Đàm luận Phật Pháp
- 158 -

Con đường thẳng tới chứng ngộ - Chương 7

CÁC CẢM THỌ  

1-bia_mucluc.jpg
1-bia_mucluc.jpg
1611 * 789
2-sati_tomtat.jpg
2-sati_tomtat.jpg
1346 * 930
3-mucluc7.jpg
3-mucluc7.jpg
1356 * 875
4-mucdich.jpg
4-mucdich.jpg
1235 * 782
5-quantho.jpg
5-quantho.jpg
1352 * 846
6-tho108.jpg
6-tho108.jpg
1249 * 886
7-dentist.jpg
7-dentist.jpg
733 * 800
8-muiten.jpg
8-muiten.jpg
1308 * 869

 

Tham khảo:
  1. Satipaṭṭhāna: Con Đường Thẳng Tới Chứng Ngộ, Cư sĩ Nguyễn Văn Ngân dịch (2017) - http://budsas.net/sach/vn43.pdf
     
  2. Satipaṭṭhāna: The Direct Path to Realization, Bhikkhu Analayo (2004) - http://budsas.net/sach/en41.zip  (dạng nén Zip, cần phải giải nén trước khi đọc)
     
  3. Phụ đính: MN 10 Satipatthana-sutta, in: A Comparative Study of the Majjhima-Nikaya, Bhikkhu Analayo (2011) - http://budsas.net/sach/en140.pdf
     
  4. Perspectives on Satipaṭṭhāna, Bhikkhu Analayo (2013) - http://budsas.net/sach/en141.zip  (dạng nén Zip, cần phải giải nén với mật khẩu trước khi đọc)

 

Ba bài tham luận về NIỆM trong kinh điển nguyên thủy -- theo tôi -- trình bày nghiêm túc, có dẫn chứng đầy đủ:
  1. Bhikkhu Bodhi. What does mindfulness really mean? (2011)
    (Niệm thật sự nghĩa là gì?)
    http://budsas.net/sach/en142.pdf
     
  2. Gethin, Rupert. On some definitions of mindfulness (2011)
    (Về vài định nghĩa của Niệm)
    http://budsas.net/sach/en143.pdf
     
  3. Bhikkhu Analayo. Mindfulness in Early Buddhism (2014)
    (Niệm trong Phật giáo Sơ kỳ)
    http://budsas.net/sach/en144.pdf

 

 

BỐN PHÁP LẬP NIỆM
Kinh Lập Niệm
Satipaṭṭhāna Sutta, MN 10

*

Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở xứ Kuru (Câu-lâu), tại thị trấn Kammāsadhamma (Kiềm-ma Sắt-đàm) của người Kuru. Rồi Thế Tôn gọi các tỳ-khưu: – Này các tỳ-khưu. Các tỳ-khưu vâng đáp Thế Tôn: – Bạch Thế Tôn. Thế Tôn thuyết như sau:

[CON ĐƯỜNG NHẤT HƯỚNG, TRỰC TIẾP]
– Này các tỳ-khưu, đây là con đường nhất hướng để thanh tịnh hóa chúng sinh, vượt khỏi sầu não và khổ ưu, thành tựu chánh đạo, chứng ngộ Niết-bàn – đó là bốn pháp lập niệm.

[ĐỊNH NGHĨA]
Thế nào là bốn? Này các tỳ-khưu, tỳ-khưu sống quán thân như thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, chế ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ như các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, chế ngự tham ưu ở đời; sống quán tâm như tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, chế ngự tham ưu ở đời; sống quán pháp như các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, chế ngự tham ưu ở đời.

[QUÁN HƠI THỞ]
Và này các tỳ-khưu, thế nào là tỳ-khưu sống quán thân như thân? Ở đây, tỳ-khưu đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống và ngồi xuống. Sau khi xếp tréo chân, lưng thẳng và an trú niệm trước mặt, vị ấy thở vô với ghi nhận rõ ràng, vị ấy thở ra với ghi nhận rõ ràng.

Thở vô dài, vị ấy biết rõ: “Tôi thở vô dài”; hay thở ra dài, vị ấy biết rõ: “Tôi thở ra dài”; hay thở vô ngắn, vị ấy biết rõ: “Tôi thở vô ngắn”; hay thở ra ngắn, vị ấy biết rõ: “Tôi thở ra ngắn”. “Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập; “Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập; “An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập; “An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập.

Như người thợ quay thiện xảo, hay học trò của người ấy, khi quay vòng dài, biết rõ: “Tôi quay vòng dài”; hay khi quay vòng ngắn, biết rõ: “Tôi quay vòng ngắn”. Cũng vậy, tỳ-khưu thở vô dài, biết rõ: “Tôi thở vô dài”;... “An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập.

[ĐIỆP KHÚC]
Bằng cách ấy, vị ấy sống quán thân như thân bên trong hay sống quán thân như thân bên ngoài; hay sống quán thân như thân bên trong và bên ngoài. Hay vị ấy sống quán tính sinh khởi trong thân; hay sống quán tính diệt tận trong thân; hay sống quán tính sinh và diệt trong thân. Hay niệm “có thân đây”được thiết lập nơi vị ấy với mức độ cần thiết để hiểu biết và ghi nhớ đầy đủ. Và vị ấy sống độc lập, không bám chấp điều gì trên đời. Như vậy là tỳ-khưu sống quán thân như thân.

