Đàm luận Phật Pháp
- 125 -
Quán tưởng về từ bỏ (5) QUÁN
TƯỞNG VỀ SỰ TỪ BỎ Và này Ānanda, thế nào là tưởng từ bỏ? Ở đây, này Ānanda,
tỳ-khưu không chấp nhận dục tầm đã sinh, từ bỏ, tẩy sạch, chấm
dứt, không cho sinh trưởng; không chấp nhận sân tầm đã sinh, từ
bỏ, tẩy sạch, chấm dứt, không cho sinh trưởng; không chấp nhận
hại tầm đã sinh, từ bỏ, tẩy sạch, chấm dứt, không cho sinh
trưởng; không chấp nhận các ác bất thiện pháp tiếp tục khởi lên,
từ bỏ, tẩy sạch, chấm dứt, không cho sinh trưởng. Này Ānanda,
đây được gọi tưởng từ bỏ. --Kinh Girimānanda (AN 10.60) “And what, Ānanda, is the perception of abandoning? Here,
a bhikkhu does not tolerate an arisen sensual thought; he
abandons it, dispels it, terminates it, and obliterates it. He
does not tolerate an arisen thought of ill will . . . an arisen
thought of harming . . . bad unwholesome states whenever they
arise; he abandons them, dispels them, terminates them, and
obliterates them. This is called the perception of abandoning.
--Girimānanda Sutta (AN 10.60) * Tại thời điểm này trong tiến trình quán tưởng, nền tảng của nội
quán đã được thiết lập bằng cách nuôi dưỡng bốn nhận thức đối nghịch
với bốn tưởng điên đảo (vipallāsa, perversions) – nhận thức
sai lầm về những gì vốn là vô thường, khổ, vô ngã, và không hấp dẫn.
Đến giai đoạn nầy, hành giả tu tập hai nhận thức bao gồm toàn bộ
kinh nghiệm của mình – qua năm uẩn và sáu căn, tiếp theo là hai nhận
thức tập trung vào cơ thể, gồm các bộ phận trong thân và các nguy
hại bệnh tật hướng đến nhận thức các cảm thọ. Theo trình tự cơ bản
của bốn pháp lập niệm (satipaṭṭhāna: thân, thọ, tâm, pháp),
bây giờ hành giả chuyển sang quán tưởng về tâm. Bốn loại tư tưởng
hoặc điều kiện tinh thần mà ta phải vượt qua là: • Tham dục (dục tầm), Phiên bản Pāli đề nghị rằng hành giả không nên “chấp nhận” những
ý nghĩ như thế, và phải “từ bỏ, tẩy sạch, chấm dứt và loại bỏ nó”.
Phiên bản Tây Tạng tương đương khuyên hành giả “không trú vào sự
phát sinh” của các ý nghĩ đó, mà phải “loại bỏ, chấm dứt, không tạo
thành thói quen, và không nuôi dưỡng chúng”. Quán về tham dục có thể xem như một nối tiếp tự nhiên với các
pháp quán tưởng trước. Quán tưởng về bất tịnh hay bất mỹ của thân
thể giúp giảm thiểu đáng kể về tham dục thể xác và giúp thiết lập tư
duy đối nghịch, một thái độ xả ly – nekkhamma – buông bỏ các
quan tâm dục lạc. Đây là trạng thái tâm khi dục vọng tạm thời biến
mất. Hỗ trợ thêm cho sự tu dưỡng tâm xả ly là pháp quán tưởng về các
nguy hại. Khi ta có thể buông bỏ càng nhiều các tầm cầu sắc dục thì
ta càng ít bị tác động bởi thân thể đau nhức khi bị bệnh. Cùng thế
ấy, khi ta càng nhận thức được rằng khuynh hướng tự nhiên của cơ thể
là dễ mắc bệnh và đưa đến đau đớn thì ta càng ít bị lạc lối trong
việc tầm cầu dục lạc và thỏa mãn các cảm giác. Phân biệt các trạng thái tâm thiện và bất thiện dựa theo các lời
dạy trong kinh Lập Niệm (Satipaṭṭhāna-sutta, kinh Niệm Xứ)
trong tạng Nikāya và tạng A-hàm. Một khía cạnh quan trọng nhưng
thường không được chú ý đến là Chánh Niệm không phải chỉ có nhiệm vụ
ghi nhận các tâm bất thiện mà còn ghi nhận các tâm thiện. Qua khía cạnh đó, ta có thể áp dụng phương cách tương tự vào
thiền tập nầy, không chỉ giới hạn vào những khoảnh khắc tư tưởng bất
thiện xuất hiện trong tâm. Bắt đầu bằng cách xem xét các ý tưởng bất
thiện có hiện diện trong tâm hay không. Nếu chúng có mặt, hành giả
nỗ lực loại trừ và từ bỏ chúng, theo tinh thần bài kinh Girimānanda.
