Đàm luận Phật Pháp
- 114 -
Satipatthana (9) - Quán 4 thánh đế
BỐN THÁNH ĐẾ (KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO) Bhikkhu Analayo, Satipaṭṭhāna: The Direct Path to Realization, pp 248-249 … Áp dụng ở mức thế tục, quán niệm về bốn thánh đế có thể được áp dụng để quán tiến trình chấp thủ (upādāna) để tồn tại xảy ra trong cuộc sống hàng ngày, như, ví dụ, khi những kỳ vọng của ta không được thỏa mãn, khi vị thế của ta đang bị đe dọa, hoặc khi mọi thứ xảy ra không như ta mong muốn. Nhiệm vụ ở đây là ghi nhận tiến trình cơ bản của tham ái (taṇhā) dẫn đến tích tụ chấp thủ và kỳ vọng, và ghi nhận hậu quả của tham ái ấy biểu hiện trong một số dạng thức của khổ (dukkha). Sự hiểu biết này là cơ sở cần thiết cho việc buông bỏ tham ái (taṇhāya paṭinissagga). Với buông bỏ như vậy, chấp thủ và khổ (dukkha) có thể được khắc phục, ít nhất là tạm thời. Tiếp tục thực hành như thế, dần dần ta sẽ có khả năng "bước những bước thăng bằng, trên đường không thăng bằng – fare evenly amidst the uneven" (SN 1:18). Đề mục tứ thánh đế, được liệt kê như việc hành thiền cuối cùng trong bài kinh Satipaṭṭhāna (Lập niệm), không chỉ tạo thành kết luận của chuỗi thực hành quán niệm, đề mục đó cũng có liên quan đến mỗi đề mục quán pháp khác. Các Chú giải còn đi xa hơn, liên kết mỗi đề mục quán niệm trong kinh Satipaṭṭhāna với khung hình tứ thánh đế. Thật ra, sự thành công của bất kỳ pháp quán niệm là chứng đạt Niết-bàn, tương ứng với biết thánh đế thứ ba "như thật" (Diệt đế). Tuy nhiên, sự hiểu biết đầy đủ về thánh đế thứ ba hàm ý một sự thẩm thấu tất cả bốn thánh đế, vì mỗi thánh đế chỉ là một khía cạnh khác nhau của cùng một việc thực chứng. Do đó, bốn thánh đế thực sự là đỉnh điểm của bất kỳ pháp quán niệm nào như là con đường trực tiếp đưa đến thực chứng Niết-bàn. – Bình Anson lược dịch, 11-2016 |
Trích:
Những lời Phật dạy (...) Bài kinh giảng thường được xem bao gồm những hướng dẫn hành thiền đầy đủ nhất là Kinh Lập Niệm hay Niệm Xứ (Satipaṭṭhāna Sutta). Có hai phiên bản bài kinh này, phiên bản dài trong Trường bộ, phiên bản trung bình ở Trung Bộ. Bản dài khác với bản trung bình ở phần phân tích mở rộng về Tứ Thánh Đế, có lẽ nguyên thủy là một chú giải sơ bộ được đưa vào bài kinh. Bản trung bình được đưa vào cuốn sách nầy. Toàn bộ một chương trong Tương ưng bộ – chương Tương ưng Lập niệm (Satipaṭṭhāna-saṃyutta), cũng dành cho hệ thống hành thiền này. Bài kinh Lập Niệm không đề nghị một đề mục hành thiền duy nhất hay một pháp hành thiền duy nhất. Mục đích của bài kinh là giải thích làm thế nào để thiết lập một chế độ chiêm niệm cần thiết để thực chứng Niết-bàn. Khung tâm thức thích hợp được thiết lập, như ngụ ý trong tựa bài kinh, được gọi là “thành lập niệm”. Từ “satipaṭṭhāna” có lẽ nên hiểu như là một hợp từ của “sati”, niệm hay tỉnh thức và “upaṭṭhāna”, thành lập. Vì thế “thành lập niệm” có lẽ là cách dịch tốt nhất nắm bắt được ý nghĩa nguyên thủy. Theo công thức tiêu chuẩn kèm theo mỗi bài tập, mỗi “satipaṭṭhāna” là một phương thức trú xứ (viharati). Phương thức trú xứ này có liên quan đến việc quan sát các đối tượng trong một khung tâm thức thích hợp. Khung tâm thức đó gồm có ba phẩm chất tích cực: nhiệt tâm (tinh cần, ātāpa), niệm (sati) và tỉnh giác (hiểu biết rõ ràng, sampajañña). Từ “sati” nguyên thủy có nghĩa là trí nhớ, nhưng trong ngữ cảnh này có nghĩa là ghi nhớ hiện tại, một sự nhận thức bền vững về những gì đang xảy ra cho ta và trong ta trong mỗi lần trực nghiệm. Niệm, trong những giai đoạn đầu tiên, có liên quan đến giữ tâm quán sát liên tục vào đối tượng, có nghĩa liên tục giữ đối tượng trong tâm. Niệm ngăn ngừa tâm tuột đi, lang thang đến nơi khác qua những ý