[CÁC OAI NGHI]
Lại nữa, này các tỳ-khưu, tỳ-khưu đi, biết rõ: “Tôi đi”; hay đứng, biết rõ: “Tôi đứng”; hay ngồi, biết rõ: “Tôi ngồi”; hay nằm, biết rõ: “Tôi nằm”. Thân thể ở oai nghi như thế nào, vị ấy biết rõ thân như thế ấy.

[ĐIỆP KHÚC]
Bằng cách ấy, vị ấy sống quán thân như thân bên trong … bên ngoài … bên trong và bên ngoài. Hay vị ấy sống quán tính sinh khởi … diệt tận trong thân … sinh và diệt trong thân. Hay niệm “có thân đây”được thiết lập nơi vị ấy với mức độ cần thiết để hiểu biết và ghi nhớ đầy đủ. Và vị ấy sống độc lập, không bám chấp điều gì trên đời. Như vậy là tỳ-khưu sống quán thân như thân.

[CÁC SINH HOẠT]
Lại nữa, này các tỳ-khưu, tỳ-khưu khi bước tới bước lui, biết rõ việc mình đang làm; khi nhìn tới nhìn lui, biết rõ việc mình đang làm; khi co tay, khi duỗi tay, biết rõ việc mình đang làm; khi mặc và mang y, mang bát, biết rõ việc mình đang làm; khi ăn, uống, nhai, nếm, biết rõ việc mình đang làm; khi đại tiện, tiểu tiện, biết rõ việc mình đang làm; khi đi, đứng, ngồi, ngủ, thức dậy, nói, giữ im lặng, biết rõ việc mình đang làm.

[ĐIỆP KHÚC]
Bằng cách ấy, vị ấy sống quán thân như thân bên trong … bên ngoài … bên trong và bên ngoài. Hay vị ấy sống quán tính sinh khởi … diệt tận trong thân … sinh và diệt trong thân. Hay niệm “có thân đây”được thiết lập nơi vị ấy với mức độ cần thiết để hiểu biết và ghi nhớ đầy đủ. Và vị ấy sống độc lập, không bám chấp điều gì trên đời. Như vậy là tỳ-khưu sống quán thân như thân.

[CÁC BỘ PHẬN CƠ THỀ]
Lại nữa, này các tỳ-khưu, tỳ-khưu quán sát thân này, từ bàn chân trở lên, từ đỉnh tóc trở xuống, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật bất tịnh khác nhau, như sau: “Ðây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, thức ăn trong dạ dầy, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, niêm dịch, nước ở khớp xương, và nước tiểu”.

Cũng như một bao chứa mở hai đầu đựng đầy các loại hạt như gạo đỏ, lúa, đậu xanh, đậu lớn, mè, gạo trắng. Một người có mắt, đổ các hột ấy ra và quán sát: “Ðây là gạo đỏ, đây là lúa, đây là đậu xanh, đây là đậu lớn, đây là mè, đây là gạo trắng”. Cũng vậy, tỳ-khưu quán sát thân này ... chứa đầy những vật bất tịnh khác nhau, như sau: “Ðây là tóc, lông, ... nước tiểu”.

[ĐIỆP KHÚC]
Bằng cách ấy, vị ấy sống quán thân như thân bên trong … bên ngoài … bên trong và bên ngoài. Hay vị ấy sống quán tính sinh khởi … diệt tận trong thân … sinh và diệt trong thân. Hay niệm “có thân đây”được thiết lập nơi vị ấy với mức độ cần thiết để hiểu biết và ghi nhớ đầy đủ. Và vị ấy sống độc lập, không bám chấp điều gì trên đời. Như vậy là tỳ-khưu sống quán thân như thân.

[CÁC PHẦN TỬ]
Lại nữa, này các tỳ-khưu, tỳ-khưu quán sát thân này, ở bất cứ vị trí hay oai nghi nào, chỉ gồm có các phần tử: “Trong thân này có địa đại, thủy đại, hỏa đại và phong đại”.

Như một người đồ tể thiện xảo, hay học trò của người ấy, giết một con bò rồi ngồi cắt chia từng phần tại ngã tư đường. Cũng vậy, này các tỳ-khưu, tỳ-khưu quán sát thân này, ở bất cứ vị trí hay oai nghi nào, chỉ gồm có các phần tử: “Trong thân này có địa đại, thủy đại, hỏa đại và phong đại”.

[ĐIỆP KHÚC]
Bằng cách ấy, vị ấy sống quán thân như thân bên trong … bên ngoài … bên trong và bên ngoài. Hay vị ấy sống quán tính sinh khởi … diệt tận trong thân … sinh và diệt trong thân. Hay niệm “có thân đây”được thiết lập nơi vị ấy với mức độ cần thiết để hiểu biết và ghi nhớ đầy đủ. Và vị ấy sống độc lập, không bám chấp điều gì trên đời. Như vậy là tỳ-khưu sống quán thân như thân.

