Đàm luận Phật Pháp
- 164 -

Con đường thẳng tới chứng ngộ - Chương 13

QUÁN PHÁP: BỐN THÁNH ĐẾ  

 
1-bia_mucluc.jpg
1-bia_mucluc.jpg
1611 * 789
2-mucluc13.jpg
2-mucluc13.jpg
1057 * 772
3-sati_tomtat.jpg
3-sati_tomtat.jpg
1346 * 930
4-satipatthana.jpg
4-satipatthana.jpg
1654 * 1783
5-tude.jpg
5-tude.jpg
1262 * 814
6-chuyen_pl.jpg
6-chuyen_pl.jpg
1279 * 867
7-dukkha.jpg
7-dukkha.jpg
1262 * 823
8-4de8chi.jpg
8-4de8chi.jpg
1127 * 918
9-quan4de.jpg
9-quan4de.jpg
1215 * 877
10-4truths.jpg
10-4truths.jpg
1208 * 833
11-4demaha.jpg
11-4demaha.jpg
1218 * 922
12-noingoaixu.jpg
12-noingoaixu.jpg
1320 * 855
13-phap.jpg
13-phap.jpg
1072 * 704
14-4lapniem.jpg
14-4lapniem.jpg
1213 * 800
15-duluu.jpg
15-duluu.jpg
1263 * 885

 

Tham khảo:
  1. Satipaṭṭhāna: Con Đường Thẳng Tới Chứng Ngộ, Cư sĩ Nguyễn Văn Ngân dịch (2017) - http://budsas.net/sach/vn43.pdf
     
  2. Satipaṭṭhāna: The Direct Path to Realization, Bhikkhu Analayo (2004) - http://budsas.net/sach/en41.zip  (dạng nén Zip, cần phải giải nén trước khi đọc)
     
  3. Phụ đính: MN 10 Satipatthana-sutta, in: A Comparative Study of the Majjhima-Nikaya, Bhikkhu Analayo (2011) - http://budsas.net/sach/en140.pdf
     
  4. Perspectives on Satipaṭṭhāna, Bhikkhu Analayo (2013) - http://budsas.net/sach/en141.zip  (dạng nén Zip, cần phải giải nén với mật khẩu trước khi đọc)

 

Ba bài tham luận về NIỆM trong kinh điển nguyên thủy -- theo tôi -- trình bày nghiêm túc, có dẫn chứng đầy đủ:
  1. Bhikkhu Bodhi. What does mindfulness really mean? (2011)
    (Niệm thật sự nghĩa là gì?)
    http://budsas.net/sach/en142.pdf
     
  2. Gethin, Rupert. On some definitions of mindfulness (2011)
    (Về vài định nghĩa của Niệm)
    http://budsas.net/sach/en143.pdf
     
  3. Bhikkhu Analayo. Mindfulness in Early Buddhism (2014)
    (Niệm trong Phật giáo Sơ kỳ)
    http://budsas.net/sach/en144.pdf

 

 

BỐN PHÁP LẬP NIỆM
Kinh Lập Niệm
Satipaṭṭhāna Sutta, MN 10

*

Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở xứ Kuru (Câu-lâu), tại thị trấn Kammāsadhamma (Kiềm-ma Sắt-đàm) của người Kuru. Rồi Thế Tôn gọi các tỳ-khưu: – Này các tỳ-khưu. Các tỳ-khưu vâng đáp Thế Tôn: – Bạch Thế Tôn. Thế Tôn thuyết như sau:

[CON ĐƯỜNG NHẤT HƯỚNG, TRỰC TIẾP]
– Này các tỳ-khưu, đây là con đường nhất hướng để thanh tịnh hóa chúng sinh, vượt khỏi sầu não và khổ ưu, thành tựu chánh đạo, chứng ngộ Niết-bàn – đó là bốn pháp lập niệm.

[ĐỊNH NGHĨA]
Thế nào là bốn? Này các tỳ-khưu, tỳ-khưu sống quán thân như thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, chế ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ như các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, chế ngự tham ưu ở đời; sống quán tâm như tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, chế ngự tham ưu ở đời; sống quán pháp như các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, chế ngự tham ưu ở đời.

[QUÁN HƠI THỞ]
Và này các tỳ-khưu, thế nào là tỳ-khưu sống quán thân như thân? Ở đây, tỳ-khưu đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống và ngồi xuống. Sau khi xếp tréo chân, lưng thẳng và an trú niệm trước mặt, vị ấy thở vô với ghi nhận rõ ràng, vị ấy thở ra với ghi nhận rõ ràng.

Thở vô dài, vị ấy biết: “Tôi thở vô dài”; hay thở ra dài, vị ấy biết: “Tôi thở ra dài”; hay thở vô ngắn, vị ấy biết: “Tôi thở vô ngắn”; hay thở ra ngắn, vị ấy biết: “Tôi thở ra ngắn”. “Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập; “Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập; “An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập; “An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập.

Như người thợ quay thiện xảo, hay học trò của người ấy, khi quay vòng dài, biết: “Tôi quay vòng dài”; hay khi quay vòng ngắn, biết: “Tôi quay vòng ngắn”. Cũng vậy, tỳ-khưu thở vô dài, biết: “Tôi thở vô dài”;... “An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập.

[ĐIỆP KHÚC]
Bằng cách ấy, vị ấy sống quán thân như thân bên trong hay sống quán thân như thân bên ngoài; hay sống quán thân như thân bên trong và bên ngoài. Hay vị ấy sống quán tính sinh khởi trong thân; hay sống quán tính diệt tận trong thân; hay sống quán tính sinh và diệt trong thân. Hay niệm “có thân đây”được thiết lập nơi vị ấy với mức độ cần thiết để hiểu biết và ghi nhớ đầy đủ. Và vị ấy sống độc lập, không bám chấp điều gì trên đời. Như vậy là tỳ-khưu sống quán thân như thân.