tưởng ngẫu nhiên, tạo thành hý luận và quên lãng. Niệm thường được xem xảy ra kết hợp chặt chẽ với “tỉnh giác”, một sự hiểu biết ràng về những gì hành giả đang trực nghiệm. Công thức mở đầu của bài kinh nói rằng hành giả tham gia vào việc thực hành này sau khi “đã chế ngự tham dục và ưu sầu trên đời” (vineyya loke abhijjhā-domanassaṃ). Cụm từ “đã chế ngự” không nhất thiết phải hiểu rằng hành giả trước tiên phải vượt qua ham muốn và ưu sầu – theo Chú giải, có nghĩa là dục tham và sân hận và từ đó đại diện cho năm triền cái – trước khi hành giả thực hành lập niệm. Cụm từ đó có thể hiểu là chính sự thực hành là phương tiện để chế ngự tham dục và ưu sầu. Như thế, trong khi chế ngự các ảnh hưởng ngăn che của tham lam và sân hận, hành giả làm khơi dậy các phẩm chất tích cực của nhiệt tâm, niệm và tỉnh giác và quán soi bốn lĩnh vực đối tượng: Cơ thể, các cảm thọ, các trạng thái tâm và các hiện tượng (thân, thọ, tâm, pháp). Đây là bốn lĩnh vực đối tượng phân chia việc quan sát tỉnh thức thành bốn sự thành lập niệm. Bốn lĩnh vực đối tượng này chia phần mô tả kinh Lập Niệm thành bốn đoạn chính. Hai trong số đoạn này, đoạn đầu và đoạn cuối, có nhiều phân đoạn. Khi tổng cộng các phân đoạn, chúng ta có được hai mươi mốt (21) đề mục hành thiền. Nhiều đề mục này có thể dùng để phát triển an chỉ (samatha), nhưng toàn thể hệ thống lập niệm dường như đặc biệt được thiết kế để phát triển minh quán (vipassanā). Những đoạn chính trong cách phân chia này như sau:
Mặc dù không nói rõ trong bài kinh, một chuỗi tăng tiến dường như ngụ ý bằng các điều khoản mô tả mỗi pháp quán. Trong quán niệm hơi thở, hành giả tiến dần đến các mức độ an định vi tế; trong pháp quán thọ, hành giả tiến đến các cảm thọ phi cơ thể không lạc không khổ; trong pháp quán tâm, hành giả tiến đến trạng thái tâm tập trung và giải thoát. Những điều này cho thấy các diễn tiến trong ba pháp quán này giúp tăng cường mức định tâm. Trong pháp thứ tư – quán các pháp, tầm quan trọng chuyển hướng đến minh sát. Hành giả bắt đầu bằng cách quan sát và chế ngự năm triền cái. Chế ngự năm triền cái đánh dấu thành công trong định tâm. Với tâm định, hành giả quán năm uẫn và sáu xứ. Khi quán niệm có đà phát triển, bảy giác chi hiện rõ ra và phát triển bảy giác chi đưa đến đỉnh điểm về tri kiến Tứ Thánh Đế. Tri kiến Tứ Thánh Đế giải phóng tâm khỏi các lậu hoặc và như thế, đưa đến chứng đắc Niết-bàn. Do đó, hệ thống hành thiền này hoàn tất con đường trực tiếp hướng đến thực chứng Niết-bàn, như Đức Phật đã giảng dạy. Mỗi bài tập quán niệm chính được bổ sung bằng một đoạn phụ trợ, một “điệp khúc” với bốn phân đoạn: - Phân đoạn thứ nhất cho biết hành giả quán đề mục bên trong (bên trong kinh nghiệm của chính mình), bên ngoài (suy ngẫm như thể xảy ra với kinh nghiệm của người khác) và cả hai. Việc này đảm bảo hành giả có được một cái nhìn cân bằng và đầy đủ về đối tượng. - Phân đoạn thứ hai cho biết hành giả quán đề mục vốn được sinh khởi, bị đoạn diệt, được sinh khởi lẫn bị đoạn diệt. Điều này soi sáng tính chất vô thường và từ đó, đưa đến tuệ minh về ba đặc tướng: vô thường, khổ và vô ngã (anicca, dukkha, anattā). - Phân đoạn thứ ba dạy hành giả đơn thuần ghi nhận đối tượng với mức độ cần thiết cho niệm vững bền và tri kiến. - Phân đoạn thứ tư chỉ rõ hành giả an trú vào trạng thái tâm hoàn toàn xả ly, không dính chấp vào bất cứ việc gì trên đời. |
KINH LẬP NIỆM (MN 10) (Satipaṭṭhana Sutta, Kinh Niệm xứ, Trung bộ 10)
1. Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở xứ Kuru (Câu-lâu), Kammāsadhamma (Kiềm-ma Sắt-đàm) là đô thị của xứ Kuru. Rồi Thế Tôn gọi các tỳ-khưu: – Này các tỳ-khưu. Các Tỳ-khưu vâng đáp Thế Tôn: – Bạch Thế Tôn. 2. Thế Tôn thuyết như sau: – Này các tỳ-khưu, đây là con đường nhất hướng để thanh tịnh hóa chúng sinh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh đạo, chứng ngộ Niết-bàn – đó là bốn pháp lập niệm. 3. Thế nào là bốn? Này các tỳ-khưu, tỳ-khưu sống quán thân như thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, chế ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ như các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, chế ngự tham ưu ở đời; sống quán tâm như tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, chế ngự tham ưu ở đời; sống quán pháp như các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, chế ngự tham ưu ở đời.
(Quán thân)... (Quán thọ)... (Quán tâm)...
(Quán pháp) [1. Năm triền cái] 36. Này các tỳ-khưu, thế nào là tỳ-khưu sống quán pháp trên các pháp? Ở đây, tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với năm triền cái. Và này các tỳ-khưu, thế nào là tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với năm triền cái? Này các tỳ-khưu, ở đây, tỳ-khưu trong tâm có ái dục, biết: “Trong tâm tôi có ái dục;” hay trong tâm không có ái dục, biết: “Trong tâm tôi không có ái dục”. Và với ái dục chưa sinh nay sinh khởi, vị ấy biết như vậy; và với ái dục đã sinh nay được đoạn diệt, vị ấy biết như vậy; và với ái dục đã được đoạn diệt, tương lai không sinh khởi nữa, vị ấy biết như vậy. Hay trong tâm có sân hận... Hay trong tâm có hôn trầm thụy miên... Hay trong tâm có trạo hối... Hay trong tâm có nghi, biết: “Trong tâm tôi có nghi;” hay trong tâm không có nghi, biết: “Trong tâm tôi không có nghi”. Và với nghi chưa sinh nay sinh khởi, vị ấy biết như vậy; và với nghi đã sinh nay được đoạn diệt, vị ấy biết như vậy; và với nghi đã được đoạn diệt, tương lai không sinh khởi nữa, vị ấy biết như vậy. 37. Như vậy vị ấy sống quán pháp như các pháp bên trong; hay sống quán pháp như các pháp bên ngoài; hay sống quán pháp như các pháp bên trong và bên ngoài. Hay vị ấy sống quán tính sinh khởi trong các pháp; hay sống quán tính diệt tận trong các pháp; hay sống quán tánh sinh và diệt trong các pháp. Hay nhận thức “có pháp đây”được thiết lập nơi vị ấy với mức độ cần thiết để hiểu biết và ghi nhớ đầy đủ. Và vị ấy không nương tựa, không chấp trước vật gì trên đời. Này các tỳ-khưu, như vậy là tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với năm triền cái. [2. Năm uẩn] 38. Lại nữa, này các tỳ-khưu, tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với năm thủ uẩn. Và thế nào là tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với năm thủ uẩn? Ở đây, tỳ-khưu biết: “Ðây là sắc, đây là sắc tập, đây là sắc diệt. Ðây là thọ, đây là thọ tập, đây là thọ diệt. Ðây là tưởng, đây là tưởng tập; đây là tưởng diệt. Ðây là hành, đây là hành tập, đây là hành diệt. Ðây là thức, đây là thức tập, đây là thức diệt”. 39. Như vậy vị ấy sống quán pháp như các pháp bên trong; hay sống quán pháp như các pháp bên ngoài; hay sống quán pháp như các pháp bên trong và bên ngoài. Hay vị ấy sống quán tính sinh khởi trong các pháp; hay sống quán tính diệt tận trong các pháp; hay sống quán tánh sinh và diệt trong các pháp. Hay nhận thức “có pháp đây”được thiết lập nơi vị ấy với mức độ cần thiết để hiểu biết và ghi nhớ đầy đủ. Và vị ấy không nương tựa, không chấp trước vật gì trên đời. Này các tỳ-khưu, như vậy là tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với năm uẩn. [3. Sáu xứ] 40. Lại nữa, này các tỳ-khưu, tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với sáu nội xứ và ngoại xứ. Và thế nào là tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với sáu nội xứ và ngoại xứ? Ở đây, tỳ-khưu biết con mắt và biết các sắc, do duyên hai pháp