[TỬ THI SÌNH THỐI]
Lại nữa, này các tỳ-khưu, như thể khi thấy một tử thi bị quăng bỏ trong nghĩa địa một ngày, hai ngày, ba ngày đã chết, trương phồng lên, xanh đen lại, rữa nát, … bị các loài quạ ăn, hay bị các loài diều hâu ăn, hay bị các chim kên ăn, hay bị các loài chó ăn, hay bị các loài giả can ăn, hay bị các loài giòi bọ ăn, … bộ xương còn dính thịt và máu, được các đường gân cột lại, ... bộ xương không còn dính thịt nhưng còn dính máu, còn được các đường gân cột lại, ... với bộ xương không còn dính thịt và máu, còn được các đường gân cột lại, ... chỉ còn các khúc xương không dính lại với nhau, rải rác chỗ này chỗ kia, … xương trắng màu vỏ ốc, ... xương chất đống đã hơn một năm, ... xương đã mục nát thành bột, tỳ-khưu quán thân ấy như sau: “Thân này là như vậy, bản chất là như vậy, là điều tất yếu không ngoại lệ”.

[ĐIỆP KHÚC]
Bằng cách ấy, vị ấy sống quán thân như thân bên trong … bên ngoài … bên trong và bên ngoài. Hay vị ấy sống quán tính sinh khởi … diệt tận trong thân … sinh và diệt trong thân. Hay niệm “có thân đây”được thiết lập nơi vị ấy với mức độ cần thiết để hiểu biết và ghi nhớ đầy đủ. Và vị ấy sống độc lập, không bám chấp điều gì trên đời. Như vậy là tỳ-khưu sống quán thân như thân.

[CÁC CẢM THỌ]
Này các tỳ-khưu, như thế nào là tỳ-khưu sống quán thọ như các thọ? Ở đây tỳ-khưu khi cảm giác lạc thọ, biết rõ: “Tôi cảm giác lạc thọ”; khi cảm giác khổ thọ, biết rõ: “Tôi cảm giác khổ thọ”; khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ, biết rõ: “Tôi cảm giác bất khổ bất lạc thọ”.

Hay khi cảm giác lạc thọ trần tục, biết rõ: “Tôi cảm giác lạc thọ trần tục”; hay khi cảm giác lạc thọ xuất tục, biết rõ: “Tôi cảm giác lạc thọ xuất tục”. Hay khi cảm giác khổ thọ trần tục, biết rõ: “Tôi cảm giác khổ thọ trần tục”; hay khi cảm giác khổ thọ xuất tục, biết rõ: “Tôi cảm giác khổ thọ xuất tục”. Hay khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ trần tục, biết rõ: “Tôi cảm giác bất khổ bất lạc thọ trần tục”; hay khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ xuất tục, biết rõ: “Tôi cảm giác bất khổ bất lạc thọ xuất tục”.

[ĐIỆP KHÚC]
Bằng cách ấy, vị ấy sống quán thọ như các thọ bên trong … bên ngoài … bên trong và bên ngoài. Hay vị ấy sống quán tính sinh khởi … diệt tận trong thọ … sinh và diệt trong thọ. Hay niệm “có thọ đây”được thiết lập nơi vị ấy với mức độ cần thiết để hiểu biết và ghi nhớ đầy đủ. Và vị ấy sống độc lập, không bám chấp điều gì trên đời. Như vậy là tỳ-khưu sống quán thọ như các thọ.

[TÂM]
Này các tỳ-khưu, như thế nào là tỳ-khưu sống quán tâm như tâm? Ở đây, tỳ-khưu với tâm có tham, biết rõ: “Tâm có tham”; hay với tâm không tham, biết rõ: “Tâm không tham”. Hay với tâm có sân, biết rõ: “Tâm có sân”; hay với tâm không sân, biết rõ: “Tâm không sân”. Hay với tâm có si, biết rõ: “Tâm có si”; hay với tâm không si, biết rõ: “Tâm không si”. Hay với tâm thu hẹp, biết rõ: “Tâm thu hẹp”. Hay với tâm tán loạn, biết rõ: “Tâm tán loạn”. Hay với tâm quảng đại, biết rõ: “Tâm quảng đại”; hay với tâm không quảng đại, biết rõ: “Tâm không quảng đại”. Hay với tâm hạ liệt, biết rõ: “Tâm hạ liệt”. Hay với tâm vô thượng, biết rõ: “Tâm vô thượng”. Hay với tâm có định, biết rõ: “Tâm có định”; hay với tâm không định, biết rõ: “Tâm không định”. Hay với tâm giải thoát, biết rõ: “Tâm giải thoát”; hay với tâm không giải thoát, biết rõ: “Tâm không giải thoát”.

[ĐIỆP KHÚC]
Bằng cách ấy, vị ấy sống quán tâm như tâm bên trong … bên ngoài … bên trong và bên ngoài. Hay vị ấy sống quán tính sinh khởi … diệt tận trong tâm … sinh và diệt trong tâm. Hay niệm “có tâm đây”được thiết lập nơi vị ấy với mức độ cần thiết để hiểu biết và ghi nhớ đầy đủ. Và vị ấy sống độc lập, không bám chấp điều gì trên đời. Như vậy là tỳ-khưu sống quán tâm như tâm.

