Đàm luận Phật Pháp
- 129 -
Đối diện với bệnh tật và cái chết: Kết luận
01-sach.jpg
1285 * 855
02-niemhoitho.jpg
1331 * 874
03-10tuong_ket.jpg
1349 * 800
KẾT LUẬN
VÀ HƯỚNG DẪN HÀNH THIỀN * * Tải về bản PDF:
ketluan_hanhthien.pdf
DẪN NHẬP Trước tiên tôi sẽ tóm tắt ngắn gọn một số điểm chính trong hai
mươi bốn chương trước trong cuốn sách nầy về phương cách đối diện
với bệnh tật và cái chết. Sau đó, tôi sẽ trình bày cách tiếp cận
thực tiễn về các hướng dẫn hành thiền mà Đức Phật đã dạy ngài
Girimānanda trong bài kinh đã được trình bày trong Chương 12
(“Chương trình hành thiền chữa bệnh”). Điểm quy chiếu cơ sở và nền tảng cho quan điểm của Phật giáo sơ
kỳ về bệnh tật và cái chết là sự giảng dạy về Tứ Thánh đế. Nhìn nhận
chân thành về tham ái và chấp thủ là những nguyên nhân đưa đến hoạn
khổ (dukkha) là nền tảng chẩn đoán cần thiết để cho thuốc chữa trị
của trí tuệ Phật giáo trong trường hợp bị tác động bởi bệnh tật và
cái chết. Kết hợp vào sự giảng dạy nầy là Bát chi Thánh đạo nhắm đến
thực chứng toàn bộ sức khỏe tâm linh qua giác ngộ hoàn toàn. Mặc dù
việc huân tập tâm trong Phật giáo sơ kỳ tạo ra nhiều điều kiện để
chữa bệnh và chăm sóc xoa dịu cơn đau, mục đích tối hậu là giúp vượt
xa hơn nữa. Dựa trên điểm quy chiếu đó, sự phân biệt giữa những cơn đau về
thân và về tâm cần phải được nhận thức rõ ràng. Bằng cách tránh các
mũi tên đau đớn về tâm, tâm trí có thể được giữ khỏe mạnh ngay cả
khi thân thể đau đớn. Giữ tâm khỏe mạnh đòi hỏi phải có tập luyện
tâm, nhất là giữ Niệm, chi phần đầu tiên của bảy chi phần đưa đến
giác ngộ (thất giác chi) và cũng là phẩm chất quan trọng được vun
trồng qua công phu thực hành bốn niệm xứ (satipaṭṭhana). Qua các bài
kinh khảo sát trong cuốn sách, tiềm năng của niệm để đối mặt với các
cơn đau và dẫn đến chữa lành luôn luôn được nhắc đến trong Phật giáo
sơ kỳ. Thậm chí áp dụng cho những ai có khả năng nhập thiền, vốn có
thể giúp đè nén các cơn đau, các vị ấy vẫn chọn cách trực diện cơn
đau với chánh niệm. Bên cạnh yếu tố Niệm, một khía cạnh quan trọng khác trong Phật
giáo sơ kỳ để trực diện bệnh tật và cái chết là sự nhấn mạnh liên
tục về việc không dính mắc, nhất là đối với năm uẩn và sáu căn giác
quan. Ở đây, nên tảng cho sự không dính mắc nầy là tuệ quán về vô
thường, về tính không có khả năng tạo hài lòng lâu dài của chúng
(khổ), và về kết luận rằng chúng là rỗng không (vô ngã). Trau dồi sự
tự do sâu sắc thoát khỏi mọi ràng buộc được dựa trên nền tảng của
giới hạnh, tự nó cung cấp nguồn vô úy – không sợ hãi, khi hành giả
bị bệnh và tiến gần đến cái chết. Khi giúp hướng dẫn những người trong giây phút cận tử, việc tinh
luyện dần dần những động lực nội tại để hướng đến hạnh phúc có thể
được áp dụng để giúp người sắp chết ra đi với nội tâm an bình mà
không còn các hình thức bám víu thô tháo. Trong giờ phút lâm chung,