này, kiết sử sinh khởi, vị ấy biết như vậy; và với kiết sử chưa sinh nay sinh khởi, vị ấy biết như vậy; và với kiết sử đã sinh nay được đoạn diệt, vị ấy biết như vậy; và với kiết sử đã được đoạn diệt, tương lai không sinh khởi nữa, vị ấy biết như vậy. Tỳ-khưu biết tai và biết các tiếng... biết mũi và biết các hương... biết lưỡi và biết các vị... biết thân và biết các xúc, biết ý và biết các pháp; do duyên hai pháp này, kiết sử sinh khởi, vị ấy biết như vậy; và với kiết sử chưa sinh nay sinh khởi, vị ấy biết như vậy; và với kiết sử đã sinh nay được đoạn diệt, vị ấy biết như vậy; và với kiết sử đã được đoạn diệt, tương lai không sinh khởi nữa, vị ấy biết như vậy. 41. Như vậy vị ấy sống quán pháp như các pháp bên trong; hay sống quán pháp như các pháp bên ngoài; hay sống quán pháp như các pháp bên trong và bên ngoài. Hay vị ấy sống quán tính sinh khởi trong các pháp; hay sống quán tính diệt tận trong các pháp; hay sống quán tánh sinh và diệt trong các pháp. Hay nhận thức “có pháp đây”được thiết lập nơi vị ấy với mức độ cần thiết để hiểu biết và ghi nhớ đầy đủ. Và vị ấy không nương tựa, không chấp trước vật gì trên đời. Này các tỳ-khưu, như vậy là tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với sáu nội xứ và ngoại xứ. [4. Bảy giác chi] 42. Lại nữa, này các tỳ-khưu, tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với bảy giác chi. Và thế nào là tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với bảy giác chi? Ở đây, tỳ-khưu trong tâm có niệm giác chi, biết: “Trong tâm tôi có niệm giác chi;” hay trong tâm không có niệm giác chi, biết: “Trong tâm tôi không có niệm giác chi”. Và với niệm giác chi chưa sinh nay sinh khởi, vị ấy biết như vậy; và với niệm giác chi đã sinh, nay được tu tập viên thành, vị ấy biết như vậy. Hay tỳ-khưu trong tâm có trạch pháp giác chi... có tinh tấn giác chi... có hỷ giác chi... có khinh an giác chi... có định giác chi... có xả giác chi, biết: “Trong tâm tôi có xả giác chi;” hay trong tâm không có xả giác chi, biết: “Trong tâm tôi không có xả giác chi”. Và với xả giác chi chưa sinh nay sinh khởi, vị ấy biết như vậy; và với xả giác chi đã sinh nay được tu tập viên thành, vị ấy biết như vậy. 43. Như vậy vị ấy sống quán pháp như các pháp bên trong; hay sống quán pháp như các pháp bên ngoài; hay sống quán pháp như các pháp bên trong và bên ngoài. Hay vị ấy sống quán tính sinh khởi trong các pháp; hay sống quán tính diệt tận trong các pháp; hay sống quán tánh sinh và diệt trong các pháp. Hay nhận thức “có pháp đây”được thiết lập nơi vị ấy với mức độ cần thiết để hiểu biết và ghi nhớ đầy đủ. Và vị ấy không nương tựa, không chấp trước vật gì trên đời. Này các tỳ-khưu, như vậy là tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với bảy giác chi. [5. Bốn Thánh Đế] 44. Lại nữa, này các tỳ-khưu, vị ấy sống quán pháp như các pháp đối với Bốn Thánh đế. Và thế nào là tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với Bốn Thánh đế? Ở đây, tỳ-khưu biết như thật: “Ðây là Khổ;” biết như thật: “Ðây là Khổ tập;” biết như thật: “Ðây là Khổ diệt;” biết như thật: “Ðây là Con đường đưa đến Khổ diệt”. 45. Như vậy vị ấy sống quán pháp như các pháp bên trong; hay sống quán pháp như các pháp bên ngoài; hay sống quán pháp như các pháp bên trong và bên ngoài. Hay vị ấy sống quán tính sinh khởi trong các pháp; hay sống quán tính diệt tận trong các pháp; hay sống quán tánh sinh và diệt trong các pháp. Hay nhận thức “có pháp đây”được thiết lập nơi vị ấy với mức độ cần thiết để hiểu biết và ghi nhớ đầy đủ. Và vị ấy không nương tựa, không chấp trước vật gì trên đời. Này các tỳ-khưu, như vậy là tỳ-khưu sống quán pháp như các pháp đối với Bốn Thánh Đế.
(Kết luận) 46. Này các tỳ-khưu, vị nào tu tập bốn pháp lập niệm này như vậy trong bảy năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất lai. Này các tỳ-khưu, không cần gì đến bảy năm, một vị nào tu tập bốn pháp lập niệm này như vậy trong sáu năm,... trong năm năm,... trong bốn năm,... trong ba năm,... trong hai năm,... trong một năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất lai. Này các tỳ-khưu, không cần gì đến một năm, một vị nào tu tập bốn pháp lập niệm này như vậy trong bảy tháng,... trong sáu tháng,... trong năm tháng,... trong bốn tháng,... trong ba tháng,... trong hai tháng,... trong một tháng,... trong nửa tháng, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất lai. Này các tỳ-khưu, không cần gì nửa tháng, một vị nào tu tập bốn pháp lập niệm này như vậy trong bảy ngày, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất lai. 46. Này các tỳ-khưu, đây là con đường nhất hướng để thanh tịnh hóa chúng sinh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh đạo, chứng ngộ Niết-bàn – đó là bốn pháp lập niệm. Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các tỳ-khưu ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn. (MN 10, Kinh Lập niệm/Niệm xứ) |
SATIPAṬṬHĀNA
SUTTA Thus have I heard. On one occasion the Blessed One was living in the Kuru country at a town of the Kurus named Kammāsadhamma. There he addressed the monks thus: “Monks.” “Venerable sir,” they replied. The Blessed One said this:
[DIRECT PATH]
[DEFINITION] (...)
[HINDRANCES] “If sensual desire is present in him, he knows ‘there is sensual desire in me’; if sensual desire is not present in him, he knows ‘there is no sensual desire in me’; and he knows how unarisen sensual desire can arise, how arisen sensual desire can be removed, and how a future arising of the removed sensual desire can be prevented. “If aversion is present in him, he knows ‘there is aversion in me’; if aversion is not present in him, he knows ‘there is no aversion in me’; and he knows how unarisen aversion can arise, how arisen aversion can be re- moved, and how a future arising of the removed aversion can be prevented. “If sloth-and-torpor is present in him, he knows ‘there is sloth-and- torpor in me’; if sloth-and-torpor is not present in him, he knows ‘there is no sloth-and-torpor in me’; and he knows how unarisen sloth-and-torpor can arise, how arisen sloth-and-torpor can be removed, and how a future arising of the removed sloth-and-torpor can be prevented. “If restlessness-and-worry is present in him, he knows ‘there is restlessness-and-worry in me’; if restlessness-and-worry is not present in him, he knows ‘there is no restlessness-and-worry in me’; and he knows how un- arisen restlessness-and-worry can arise, how arisen restlessness-and-worry can be removed, and how a future arising of the removed restlessness- and-worry can be prevented. “If doubt is present in him, he knows ‘there is doubt in me’; if doubt is not present in him, he knows ‘there is no doubt in me’; and he knows how unarisen doubt can arise, how arisen doubt can be removed, and how a future arising of the removed doubt can be prevented.
[Refrain] “That is how in regard to dhammas he abides contemplating dhammas in terms of the five hindrances.
[AGGREGATES] Here he knows, ‘such is material form, such its arising, such its passing away; such is feeling, such its arising, such its passing away; such is cogni- tion, such its arising, such its passing away; such are volitions, such their arising, such their passing away; such is consciousness, such its arising, such its passing away.’