[CÁC TRIỀN CÁI]
Này các tỳ-khưu, thế nào là tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp? Ở đây, tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với năm triền cái. Và thế nào là tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với năm triền cái?

Ở đây, khi trong tâm có tham dục, tỳ-khưu biết rõ: “Trong tâm tôi có tham dục”; hay trong tâm không có tham dục, biết rõ: “Trong tâm tôi không có tham dục”. Và vị ấy biết rõ như thế nào tham dục chưa sinh, nay sinh khởi; biết rõ như thế nào tham dục đã sinh, nay được đoạn diệt; và biết rõ như thế nào với tham dục đã được đoạn diệt, trong tương lai không sinh khởi nữa.

Khi trong tâm có sân hận, tỳ-khưu biết rõ: “Trong tâm tôi có sân hận”; hay trong tâm không có sân hận, biết rõ: “Trong tâm tôi không có sân hận”. Và vị ấy biết rõ như thế nào sân hận chưa sinh, nay sinh khởi; biết rõ như thế nào sân hận đã sinh, nay được đoạn diệt; và biết rõ như thế nào với sân hận đã được đoạn diệt, trong tương lai không sinh khởi nữa.

Khi trong tâm có hôn trầm thụy miên, tỳ-khưu biết rõ: “Trong tâm tôi có hôn trầm thụy miên”; hay trong tâm không có hôn trầm thụy miên, biết rõ: “Trong tâm tôi không có hôn trầm thụy miên”. Và vị ấy biết rõ như thế nào hôn trầm thụy miên chưa sinh, nay sinh khởi; biết rõ như thế nào hôn trầm thụy miên đã sinh, nay được đoạn diệt; và biết rõ như thế nào với hôn trầm thụy miên đã được đoạn diệt, trong tương lai không sinh khởi nữa.

Khi trong tâm có trạo hối, tỳ-khưu biết rõ: “Trong tâm tôi có trạo hối”; hay trong tâm không có trạo hối, biết rõ: “Trong tâm tôi không có trạo hối”. Và vị ấy biết rõ như thế nào trạo hối chưa sinh, nay sinh khởi; biết rõ như thế nào trạo hối đã sinh, nay được đoạn diệt; và biết rõ như thế nào với trạo hối đã được đoạn diệt, trong tương lai không sinh khởi nữa.

Khi trong tâm có nghi ngờ, tỳ-khưu biết rõ: “Trong tâm tôi có nghi ngờ”; hay trong tâm không có nghi ngờ, biết rõ: “Trong tâm tôi không có nghi ngờ”. Và vị ấy biết rõ như thế nào nghi ngờ chưa sinh, nay sinh khởi; biết rõ như thế nào nghi ngờ đã sinh, nay được đoạn diệt; và biết rõ như thế nào với nghi ngờ đã được đoạn diệt, trong tương lai không sinh khởi nữa.

[ĐIỆP KHÚC]
Bằng cách ấy, vị ấy sống quán pháp như các pháp bên trong … bên ngoài … bên trong và bên ngoài. Hay vị ấy sống quán tính sinh khởi … diệt tận trong pháp … sinh và diệt trong pháp. Hay niệm “có pháp đây”được thiết lập nơi vị ấy với mức độ cần thiết để hiểu biết và ghi nhớ đầy đủ. Và vị ấy sống độc lập, không bám chấp điều gì trên đời. Như vậy là tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với năm triền cái.

[CÁC UẨN]
Lại nữa, này các tỳ-khưu, tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với năm thủ uẩn. Và thế nào là tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với năm thủ uẩn? Ở đây, tỳ-khưu suy tư: “Ðây là sắc, đây là sắc sinh khởi, đây là sắc tàn diệt. Ðây là thọ, đây là thọ sinh khởi, đây là thọ tàn diệt. Ðây là tưởng, đây là tưởng sinh khởi; đây là tưởng tàn diệt. Ðây là hành, đây là hành sinh khởi, đây là hành tàn diệt. Ðây là thức, đây là thức sinh khởi, đây là thức tàn diệt”.

[ĐIỆP KHÚC]
Bằng cách ấy, vị ấy sống quán pháp như các pháp bên trong … bên ngoài … bên trong và bên ngoài. Hay vị ấy sống quán tính sinh khởi … diệt tận trong pháp … sinh và diệt trong pháp. Hay niệm “có pháp đây”được thiết lập nơi vị ấy với mức độ cần thiết để hiểu biết và ghi nhớ đầy đủ. Và vị ấy sống độc lập, không bám chấp điều gì trên đời. Như vậy là tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với năm uẩn.

[CÁC XỨ]
Lại nữa, này các tỳ-khưu, tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với sáu nội xứ và ngoại xứ. Và thế nào là tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với sáu nội xứ và ngoại xứ?

Ở đây, tỳ-khưu biết rõ con mắt và biết rõ các sắc. Vị ấy biết rõ kiết sử sinh khởi do duyên hai pháp này; biết rõ như thế nào kiết sử chưa sinh, nay sinh khởi; biết rõ như thế nào kiết sử đã sinh, nay được đoạn diệt; và biết rõ như thế nào với kiết sử đã được đoạn diệt, trong tương lai không sinh khởi nữa.