phương cách tốt nhất là giúp đem tâm an trú vào bốn tâm thiêng liêng
(brahmavihāra – tứ phạm trú: từ, bi, hỷ, xả) để tiếp cận với trạng
thái “thiên đường trên trái đất” trong tâm của người ấy. Không chỉ trong trường hợp bệnh tật mà còn khi đối mặt với cái
chết, yếu tố chánh niệm rất có giá trị giúp người ấy giữ tâm cân
bằng với các cảm thọ và chống lại khuynh hướng gây ra các phản ứng
bất thiện trong tâm. Thực hành như thế, giờ phút lâm chung trở thành
một cơ hội để phát sinh tuệ quán giải thoát. Bên cạnh giá trị hỗ trợ
chúng ta đối diện với cái chết, chánh niệm còn có vai trò chuyển hóa
các kinh nghiệm đau buồn. Để quán tưởng về cái chết của mình, niệm
hơi thở có thể giúp ta hiểu biết rõ ràng rằng một người thật ra chỉ
sống đến hơi thở tiếp theo. Các quan điểm chính yếu từ những đoạn văn khảo sát cho đến nay có
thể tập hợp lại trong khung hành thiền như đã dạy ngài Girimānanda,
bao gồm tuệ quán về tính vô thường của năm thủ uẩn, tính vô ngã của
sáu căn, bản chất bệnh hoạn của cơ thể, nhu cầu thanh lọc tâm, tâm
trí thiện lành là mục đích tối hậu, và các hướng dẫn chi tiết về
niệm hơi thở. Thực hiện một chương trình hành thiền như đã giúp ngài
Girimānanda phục hồi sức khỏe là một cách tiếp cận tích hợp những
khía cạnh chính của Phật giáo sơ kỳ về bệnh tật và cái chết vào công
phu hành thiền của mỗi người. CÁC HƯỚNG DẪN HÀNH THIỀN CHO NGÀI GIRIMĀNANDA Tiếp theo đây, tôi sẽ trình bày một phương cách qua đó, các hướng
dẫn ghi trong kinh Girimānanda và phiên bản Tây Tạng tương ứng có
thể được áp dụng thực hành. Mục đích của tôi ở đây chỉ là để góp ý,
giúp tạo hứng khởi để thực hành, mà không phải để ngầm hiểu đây là
phương cách đúng nhất để thực hiện điều đó. Hành giả được tự do điều
chỉnh để thích hợp với hoàn cảnh riêng của mình và những gì tôi
trình bày ở đây chỉ đơn thuần là một ví dụ. Để ôn lại, Đức Phật bảo ngài Ānanda đến gặp ngài Girimānanda đang
bệnh và nói lại mười pháp quán tưởng như sau: 1. Tưởng vô thưởng trong năm uẩn; Như đã thảo luận trong Chương 12, bốn pháp quán tưởng đầu tiên
trong kinh Girimānanda tương ứng với bốn tưởng điên đảo: trong vô
thường, nghĩ là thường – quán tưởng (1); trong vô ngã, nghĩ là ngã –
quán tưởng (2); trong bất tịnh (không hấp dẫn), nghĩ là tịnh (hấp
dẫn) – quán tưởng (3); trong khổ, nghĩ là lạc – quán tưởng (4). Quán tưởng về từ bỏ (5) liên quan đến từ bỏ dục tâm (5a), sân tâm
(5b), hại tâm (5c), và các ác, bất thiện tâm khác (5d); tạo thành
một bộ bốn tiếp theo. Quán tưởng về ly tham (6), về đoạn diệt (7),
về nhàm chán đối với toàn thế giới (8), và về vô thường trong tất cả
các hành (9) tạo thành một bộ bốn khác. Cuối cùng, pháp quán niệm
hơi thở (10) được thực hiện trong mười sáu bước, chia thành bốn nhóm
bộ bốn tương ứng với bốn pháp lập niệm (thân, thọ, tâm, pháp). Nhịp điệu bộ bốn trong toàn thể tiến trình mười pháp quán tưởng