Nếu không có tư tưởng bất thiện nào trong tâm, hành giả duy trì các
điều kiện đối kháng với chúng. Áp dụng cho ý tưởng tham dục (dục tâm), nếu khi xem xét và biết
chắc được rằng các ý nghĩ đó hiện không có mặt trong tâm, hành giả
tiếp tục duy trì trạng thái xả ly không vướng mắc vào ái dục, hướng
tâm về xả ly. Tình trạng an bình và vui tươi của tâm sẽ giúp hành
giả vững mạnh, sẵn sàng ngăn chận ái dục len lỏi, xâm chiếm tâm. Sau khi an trú trong tình trạng xả ly, kế tiếp, ta có thể xem xét
có dấu vết của sân hận nào đang ở trong tâm hay không (sân tâm). Nếu
có, ta loại bỏ nó. Khi tâm trí không có sân hận, ít ra là tại khoảnh
khắc nầy, ta tiếp tục giữ tâm trong trạng thái không có áy náy và
sân hận. Một tình trạng như thế tự nó có liên quan đến lòng từ (mettā).
An trú trong tâm từ (mettā) bằng cách tỏa rộng tình thương
bao trùm mọi phương hướng, không giới hạn. An trú trong tâm từ vô
lượng như thế, hành giả chú tâm tạo điều kiện thuận lợi, hoàn toàn
thoát khỏi các ý tưởng sân hận. Áp dụng quy trình tương tự như thế cho các tư tưởng gây tổn hại
(hại tâm). Trong trường hợp nầy, lòng bi mẫn giúp đối kháng các bất
thiện pháp ấy. An trú trong tâm bi (karuṇā), tâm trí không có
các ý định gây hại. Đồng thờ, an trú như thế làm giảm thiểu khả năng
các ý tưởng gây hại sinh ra trong tâm. Cũng vậy, ở đây, an trú trong
tâm bi vô lượng nầy được thực hiện tốt nhất khi hành giả chú tâm về
bản chất tự nhiên của lòng bi mẫn là hoàn toàn thoát khỏi các ý định
gây tổn hại. Trong khía cạnh cuối cùng của pháp quán tưởng về từ bỏ, liên quan
đến sự vắng mặt của các ác bất thiện pháp, hành giả có thể tu dưỡng
tâm xả (upekkhā). Ý định kiên quyết tiếp tục trú trong trạng
thái tâm không chịu một tác động ác bất thiện nào có thể trở thành
trạng thái an trú trong tâm xả, sẵn sàng đối điện với sự thu thúc
của bất cứ điều gì bất thiện với tâm buông xả, trong trạng thái tâm
cân bằng. Nếu hành giả muốn kết hợp cả bốn tâm phạm trú nầy (cattāri
brahmavihārā, tứ phạm trú: từ, bi, hỷ, xả), tâm hỷ (muditā)
cần được phát triển trong giai đoạn chuyển tiếp từ tâm bi sang tâm
xả, bằng cách tạo lòng hoan hỷ, hân hoan với những ai có tâm hoàn
toàn thoát khỏi những điều bất thiện và những ai đang thực hành tiến
đến trạng thái nầy. Nói tóm lại, tôi đề nghị tăng cường pháp quán tưởng về từ bỏ bằng
cách cố ý nuôi dưỡng các trạng thái tâm đối kháng lại với những loại
tư tưởng xấu ác mà hành giả cần phải từ bỏ, từ đó, dùng cơ hội nầy
để tích hợp bốn tâm vô lượng (tứ phạm trú: từ, bi, hỷ, xả) vào tiến
trình hành thiền. Thực hiện đúng phương cách hành thiền nầy đưa đến gia tăng nhận
thức nhanh chóng về sự xuất hiện của bất kỳ ý tưởng bất thiện nào
trong tâm trí, và hành giả càng lúc càng trải nghiệm thường xuyên
các trạng thái an lạc và yên bình của tâm đã thoát khỏi các ý tưởng
bất thiện đó.