[CÁC OAI NGHI]
Lại nữa, này các tỳ-khưu, tỳ-khưu đi, biết: “Tôi đi”; hay đứng, biết: “Tôi đứng”; hay ngồi, biết: “Tôi ngồi”; hay nằm, biết: “Tôi nằm”. Thân thể ở oai nghi như thế nào, vị ấy biết thân như thế ấy.

[ĐIỆP KHÚC]
Bằng cách ấy, vị ấy sống quán thân như thân bên trong … bên ngoài … bên trong và bên ngoài. Hay vị ấy sống quán tính sinh khởi … diệt tận trong thân … sinh và diệt trong thân. Hay niệm “có thân đây”được thiết lập nơi vị ấy với mức độ cần thiết để hiểu biết và ghi nhớ đầy đủ. Và vị ấy sống độc lập, không bám chấp điều gì trên đời. Như vậy là tỳ-khưu sống quán thân như thân.

[CÁC SINH HOẠT]
Lại nữa, này các tỳ-khưu, tỳ-khưu khi bước tới bước lui, biết rõ việc mình đang làm; khi nhìn tới nhìn lui, biết rõ việc mình đang làm; khi co tay, khi duỗi tay, biết rõ việc mình đang làm; khi mặc và mang y, mang bát, biết rõ việc mình đang làm; khi ăn, uống, nhai, nếm, biết rõ việc mình đang làm; khi đại tiện, tiểu tiện, biết rõ việc mình đang làm; khi đi, đứng, ngồi, ngủ, thức dậy, nói, giữ im lặng, biết rõ việc mình đang làm.

[ĐIỆP KHÚC]
Bằng cách ấy, vị ấy sống quán thân như thân bên trong … bên ngoài … bên trong và bên ngoài. Hay vị ấy sống quán tính sinh khởi … diệt tận trong thân … sinh và diệt trong thân. Hay niệm “có thân đây”được thiết lập nơi vị ấy với mức độ cần thiết để hiểu biết và ghi nhớ đầy đủ. Và vị ấy sống độc lập, không bám chấp điều gì trên đời. Như vậy là tỳ-khưu sống quán thân như thân.

[CÁC BỘ PHẬN CƠ THỀ]
Lại nữa, này các tỳ-khưu, tỳ-khưu quán sát thân này, từ bàn chân trở lên, từ đỉnh tóc trở xuống, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật bất tịnh khác nhau, như sau: “Ðây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, thức ăn trong dạ dầy, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, niêm dịch, nước ở khớp xương, và nước tiểu”.

Cũng như một bao chứa mở hai đầu đựng đầy các loại hạt như gạo đỏ, lúa, đậu xanh, đậu lớn, mè, gạo trắng. Một người có mắt, đổ các hột ấy ra và quán sát: “Ðây là gạo đỏ, đây là lúa, đây là đậu xanh, đây là đậu lớn, đây là mè, đây là gạo trắng”. Cũng vậy, tỳ-khưu quán sát thân này ... chứa đầy những vật bất tịnh khác nhau, như sau: “Ðây là tóc, lông, ... nước tiểu”.

[ĐIỆP KHÚC]
Bằng cách ấy, vị ấy sống quán thân như thân bên trong … bên ngoài … bên trong và bên ngoài. Hay vị ấy sống quán tính sinh khởi … diệt tận trong thân … sinh và diệt trong thân. Hay niệm “có thân đây”được thiết lập nơi vị ấy với mức độ cần thiết để hiểu biết và ghi nhớ đầy đủ. Và vị ấy sống độc lập, không bám chấp điều gì trên đời. Như vậy là tỳ-khưu sống quán thân như thân.

[CÁC PHẦN TỬ]
Lại nữa, này các tỳ-khưu, tỳ-khưu quán sát thân này, ở bất cứ vị trí hay oai nghi nào, chỉ gồm có các phần tử: “Trong thân này có địa đại, thủy đại, hỏa đại và phong đại”.

Như một người đồ tể thiện xảo, hay học trò của người ấy, giết một con bò rồi ngồi cắt chia từng phần tại ngã tư đường. Cũng vậy, này các tỳ-khưu, tỳ-khưu quán sát thân này, ở bất cứ vị trí hay oai nghi nào, chỉ gồm có các phần tử: “Trong thân này có địa đại, thủy đại, hỏa đại và phong đại”.

[ĐIỆP KHÚC]
Bằng cách ấy, vị ấy sống quán thân như thân bên trong … bên ngoài … bên trong và bên ngoài. Hay vị ấy sống quán tính sinh khởi … diệt tận trong thân … sinh và diệt trong thân. Hay niệm “có thân đây”được thiết lập nơi vị ấy với mức độ cần thiết để hiểu biết và ghi nhớ đầy đủ. Và vị ấy sống độc lập, không bám chấp điều gì trên đời. Như vậy là tỳ-khưu sống quán thân như thân.