là như sau: • Vô thường (1), vô ngã (2), bất mỹ (3), nguy hại (4); Bốn pháp lập niệm giúp tăng thêm giá trị của các hướng dẫn hành
thiền trong bài kinh Girimānanda. Như tôi đã trình bày ngắn gọn
trong Chương 6 (“Giảm thiểu cơn đau trong tỉnh thức”), khảo sát đối
chiếu bài kinh Lập niệm trong tạng Pāli và bài kinh tương ứng trong
bộ A-hàm Hán tạng cho thấy các chủ đề chính của bốn pháp ấy là: quán
về bản chất thật sự của cơ thể là bất mỹ, vô ngã và bản chất tử vong
(A), quán về bản chất của các cảm thọ (B); quán về bản chất của tâm
(C); và quán về các pháp trong phương cách trau dồi những điều kiện
dẫn đến giác ngộ (D). Trong bài kinh, các chủ đề tương ứng đó được thực hành trước khi
bắt đầu một chuỗi các bước niệm hơi thở. Thật thế, quán tưởng về bất
mỹ hay bất tịnh (3) tương ứng với một trong các pháp quán thân được
ghi trong tất cả các phiên bản của kinh Lập niệm hay Niệm xứ. Quán tưởng về nguy hại hay trở ngại (4) trong kinh Girimānanda và
phiên bản Tây Tạng tương đương bắt đầu bằng một câu tóm tắt rằng
thân thể có nhiều đau đớn. Đây là một trong ba loại cảm thọ, chủ đề
của pháp lập niệm thứ hai (quán thọ). Quán tưởng về từ bỏ (5) rõ
ràng có liên quan đến tâm, dựa trên sự phân biệt cơ bản giữa thiện
và bất thiện và điều nầy liên quan đến những trạng thái tâm đầu tiên
ghi trong kinh Lập niệm của mọi phiên bản để quán tâm. Các pháp quán
tưởng kế tiếp (từ 6 đến 9) hướng tâm đến mục tiêu cuối cùng và do đó
là chủ đề để bồi đắp các chi phần giác ngộ vốn là tâm điểm của quán
pháp trong các bài kinh Lập niệm. Tóm lại: • Tưởng bất tịnh (3) – quán thân Từ góc nhìn nầy, niệm hơi thở trong bài kinh Girimānanda diễn ra
trong cùng địa bàn hành thiền của bảy quán tưởng trước (3 đến 9),
khởi đầu trên nền tảng tuệ quán thành lập bởi hai quán tưởng đầu
tiên (1 và 2). Vì thế, niệm hơi thở (10) tóm tắt và làm viên mãn
những gì đã được thực hiện trước đó, đồng thời kết hợp các chủ đề
khác nhau nầy thành một chủ thể duy nhất, dựa trên sự tỉnh giác ghi
nhận tiến trình thay đổi của hơi thở. Bối cảnh câu chuyện của bài kinh Girimānanda cũng giúp hành giả
thực tập các hướng dẫn dành riêng cho ngài Girimānanda. Dựa trên giả
thuyết hợp lý rằng các lời tụng của ngài Ānanda có chức năng như là
một buổi thiền có hướng dẫn, có lẽ khi chăm chú lắng nghe, ngài
Girimānanda thực hành mười quán tưởng đồng thời với việc trì tụng
của ngài Ānanda. Điều nầy giúp ta ước đoán thời gian để hoàn tất một
chương trình gồm mười quán tưởng. Cách trì tụng như thế thông thường sẽ mất khoảng từ hai mươi đến
ba mươi phút để trì tụng toàn thể bài kinh. Cho phép được ngừng một
khoảng thời gian ngắn sau khi tụng mỗi quán tưởng để lời dạy của Đức
Phật thấm sâu vào tâm, và như thế, có lẽ tổng số thời thời gian trì
tụng bài kinh là không hơn một giờ đồng hồ hay có thể ngắn hơn. Kinh