Kinh Girimānanda (AN 10.60)
PERCEPTION OF ABANDONING - Pahānasaññā, 捨斷想 Xả đoạn tưởng
Mindfully Facing Disease and Death: Compassionate Advice from Early
Buddhist Texts, Bhikkhu Anālayo (2017). pp 223-226
• Sân hận (sân tầm),
• Tác hại (hại tầm),
• Các phẩm chất xấu xa và bất thiện (ác bất thiện pháp).
Kinh văn bổ sung Nyanatiloka Mahathera, Buddhist Dictionary (1980) vipallāsa: điên đảo (perversions) hay ‘vặn vẹo, bóp méo’ (distortions). – “Có bốn điên đảo về tưởng (saññā-vipallāsa), tâm ý (citta-vipallāsa), và kiến (diṭṭhi-vipallāsa). Bốn điên đảo ấy là gì? Xem những gì vô thường (anicca) là thường; những gì khổ (dukkha) là lạc (vui thú); những gì không có ngã (vô ngã, anattā) là ngã; những gì bất tịnh (xấu xa, bất mỹ, asubha) là tịnh (mỹ, đẹp)” (AN 4.49). “Trong các điên đảo, thì tưởng điên đảo, kiến điên đảo, tâm điên đảo, cho vô thường là thường, vô ngã là ngã, và kiến điên đảo lấy khổ làm vui, bất tịnh làm tịnh được đoạn trừ với trí đạo thứ nhất (Dự lưu). Tưởng điên đảo, tâm điên đảo lấy bất tịnh làm tịnh được đoạn trừ với trí đạo thứ ba (Bất lai). Tưởng điên đảo, tâm điên đảo lấy khổ làm vui được đoạn trừ bằng trí đạo thứ tư (A-la-hán)” (Vism XXII.68). Ðiên Ðảo (AN
4.49) – Này các tỳ-khưu, có bốn tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo này. Thế nào là bốn? (1) Trong vô thường, nghĩ là thường, đó là tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo. (2) Trong khổ, nghĩ là lạc, đó là tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo. (3) Trong vô ngã, nghĩ là ngã, này các tỳ-khưu, đó là tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo. (4) Trong không hấp dẫn (bất tịnh), nghĩ là hấp dẫn (tịnh), đó là tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo. Này các tỳ-khưu, có bốn tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo này. Này các tỳ-khưu có bốn tưởng không điên đảo, tâm không điên đảo, kiến không điên đảo này. Thế nào là bốn? (1) Trong vô thường, nghĩ là vô thường, đó là tưởng không điên đảo, tâm không điên đảo, kiến không điên đảo. (2) Trong khổ, nghĩ là khổ, đó là tưởng không điên đảo, tâm không điên đảo, kiến không điên đảo. (3) Trong vô ngã, nghĩ là vô ngã, đó là tưởng không điên đảo, tâm không điên đảo, kiến không điên đảo. (4) Trong không hấp dẫn (bất tịnh), nghĩ là không hấp dẫn (bất tịnh), đó là tưởng không điên đảo, tâm không điên đảo, kiến không điên đảo. Này các tỳ-khưu, có bốn tưởng không điên đảo, tâm không điên đảo, kiến không điên đảo này.