[TỬ THI SÌNH THỐI]
Lại nữa, này các tỳ-khưu, như thể khi thấy một tử thi bị quăng bỏ trong nghĩa địa một ngày, hai ngày, ba ngày đã chết, trương phồng lên, xanh đen lại, rữa nát, … bị các loài quạ ăn, hay bị các loài diều hâu ăn, hay bị các chim kên ăn, hay bị các loài chó ăn, hay bị các loài giả can ăn, hay bị các loài giòi bọ ăn, … bộ xương còn dính thịt và máu, được các đường gân cột lại, ... bộ xương không còn dính thịt nhưng còn dính máu, còn được các đường gân cột lại, ... với bộ xương không còn dính thịt và máu, còn được các đường gân cột lại, ... chỉ còn các khúc xương không dính lại với nhau, rải rác chỗ này chỗ kia, … xương trắng màu vỏ ốc, ... xương chất đống đã hơn một năm, ... xương đã mục nát thành bột, tỳ-khưu quán thân ấy như sau: “Thân này là như vậy, bản chất là như vậy, là điều tất yếu không ngoại lệ”.

[ĐIỆP KHÚC]
Bằng cách ấy, vị ấy sống quán thân như thân bên trong … bên ngoài … bên trong và bên ngoài. Hay vị ấy sống quán tính sinh khởi … diệt tận trong thân … sinh và diệt trong thân. Hay niệm “có thân đây”được thiết lập nơi vị ấy với mức độ cần thiết để hiểu biết và ghi nhớ đầy đủ. Và vị ấy sống độc lập, không bám chấp điều gì trên đời. Như vậy là tỳ-khưu sống quán thân như thân.

[CÁC CẢM THỌ]
Này các tỳ-khưu, như thế nào là tỳ-khưu sống quán thọ như các thọ? Ở đây tỳ-khưu khi cảm giác lạc thọ, biết: “Tôi cảm giác lạc thọ”; khi cảm giác khổ thọ, biết: “Tôi cảm giác khổ thọ”; khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ, biết: “Tôi cảm giác bất khổ bất lạc thọ”.

Hay khi cảm giác lạc thọ trần tục, biết: “Tôi cảm giác lạc thọ trần tục”; hay khi cảm giác lạc thọ xuất tục, biết: “Tôi cảm giác lạc thọ xuất tục”. Hay khi cảm giác khổ thọ trần tục, biết: “Tôi cảm giác khổ thọ trần tục”; hay khi cảm giác khổ thọ xuất tục, biết: “Tôi cảm giác khổ thọ xuất tục”. Hay khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ trần tục, biết: “Tôi cảm giác bất khổ bất lạc thọ trần tục”; hay khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ xuất tục, biết: “Tôi cảm giác bất khổ bất lạc thọ xuất tục”.

[ĐIỆP KHÚC]
Bằng cách ấy, vị ấy sống quán thọ như các thọ bên trong … bên ngoài … bên trong và bên ngoài. Hay vị ấy sống quán tính sinh khởi … diệt tận trong thọ … sinh và diệt trong thọ. Hay niệm “có thọ đây”được thiết lập nơi vị ấy với mức độ cần thiết để hiểu biết và ghi nhớ đầy đủ. Và vị ấy sống độc lập, không bám chấp điều gì trên đời. Như vậy là tỳ-khưu sống quán thọ như các thọ.

[TÂM]
Này các tỳ-khưu, như thế nào là tỳ-khưu sống quán tâm như tâm? Ở đây, tỳ-khưu với tâm có tham, biết: “Tâm có tham”; hay với tâm không tham, biết: “Tâm không tham”. Hay với tâm có sân, biết: “Tâm có sân”; hay với tâm không sân, biết: “Tâm không sân”. Hay với tâm có si, biết: “Tâm có si”; hay với tâm không si, biết: “Tâm không si”. Hay với tâm thu hẹp, biết: “Tâm thu hẹp”. Hay với tâm tán loạn, biết: “Tâm tán loạn”. Hay với tâm quảng đại, biết: “Tâm quảng đại”; hay với tâm không quảng đại, biết: “Tâm không quảng đại”. Hay với tâm vô thượng, biết: “Tâm vô thượng”; hay với tâm hạ liệt, biết: “Tâm hạ liệt”. Hay với tâm có định, biết: “Tâm có định”; hay với tâm không định, biết: “Tâm không định”. Hay với tâm giải thoát, biết: “Tâm giải thoát”; hay với tâm không giải thoát, biết: “Tâm không giải thoát”.

[ĐIỆP KHÚC]
Bằng cách ấy, vị ấy sống quán tâm như tâm bên trong … bên ngoài … bên trong và bên ngoài. Hay vị ấy sống quán tính sinh khởi … diệt tận trong tâm … sinh và diệt trong tâm. Hay niệm “có tâm đây”được thiết lập nơi vị ấy với mức độ cần thiết để hiểu biết và ghi nhớ đầy đủ. Và vị ấy sống độc lập, không bám chấp điều gì trên đời. Như vậy là tỳ-khưu sống quán tâm như tâm.

[CÁC TRIỀN CÁI]
Này các tỳ-khưu, thế nào là tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp? Ở đây, tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với năm triền cái. Và thế nào là tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với năm triền cái?

Ở đây, khi trong tâm có tham dục, tỳ-khưu biết: “Trong tâm tôi có tham dục”; hay trong tâm không có tham dục, biết: “Trong tâm tôi không có tham dục”. Và vị ấy biết như thế nào tham dục chưa sinh, nay sinh khởi; biết như thế nào tham dục đã sinh, nay được đoạn diệt; và biết như thế nào với tham dục đã được đoạn diệt, trong tương lai không sinh khởi nữa.

Khi trong tâm có sân hận, tỳ-khưu biết: “Trong tâm tôi có sân hận”; hay trong tâm không có sân hận, biết: “Trong tâm tôi không có sân hận”. Và vị ấy biết như thế nào sân hận chưa sinh, nay sinh khởi; biết như thế nào sân hận đã sinh, nay được đoạn diệt; và biết như thế nào với sân hận đã được đoạn diệt, trong tương lai không sinh khởi nữa.

