Đàm luận Phật Pháp
- 110 -

Satipatthana (5) - Quán tâm

 

01-book.jpg
01-book.jpg
1010 * 850
02-quan.jpg
02-quan.jpg
969 * 801
03-def.jpg
03-def.jpg
1324 * 675
04-sati.jpg
04-sati.jpg
1204 * 800
05-diepkhuc.jpg
05-diepkhuc.jpg
1435 * 696
06-quan_tam.jpg
06-quan_tam.jpg
1212 * 744
07-quantam2.jpg
07-quantam2.jpg
1184 * 868
08-antrutam.jpg
08-antrutam.jpg
1177 * 832
09-tu.jpg
09-tu.jpg
1224 * 861

 

KINH LẬP NIỆM (MN 10)
(Satipaṭṭhana Sutta, Kinh Niệm xứ, Trung bộ 10)

1. Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở xứ Kuru (Câu-lâu), Kammāsadhamma (Kiềm-ma Sắt-đàm) là đô thị của xứ Kuru. Rồi Thế Tôn gọi các tỳ-khưu:

– Này các tỳ-khưu.

Các Tỳ-khưu vâng đáp Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn.

2. Thế Tôn thuyết như sau:

– Này các tỳ-khưu, đây là con đường nhất hướng để thanh tịnh hóa chúng sinh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh đạo, chứng ngộ Niết-bàn – đó là bốn pháp lập niệm.

3. Thế nào là bốn? Này các tỳ-khưu, tỳ-khưu sống quán thân như thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, chế ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ như các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, chế ngự tham ưu ở đời; sống quán tâm như tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, chế ngự tham ưu ở đời; sống quán pháp như các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, chế ngự tham ưu ở đời.

(Quán thân)

(...)

(Quán thọ)

(...)

(Quán tâm)

34. Này các tỳ-khưu, như thế nào là tỳ-khưu sống quán tâm như tâm?

Ở đây, tỳ-khưu với tâm có tham, biết rõ: “Tâm có tham;” hay với tâm không tham, biết rõ: “Tâm không tham”.

Hay với tâm có sân, biết rõ: “Tâm có sân;” hay với tâm không sân, biết rõ: “Tâm không sân”.

Hay với tâm có si, biết rõ: “Tâm có si;” hay với tâm không si, biết rõ: “Tâm không si”.

Hay với tâm thu nhiếp, biết rõ: “Tâm được thu nhiếp”. Hay với tâm tán loạn, biết rõ: “Tâm bị tán loạn”.

Hay với tâm quảng đại, biết rõ: “Tâm được quảng đại;” hay với tâm không quảng đại, biết rõ: “Tâm không được quảng đại”.

Hay với tâm hữu hạn, biết rõ: “Tâm hữu hạn”. Hay với tâm vô thượng, biết rõ: “Tâm vô thượng”.

Hay với tâm có định, biết rõ: “Tâm có định;” hay với tâm không định, biết rõ: “Tâm không định”.

Hay với tâm giải thoát, biết rõ: “Tâm có giải thoát;” hay với tâm không giải thoát, biết rõ: “Tâm không giải thoát”.

35. Như vậy vị ấy sống quán tâm như tâm bên trong; hay sống quán tâm như tâm bên ngoài; hay sống quán tâm như tâm bên trong và bên ngoài. Hay sống quán tính sinh khởi trong tâm; hay sống quán tính diệt tận trong tâm; hay sống quán tánh sinh và diệt trong tâm. Hay nhận thức “có tâm đây”được thiết lập nơi vị ấy với mức độ cần thiết để hiểu biết và ghi nhớ đầy đủ. Và vị ấy không nương tựa, không chấp trước vật gì trên đời. Này các tỳ-khưu, như vậy là tỳ-khưu sống quán tâm như tâm.

(...)

(MN 10, Kinh Lập niệm/Niệm xứ)

 

 

SATIPAṬṬHĀNA  SUTTA
Translated by Bhikkhu Ānalayo (2003)

Thus have I heard. On one occasion the Blessed One was living in the Kuru country  at  a  town   of  the   Kurus   named  Kammāsadhamma. There   he addressed the monks  thus:  “Monks.” “Venerable sir,” they  replied. The Blessed One  said this:

[DIRECT  PATH]

“Monks,  this  is the  direct  path  for the  purification of beings,  for the  sur- mounting of sorrow and  lamentation, for the disappearance of dukkha and discontent, for acquiring the  true  method, for the  realization of Nibbāna, namely, the four satipaṭṭhānas.

[DEFINITION]

“What are the four? Here, monks,  in regard to the body a monk  abides con- templating the body, diligent, clearly knowing, and  mindful, free from de- sires and  discontent in regard to the world.  In regard to feelings  he abides contemplating feelings,  diligent, clearly  knowing, and  mindful, free from desires  and  discontent in regard to the  world.  In regard to the  mind  he abides  contemplating the  mind,  diligent, clearly  knowing, and  mindful, free  from  desires   and   discontent  in  regard to  the  world.   In  regard to dhammas he abides  contemplating dhammas, diligent, clearly knowing, and mindful, free from desires  and  discontent in regard to the world.

[BREATHING]

(...)

[FEELINGS]

(...)

[MIND]

"And how, monks, does he in regard to the mind abide contemplating the mind?