–
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch
Inversions (AN 4.49) "Bhikkhus, there are these four inversions of perception, inversions of mind, and inversions of view. [1] What four? (1) The inversion of perception, mind, and view that takes the impermanent to be permanent; (2) the inversion of perception, mind, and view that takes what is suffering to be pleasurable;730 (3) the inversion of perception, mind, and view that takes what is non-self to be self; (4) the inversion of perception, mind, and view that takes what is unattractive to be attractive. These are the four inversions of perception, mind, and view. “There are, bhikkhus, these four non-inversions of perception, non-inversions of mind, and non-inversions of view. What four? (1) The non-inversion of perception, mind, and view that takes the impermanent to be impermanent; (2) the non-inversion of perception, mind, and view that takes what is suffering to be suffering; (3) the non-inversion of perception, mind, and view that takes what is non-self to be non-self; (4) the non-inversion of perception, mind, and view that takes what is unattractive to be unattractive. These are the four non-inversions of perception, mind, and view.”
– Translated by Bhikkhu Bodhi Notes: *
--ooOoo-- |
Kinh Girimānanda (AN 10.60) Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthī, tại Jetavana, khu vườn của ông Anāthapiṇḍika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Girimānanda bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh. [2074] Rồi Tôn giả Ānanda đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ānanda bạch Thế Tôn: - Tôn giả Girimānanda, bạch Thế Tôn, bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh. Lành thay, nếu Thế Tôn đi đến Tôn giả Girimānanda, vì lòng từ mẫn. - Này Ānanda, nếu Thầy đi đến tỳ-khưu Girimānanda và đọc lên mười tưởng, thời sự kiện này có thể xảy ra: tỳ-khưu Girimānanda sau khi được nghe mười tưởng, bệnh của vị ấy có thể được thuyên giảm ngay lập tức. Thế nào là mười? (1) Tưởng vô thường, (2) tưởng vô ngã, (3) tưởng bất tịnh, (4) tưởng nguy hại, (5) tưởng từ bỏ, (6) tưởng ly tham, (7) tưởng đoạn diệt, (8) tưởng nhàm chán đối với tất cả thế giới, (9) tưởng vô thường trong tất cả hành, (10) tưởng niệm hơi thở vô hơi thở ra. (1) Và này Ānanda, thế nào là tưởng vô thường? Ở đây, này Ānanda, tỳ-khưu đi đến ngôi rừng, hay đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, quán sát như sau: "Sắc là vô thường, thọ là vô thường, tưởng là vô thường, hành là vô thường, thức là vô thường." Như vậy vị ấy trú, tùy quán vô thường, trong năm thủ uẩn này. Này Ānanda, đây gọi là tưởng vô thường. (2) Và này Ānanda, thế nào là tưởng vô ngã? Ở đây, này Ānanda, tỳ-khưu đi đến khu rừng hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, quán sát như sau: "Mắt là vô ngã, các sắc là vô ngã; tai là vô ngã, các tiếng là vô ngã; mũi là vô ngã, các hương là vô ngã; lưỡi là vô ngã, các vị là vô ngã; thân là vô ngã, xúc là vô ngã; ý là vô ngã, các pháp là vô ngã." Này Ānanda, đây gọi là tưởng vô ngã. (3) Và này, Ānanda thế nào là tưởng bất tịnh? Ở đây, này Ānanda, tỳ-khưu quán sát thân này từ bàn chân trở lên, từ đỉnh tóc trở xuống, được da bao bọc, đầy những vật bất tịnh sai biệt như: "Trong thân này có tóc, lông, móng, răng, da, thịt, dây gân, xương, tủy, thận, quả tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bụng, phân, mật, đàm (niêm dịch), mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mũi, nước ở khớp xương, nước