Khi trong tâm có hôn trầm thụy miên, tỳ-khưu biết: “Trong tâm tôi có hôn trầm thụy miên”; hay trong tâm không có hôn trầm thụy miên, biết: “Trong tâm tôi không có hôn trầm thụy miên”. Và vị ấy biết như thế nào hôn trầm thụy miên chưa sinh, nay sinh khởi; biết như thế nào hôn trầm thụy miên đã sinh, nay được đoạn diệt; và biết như thế nào với hôn trầm thụy miên đã được đoạn diệt, trong tương lai không sinh khởi nữa.

Khi trong tâm có trạo hối, tỳ-khưu biết: “Trong tâm tôi có trạo hối”; hay trong tâm không có trạo hối, biết: “Trong tâm tôi không có trạo hối”. Và vị ấy biết như thế nào trạo hối chưa sinh, nay sinh khởi; biết như thế nào trạo hối đã sinh, nay được đoạn diệt; và biết như thế nào với trạo hối đã được đoạn diệt, trong tương lai không sinh khởi nữa.

Khi trong tâm có nghi ngờ, tỳ-khưu biết: “Trong tâm tôi có nghi ngờ”; hay trong tâm không có nghi ngờ, biết: “Trong tâm tôi không có nghi ngờ”. Và vị ấy biết như thế nào nghi ngờ chưa sinh, nay sinh khởi; biết như thế nào nghi ngờ đã sinh, nay được đoạn diệt; và biết như thế nào với nghi ngờ đã được đoạn diệt, trong tương lai không sinh khởi nữa.

[ĐIỆP KHÚC]
Bằng cách ấy, vị ấy sống quán pháp như các pháp bên trong … bên ngoài … bên trong và bên ngoài. Hay vị ấy sống quán tính sinh khởi … diệt tận trong pháp … sinh và diệt trong pháp. Hay niệm “có pháp đây”được thiết lập nơi vị ấy với mức độ cần thiết để hiểu biết và ghi nhớ đầy đủ. Và vị ấy sống độc lập, không bám chấp điều gì trên đời. Như vậy là tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với năm triền cái.

[CÁC UẨN]
Lại nữa, này các tỳ-khưu, tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với năm thủ uẩn. Và thế nào là tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với năm thủ uẩn? Ở đây, tỳ-khưu biết: “Ðây là sắc, đây là sắc sinh khởi, đây là sắc tàn diệt. Ðây là thọ, đây là thọ sinh khởi, đây là thọ tàn diệt. Ðây là tưởng, đây là tưởng sinh khởi; đây là tưởng tàn diệt. Ðây là hành, đây là hành sinh khởi, đây là hành tàn diệt. Ðây là thức, đây là thức sinh khởi, đây là thức tàn diệt”.

[ĐIỆP KHÚC]
Bằng cách ấy, vị ấy sống quán pháp như các pháp bên trong … bên ngoài … bên trong và bên ngoài. Hay vị ấy sống quán tính sinh khởi … diệt tận trong pháp … sinh và diệt trong pháp. Hay niệm “có pháp đây”được thiết lập nơi vị ấy với mức độ cần thiết để hiểu biết và ghi nhớ đầy đủ. Và vị ấy sống độc lập, không bám chấp điều gì trên đời. Như vậy là tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với năm uẩn.

[CÁC XỨ]
Lại nữa, này các tỳ-khưu, tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với sáu nội xứ và ngoại xứ. Và thế nào là tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với sáu nội xứ và ngoại xứ?

Ở đây, tỳ-khưu biết con mắt và biết các sắc. Vị ấy biết kiết sử sinh khởi do duyên hai pháp này; biết như thế nào kiết sử chưa sinh, nay sinh khởi; biết như thế nào kiết sử đã sinh, nay được đoạn diệt; và biết như thế nào với kiết sử đã được đoạn diệt, trong tương lai không sinh khởi nữa.

Tỳ-khưu biết tai và biết các âm thanh. Vị ấy biết kiết sử sinh khởi do duyên hai pháp này; biết như thế nào kiết sử chưa sinh, nay sinh khởi; biết như thế nào kiết sử đã sinh, nay được đoạn diệt; và biết như thế nào với kiết sử đã được đoạn diệt, trong tương lai không sinh khởi nữa.

Tỳ-khưu biết mũi và biết các mùi hương. Vị ấy biết kiết sử sinh khởi do duyên hai pháp này; biết như thế nào kiết sử chưa sinh, nay sinh khởi; biết như thế nào kiết sử đã sinh, nay được đoạn diệt; và biết như thế nào với kiết sử đã được đoạn diệt, trong tương lai không sinh khởi nữa.

Tỳ khưu biết lưỡi và biết các vị nếm. Vị ấy biết kiết sử sinh khởi do duyên hai pháp này; biết như thế nào kiết sử chưa sinh, nay sinh khởi; biết như thế nào kiết sử đã sinh, nay được đoạn diệt; và biết như thế nào với kiết sử đã được đoạn diệt, trong tương lai không sinh khởi nữa.

Tỳ-khưu biết thân và biết các chạm xúc. Vị ấy biết kiết sử sinh khởi do duyên hai pháp này; biết như thế nào kiết sử chưa sinh, nay sinh khởi; biết như thế nào kiết sử đã sinh, nay được đoạn diệt; và biết như thế nào với kiết sử đã được đoạn diệt, trong tương lai không sinh khởi nữa.

Tỳ-khưu biết ý và biết các đối tượng của ý. Vị ấy biết kiết sử sinh khởi do duyên hai pháp này; biết như thế nào kiết sử chưa sinh, nay sinh khởi; biết như thế nào kiết sử đã sinh, nay được đoạn diệt; và biết như thế nào với kiết sử đã được đoạn diệt, trong tương lai không sinh khởi nữa.