[Refrain] “That is how in regard to dhammas he abides contemplating dhammas in terms of the five aggregates of clinging.
[SENSE-SPHERES] “Here he knows the eye, he knows forms, and he knows the fetter that arises dependent on both, and he also knows how an unarisen fetter can arise, how an arisen fetter can be removed, and how a future arising of the removed fetter can be prevented. “He knows the ear, he knows sounds, and he knows the fetter that arises dependent on both, and he also knows how an unarisen fetter can arise, how an arisen fetter can be removed, and how a future arising of the re- moved fetter can be prevented. “He knows the nose, he knows odours, and he knows the fetter that arises dependent on both, and he also knows how an unarisen fetter can arise, how an arisen fetter can be removed, and how a future arising of the re- moved fetter can be prevented. “He knows the tongue, he knows flavours, and he knows the fetter that arises dependent on both, and he also knows how an unarisen fetter can arise, how an arisen fetter can be removed, and how a future arising of the removed fetter can be prevented. “He knows the body, he knows tangibles, and he knows the fetter that arises dependent on both, and he also knows how an unarisen fetter can arise, how an arisen fetter can be removed, and how a future arising of the removed fetter can be prevented. “He knows the mind, he knows mind-objects, and he knows the fetter that arises dependent on both, and he also knows how an unarisen fetter can arise, how an arisen fetter can be removed, and how a future arising of the removed fetter can be prevented.
[Refrain] “That is how in regard to dhammas he abides contemplating dhammas in terms of the six internal and external sense-spheres.
[AWAKENING FACTORS] “Here, if the mindfulness awakening factor is present in him, he knows ‘there is the mindfulness awakening factor in me’; if the mindfulness awak- ening factor is not present in him, he knows ‘there is no mindfulness awak- ening factor in me’; he knows how the unarisen mindfulness awakening factor can arise, and how the arisen mindfulness awakening factor can be perfected by development. “If the investigation-of-dhammas awakening factor is present in him, he knows ‘there is the investigation-of-dhammas awakening factor in me’; if the investigation-of-dhammas awakening factor is not present in him, he knows ‘there is no investigation-of-dhammas awakening factor in me’; he knows how the unarisen investigation-of-dhammas awakening factor can arise, and how the arisen investigation-of-dhammas awakening factor can be perfected by development. “If the energy awakening factor is present in him, he knows ‘there is the energy awakening factor in me’; if the energy awakening factor is not pres- ent in him, he knows ‘there is no energy awakening factor in me’; he knows how the unarisen energy awakening factor can arise, and how the arisen energy awakening factor can be perfected by development. “If the joy awakening factor is present in him, he knows ‘there is the joy awakening factor in me’; if the joy awakening factor is not present in him, he knows ‘there is no joy awakening factor in me’; he knows how the unarisen joy awakening factor can arise, and how the arisen joy awakening factor can be perfected by development. “If the tranquillity awakening factor is present in him, he knows ‘there is the tranquillity awakening factor in me’; if the tranquillity awakening factor is not present in him, he knows ‘there is no tranquillity awakening factor in me’; he knows how the unarisen tranquillity awakening factor can arise, and how the arisen tranquillity awakening factor can be perfected by development. “If the concentration awakening factor is present in him, he knows ‘there is the concentration awakening factor in me’; if the concentration awaken- ing factor is not present in him, he knows ‘there is no concentration awak- ening factor in me’; he knows how the unarisen concentration awakening factor can arise, and how the arisen concentration awakening factor can be perfected by development. “If the equanimity awakening factor is present in him, he knows ‘there is the equanimity awakening factor in me’; if the equanimity awakening fac- tor is not present in him, he knows ‘there is no equanimity awakening factor in me’; he knows how the unarisen equanimity awakening factor can arise, and how the arisen equanimity awakening factor can be perfected by development.
[Refrain] “That is how in regard to dhammas he abides contemplating dhammas in terms of the seven awakening factors.
[NOBLE TRUTHS] “Here he knows as it really is, ‘this is dukkha‘; he knows as it really is, ‘this is the arising of dukkha‘; he knows as it really is, ‘this is the cessation of dukkha‘; he knows as it really is, ‘this is the way leading to the cessation of dukkha.’
[Refrain] “That is how in regard to dhammas he abides contemplating dhammas in terms of the four noble truths.