tiểu". Như vậy, vị ấy trú quán bất tịnh trong thân này. Này Ānanda, đây gọi là tưởng bất tịnh. (4) Và này Ānanda, thế nào là tưởng nguy hại? Ở đây, này Ānanda, tỳ-khưu đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, quán sát như sau: "Nhiều khổ là thân này, nhiều sự nguy hại. Như vậy trong thân này, nhiều loại bệnh khởi lên. Ví như bệnh đau mắt, bệnh đau về tai, bệnh đau mũi, bệnh đau lưỡi, bệnh đau thân, bệnh đau đầu, bệnh đau vành tai, bệnh đau miệng, bệnh đau răng, bệnh ho, bệnh suyễn, bệnh sổ mũi, bệnh sốt, bệnh già yếu, bệnh đau yếu, bệnh đau bụng, bất tỉnh, kiết lỵ, bệnh đau bụng quặn, bệnh thổ tả, bệnh hủi, bệnh ung nhọt, bệnh ghẻ lở, bệnh ho lao, bệnh trúng gió, bệnh da, bệnh ngứa, bệnh da đóng vảy, bệnh hắc lào lang ben, bệnh ghẻ, bệnh huyết đảm (mật trong máu), bệnh đái đường, bệnh trĩ, bệnh mụt nhọt, bệnh ung nhọt ung loét, các bệnh khởi lên do mật, bệnh khởi lên từ đàm, niêm dịch, các bệnh khởi lên từ gió; bệnh do hòa hợp các thể dịch sinh ra; các bệnh do thời tiết sinh ra, các bệnh do làm việc quá độ sinh, các bệnh do sự trùng hợp các sự kiêng; các bệnh do nghiệp thuần thục, lạnh, nóng, đói, khát, đại tiện, tiểu tiện". Như vậy, vị ấy sống, quán sự nguy hại trong thân này. Này Ānanda, đây gọi là các tưởng nguy hại. (5) Và này Ānanda, thế nào là tưởng từ bỏ? Ở đây, này Ānanda, tỳ-khưu, không có chấp nhận dục tầm đã sinh, từ bỏ, tẩy sạch, chấm dứt, đi đến không sinh trưởng; không có chấp nhận sân tầm đã sinh, từ bỏ, tẩy sạch, chấm dứt, đi đến không sinh trưởng; không có chấp nhận hại tầm đã sinh, từ bỏ, tẩy sạch, chấm dứt, đi đến không sinh trưởng; không có chấp nhận các ác bất thiện pháp tiếp tục khởi lên, từ bỏ, tẩy sạch, chấm dứt, đi đến không sinh trưởng. Này Ānanda, đây được gọi tưởng từ bỏ. (6) Và này Ānanda, thế nào là ly tham? Ở đây, này Ānanda, tỳ-khưu đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, suy xét như sau: ”Ðây là an tịnh, đây là thù thắng, tức là sự an chỉ tất cả hành, sự từ bỏ tất cả sinh y, ái diệt, ly tham, Niết bàn”. Này Ānanda, đây được gọi tưởng ly tham. (7) Và này Ānanda, thế nào là tưởng đoạn diệt? Ở đây, này Ānanda, tỳ-khưu đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, suy xét như sau: "Ðây là an tịnh, đây là thù thắng, tức là sự an chỉ tất cả hành, sự từ bỏ tất cả sinh y, ái diệt, đoạn diệt, Niết bàn". Này Ānanda, đây được gọi tưởng đoạn diệt. (8) Và này Ānanda, thế nào là tưởng không ưa thích đối với tất cả thế giới? Ở đây, này Ānanda, phàm ở đời có những chấp thủ phương tiện, tâm quyết định, thiên kiến, tùy miên nào, tỳ-khưu từ bỏ chúng, không ưa thích, không chấp thủ. Này Ānanda, đây gọi là tưởng không hoan hỷ đối với tất cả thế giới. (9) Và này các tỳ-khưu, thế nào là tưởng vô thường trong tất cả hành? Ở đây, này Ānanda, tỳ-khưu bực phiền, xấu hổ, nhàm chán đối với tất cả hành. Này Ānanda, đây gọi là tưởng vô thường trong tất cả hành. (10) Và này Ānanda, thế nào là tưởng niệm hơi thở vào, hơi thở ra? Ở đây, này Ānanda, tỳ-khưu đi đến khu rừng hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, ngồi kiết-già, lưng thẳng, để niệm trước mặt. Chánh niệm, vị ấy thở vô; chánh niệm, vị ấy thở ra. Thở vô dài, vị ấy rõ biết: "Tôi thở vô dài". Thở ra dài, vị ấy rõ biết: "Tôi thở ra dài", Hay thở vô ngắn, vị ấy rõ biết "Tôi thở vô ngắn"; hay thở ra ngắn, vị ấy rõ biết: "Tôi thở ra ngắn". "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở ra," vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán vô thường, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán vô thường, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Này Ānanda, đó là niệm hơi thở vô, hơi thở ra. Này Ānanda, nếu thầy đi đến tỳ-khưu Girimānanda và đọc lên mười tưởng này, sự kiện này có xảy ra: tỳ-khưu Girimānanda, sau khi nghe mười tưởng này, bệnh của vị ấy được thuyên giảm ngay lập tức". Rồi Tôn giả Ānanda, sau khi học thuộc từ Thế Tôn mười tưởng này, đi đến Tôn giả Girimānanda, sau khi đến, nói lên với Tôn giả Girimānanda mười tưởng này. Tôn giả Girimānanda, sau khi nghe mười tưởng này, bệnh của vị ấy được thuyên giảm ngay lập tức. Tôn giả Girimānanda, được thoát khỏi bệnh ấy. Ðược đoạn tận như vậy là chứng bệnh ấy của Tôn giả Girimānanda.
Girimānanda Sutta (AN 10.60) On one occasion the Blessed One was dwelling at Sāvatthī in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s Park. Now on that occasion the Venerable Girimānanda was sick, afflicted, and gravely ill. Then the Venerable Ānanda approached the Blessed One, paid homage to him, sat down to one side, and said to him: [1] “Bhante, the Venerable Girimānanda is sick, afflicted, and gravely ill. It would be good if the Blessed One would visit him out of compassion.” “If, Ānanda, you visit the bhikkhu Girimānanda and speak to him about ten perceptions, it is possible that on hearing about them his affliction will immediately subside. What are the ten? “(1) The perception of impermanence, (2) the perception of non-self, (3) the perception of unattractiveness, (4) the perception of danger, (5) the perception of abandoning, (6) the perception of dispassion, (7) the perception of cessation, (8) the perception of non-delight in the entire world, (9) the perception of impermanence in all conditioned phenomena, and (10) mindfulness of breathing. (1) “And what, Ānanda, is the perception of impermanence? Here, having gone to the forest, to the foot of a tree, or to an empty hut, a bhikkhu reflects thus: ‘Form is impermanent, feeling is impermanent, perception is impermanent, volitional activities are impermanent, consciousness is impermanent.’ Thus he dwells contemplating impermanence in these five aggregates subject to clinging. This is called the perception of impermanence. (2) “And what, Ānanda, is the perception of non-self? Here, having gone to the forest, to the foot of a tree, or to an empty hut, a bhikkhu reflects thus: ‘The eye is non-self, forms are nonself; the ear is non-self, sounds are non-self; the nose is non-self, odors are non-self; the tongue is non-self, tastes are non-self; the body is non-self, tactile objects are non-self; the mind is non-self, mental phenomena are non-self.’ Thus he dwells contemplating non-self in these six internal and external sense bases. This is called the perception of non-self. (3) “And what, Ānanda, is the perception of unattractiveness? Here, a bhikkhu reviews this very body upward from the soles of the feet and downward from the tips of the hairs, enclosed in skin, as full of many kinds of impurities: ‘There are in this body hair of the head, hair of the body, nails, teeth, skin, flesh, sinews, bones, bone marrow, kidneys, heart, liver, pleura, spleen, lungs, intestines, mesentery, stomach, excrement, bile, phlegm, pus, blood, sweat, fat, tears, grease, saliva, snot, fluid of the joints, urine.’ Thus he dwells contemplating unattractiveness in this body. This is called the perception of unattractiveness. (4) “And what, Ānanda, is the perception of danger? Here, having gone to the forest, to the foot of a tree, or to an empty hut, a bhikkhu reflects thus: ‘This body is the source of much pain and danger; for all sorts of afflictions arise in this body, that is, eye-disease, disease of the inner ear, nose-disease, tonguedisease, body-disease, head-disease, disease of the external ear, mouth-disease, tooth-disease, [2] cough, asthma, catarrh, pyrexia, fever, stomach ache, fainting, dysentery, gripes, cholera, leprosy, boils, eczema, tuberculosis, epilepsy, ringworm, itch, scab, chickenpox, scabies, hemorrhage, diabetes, hemorrhoids, cancer, fistula; illnesses originating from bile, phlegm, wind, or their combination; illnesses produced by change of climate; illnesses produced by careless behavior; illnesses produced by assault; or illnesses produced as the result of kamma; and cold, heat, hunger, thirst, defecation, and urination.’ Thus he dwells contemplating danger in this body. This is called the perception of danger. (5) “And what, Ānanda, is the perception of abandoning? Here, a bhikkhu does not tolerate an arisen sensual thought; he abandons it, dispels it, terminates it, and obliterates it. He does not tolerate an arisen thought of ill will . . . an arisen thought of harming . . . bad unwholesome states whenever they arise; he abandons them, dispels them, terminates them, and obliterates them. This is called the perception of abandoning. (6) “And what, Ānanda, is the perception of dispassion? Here, having gone to the forest, to the root of a tree, or to an empty hut, a bhikkhu reflects thus: ‘This is peaceful, this is sublime, that is, the stilling of all activities, the relinquishment of all acquisitions, the destruction of craving, dispassion, nibbāna.’ This is called the perception of dispassion. [3] (7) “And what, Ānanda, is the perception of cessation? Here, having gone to the forest, to the root of a tree, or to an empty hut, a bhikkhu reflects thus: ‘This is peaceful, this is sublime, that is, the stilling of all activities, the relinquishment of all acquisitions, the destruction of craving, cessation, nibbāna.’ This is called the perception of cessation. (8) “And what, Ānanda, is the perception of non-delight in the entire world? Here, a bhikkhu refrains from [4] any engagement and clinging, mental standpoints, adherences, and underlying tendencies in regard to the world, abandoning them without clinging to them. This is called the perception of non-delight in the entire world. (9) “And what, Ānanda, is the perception of impermanence in all conditioned phenomena? Here, a bhikkhu is repelled, humiliated, and disgusted by all conditioned phenomena. This is called the perception of impermanence in all conditioned phenomena. [5] (10) “And what, Ānanda, is mindfulness of breathing? Here, a bhikkhu, having gone to the forest, to the foot of a tree, or to an empty hut, sits down. Having folded his legs crosswise, straightened his body, and established mindfulness in front of him, just mindful he breathes in, mindful he breathes out. “Breathing in long, he knows: ‘I breathe in long’; or breathing out long, he knows: ‘I breathe out long.’ Breathing in short, he knows: ‘I breathe in short’; or breathing out short, he knows: ‘I breathe out short.’ He trains thus: ‘Experiencing the whole body, I will breathe in’; he trains thus: ‘Experiencing the whole body, I will breathe out.’ He trains thus: ‘Tranquilizing the bodily activity, I will breathe in’; he trains thus: ‘Tranquilizing the bodily activity, I will breathe out.’ “He trains thus: ‘Experiencing rapture, I will breathe in’; he trains thus: ‘Experiencing rapture, I will breathe out.’ He trains thus: ‘Experiencing happiness, I will breathe in’; he trains thus: ‘Experiencing happiness, I will breathe out.’ He trains thus: ‘Experiencing the mental activity, I will breathe in’; he trains thus: ‘Experiencing the mental activity, I will breathe out.’ He trains thus: ‘Tranquilizing the mental activity, I will breathe in’; he trains thus: ‘Tranquilizing the mental activity, I will breathe out.’ [6] “He trains thus: ‘Experiencing the mind, I will breathe in’; he trains thus: ‘Experiencing the mind, I will breathe out.’ He trains thus: ‘Gladdening the mind, I will breathe in’; he trains thus: ‘Gladdening the mind, I will breathe out.’ He trains thus: ‘Concentrating the mind, I will breathe in’; he trains thus: ‘Concentrating the mind, I will breathe out.’ He trains thus: ‘Liberating the mind, I will breathe in’; he trains thus: ‘Liberating the mind, I will breathe out.’ [7] “He trains thus: ‘Contemplating impermanence, I will breathe in’; he trains thus: ‘Contemplating impermanence, I will breathe out.’ He trains thus: ‘Contemplating fading away, I will breathe in’; he trains thus: ‘Contemplating fading away, I will breathe out.’ He trains thus: ‘Contemplating cessation, I will breathe in’; he trains thus: ‘Contemplating cessation, I will breathe out.’ He trains thus: ‘Contemplating relinquishment, I will breathe in’; he trains thus: ‘Contemplating relinquishment, I will breathe out.’ “This is called mindfulness of breathing. “If, Ānanda, you visit the bhikkhu Girimānanda and speak to him about these ten perceptions, it is possible that on hearing about them he will immediately recover from his affliction.” Then, when the Venerable Ānanda had learned these ten perceptions from the Blessed One, he went to the Venerable Girimānanda and spoke to him about them. When the Venerable Girimānanda heard about these ten perceptions, his affliction immediately subsided. The Venerable Girimānanda recovered from that affliction, and that is how he was cured of his affliction. NOTES: [1] Apart from this text there is no further information about Girimānanda in the Nikāyas. In Theravāda Buddhist countries this sutta has achieved the status of a paritta, a “protective discourse,” which bhikkhus often recite to people afflicted with illness. [2] In Be only, oṭṭharogo, lip disease, is between dantarogo and kāso. [3] Both this and the following perception are reflective contemplations on nibbāna. In the classical scheme of forty meditation subjects, they can be subsumed under the “recollection of peace” (upasamānussati), explained at Vism 293–94, Ppn 8:245–51. [4] Where Ce and Ee read pajahanto viramati anupādiyanto, Be has pajahanto viharati anupādiyanto. Mp offers no clarification. [5] It is hard to see exactly how the explanation is connected to the theme of impermanence. Some manuscripts read this perception as sabbasaṅkhāresu anicchāsaññā, “perception of wishlessness (or desirelessness) in regard to all conditioned phenomena,” which seems to tie up better with the definition. [6] The mental activity (cittasaṅkhāra) here is perception and feeling, for these things are said to be bound up with the mind and to occur in dependence on it (see MN 44.15, I 301,28–29). [7] That is, liberating the mind from the obstacles to the refinement of serenity and insight. * * * |
[ Home ]
04-06-2017