Girimānanda và phiên bản Tây Tạng tương đương đã ghi rõ ràng trong
bất cứ cách nào ngài Girimānanda theo dõi bài kinh, kết quả là bài
kinh đó giúp ngài khỏi bệnh. Dựa vào đó, có vẻ hợp lý khi cho rằng
thực hành mười pháp quán tưởng nầy trong khoảng thời gian từ bốn
mươi lăm đến sáu mươi phút của một buổi thiền là phù hợp với những
gì kinh văn dường như chỉ ra cho thấy như thế. Dĩ nhiên để thuần thục với từng pháp quán tưởng nầy cần phải mất
nhiều thời gian hơn. Trong lúc ban đầu, tôi đề nghị chỉ thực hành
một pháp quán tưởng trong mỗi buổi thiền. Về sau, khi đã thuần thục,
có thể kết hợp lại thành một tiến trình các quán tưởng nối tiếp nhau
trong một buổi thiền. Trong kinh tạng không có nhiều thông tin về
ngài Girimānanda, không biết rõ là ngài đã quen thuộc với các pháp
quán tưởng nầy hay không. Có lẽ ngài đã có nhiều kinh nghiệm thực
hành riêng lẻ và điều mới mẻ ở đây đối với ngài là cách kết hợp các
pháp quán tưởng ấy thành một chuỗi các bước liên tục nối tiếp nhau
trong khi hành thiền. Dù thế nào đi nữa, một khi đã quen thuộc mười pháp quán tưởng
nầy, hành giả có thể hoàn thành toàn bộ chương trình hành thiền
trong một buổi thiền. Ưu điểm về việc có nhiều đề mục thiền như thế
trong một khoảng thời gian tương đối hạn chế là để giúp giữ kín tâm
trí, không để tạo cơ hội tâm phóng đi nơi khác. Ngay cả nếu có phóng
tâm, sự kiện nầy dễ dàng và nhanh chóng được ghi nhận. Bằng cách
nầy, hành giả thực hành sống động và tránh được cảnh đơn điệu phải
thực hành một cách máy móc. Dựa vào việc xây dựng sự liên tục trong
hành thiền mà phương cách nầy đã tạo ra, trong thời gian còn lại của
buổi thiền, hành giả có thể chuyển sang cách hành thiền tự do, ít gò
bó hơn, chẳng hạn như chỉ đơn thuần ghi nhận dòng chảy thay đổi của
các chứng nghiệm trong thời khắc hiện tại. Qua các quan sát sơ bộ
nầy, giờ đây chúng ta sẵn sàng chuyển sang sự thực hành các pháp
quán tưởng đó. – Bhikkhu Anālayo
* * *
Mindfully Facing Disease and Death: Compassionate Advice
from Early Buddhist Texts, Bhikkhu Anālayo (2017). pp 208-214
* Tải sách"Mười pháp quán tưởng" (PDF):
vn89.pdf
2. Tưởng vô ngã trong sáu căn và sáu trần;
3. Tưởng bất mỹ (bất tịnh) về các bộ phận của cơ thể;
4. Tưởng nguy hại về khả năng cơ thể có thể bị bệnh;
5. Tưởng từ bỏ các tâm bất thiện;
6. Tưởng ly tham để hướng về Niết-bàn;
7. Tưởng đoạn diệt để hướng về Niết-bàn;
8. Tưởng nhàm chán đối với toàn thế giới để hướng về Niết-bàn;
9. Tưởng vô thường trong tất cả các hành để hướng về Niết-bàn;
10. Niệm hơi thở trong mười sáu bước.
• Từ bỏ dục tâm (5a), sân tâm (5b), hại tâm (5c), bất thiện tâm
(5d);
• Ly tham (6), đoạn diệt (7), nhàm chán đối với toàn thế giới (8),
vô thường trong tất cả các hành (9);
• Niệm hơi thở: bộ bốn thứ nhất (10a), bộ bốn thứ hai (10b), bộ bốn
thứ ba (10c), bộ bốn thứ tư (10d).