[ĐIỆP KHÚC]
Bằng cách ấy, vị ấy sống quán pháp như các pháp bên trong … bên ngoài … bên trong và bên ngoài. Hay vị ấy sống quán tính sinh khởi … diệt tận trong pháp … sinh và diệt trong pháp. Hay niệm “có pháp đây”được thiết lập nơi vị ấy với mức độ cần thiết để hiểu biết và ghi nhớ đầy đủ. Và vị ấy sống độc lập, không bám chấp điều gì trên đời. Như vậy là tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với sáu nội xứ và ngoại xứ.

[CÁC GIÁC CHI]
Lại nữa, này các tỳ-khưu, tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với bảy giác chi. Và thế nào là tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với bảy giác chi?

Ở đây, khi trong tâm có niệm giác chi, tỳ-khưu biết: “Trong tâm tôi có niệm giác chi”; hay trong tâm không có niệm giác chi, biết: “Trong tâm tôi không có niệm giác chi”. Vị ấy biết như thế nào niệm giác chi chưa sinh, nay sinh khởi; và biết như thế nào niệm giác chi đã sinh, nay được tu tập viên thành.

Khi trong tâm có trạch pháp giác chi, tỳ-khưu biết: “Trong tâm tôi có trạch pháp giác chi”; hay trong tâm không có trạch pháp giác chi, biết: “Trong tâm tôi không có trạch pháp giác chi”. Vị ấy biết như thế nào trạch pháp giác chi chưa sinh, nay sinh khởi; và biết như thế nào trạch pháp giác chi đã sinh, nay được tu tập viên thành.

Khi trong tâm có tinh tấn giác chi, tỳ-khưu biết: “Trong tâm tôi có tinh tấn giác chi”; hay trong tâm không có tinh tấn giác chi, biết: “Trong tâm tôi không có tinh tấn giác chi”. Vị ấy biết như thế nào tinh tấn giác chi chưa sinh, nay sinh khởi; và biết như thế nào tinh tấn giác chi đã sinh, nay được tu tập viên thành.

Khi trong tâm có khinh an giác chi, tỳ-khưu biết: “Trong tâm tôi có khinh an giác chi”; hay trong tâm không có khinh an giác chi, biết: “Trong tâm tôi không có khinh an giác chi”. Vị ấy biết như thế nào khinh an giác chi chưa sinh, nay sinh khởi; và biết như thế nào khinh an giác chi đã sinh, nay được tu tập viên thành.

Khi trong tâm có hỷ giác chi, tỳ-khưu biết: “Trong tâm tôi có hỷ giác chi”; hay trong tâm không có hỷ giác chi, biết: “Trong tâm tôi không có hỷ giác chi”. Vị ấy biết như thế nào hỷ giác chi chưa sinh, nay sinh khởi; và biết như thế nào hỷ giác chi đã sinh, nay được tu tập viên thành.

Khi trong tâm có định giác chi, tỳ-khưu biết: “Trong tâm tôi có định giác chi”; hay trong tâm không có định giác chi, biết: “Trong tâm tôi không có định giác chi”. Vị ấy biết như thế nào định giác chi chưa sinh, nay sinh khởi; và biết như thế nào định giác chi đã sinh, nay được tu tập viên thành.

Khi trong tâm có xả giác chi, tỳ-khưu biết: “Trong tâm tôi có xả giác chi”; hay trong tâm không có xả giác chi, biết: “Trong tâm tôi không có xả giác chi”. Vị ấy biết như thế nào xả giác chi chưa sinh, nay sinh khởi; và biết như thế nào xả giác chi đã sinh, nay được tu tập viên thành.

[ĐIỆP KHÚC]
Bằng cách ấy, vị ấy sống quán pháp như các pháp bên trong … bên ngoài … bên trong và bên ngoài. Hay vị ấy sống quán tính sinh khởi … diệt tận trong pháp … sinh và diệt trong pháp. Hay niệm “có pháp đây”được thiết lập nơi vị ấy với mức độ cần thiết để hiểu biết và ghi nhớ đầy đủ. Và vị ấy sống độc lập, không bám chấp điều gì trên đời. Như vậy là tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với bảy giác chi.

[CÁC THÁNH ĐẾ]
Lại nữa, này các tỳ-khưu, vị ấy sống quán pháp như các pháp đối với bốn thánh đế. Và thế nào là tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với bốn thánh đế?

Ở đây, tỳ-khưu biết như thật: “Ðây là khổ”; biết như thật: “Ðây là nguồn gốc của khổ”; biết như thật: “Ðây là sự đoạn diệt khổ”; biết như thật: “Ðây là con đường đưa đến đoạn diệt khổ”.

[ĐIỆP KHÚC]
Bằng cách ấy, vị ấy sống quán pháp như các pháp bên trong … bên ngoài … bên trong và bên ngoài. Hay vị ấy sống quán tính sinh khởi … diệt tận trong pháp … sinh và diệt trong pháp. Hay niệm “có pháp đây”được thiết lập nơi vị ấy với mức độ cần thiết để hiểu biết và ghi nhớ đầy đủ. Và vị ấy sống độc lập, không bám chấp điều gì trên đời. Như vậy là tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với bốn thánh đế.

[TIÊN ĐOÁN]
Này các tỳ-khưu, vị nào tu tập bốn pháp lập niệm này như vậy trong bảy năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: chứng chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn chút dư tàn bám thủ thì chứng quả bất lai.