“Here he knows a lustful mind to be ‘lustful’, and a mind without lust to be ‘without lust’;

he knows an angry mind to be ‘angry’, and a mind without anger to be ‘without anger’;

he knows a deluded mind to be ‘deluded’, and a mind without delusion to be ‘without delusion’;

he knows a contracted mind to be ‘contracted’, and a distracted mind to be ‘distracted’;

he knows a great mind to be ‘great’, and a narrow mind to be ‘narrow’;

he knows a surpassable mind to be ‘surpassable’, and an unsurpassable mind to be ‘unsurpassable’;

he knows a concentrated mind to be ‘concentrated’, and an unconcentrated mind to be ‘unconcentrated’;

he knows a liberated mind to be ‘liberated’, and an unliberated mind to be ‘unliberated.’

[Refrain]

“In this way, in regard to the mind he abides contemplating the mind inter- nally … externally … internally and externally. He abides contemplating the nature of arising … of passing away … of both arising and passing away in regard to the mind. Mindfulness that ‘there is a mind’ is established in him to the extent necessary for bare knowledge and continuous mindful- ness. And he abides independent, not clinging to anything in the world. That is how in regard to the mind he abides contemplating the mind.”

(...)

 

Trung A-hàm 98
KINH NIỆM XỨ
Tuệ sỹ dịch

(...)

[Quán thân]

(...)

[Quán thọ]

(...)

[Quán tâm]

“Thế nào gọi là niệm xứ quán tâm như tâm?

Tỳ-khưu có tâm tham dục thì biết đúng như thật có tâm tham dục, có tâm vô dục thì biết đúng như thật là có tâm vô dục.

Khi có sân hay không sân, có si hay không si, có ô uế hay không ô uế, có hợp hay có tan, có thấp hay có cao, có nhỏ hay có lớn; tu hay không tu, định hay không định, giải thoát hay không giải thoát.

Cũng như vậy, có tâm giải thoát thì biết đúng như thật có tâm giải thoát; có tâm không giải thoát thì biết đúng như thật là có tâm không giải thoát.

Tỳ-khưu như vậy, quán tâm nơi nội tâm, quán tâm nơi ngoại tâm , dựng niệm tại tâm, có tri, có kiến, có minh, có đạt. Như vậy là Tỳ-khưu quán tâm như tâm. Nếu Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni từng chi tiết quán tâm như tâm như vậy, đó gọi là niệm xứ quán tâm như tâm.”

(...)

 

Tăng nhất A-hàm 12.1
PHẨM NHẬP ĐẠO, KINH SỐ 1
Thích Đức Thắng dịch, Tuệ Sỹ hiệu chính & chú thích

(...)

[Quán thân]

(...)

[Quán thọ]

(...)

[Quán tâm]

“Thế nào là quán tâm nơi tâm mà tự an trú?

Ở đây, Tỳ-khưu có tâm ái dục, liền tự giác tri có tâm ái dục; không có tâm ái dục, cũng tự giác tri không có tâm ái dục.

Có tâm sân nhuế, liền tự giác tri có tâm sân nhuế; không có tâm sân nhuế, cũng tự giác tri không có tâm sân nhuế.

Có tâm ngu si, liền tự giác tri có tâm ngu si; không có tâm ngu si, cũng tự giác tri ta không không có tâm ngu si.

Có tâm ái niệm, liền tự giác tri có tâm ái niệm; không có tâm ái niệm, cũng tự giác tri không có tâm ái niệm.

Có tâm thọ nhập, thì tự giác tri có tâm thọ nhập; không tâm thọ nhập, cũng tự giác tri không tâm thọ nhập.

Có tâm loạn niệm, thì tự giác tri có tâm loạn niệm; không có tâm loạn niệm, cũng tự giác tri không có tâm loạn niệm.

Có tâm tán lạc, liền tự giác tri có tâm tán lạc; không có tâm tán lạc, cũng tự giác tri không có tâm tán lạc.

Có tâm phổ biến, liền tự giác tri có tâm phổ biến; không có tâm phổ biến, cũng tự giác tri không có tâm phổ biến.

Có tâm lớn, liền tự giác tri có tâm lớn; không có tâm lớn, cũng tự giác tri không có tâm lớn.

Có tâm vô lượng, liền tự giác tri có tâm vô lượng; không có tâm vô lượng, cũng tự giác tri không có tâm vô lượng.

Có tâm tam-muội, liền tự giác tri có tâm tam-muội; không có tâm tam-muội, cũng tự giác tri không có tâm tam-muội.

Có tâm chưa giải thoát, liền tự giác tri tâm chưa giải thoát; tâm đã giải thoát, cũng tự giác tri tâm đã giải thoát.

“Như vậy, Tỳ-khưu tu niệm xứ với sự quán sát tướng của tâm; quán tập pháp, quán diệt pháp, cùng quán pháp tập diệt; tư duy quán pháp mà tự an trú. Những gì mà có thể biết, có thể thấy, có thể tư duy, không thể tư duy, không nương tựa cái gì, không khởi lên niệm tưởng thế gian. Đã không khởi tưởng liền không sợ hãi. Đã không sợ hãi liền được vô dư. Đã được vô dư liền được Niết-bàn, như thật biết rằng: ‘Sinh đã dứt. phạm hạnh đã vững, việc phải làm đã làm xong, không còn thọ thân đời sau nữa.’

“Như vậy, Tỳ-khưu tu tập niệm, tự quán tự nội tâm, trừ bỏ loạn tưởng, không có sầu lo; tu tập niệm, tự quán ngoại tâm, quán nội ngoại tâm, trừ bỏ loạn niệm, không có sầu lo. Như vậy, Tỳ-khưu tu tập niệm xứ quán tướng của tâm nơi tâm.

(...)

[ Home ]

06-11-2016