• Tưởng nguy hại (4) – quán thọ
• Tưởng từ bỏ (5) – quán tâm
• Tưởng (6) đến (9) – quán các pháp
(Bình Anson trích dịch,
02/07/2017)
Kinh Girimānanda (AN 10.60) Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthī, tại Jetavana, khu vườn của ông Anāthapiṇḍika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Girimānanda bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh. [2074] Rồi Tôn giả Ānanda đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ānanda bạch Thế Tôn: - Tôn giả Girimānanda, bạch Thế Tôn, bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh. Lành thay, nếu Thế Tôn đi đến Tôn giả Girimānanda, vì lòng từ mẫn. - Này Ānanda, nếu Thầy đi đến tỳ-khưu Girimānanda và đọc lên mười tưởng, thời sự kiện này có thể xảy ra: tỳ-khưu Girimānanda sau khi được nghe mười tưởng, bệnh của vị ấy có thể được thuyên giảm ngay lập tức. Thế nào là mười? (1) Tưởng vô thường, (2) tưởng vô ngã, (3) tưởng bất tịnh, (4) tưởng nguy hại, (5) tưởng từ bỏ, (6) tưởng ly tham, (7) tưởng đoạn diệt, (8) tưởng nhàm chán đối với tất cả thế giới, (9) tưởng vô thường trong tất cả hành, (10) tưởng niệm hơi thở vô hơi thở ra. (1) Và này Ānanda, thế nào là tưởng vô thường? Ở đây, này Ānanda, tỳ-khưu đi đến ngôi rừng, hay đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, quán sát như sau: "Sắc là vô thường, thọ là vô thường, tưởng là vô thường, hành là vô thường, thức là vô thường." Như vậy vị ấy trú, tùy quán vô thường, trong năm thủ uẩn này. Này Ānanda, đây gọi là tưởng vô thường. (2) Và này Ānanda, thế nào là tưởng vô ngã? Ở đây, này Ānanda, tỳ-khưu đi đến khu rừng hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, quán sát như sau: "Mắt là vô ngã, các sắc là vô ngã; tai là vô ngã, các tiếng là vô ngã; mũi là vô ngã, các hương là vô ngã; lưỡi là vô ngã, các vị là vô ngã; thân là vô ngã, xúc là vô ngã; ý là vô ngã, các pháp là vô ngã." Này Ānanda, đây gọi là tưởng vô ngã. (3) Và này, Ānanda thế nào là tưởng bất tịnh? Ở đây, này Ānanda, tỳ-khưu quán sát thân này từ bàn chân trở lên, từ đỉnh tóc trở xuống, được da bao bọc, đầy những vật bất tịnh sai biệt như: "Trong thân này có tóc, lông, móng, răng, da, thịt, dây gân, xương, tủy, thận, quả tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bụng, phân, mật, đàm (niêm dịch), mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mũi, nước ở khớp xương, nước tiểu". Như vậy, vị ấy trú quán bất tịnh trong thân này. Này Ānanda, đây gọi là tưởng bất tịnh. (4) Và này Ānanda, thế nào là tưởng nguy hại? Ở đây, này Ānanda, tỳ-khưu đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, quán sát như sau: "Nhiều khổ là thân này, nhiều sự nguy hại. Như vậy trong thân này, nhiều loại bệnh khởi lên. Ví như bệnh đau mắt, bệnh đau về tai, bệnh đau mũi, bệnh đau lưỡi, bệnh đau thân, bệnh đau đầu, bệnh đau vành tai, bệnh đau miệng, bệnh đau răng, bệnh ho, bệnh suyễn, bệnh sổ mũi, bệnh sốt, bệnh già yếu, bệnh đau yếu, bệnh đau bụng, bất tỉnh, kiết lỵ, bệnh đau bụng quặn, bệnh thổ tả, bệnh hủi, bệnh ung nhọt, bệnh ghẻ lở, bệnh ho lao, bệnh trúng gió, bệnh da, bệnh ngứa, bệnh da đóng vảy, bệnh hắc lào lang ben, bệnh ghẻ, bệnh huyết đảm (mật trong máu), bệnh đái đường, bệnh trĩ, bệnh mụt nhọt, bệnh ung nhọt ung loét, các bệnh khởi lên do mật, bệnh khởi lên từ đàm, niêm dịch, các bệnh khởi lên từ gió; bệnh do hòa hợp các thể dịch sinh ra; các bệnh do thời tiết sinh ra, các bệnh do làm việc quá độ sinh, các bệnh do sự trùng hợp các sự kiêng; các bệnh do nghiệp thuần thục, lạnh, nóng, đói, khát, đại tiện, tiểu tiện". Như vậy, vị ấy sống, quán sự nguy hại trong thân này. Này Ānanda, đây gọi là các tưởng nguy hại. (5) Và này Ānanda, thế nào là tưởng từ bỏ? Ở đây, này Ānanda, tỳ-khưu, không có chấp nhận dục tầm đã sinh, từ bỏ, tẩy sạch, chấm dứt, đi đến không sinh trưởng; không có chấp nhận sân tầm đã sinh, từ bỏ, tẩy sạch, chấm dứt, đi đến không sinh trưởng; không có chấp nhận hại tầm đã sinh, từ bỏ, tẩy sạch, chấm dứt, đi đến không sinh trưởng; không có chấp nhận các ác bất thiện pháp tiếp tục khởi lên, từ bỏ, tẩy sạch, chấm dứt, đi đến không sinh trưởng. Này Ānanda, đây được gọi tưởng từ bỏ. (6) Và này Ānanda, thế nào là ly tham? Ở đây, này Ānanda, tỳ-khưu đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, suy xét như sau: ”Ðây là an tịnh, đây là thù thắng, tức là sự an chỉ tất cả hành, sự từ bỏ tất cả sinh y, ái diệt, ly tham, Niết bàn”. Này Ānanda, đây được gọi tưởng ly tham. (7) Và này Ānanda, thế nào là tưởng đoạn diệt? Ở đây, này Ānanda, tỳ-khưu đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, suy xét như sau: "Ðây là an tịnh, đây là thù thắng, tức là sự đoạn diệt tất cả hành, sự từ bỏ tất cả sinh y, ái diệt, đoạn diệt, Niết bàn". Này Ānanda, đây được gọi tưởng đoạn diệt. (8) Và này Ānanda, thế nào là tưởng không ưa thích đối với tất cả thế giới? Ở đây, này Ānanda, phàm ở đời có những tham dự và chấp thủ, thiên kiến, dính mắc, tùy miên nào, tỳ-khưu từ bỏ chúng, không ưa thích, không chấp thủ. Này Ānanda, đây gọi là tưởng không hoan hỷ đối với tất cả thế giới. (9) Và này Ānanda, thế nào là tưởng vô thường trong tất cả hành? Ở đây, này Ānanda, tỳ-khưu kinh sợ, xấu hổ, ghê tởm đối với tất cả các hành. Này Ānanda, đây gọi là tưởng vô thường trong tất cả hành. (10) Và này Ānanda, thế nào là tưởng niệm hơi thở vào, hơi thở ra? Ở đây, này Ānanda, tỳ-khưu đi đến khu rừng hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, ngồi kiết-già, lưng thẳng, để niệm trước mặt. Chánh niệm, vị ấy thở vô; chánh niệm, vị ấy thở ra. Thở vô dài, vị ấy rõ biết: "Tôi thở vô dài". Thở ra dài, vị ấy rõ biết: "Tôi thở ra dài", Hay thở vô ngắn, vị ấy rõ biết "Tôi thở vô ngắn"; hay thở ra ngắn, vị ấy rõ biết: "Tôi thở ra ngắn". "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở ra," vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán vô thường, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán vô thường, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Này Ānanda, đó là niệm hơi thở vô, hơi thở ra. Này Ānanda, nếu thầy đi đến tỳ-khưu Girimānanda và đọc lên mười tưởng này, sự kiện này có xảy ra: tỳ-khưu Girimānanda, sau khi nghe mười tưởng này, bệnh của vị ấy được thuyên giảm ngay lập tức". Rồi Tôn giả Ānanda, sau khi học thuộc từ Thế Tôn mười tưởng này, đi đến Tôn giả Girimānanda, sau khi đến, nói lên với Tôn giả Girimānanda mười tưởng này. Tôn giả Girimānanda, sau khi nghe mười tưởng này, bệnh của vị ấy được thuyên giảm ngay lập tức. Tôn giả Girimānanda, được thoát khỏi bệnh ấy. Ðược đoạn tận như vậy là chứng bệnh ấy của Tôn giả Girimānanda.