Tỳ-khưu biết rõ tai và biết rõ các âm thanh. Vị ấy biết rõ kiết sử sinh khởi do duyên hai pháp này; biết rõ như thế nào kiết sử chưa sinh, nay sinh khởi; biết rõ như thế nào kiết sử đã sinh, nay được đoạn diệt; và biết rõ như thế nào với kiết sử đã được đoạn diệt, trong tương lai không sinh khởi nữa.

Tỳ-khưu biết rõ mũi và biết rõ các mùi hương. Vị ấy biết rõ kiết sử sinh khởi do duyên hai pháp này; biết rõ như thế nào kiết sử chưa sinh, nay sinh khởi; biết rõ như thế nào kiết sử đã sinh, nay được đoạn diệt; và biết rõ như thế nào với kiết sử đã được đoạn diệt, trong tương lai không sinh khởi nữa.

Tỳ khưu biết rõ lưỡi và biết rõ các vị nếm. Vị ấy biết rõ kiết sử sinh khởi do duyên hai pháp này; biết rõ như thế nào kiết sử chưa sinh, nay sinh khởi; biết rõ như thế nào kiết sử đã sinh, nay được đoạn diệt; và biết rõ như thế nào với kiết sử đã được đoạn diệt, trong tương lai không sinh khởi nữa.

Tỳ-khưu biết rõ thân và biết rõ các chạm xúc. Vị ấy biết rõ kiết sử sinh khởi do duyên hai pháp này; biết rõ như thế nào kiết sử chưa sinh, nay sinh khởi; biết rõ như thế nào kiết sử đã sinh, nay được đoạn diệt; và biết rõ như thế nào với kiết sử đã được đoạn diệt, trong tương lai không sinh khởi nữa.

Tỳ-khưu biết rõ ý và biết rõ các đối tượng của ý. Vị ấy biết rõ kiết sử sinh khởi do duyên hai pháp này; biết rõ như thế nào kiết sử chưa sinh, nay sinh khởi; biết rõ như thế nào kiết sử đã sinh, nay được đoạn diệt; và biết rõ như thế nào với kiết sử đã được đoạn diệt, trong tương lai không sinh khởi nữa.

[ĐIỆP KHÚC]
Bằng cách ấy, vị ấy sống quán pháp như các pháp bên trong … bên ngoài … bên trong và bên ngoài. Hay vị ấy sống quán tính sinh khởi … diệt tận trong pháp … sinh và diệt trong pháp. Hay niệm “có pháp đây”được thiết lập nơi vị ấy với mức độ cần thiết để hiểu biết và ghi nhớ đầy đủ. Và vị ấy sống độc lập, không bám chấp điều gì trên đời. Như vậy là tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với sáu nội xứ và ngoại xứ.

[CÁC GIÁC CHI]
Lại nữa, này các tỳ-khưu, tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với bảy giác chi. Và thế nào là tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với bảy giác chi?

Ở đây, khi trong tâm có niệm giác chi, tỳ-khưu biết rõ: “Trong tâm tôi có niệm giác chi”; hay trong tâm không có niệm giác chi, biết rõ: “Trong tâm tôi không có niệm giác chi”. Vị ấy biết rõ như thế nào niệm giác chi chưa sinh, nay sinh khởi; và biết rõ như thế nào niệm giác chi đã sinh, nay được tu tập viên thành.

Khi trong tâm có trạch pháp giác chi, tỳ-khưu biết rõ: “Trong tâm tôi có trạch pháp giác chi”; hay trong tâm không có trạch pháp giác chi, biết rõ: “Trong tâm tôi không có trạch pháp giác chi”. Vị ấy biết rõ như thế nào trạch pháp giác chi chưa sinh, nay sinh khởi; và biết rõ như thế nào trạch pháp giác chi đã sinh, nay được tu tập viên thành.

Khi trong tâm có tinh tấn giác chi, tỳ-khưu biết rõ: “Trong tâm tôi có tinh tấn giác chi”; hay trong tâm không có tinh tấn giác chi, biết rõ: “Trong tâm tôi không có tinh tấn giác chi”. Vị ấy biết rõ như thế nào tinh tấn giác chi chưa sinh, nay sinh khởi; và biết rõ như thế nào tinh tấn giác chi đã sinh, nay được tu tập viên thành.

Khi trong tâm có khinh an giác chi, tỳ-khưu biết rõ: “Trong tâm tôi có khinh an giác chi”; hay trong tâm không có khinh an giác chi, biết rõ: “Trong tâm tôi không có khinh an giác chi”. Vị ấy biết rõ như thế nào khinh an giác chi chưa sinh, nay sinh khởi; và biết rõ như thế nào khinh an giác chi đã sinh, nay được tu tập viên thành.

Khi trong tâm có hỷ giác chi, tỳ-khưu biết rõ: “Trong tâm tôi có hỷ giác chi”; hay trong tâm không có hỷ giác chi, biết rõ: “Trong tâm tôi không có hỷ giác chi”. Vị ấy biết rõ như thế nào hỷ giác chi chưa sinh, nay sinh khởi; và biết rõ như thế nào hỷ giác chi đã sinh, nay được tu tập viên thành.

