỏi các lậu
hoặc. Vào lúc bấy giờ, trên thế gian có mười một vị A-la-hán.
Sáu mươi mốt vị A-la-hán
Những người bạn tại gia của
đại đức Yasa có số lượng năm
mươi (người) là những người con trai
của các gia đình đầu tiên hoặc kế tục
trong xứ sở đã nghe được rằng: “Nghe
nói người con trai gia đình danh giá Yasa đã cạo
bỏ râu tóc, khoác lên các tấm vải màu ca-sa, và rời nhà
xuất gia sống không nhà.” Sau khi nghe, các người
ấy đã khởi ý điều này: “Pháp và Luật
ấy chắc chắn không phải là tầm thường!
Việc xuất gia ấy không phải là tầm
thường khi mà người con trai gia đình danh giá Yasa
đã cạo bỏ râu tóc, khoác lên các tấm vải màu
ca-sa, và rời nhà xuất gia sống không nhà!” Các người
ấy đã đi đến gặp đại đức
Yasa, sau khi đến đã đảnh lễ đại
đức Yasa rồi đứng ở một bên. Khi
ấy, đại đức Yasa đã dẫn các
người bạn tại gia có số lượng là
năm mươi (người) ấy đi đến
gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã
đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi
xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một
bên, đại đức Yasa đã nói với đức
Thế Tôn điều này: - Bạch ngài, những người bạn tại gia
này của con có số lượng năm mươi
(người) là những người con trai của các gia
đình đầu tiên hoặc kế tục trong xứ
sở. Xin đức Thế Tôn hãy giáo huấn và chỉ
dạy cho những người này. Đức Thế Tôn đã thuyết Pháp theo thứ
lớp đến những người ấy. Tức là
ngài đã giảng giải bài thuyết về bố thí, bài
thuyết về giới cấm, bài thuyết về cõi
trời, sự ô nhiễm hạ liệt tai hại của
các dục, sự lợi ích của việc xuất ly. Khi
đức Thế Tôn biết được tâm của
những người ấy đã sẵn sàng, dễ
uốn nắn, không còn chướng ngại, hướng
thượng, tịnh tín, ngài đã phô bày Pháp thuyết
giảng đã được chư Phật khai mở là:
Khổ, Tập, Diệt, Đạo.
Cũng giống như tấm vải đã được làm sạch, không còn vết nhơ, có thể nhuộm
màu một cách toàn vẹn; tương
tợ như thế, ngay tại chỗ ngồi ấy Pháp
nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã
sanh khởi đến những người ấy: “Điều
gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ
điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.” Sau đó, khi đã thấy được Pháp, đã
thành tựu được Pháp, đã hiểu
được Pháp, đã thấm nhuần Pháp, hoài nghi
đã không còn, sự lưỡng lự đã dứt
hẳn, đã thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của
bậc Đạo Sư, không còn cần sự trợ duyên
của người khác, những người ấy đã
nói với đức Thế Tôn điều này: - Bạch ngài, chúng con có thể xuất gia trong sự
hiện diện của đức Thế Tôn không? Chúng con
có thể tu lên bậc trên không? Đức Thế Tôn đã nói rằng: - Này các tỳ khưu, hãy đến. Pháp đã
được khéo thuyết giảng, hãy thực hành
Phạm hạnh một cách đúng đắn để
chấm dứt khổ đau. Chính điều ấy đã là sự tu lên bậc trên
của các đại đức ấy. Sau đó, đức Thế Tôn đã giáo huấn và
chỉ dạy cho các vị tỳ khưu ấy bằng bài
Pháp thoại. Trong khi được đức Thế Tôn
giáo huấn và chỉ dạy bằng bài Pháp thoại, tâm
của các vị ấy đã không còn chấp thủ và
đã được giải thoát khỏi các lậu
hoặc. Vào lúc bấy giờ, trên thế gian có sáu mươi mốt vị A-la-hán. *
Sau đó, đức Thế Tôn đã bảo các
vị tỳ khưu rằng: - Này các tỳ khưu, ta đã thoát khỏi tất cả các sự trói buộc thuộc về cõi trời và loài người. Này các tỳ khưu, các ngươi cũng đã thoát khỏi tất cả các sự trói buộc thuộc về cõi trời và loài người. Này các tỳ khưu, hãy cất bước du hành vì lợi ích của nhiều người, vì an lạc của nhiều người, vì lòng thương xót thế gian, vì sự tiến hóa, sự lợi ích, sự an vui của chư thiên và nhân loại, chớ đi hai người chung một (đường). Này các tỳ khưu, hãy thuyết giảng Giáo Pháp toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa, và toàn hảo ở đoạn kết, thành tựu về ý nghĩa, thành tựu về văn tự, giảng giải về Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn và đầy đủ. Có những hạng người sanh lên bị ít ô nhiễm sẽ là những người hiểu được Giáo Pháp, (nhưng) do việc không nghe Giáo Pháp sẽ bị thoái hóa. Này các tỳ khưu, ta cũng sẽ đi đến ngôi làng của Senāni ở Uruvelā cho việc thuyết giảng Giáo Pháp. Chú thích: [1] Nói cho gọn hơn là Bát Chánh Đạo gồm có: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh cần, chánh niệm, chánh định. [2] “Aññākoṇḍañña” = Aññā + koṇḍañña nghĩa là Koṇḍañña đã hiểu. Aññā được trích từ lời nói của đức Phật là: “Aññāsi vata bho Koṇḍañño, aññāsi vata bho Koṇḍañño” rồi ghép vào phía trước tên Koṇḍañña. [3] Khoái lạc sanh lên do năm giác quan: mắt, tai, mũi, lưỡi, và thân. [4] ... bãi tha ma đạt được trong tầm tay (dịch sát từ). [5] Lúc ấy trên thế gian này đã có sáu vị tỳ khưu A-la-hán đại diện cho Tăng Bảo. Và người gia chủ này quy Tam Bảo vì đọc ba câu là: “Quy y đức Thế Tôn, Quy y Giáo Pháp, và Quy y Hội chúng tỳ khưu,” không như hai người thương buôn trước đây (Tapussa và Bhallika) chỉ quy y Nhị Bảo là Phật Bảo và Pháp Bảo (chú thích của người dịch). * * * |
[ Home ]
04-08-2018