Girimānanda Sutta (AN 10.60) On one occasion the Blessed One was dwelling at Sāvatthī in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s Park. Now on that occasion the Venerable Girimānanda was sick, afflicted, and gravely ill. Then the Venerable Ānanda approached the Blessed One, paid homage to him, sat down to one side, and said to him: [1] “Bhante, the Venerable Girimānanda is sick, afflicted, and gravely ill. It would be good if the Blessed One would visit him out of compassion.” “If, Ānanda, you visit the bhikkhu Girimānanda and speak to him about ten perceptions, it is possible that on hearing about them his affliction will immediately subside. What are the ten? “(1) The perception of impermanence, (2) the perception of non-self, (3) the perception of unattractiveness, (4) the perception of danger, (5) the perception of abandoning, (6) the perception of dispassion, (7) the perception of cessation, (8) the perception of non-delight in the entire world, (9) the perception of impermanence in all conditioned phenomena, and (10) mindfulness of breathing. (1) “And what, Ānanda, is the perception of impermanence? Here, having gone to the forest, to the foot of a tree, or to an empty hut, a bhikkhu reflects thus: ‘Form is impermanent, feeling is impermanent, perception is impermanent, volitional activities are impermanent, consciousness is impermanent.’ Thus he dwells contemplating impermanence in these five aggregates subject to clinging. This is called the perception of impermanence. (2) “And what, Ānanda, is the perception of non-self? Here, having gone to the forest, to the foot of a tree, or to an empty hut, a bhikkhu reflects thus: ‘The eye is non-self, forms are nonself; the ear is non-self, sounds are non-self; the nose is non-self, odors are non-self; the tongue is non-self, tastes are non-self; the body is non-self, tactile objects are non-self; the mind is non-self, mental phenomena are non-self.’ Thus he dwells contemplating non-self in these six internal and external sense bases. This is called the perception of non-self. (3) “And what, Ānanda, is the perception of unattractiveness? Here, a bhikkhu reviews this very body upward from the soles of the feet and downward from the tips of the hairs, enclosed in skin, as full of many kinds of impurities: ‘There are in this body hair of the head, hair of the body, nails, teeth, skin, flesh, sinews, bones, bone marrow, kidneys, heart, liver, pleura, spleen, lungs, intestines, mesentery, stomach, excrement, bile, phlegm, pus, blood, sweat, fat, tears, grease, saliva, snot, fluid of the joints, urine.’ Thus he dwells contemplating unattractiveness in this body. This is called the perception of unattractiveness. (4) “And what, Ānanda, is the perception of danger? Here, having gone to the forest, to the foot of a tree, or to an empty hut, a bhikkhu reflects thus: ‘This body is the source of much pain and danger; for all sorts of afflictions arise in this body, that is, eye-disease, disease of the inner ear, nose-disease, tonguedisease, body-disease, head-disease, disease of the external ear, mouth-disease, tooth-disease, [2] cough, asthma, catarrh, pyrexia, fever, stomach ache, fainting, dysentery, gripes, cholera, leprosy, boils, eczema, tuberculosis, epilepsy, ringworm, itch, scab, chickenpox, scabies, hemorrhage, diabetes, hemorrhoids, cancer, fistula; illnesses originating from bile, phlegm, wind, or their combination; illnesses produced by change of climate; illnesses produced by careless behavior; illnesses produced by assault; or illnesses produced as the result of kamma; and cold, heat, hunger, thirst, defecation, and urination.’ Thus he dwells contemplating danger in this body. This is called the perception of danger. (5) “And what, Ānanda, is the perception of abandoning? Here, a bhikkhu does not tolerate an arisen sensual thought; he abandons it, dispels it, terminates it, and obliterates it. He does not tolerate an arisen thought of ill will . . . an arisen thought of harming . . . bad unwholesome states whenever they arise; he abandons them, dispels them, terminates them, and obliterates them. This is called the perception of abandoning. (6) “And what, Ānanda, is the perception of dispassion? Here, having gone to the forest, to the root of a tree, or to an empty hut, a bhikkhu reflects thus: ‘This is peaceful, this is sublime, that is, the stilling of all activities, the relinquishment of all acquisitions, the destruction of craving, dispassion, nibbāna.’ This is called the perception of dispassion. [3] (7) “And what, Ānanda, is the perception of cessation? Here, having gone to the forest, to the root of a tree, or to an empty hut, a bhikkhu reflects thus: ‘This is peaceful, this is sublime, that is, the stilling of all activities, the relinquishment of all acquisitions, the destruction of craving, cessation, nibbāna.’ This is called the perception of cessation. (8) “And what, Ānanda, is the perception of non-delight in the entire world? Here, a bhikkhu refrains from [4] any engagement and clinging, mental standpoints, adherences, and underlying tendencies in regard to the world, abandoning them without clinging to them. This is called the perception of non-delight in the entire world. (9) “And what, Ānanda, is the perception of impermanence in all conditioned phenomena? Here, a bhikkhu is repelled, humiliated, and disgusted by all conditioned phenomena. This is called the perception of impermanence in all conditioned phenomena. [5] (10) “And what, Ānanda, is mindfulness of breathing? Here, a bhikkhu, having gone to the forest, to the foot of a tree, or to an empty hut, sits down. Having folded his legs crosswise, straightened his body, and established mindfulness in front of him, just mindful he breathes in, mindful he breathes out. “Breathing in long, he knows: ‘I breathe in long’; or breathing out long, he knows: ‘I breathe out long.’ Breathing in short, he knows: ‘I breathe in short’; or breathing out short, he knows: ‘I breathe out short.’ He trains thus: ‘Experiencing the whole body, I will breathe in’; he trains thus: ‘Experiencing the whole body, I will breathe out.’ He trains thus: ‘Tranquilizing the bodily activity, I will breathe in’; he trains thus: ‘Tranquilizing the bodily activity, I will breathe out.’ “He trains thus: ‘Experiencing rapture, I will breathe in’; he trains thus: ‘Experiencing rapture, I will breathe out.’ He trains thus: ‘Experiencing happiness, I will breathe in’; he trains thus: ‘Experiencing happiness, I will breathe out.’ He trains thus: ‘Experiencing the mental activity, I will breathe in’; he trains thus: ‘Experiencing the mental activity, I will breathe out.’ He trains thus: ‘Tranquilizing the mental activity, I will breathe in’; he trains thus: ‘Tranquilizing the mental activity, I will breathe out.’ [6] “He trains thus: ‘Experiencing the mind, I will breathe in’; he trains thus: ‘Experiencing the mind, I will breathe out.’ He trains thus: ‘Gladdening the mind, I will breathe in’; he trains thus: ‘Gladdening the mind, I will breathe out.’ He trains thus: ‘Concentrating the mind, I will breathe in’; he trains thus: ‘Concentrating the mind, I will breathe out.’ He trains thus: ‘Liberating the mind, I will breathe in’; he trains thus: ‘Liberating the mind, I will breathe out.’ [7] “He trains thus: ‘Contemplating impermanence, I will breathe in’; he trains thus: ‘Contemplating impermanence, I will breathe out.’ He trains thus: ‘Contemplating fading away, I will breathe in’; he trains thus: ‘Contemplating fading away, I will breathe out.’ He trains thus: ‘Contemplating cessation, I will breathe in’; he trains thus: ‘Contemplating cessation, I will breathe out.’ He trains thus: ‘Contemplating relinquishment, I will breathe in’; he trains thus: ‘Contemplating relinquishment, I will breathe out.’ “This is called mindfulness of breathing. “If, Ānanda, you visit the bhikkhu Girimānanda and speak to him about these ten perceptions, it is possible that on hearing about them he will immediately recover from his affliction.” Then, when the Venerable Ānanda had learned these ten perceptions from the Blessed One, he went to the Venerable Girimānanda and spoke to him about them. When the Venerable Girimānanda heard about these ten perceptions, his affliction immediately subsided. The Venerable Girimānanda recovered from that affliction, and that is how he was cured of his affliction. NOTES: [1] Apart from this text there is no further information about Girimānanda in the Nikāyas. In Theravāda Buddhist countries this sutta has achieved the status of a paritta, a “protective discourse,” which bhikkhus often recite to people afflicted with illness. [2] In Be only, oṭṭharogo, lip disease, is between dantarogo and kāso. [3] Both this and the following perception are reflective contemplations on nibbāna. In the classical scheme of forty meditation subjects, they can be subsumed under the “recollection of peace” (upasamānussati), explained at Vism 293–94, Ppn 8:245–51. [4] Where Ce and Ee read pajahanto viramati anupādiyanto, Be has pajahanto viharati anupādiyanto. Mp offers no clarification. [5] It is hard to see exactly how the explanation is connected to the theme of impermanence. Some manuscripts read this perception as sabbasaṅkhāresu anicchāsaññā, “perception of wishlessness (or desirelessness) in regard to all conditioned phenomena,” which seems to tie up better with the definition. [6] The mental activity (cittasaṅkhāra) here is perception and feeling, for these things are said to be bound up with the mind and to occur in dependence on it (see MN 44.15, I 301,28–29). [7] That is, liberating the mind from the obstacles to the refinement of serenity and insight. * * * |
[ Home ]
20-09-2020