[PREDICTION]
[DIRECT PATH] That is what the Blessed One said. The monks were satisfied and delighted in the Blessed One’s words. * * * |
KINH NIỆM XỨ Tôi nghe như vầy. Một thời Đức Phật trú tại Câu-lâu-sấu, ở Kiếm-ma-sắt-đàm, một đô ấp của Câu-lâu. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-khưu: “Có một con đường tịnh hóa chúng sanh, vượt qua lo sợ, diệt trừ khổ não, chấm dứt kêu khóc, chứng đắc Chánh pháp. Đó là Bốn niệm xứ. “Các Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác ở quá khứ đều đoạn trừ năm triền cái, tâm ô uế, tuệ yếu kém, lập tâm chánh trụ nơi Bốn niệm xứ, tu Bảy giác chi mà chứng quả giác ngộ Vô thượng chánh tận. “Các Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác ở vị lai cũng đều đoạn trừ năm triền cái là thứ làm tâm ô uế, tuệ yếu kém, lập tâm chánh trụ nơi Bốn niệm xứ, tu Bảy giác chi mà chứng quả giác ngộ. “Ta nay trong hiện tại, là Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Ta cũng đều đoạn trừ năm triền cái làm tâm ô uế, tuệ yếu kém. Ta cũng lập tâm chánh trụ nơi Bốn niệm xứ, tu Bảy giác chi mà chứng quả giác ngộ Vô thượng chánh tận. “Bốn niệm xứ là những gì? Đó là, quán thân như thân, quán thọ như thọ, quán tâm như tâm và quán pháp như pháp. [Quán thân] ... [Quán thọ] ... [Quán tâm] ... [Quán pháp] “Lại nữa, Tỳ-khưu quán pháp như pháp; Tỳ-khưu bên trong thật có ái dục thì biết đúng như thật là đang có ái dục, bên trong thật không có ái dục thì biết đúng như thật là không có ái dục. Ái dục chưa sanh nay sanh, biết đúng như thật. Ái dục đã sanh và đã được đoạn trừ, không sanh lại nữa, biết đúng như thật. Với sân nhuế, thùy miên, điệu hối và nghi cũng giống như vậy. Bên trong thật có nghi, biết đúng như thật là đang có nghi; bên trong thật không có nghi, biết đúng như thật là không có nghi. Nghi chưa sanh, nay đã sanh, biết đúng như thật. Nghi đã sanh và đã được đoạn trừ, không sanh lại nữa, biết đúng như thật. Tỳ-khưu như vậy quán pháp nơi nội pháp, quán pháp nơi ngoại pháp, lập niệm tại pháp, có tri, có kiến, có minh, có đạt. Như vậy gọi là Tỳ-khưu quán pháp như pháp, nghĩa là quán năm triền cái. “Lại nữa, Tỳ-khưu quán pháp như pháp; Tỳ-khưu bên trong thật có niệm giác chi thì biết đúng như thật là có niệm giác chi; bên trong thật không có niệm giác chi thì biết đúng như thật là không có niệm giác chi. Niệm giác chi chưa sanh nay sanh, biết đúng như thật. Niệm giác chi đã sanh thì ghi nhớ không quên, bất thối, tu tập càng lúc càng tăng trưởng, biết đúng như thật. Với trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định và xả cũng giống như vậy. Bên trong thật có xả giác chi thì biết đúng như thật là đang có xả giác chi, bên trong thật không có xả giác chi thì biết đúng như thật là không có xả giác chi. Xả giác chi chưa sanh nay sanh, biết đúng như thật, xả giác chi đã sanh thì ghi nhớ không quên, bất thối, tu tập càng lúc càng tăng trưởng, biết đúng như thật. Tỳ-khưu như vậy quán nội pháp đúng như pháp, quán ngoại pháp đúng như pháp, lập niệm tại pháp, có tri, có kiến, có minh, có đạt như vậy gọi là Tỳ-khưu quán pháp như pháp, nghĩa là quán Bảy giác chi. “Nếu Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni từng chi tiết quán pháp như pháp như vậy, đó gọi là niệm xứ quán pháp như pháp. [Kết luận] “Không cần phải đến bảy, sáu, năm, bốn, ba, hai hay một năm, nếu Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni nào