Khi trong tâm có định giác chi, tỳ-khưu biết rõ: “Trong tâm tôi có định giác chi”; hay trong tâm không có định giác chi, biết rõ: “Trong tâm tôi không có định giác chi”. Vị ấy biết rõ như thế nào định giác chi chưa sinh, nay sinh khởi; và biết rõ như thế nào định giác chi đã sinh, nay được tu tập viên thành.

Khi trong tâm có xả giác chi, tỳ-khưu biết rõ: “Trong tâm tôi có xả giác chi”; hay trong tâm không có xả giác chi, biết rõ: “Trong tâm tôi không có xả giác chi”. Vị ấy biết rõ như thế nào xả giác chi chưa sinh, nay sinh khởi; và biết rõ như thế nào xả giác chi đã sinh, nay được tu tập viên thành.

[ĐIỆP KHÚC]
Bằng cách ấy, vị ấy sống quán pháp như các pháp bên trong … bên ngoài … bên trong và bên ngoài. Hay vị ấy sống quán tính sinh khởi … diệt tận trong pháp … sinh và diệt trong pháp. Hay niệm “có pháp đây”được thiết lập nơi vị ấy với mức độ cần thiết để hiểu biết và ghi nhớ đầy đủ. Và vị ấy sống độc lập, không bám chấp điều gì trên đời. Như vậy là tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với bảy giác chi.

[CÁC THÁNH ĐẾ]
Lại nữa, này các tỳ-khưu, vị ấy sống quán pháp như các pháp đối với bốn thánh đế. Và thế nào là tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với bốn thánh đế?

Ở đây, tỳ-khưu biết rõ như thật: “Ðây là khổ”; biết rõ như thật: “Ðây là nguồn gốc của khổ”; biết rõ như thật: “Ðây là sự đoạn diệt khổ”; biết rõ như thật: “Ðây là con đường đưa đến đoạn diệt khổ”.

[ĐIỆP KHÚC]
Bằng cách ấy, vị ấy sống quán pháp như các pháp bên trong … bên ngoài … bên trong và bên ngoài. Hay vị ấy sống quán tính sinh khởi … diệt tận trong pháp … sinh và diệt trong pháp. Hay niệm “có pháp đây”được thiết lập nơi vị ấy với mức độ cần thiết để hiểu biết và ghi nhớ đầy đủ. Và vị ấy sống độc lập, không bám chấp điều gì trên đời. Như vậy là tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với bốn thánh đế.

[TIÊN ĐOÁN]
Này các tỳ-khưu, vị nào tu tập bốn pháp lập niệm này như vậy trong bảy năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: chứng chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn chút dư tàn bám thủ thì chứng quả bất lai.

Này các tỳ-khưu, không cần gì đến bảy năm, vị nào tu tập bốn pháp lập niệm này như vậy trong sáu năm,... trong năm năm,... trong bốn năm,... trong ba năm,... trong hai năm,... trong một năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: chứng chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn chút dư tàn bám thủ thì chứng quả bất lai.
Này các tỳ-khưu, không cần gì đến một năm, vị nào tu tập bốn pháp lập niệm này như vậy trong bảy tháng,... trong sáu tháng,... trong năm tháng,... trong bốn tháng,... trong ba tháng,... trong hai tháng,... trong một tháng,... trong nửa tháng, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: chứng chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn chút dư tàn bám thủ thì chứng quả bất lai.

Này các tỳ-khưu, không cần gì nửa tháng, vị nào tu tập bốn pháp lập niệm này như vậy trong bảy ngày, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: chứng chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn chút dư tàn bám thủ thì chứng quả bất lai.

[CON ĐƯỜNG NHẤT HƯỚNG, TRỰC TIẾP]
Này các tỳ-khưu, đây là con đường nhất hướng để thanh tịnh hóa chúng sinh, vượt khỏi sầu não và khổ ưu, thành tựu chánh đạo, chứng ngộ Niết-bàn – đó là bốn pháp lập niệm.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các tỳ-khưu ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn.

--(MN 10, Kinh Lập Niệm - Satipaṭṭhāna Sutta)

* * *

 

Mũi Tên
(Sallatha Sutta, SN 36.6)

– Này các tỳ-khưu, kẻ vô văn phàm phu, cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. Bậc đa văn thánh đệ tử cũng cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. Ở đây, này các tỳ-khưu, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nào là sai biệt giữa bậc đa văn thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu?

– Bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm chỉ đạo, lấy Thế Tôn làm chỗ nương tựa. Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn nói cho ý nghĩa của lời nói này. Sau khi nghe Thế Tôn, các tỳ-khưu sẽ thọ trì.

– Vậy này các tỳ-khưu, hãy lắng nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

– Này các tỳ-khưu, kẻ vô văn phàm phu khi cảm xúc khổ thọ, sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đấm ngực, đi đến bất tỉnh. Vị ấy cảm giác hai cảm thọ, cảm thọ về thân và cảm thọ về tâm. Ví như có người bị người ta bắn với mũi tên, rồi họ lập tức bắn người ấy với mũi tên thứ hai. Như vậy, người ấy cảm giác cảm thọ cả hai mũi tên. Cũng vậy, này các tỳ-khưu, kẻ vô văn phàm phu khi cảm xúc khổ thọ; thời sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đấm ngực, đi đến bất tỉnh. Người ấy cảm giác hai cảm thọ, cảm thọ về thân và cảm thọ về tâm.