Này các tỳ-khưu, không cần gì đến bảy năm, vị nào tu tập bốn pháp lập niệm này như vậy trong sáu năm,... trong năm năm,... trong bốn năm,... trong ba năm,... trong hai năm,... trong một năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: chứng chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn chút dư tàn bám thủ thì chứng quả bất lai.
Này các tỳ-khưu, không cần gì đến một năm, vị nào tu tập bốn pháp lập niệm này như vậy trong bảy tháng,... trong sáu tháng,... trong năm tháng,... trong bốn tháng,... trong ba tháng,... trong hai tháng,... trong một tháng,... trong nửa tháng, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: chứng chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn chút dư tàn bám thủ thì chứng quả bất lai.

Này các tỳ-khưu, không cần gì nửa tháng, vị nào tu tập bốn pháp lập niệm này như vậy trong bảy ngày, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: chứng chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn chút dư tàn bám thủ thì chứng quả bất lai.

[CON ĐƯỜNG NHẤT HƯỚNG, TRỰC TIẾP]
Này các tỳ-khưu, đây là con đường nhất hướng để thanh tịnh hóa chúng sinh, vượt khỏi sầu não và khổ ưu, thành tựu chánh đạo, chứng ngộ Niết-bàn – đó là bốn pháp lập niệm.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các tỳ-khưu ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn.

--(MN 10, Kinh Lập Niệm - Satipaṭṭhāna Sutta)

* * *

 

Đại kinh Lập niệm
Mahāsatipatṭhāna Sutta (DN 22)

(...)

[CÁC THÁNH ĐẾ]

17. Lại nữa này các tỳ-khưu, vị ấy sống quán pháp trên các pháp đối với Bốn Sự thật.

Này các tỳ-khưu, thế nào là tỳ-khưu sống quán pháp trên các pháp đối với Bốn Sự thật? Này các tỳ-khưu, ở đây tỳ-khưu như thật tuệ tri: "Ðây là khổ"; như thật tuệ tri: "Ðây là khổ tập"; như thật tuệ tri: "Ðây là khổ diệt"; như thật tuệ tri: "Ðây là con đường đưa đến khổ diệt".

18. Và này các tỳ-khưu, thế nào Khổ Thánh đế? Sinh là khổ, già là khổ, chết là khổ, sầu, bi. khổ, ưu, não là khổ, cầu không được là khổ, tóm lại Năm Thủ uẩn là khổ.

Này các tỳ-khưu thế nào là sinh? Mỗi mỗi hạng chúng sinh trong từng giới loại, sự xuất sản, xuất sinh, xuất thành, tái sinh của họ, sự xuất hiện các uẩn, sự hoạch đắc các căn. Này các tỳ-khưu, như vậy gọi là sinh.

Này các tỳ-khưu, thế nào là già? Mỗi mỗi hạng chúng sinh, trong từng giới hạn, sự niên lão, sự hủy hoại, trạng thái rụng răng, trạng thái tóc bạc, da nhăn, tuổi thọ rút ngắn, các căn hủy hoại. Này các tỳ-khưu, như vậy là già.

Này các tỳ-khưu, thế nào là chết? Mỗi mỗi hạng chúng sinh trong từng giới loại, sự tạ thế, sự từ trần, thân hoại, sự diệt vong, sự chết, sự tử vong, thời đã đến, các uẩn đã tận diệt, sự vất bỏ tử thi. Này các tỳ-khưu, như vậy gọi là chết.

Này các tỳ-khưu, thế nào gọi là sầu? Này các tỳ-khưu, với những ai gặp phải tai nạn này hay tai nạn khác; với những ai cảm thọ sự đau khổ này hay sự đau khổ khác, sự sầu, sự sầu lo, sự sầu muộn, nội sầu, mọi khổ sầu của người ấy. Này các tỳ-khưu, như vậy gọi là sầu.

Này các tỳ-khưu, thế nào là bi? Này các tỳ-khưu, với những ai gặp phải tai nạn này hay tai nạn khác ; với những ai cảm thọ sự đau khổ này hay sự đau khổ khác, sự bi ai, sự bi thảm, sự than van, sự than khóc, sự bi thán, sự bi thống của người ấy. Này các tỳ-khưu, như vậy gọi là bi.

Này các tỳ-khưu, thế nào là khổ? Này các tỳ-khưu, sự đau khổ về thân, sự không sảng khoái về thân, sự đau khổ do thân cảm thọ, sự không sảng khoái do thân cảm thọ. Này các tỳ-khưu, như vậy gọi là khổ.

Này các tỳ-khưu, thế nào là ưu? Này các tỳ-khưu, sự đau khổ về tâm, sự không sảng khoái về tâm, sự đau khổ do tâm cảm thọ, sự không sảng khoái do tâm cảm thọ. Này các tỳ-khưu, như vậy gọi là ưu.

Này các tỳ-khưu, thế nào là não? Này các tỳ-khưu, với những ai gặp tai nạn này hay tai nạn khác; với những ai cảm thọ sự đau khổ này hay sự đau khổ khác, sự áo não, sự bi não, sự thất vọng, sự tuyệt vọng của người ấy. Này các tỳ-khưu, như vậy gọi là não.

Này các tỳ-khưu, thế nào là cầu bất đắc khổ? Này các tỳ-khưu, chúng sinh bị sinh chi phối, khởi sự mong cầu: "Mong rằng ta khỏi bị sinh chi phối, mong rằng ta khỏi phải đi thác sinh". Lời cầu mong ấy không được thành tựu. Như vậy gọi là cầu bất đắc khổ! Này các tỳ-khưu, chúng sinh bị già chi phối... chúng sinh bị bệnh chi phối... chúng sinh bị chết chi phối.. chúng sinh bị sầu, bi, khổ, ưu, não chi phối, khởi sự mong cầu: "Mong rằng ta khỏi bị sầu, bi, khổ, ưu, não chi phối! Mong rằng ta khỏi đương chịu sầu, bi, khổ, ưu, não". Lời mong cầu ấy không được thành tựu. Như vậy là cầu bất đắc khổ.