lập tâm chánh trú nơi Bốn niệm xứ thì trong vòng bảy tháng cũng sẽ nhất định chứng được một trong hai quả: hoặc chứng Cứu cánh trí ngay trong hiện tại, hoặc chứng A-na-hàm nếu còn hữu dư. “Không cần phải đến bảy, sáu, năm, bốn, ba, hai hay một tháng, nếu Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni nào lập tâm chánh trú nơi Bốn niệm xứ thì trong vòng bảy ngày bảy đêm cũng sẽ nhất định chứng được một trong hai quả: hoặc chứng Cứu cánh trí ngay trong hiện tại, hoặc chứng A-na-hàm nếu còn hữu dư. “Không cần phải đến bảy ngày đêm, sáu, năm, bốn, ba, hay hai ngày hai đêm, mà chỉ cần trong một ngày một đêm, nếu Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni nào luôn luôn trong từng khoảnh khắc lập tâm chánh trú nơi Bốn niệm xứ thì nếu buổi sáng thực hành như vậy, nhất định buổi tối liền được thăng tấn. Nếu buổi tối thực hành như vậy, nhất định sáng hôm sau sẽ được thăng tấn.” Phật thuyết giảng như thế, các Tỳ-khưu ấy sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành. * |
Tăng nhất
A-hàm 12.1 Tôi nghe như vầy: Một thời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-khưu: “Có một lối vào đạo, làm thanh tịnh các hành của chúng sanh, trừ bỏ sầu ưu, không còn mọi bức não, được trí tuệ lớn, thành tựu sự chứng đắc Niết-bàn. Đó là hãy diệt trừ năm triền cái, tư duy bốn niệm xứ. “Thế nào là một lối vào? Tâm chuyên nhất, đó là một lối vào. Thế nào là đạo? Tám phẩm đạo Hiền thánh: 1. chánh kiến, 2. chánh tư duy, 3. chánh nghiệp, 4. chánh mạng, 5. chánh tinh tấn, 6. chánh ngữ, 7. chánh niệm, 8. chánh định. Đó gọi là đạo. Đó gọi là một lối vào đạo. “Thế nào là hãy diệt trừ năm triền cái? Tham dục cái, sân nhuế cái, trạo cử cái, thùy miên cái, nghi cái. Đó gọi là năm triền cái phải diệt. “Thế nào là tư duy bốn niệm xứ? Ở đây, này Tỳ-khưu, quán thân nơi nội thân trừ bỏ niệm ác, không có sầu ưu; quán thân nơi ngoại thân, trừ bỏ ác niệm, không có sầu ưu; quán thân nơi nội ngoại thân, thân trừ bỏ ác niệm, không có sầu ưu. Quán thọ nơi nội thọ, quán thọ nơi ngoại thọ, quán thọ nơi nội ngoại thọ mà tự an trú. Quán nội tâm, quán ngoại tâm, quán nội ngoại tâm tâm mà tự an trú. Quán nội pháp, quán ngoại pháp, quán nội ngoại pháp mà tự an trú. [Quán thân] ... [Quán thọ] ... [Quán tâm] ... [Quán
pháp] “Lại nữa, Tỳ-khưu đã giải thoát khỏi ái dục, trừ pháp ác bất thiện, có tầm, có tứ, có hỷ và lạc do viễn ly sinh, chứng nhập và an trú sơ thiền. Như vậy, Tỳ-khưu tu niệm xứ, quán tướng của pháp nơi pháp. “Lại nữa, Tỳ-khưu xả tầm và tứ, nội tâm tịch tĩnh, chuyên nhất ý, không tầm, không tứ, có hỷ lạc do định sinh, chứng nhập và an trú nhị thiền. Như vậy, Tỳ-khưu tu niệm xứ, quán tướng của pháp nơi pháp. “Lại nữa, Tỳ-khưu ly hỷ, an trú xả, hằng tự giác tri, thân có tri giác lạc, điều mà các hiền thánh nói là xả, niệm, an trú lạc, chứng nhập và an trú tam thiền. Như vậy, Tỳ-khưu tu niệm xứ, quán tướng của pháp nơi pháp. “Lại nữa, Tỳ-khưu xả tâm lạc khổ, ưu và hỷ từ trước đã trừ, không lạc không khổ, xả, niệm thanh tịnh, an trú nơi tứ thiền. Như vậy, Tỳ-khưu tu niệm xứ, quán tướng của pháp nơi pháp. [Kết
luận] “Này các Tỳ-khưu, y chỉ trên một lối vào đạo mà chúng sanh được thanh tịnh, xa lìa sầu ưu, lại không có tưởng ưu hỷ, đạt được trí tuệ, chứng ngộ Niết-bàn. Đó là diệt năm triền cái, tu bốn niệm xứ.” Các Tỳ-khưu sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. * |
[ Home ]
04-12-2016