Cảm xúc bởi khổ thọ ấy, người ấy sinh tâm sân hận với thọ ấy. Do sân hận đối với khổ thọ ấy, sân tùy miên đối với khổ thọ được tồn chỉ tùy miên (anuseti). Cảm xúc bởi khổ thọ, người ấy tìm hoan hỷ nơi dục lạc. Vì sao? Vì rằng kẻ vô văn phàm phu không tìm thấy một sự xuất ly khổ thọ nào khác, ngoài dục lạc. Do hoan hỷ dục lạc ấy, tham tùy miên đối với lạc thọ tồn tại. Người ấy không như thật rõ biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của các cảm thọ ấy. Do người ấy không như thật rõ biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của các cảm thọ ấy, nên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ tồn tại.

Nếu người ấy cảm thọ cảm giác lạc thọ, người ấy cảm thọ cảm giác như người bị trói buộc (saññutto). Nếu người ấy cảm thọ cảm giác khổ thọ, người ấy cảm thọ cảm giác như người bị trói buộc. Nếu người ấy cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ, người ấy cảm thọ cảm giác như người bị trói buộc. Này các tỳ-khưu, đây gọi là kẻ vô văn phàm phu bị trói buộc bởi sinh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng người ấy bị trói buộc bởi đau khổ.

Này các tỳ-khưu, bậc đa văn thánh đệ tử khi cảm xúc khổ thọ thời không có sầu muộn, không có than vãn, không có khóc lóc, không có đấm ngực, không có đi đến bất tỉnh. Vị ấy chỉ cảm thọ cảm giác một cảm thọ, tức là cảm thọ về thân, không phải cảm thọ về tâm. Ví như có người bị người ta bắn một mũi tên. Họ không lập tức bắn tiếp người ấy với mũi tên thứ hai. Như vậy người ấy chỉ cảm giác cảm thọ của một mũi tên. Cũng vậy, này các tỳ-khưu, bậc đa văn thánh đệ tử khi cảm xúc khổ thọ; vị ấy không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đấm ngực, không đi đến bất tỉnh. Vị ấy cảm giác chỉ một cảm thọ, tức là cảm thọ về thân, không phải cảm thọ về tâm.

Vị ấy không sinh tâm sân hận đối với khổ thọ ấy. Do không sân hận đối với khổ thọ ấy, sân tùy miên đối với khổ thọ không có tồn tại. Cảm xúc bởi khổ thọ, vị ấy không tìm hoan hỷ nơi dục lạc. Vì sao? Vì bậc đa văn thánh đệ tử có tuệ tri một sự xuất ly khác đối với khổ thọ, ngoài dục lạc. Vì vị ấy không hoan hỷ dục lạc, tham tùy miên đối với dục lạc không tồn tại. Vị ấy như thật tuệ tri sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của những cảm thọ ấy. Vì rằng, vị ấy như thật tuệ tri sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của các cảm thọ ấy. Do vị ấy như thật tuệ tri sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của các cảm thọ ấy, nên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ không tồn tại.

Nếu vị ấy cảm thọ cảm giác lạc thọ, vị ấy cảm thọ cảm giác như người không bị trói buộc. Nếu vị ấy cảm thọ cảm giác khổ thọ, vị ấy cảm thọ cảm giác như người không bị trói buộc. Nếu vị ấy cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ, vị ấy cảm thọ cảm giác như người không bị trói buộc. Này các tỳ-khưu, đây gọi là tỳ-khưu không bị trói buộc bởi sinh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng vị ấy không bị trói buộc bởi đau khổ.

Này các tỳ-khưu, đây là sự đặc thù, đây là thù thắng, đây là sự sai biệt giữa bậc đa văn thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu.

Bậc trí tuệ đa văn,
Lạc khổ không chi phối,
Giữa kẻ trí, phàm phu,
Sự sai biệt rất lớn.

Bậc đa văn, tầm pháp,
Thấy đời này, đời sau,
Ái pháp không phá tâm,
Không ái, không sân hận.

Tùy thuận hay đối nghịch,
Tiêu tán, diệt, không còn,
Vị ấy biết con đường,
Ðường không cấu, không sầu,
Chánh trí, đoạn tái sinh,
Ðến được bờ giác ngộ.

– Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Bình Anson hiệu đính, 25/05/2017)


Tiễn (Mũi tên)
Tạp A-hàm, SĀ 470 [1]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật trú trong vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, thành Vương xá. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các tỳ-khưu:

“Phàm phu ngu si không học sinh khổ thọ, lạc thọ, không khổ không lạc thọ. Đa văn thánh đệ tử cũng sinh khổ thọ, lạc thọ, không khổ không lạc thọ. Này các tỳ-khưu, như vậy giữa phàm phu và thánh nhân có gì sai khác?”

Các tỳ-khưu bạch Phật:
“Thế Tôn là căn bản của pháp, là con mắt của pháp, là sở y của pháp. Lành thay, Thế Tôn! Cúi xin nói đầy đủ, các tỳ-khưu sau khi nghe xong sẽ lãnh thọ thực hành.”