Này các tỳ-khưu, như thế nào là tóm lại, Năm Thủ uẩn là khổ? Như Sắc thủ uẩn, Thọ thủ uẩn, Tưởng thủ uẩn, Hành thủ uẩn, Thức thủ uẩn. Này các tỳ-khưu, như vậy tóm lại Năm Thủ uẩn là khổ.

19. Này các tỳ-khưu, thế nào là Khổ tập Thánh đế? Sự tham ái đưa đến tái sinh, câu hữu với hỷ và tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia. Như dục ái, hữu ái, vô hữu ái.

Này các tỳ-khưu, sự tham ái này khi sinh khởi thì sinh khởi ở đâu, khi an trú thì an trú ở đâu? Ở đời, sắc gì thân ái, sắc gì khả ái? Ở đời con mắt là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi sinh khởi thì sinh khởi ở đấy, khi an trú thì an trú ở đấy. Ở đời cái tai... ở đời mũi... ở đời lưỡi... ở đời thân... ở đời ý là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi sinh khởi thì sinh khởi ở đấy, khi an trú thì an trú ở đấy.

Ở đời các sắc... ở đời các tiếng... ở đời các hương... ở đời các vị... ở đời các cảm xúc... ở đời các pháp là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi sinh khởi thì sinh khởi ở đấy, khi an trú thì an trú ở đấy.

Ở đời nhãn thức... ở đời nhĩ thức... ở đời tỷ thức... ở đời thiệt thức... ở đời thân thức... ở đời ý thức là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi sinh khởi thì sinh khởi ở đấy, khi an trú thì an trú ở đấy.

Ở đời nhãn xúc... ở đời nhĩ xúc... ở đời tỷ xúc... ở đời thiệt xúc... ở đời thân xúc... ở đời ý xúc là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi sinh khởi thì sinh khởi ở đấy, khi an trú thì an trú ở đấy.

Ở đời nhãn xúc sở sinh thọ... ở đời nhĩ xúc sở sinh thọ... ở đời tỷ xúc sở sinh thọ... ở đời thiệt xúc sở thanh thọ... ở đời thân xúc sở sinh thọ... ở đời ý xúc sở sinh thọ là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi sinh khởi thì sinh khởi ở đấy, khi an trú thì an trú ở đấy.

Ở đời sắc tưởng... ở đời thanh tưởng... ở đời hương tưởng... ở đời vị tưởng... ở đời xúc tưởng... ở đời pháp tưởng là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi sinh khởi thì sinh khởi ở đấy, khi an trú thì an trú ở đấy.

Ở đời sắc tư... ở đời thanh tư... ở đời hương tư... ở đời vị tư... ở đời xúc tư... ở đời pháp tư là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi sinh khởi thì sinh khởi ở đấy, khi an trú thì an trú ở đấy.

Ở đời sắc ái... ở đời thanh ái... ở đời hương ái... ở đời vị ái... ở đời xúc ái... ở đời pháp ái là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi sinh khởi thì sinh khởi ở đấy, khi an trú thì an trú ở đây.

Ở đời sắc tầm ... ở đời thanh tầm... ở đời hương tầm... ở đời vị tầm... ở đời xúc tầm... ở đời pháp tầm là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi sinh khởi thì sinh khởi ở đấy, khi an trú thì an trú ở đấy.

Ở đời sắc tứ... ở đời thanh tứ... ở đời hương tứ... ở đời vị tứ... ở đời xúc tứ... ở đời pháp tứ là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi sinh khởi thì sinh khởi ở đấy, khi an trú thì an trú ở đấy. Này các tỳ-khưu, như vậy gọi là Khổ tập Thánh đế.

20. Này các tỳ-khưu, và thế nào là Khổ diệt Thánh đế? Sự diệt tận không còn luyến tiếc tham ái ấy, sự xả ly, sự khí xả, sự giải thoát, sự vô nhiễm (tham ái ấy).

Này các tỳ-khưu, sự tham ái này khi xả ly thì xả ly ở đâu, khi diệt trừ thì diệt trừ ở đâu? Ở đời các sắc gì thân, các sắc gì ái, sự tham ái này khi xả ly thì xả ly ở đấy, khi diệt trừ thì diệt trừ ở đấy.

Ở đời sắc gì thân ái, sắc gì khả ái? Ở đời con mắt là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi xả ly thì xả ly ở đấy, khi diệt trừ thì diệt trừ ở đấy. Ở đời lỗ tai... ở đời mũi... ở đời lưỡi... ở đời thân... ở đời ý là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi xả ly thì xả ly ở đấy, khi diệt trừ thì diệt trừ ở đấy.

Ở đời các sắc... ở đời các tiếng... ở đời các mùi hương... ở đời các vị.. ở đời các xúc... ở đời các pháp là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi xả ly thì xả ly ở đấy, khi diệt trừ thì diệt trừ ở đấy.

Ở đời nhãn thức... ở đời nhĩ thức... ở đời tỷ thức... ở đời thiệt thức... ở đời ý thức là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái khi xả ly thì xả ly ở đấy, khi diệt trừ thì diệt trừ ở đấy.

Ở đời nhãn xúc... ở đời nhĩ xúc... ở đời tỷ xúc... ở đời thiệt xúc... ở đời thân xúc... ở đời ý xúc là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi xả ly thì xả ly ở đấy, khi diệt trừ thì diệt trừ ở đấy.

Ở đời nhãn xúc sở sinh thọ... ở đời nhĩ xúc sở sinh thọ... ở đời tỷ xúc sở sinh thọ... ở đời thiệt xúc sở sinh thọ... ở đời thân xúc sở sinh thọ.. ở đời ý xúc sở sinh thọ là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi xả ly thì xả ly ở đấy, khi diệt trừ thì diệt trừ ở đấy.

Ở đời sắc tưởng... ở đời thanh tưởng... ở đời hương tưởng... ở đời vị tưởng... ở đời xúc tưởng... ở đời pháp tưởng là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi xả ly thì xả ly ở đấy, khi diệt trừ thì diệt trừ ở đấy.

Ở đời sắc tư... ở đời thanh tư... ở đời hương tư... ở đời vị tư... ở đời xúc tư... ở đời pháp tư là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi xả ly thì xả ly ở đấy, khi diệt trừ thì diệt trừ ở đấy.

Ở đời sắc ái... ở đời thanh ái... ở đời hương ái... ở đời vị ái... ở đời xúc ái... ở đời pháp ái là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi xả ly thì xả ly ở đấy, khi diệt trừ thì diệt trừ ở đấy.

Ở đời sắc tầm... ở đời thanh tầm... ở đời hương tầm... ở đời vị tầm... ở đời xúc tầm... ở đời pháp tầm là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi xả ly thì xả ly ở đấy, khi diệt trừ thì diệt trừ ở đấy.

Ở đời sắc tứ... ở đời thanh tứ... ở đời hương tứ... ở đời vị tứ... ở đời xúc tứ... ở đời pháp tứ là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi xả ly thì xả ly ở đấy, khi diệt trừ thì diệt trừ ở đấy.

Này các tỳ-khưu, như vậy gọi là Khổ diệt Thánh đế.

21. Này các tỳ-khưu, thế nào là Khổ diệt đạo Thánh đế. Ðó là bát chi Thánh đạo, tức là Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.

Này các tỳ-khưu, thế nào là Chánh tri kiến? Này các tỳ-khưu, tri kiến về Khổ, tri kiến về Khổ tập, tri kiến về Khổ diệt, tri kiến về Khổ diệt đạo. Này các tỳ-khưu, như vậy gọi là Chánh tri kiến.

Này các tỳ-khưu, thế nào là Chánh tư duy? Tư duy về ly dục, tư duy về vô sân, tư duy về bất hại. Này các tỷ kheo, như vậy gọi là Chánh tư duy.

Này các tỳ-khưu thế nào là Chánh ngữ? Tự chế không nói láo, tự chế không nói hai lưỡi, tự chế không ác khẩu, tự chế không nói lời phù phiếm. Này các tỳ-khưu, như vậy gọi là Chánh ngữ.

Này các tỳ-khưu, thế nào là Chánh nghiệp? Tự chế không sát sinh, tự chế không trộm cướp, tự chế không tà dâm. Này các tỳ-khưu, như vậy gọi là Chánh nghiệp.

Này các tỳ-khưu, thế nào là Chánh mạng? Này các tỳ-khưu, ở đây vị Thánh đệ tử từ bỏ tà mạng, sinh sống bằng chánh mạng. Này các tỳ-khưu, như vậy gọi là Chánh mạng.

Này các tỳ-khưu, và thế nào là Chánh tinh tấn? Này các tỳ-khưu, ở đây tỳ-khưu, đối với các ác, bất thiện pháp chưa sinh, khởi lên ý muốn không cho sinh khởi; vị này nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, trì chí. Ðối với các ác, bất thiện pháp đã sinh, khởi lên ý muốn trừ diệt, vị này nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, trì chí. Ðối với các thiện pháp chưa sinh, khởi lên ý muốn khiến cho sinh khởi; vị này nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, trì chí. Ðối với các thiện pháp đã sinh, khởi lên ý muốn khiến cho an trú, không cho băng hoại, khiến cho tăng trưởng, phát triển, viên mãn. Vị này nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, trì chí. Này các tỳ-khưu, như vậy gọi là Chánh tinh tấn.

Này các tỳ-khưu, thế nào là Chánh niệm? Này các tỳ-khưu, ở đây vị tỳ-khưu sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, để chế ngự tham ưu ở đời; trên các cảm thọ... trên các tâm... quán pháp trên các pháp, tinh cần tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Này các tỳ-khưu, như vậy gọi là Chánh niệm.

Này các tỳ-khưu, thế nào là Chánh định? Này các tỳ-khưu, ở đây tỳ-khưu ly dục, ly ác bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sinh, với tầm, với tứ. Tỳ-khưu ấy diệt tầm, diệt tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sinh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Tỳ-khưu ấy ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Tỳ-khưu ấy xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này các tỳ-khưu, như vậy gọi là Chánh định.

Này các tỳ-khưu, như vậy gọi là Khổ diệt đạo thánh đế.

[ĐIỆP KHÚC]

Bằng cách ấy, vị ấy sống quán pháp như các pháp bên trong … bên ngoài … bên trong và bên ngoài. Hay vị ấy sống quán tính sinh khởi … diệt tận trong pháp … sinh và diệt trong pháp. Hay niệm “có pháp đây”được thiết lập nơi vị ấy với mức độ cần thiết để hiểu biết và ghi nhớ đầy đủ. Và vị ấy sống độc lập, không bám chấp điều gì trên đời. Như vậy là tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với bốn thánh đế.

(...)

[ Home ]

16-04-2018