Phật bảo các tỳ-khưu tiếp:

“Hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì các ông mà nói.

“Này các tỳ-khưu, phàm phu ngu si không học, vì thân xúc chạm sinh các thọ, tăng thêm các khổ đau, cho đến bị cướp mất mạng sống, sầu bi, thán oán, khóc lóc, kêu gào, tâm sinh cuồng loạn. Ngay lúc đó hai thọ tăng trưởng, là thân thọ và tâm thọ.

“Như có người thân bị trúng hai mũi tên độc, vô cùng đau đớn. Phàm phu ngu si không học lại cũng như vậy. Hai thọ tăng trưởng: thân thọ, tâm thọ vô cùng đau đớn, khổ sở. Vì sao? Vì phàm phu ngu si không học này vì không biết rõ, nên ở nơi ngũ dục mà phát sinh cảm xúc lạc thọ, lãnh thọ năm thứ dục lạc. Do lãnh thọ năm thứ dục lạc nên bị tham sử sai khiến[2]. Vì xúc chạm cảm thọ khổ nên sinh sân nhuế. Vì nổi sân nhuế nên bị nhuế sử sai khiến [3]. Nếu đối với sự tập khởi, sự diệt tận, vị ngọt, tai hại và xuất ly của hai thọ này mà không biết như thật; vì không biết như thật nên sinh cảm thọ không khổ không lạc, bị si sử sai khiến. Nó bị lạc thọ trói buộc, mãi không thể lìa [4]; bị khổ thọ trói buộc, trọn không thể lìa; bị cảm thọ không khổ không lạc trói buộc, cuối cùng không thể lìa.

“Cái gì trói buộc? Bị tham, nhuế, si trói buộc; bị sinh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não trói buộc.

“Đa văn thánh đệ tử, thân xúc sinh khổ thọ, khổ lớn bức bách cho đến cướp mất sinh mạng, mà không khởi lo buồn, thán oán, khóc lóc, kêu gào, loạn tâm phát cuồng. Ngay lúc đó chỉ sinh một thứ thọ, đó là thân thọ, chứ không sinh tâm thọ.

“Như người bị một mũi tên độc, không bị mũi tên độc thứ hai, ngay khi đó chỉ sinh có một cảm thọ, đó là thân thọ mà không sinh tâm thọ. Khi xúc chạm lạc thọ, không nhiễm dục lạc. Vì không nhiễm dục lạc nên đối với lạc thọ này, tham sử không sai khiến. Khi xúc chạm khổ thọ không sinh sân nhuế. Vì không sinh sân nhuế, nên nhuế sử không thể sai khiến. Nếu đối với sự tập khởi, sự diệt tận, vị ngọt, tai hại, sự xuất ly của hai sử này mà biết như thật; vì biết như thật cảm thọ không khổ không lạc, nên si sử không thể sai khiến được. Đối với lạc thọ được giải thoát, không bị trói buộc; khổ thọ, không khổ không lạc thọ cũng được giải thoát, không bị trói buộc.

“Không bị cái gì trói buộc? Tham, nhuế, si không trói buộc; sinh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não không trói buộc.”

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói bài kệ:

Đa văn đối khổ vui,
Không phải không cảm giác.
So với kẻ không học,
Người này thật xa khác [5].

Thọ lạc, không buông lung,
Gặp khổ không tăng sầu;
Khổ vui thảy đều bỏ,
Không thuận cũng không trái.

Tỳ-khưu siêng phương tiện,
Chánh trí không khuynh động [6],
Đối với các thọ này,
Trí tuệ thường biết rõ.

Vì biết rõ các thọ,
Hiện tại sạch các lậu,
Khi chết không đọa lạc [7],
An trú Đại Niết-bàn.

Phật nói kinh này xong, các tỳ-khưu nghe những gì Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

– Hòa thượng Thích Đức Thắng dịch Việt

Chú thích:

[1] Mũi tên. Pāli, SN 36. 6 Sallattena (Salattha).
[2] Vi tham sử sở sử. Pāli: yo sukhāya vedanāya rāgānusayo so anuseti, tiềm phục tham tùy miên đối với cảm thọ lạc.
[3] Pāli: yo dukkhāya vedanāya paṭighānusayo so anuseti, đối với cảm thọ khổ, sân tùy miên tiềm phục.
[4] Pāli: so sukhañce vedanaṃ vedayati, saññutto naṃ vdayati; nếu nó cảm giác lạc. Nó cảm giác bị cái đó trói buộc. 瞋 sân, 恚 khuể, nhuế (oán hận)
[5] Trong nguyên bản: đại văn 大聞; sửa lại là đại gián 大間: cách biệt rất lớn.
[6] Pāli: saṃpajaññaṃ na riñcati, không bỏ chánh trí. Pāli: riñcati, rời, chối bỏ, phủ nhận; bản Hán đọc là iñjati: dao động.
[7] Hán: bất đọa số. Hán: bất đọa ư chúng số 不墮於眾數. Pāli: kāyassa bhedā dhamaṭṭho saṃkhyaṃ nopeti vedagū ti, không thể mô tả bậc Pháp trí, vị Hiền trí, khi thân hoại (định danh).

* * *

 

[ Home ]

04-03-2018