Đàm luận Phật Pháp
- 110 -
Satipatthana (5) - Quán tâm
KINH LẬP NIỆM (MN 10) 1. Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở xứ Kuru (Câu-lâu), Kammāsadhamma (Kiềm-ma Sắt-đàm) là đô thị của xứ Kuru. Rồi Thế Tôn gọi các tỳ-khưu: – Này các tỳ-khưu. Các Tỳ-khưu vâng đáp Thế Tôn: – Bạch Thế Tôn. 2. Thế Tôn thuyết như sau: – Này các tỳ-khưu, đây là con đường nhất hướng để thanh tịnh hóa chúng sinh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh đạo, chứng ngộ Niết-bàn – đó là bốn pháp lập niệm. 3. Thế nào là bốn? Này các tỳ-khưu, tỳ-khưu sống quán thân như thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, chế ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ như các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, chế ngự tham ưu ở đời; sống quán tâm như tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, chế ngự tham ưu ở đời; sống quán pháp như các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, chế ngự tham ưu ở đời. (Quán thân) (...) (Quán thọ) (...)
(Quán tâm)
34. Này các tỳ-khưu, như thế nào là tỳ-khưu sống quán tâm như tâm?
Ở đây, tỳ-khưu với tâm có tham, biết rõ: “Tâm có tham;” hay với tâm
không tham, biết rõ: “Tâm không tham”.
Hay với tâm có sân, biết rõ: “Tâm có sân;” hay với tâm không sân,
biết rõ: “Tâm không sân”.
Hay với tâm có si, biết rõ: “Tâm có si;” hay với tâm không si, biết
rõ: “Tâm không si”.
Hay với tâm thu nhiếp, biết rõ: “Tâm được thu nhiếp”. Hay với tâm
tán loạn, biết rõ: “Tâm bị tán loạn”.
Hay với tâm quảng đại, biết rõ: “Tâm được quảng đại;” hay với tâm
không quảng đại, biết rõ: “Tâm không được quảng đại”.
Hay với tâm hữu hạn, biết rõ: “Tâm hữu hạn”. Hay với tâm vô thượng,
biết rõ: “Tâm vô thượng”.
Hay với tâm có định, biết rõ: “Tâm có định;” hay với tâm không định,
biết rõ: “Tâm không định”.
Hay với tâm giải thoát, biết rõ: “Tâm có giải thoát;” hay với tâm
không giải thoát, biết rõ: “Tâm không giải thoát”.
35. Như vậy vị ấy sống quán tâm như tâm bên trong; hay sống quán tâm
như tâm bên ngoài; hay sống quán tâm như tâm bên trong và bên ngoài.
Hay sống quán tính sinh khởi trong tâm; hay sống quán tính diệt tận
trong tâm; hay sống quán tánh sinh và diệt trong tâm. Hay nhận thức
“có tâm đây”được thiết lập nơi vị ấy với mức độ cần thiết để hiểu
biết và ghi nhớ đầy đủ. Và vị ấy không nương tựa, không chấp trước
vật gì trên đời. Này các tỳ-khưu, như vậy là tỳ-khưu sống quán tâm
như tâm. (...) (MN 10, Kinh Lập niệm/Niệm xứ) |
SATIPAṬṬHĀNA
SUTTA Thus have I heard. On one occasion the Blessed One was living in the Kuru country at a town of the Kurus named Kammāsadhamma. There he addressed the monks thus: “Monks.” “Venerable sir,” they replied. The Blessed One said this:
[DIRECT PATH]
“Monks, this is the direct path for the purification of
beings, for the sur- mounting of sorrow and lamentation, for the
disappearance of dukkha and discontent, for acquiring the true
method, for the realization of Nibbāna, namely, the four
satipaṭṭhānas.
[DEFINITION]
“What are the four? Here, monks, in regard to the body a monk
abides con- templating the body, diligent, clearly knowing, and
mindful, free from de- sires and discontent in regard to the
world. In regard to feelings he abides contemplating feelings,
diligent, clearly knowing, and mindful, free from desires and
discontent in regard to the world. In regard to the mind he
abides contemplating the mind, diligent, clearly knowing, and
mindful, free from desires and discontent in regard to the
world. In regard to dhammas he abides contemplating dhammas,
diligent, clearly knowing, and mindful, free from desires and
discontent in regard to the world.
[BREATHING]
(...)
[FEELINGS]
(...)
[MIND]
"And how, monks, does he in regard to the mind abide contemplating
the mind?
“Here he knows a lustful mind to be ‘lustful’, and a mind without
lust to be ‘without lust’;
he knows an angry mind to be ‘angry’, and a mind without anger to be
‘without anger’;
he knows a deluded mind to be ‘deluded’, and a mind without delusion
to be ‘without delusion’;
he knows a contracted mind to be ‘contracted’, and a distracted mind
to be ‘distracted’;
he knows a great mind to be ‘great’, and a narrow mind to be
‘narrow’;
he knows a surpassable mind to be ‘surpassable’, and an
unsurpassable mind to be ‘unsurpassable’;
he knows a concentrated mind to be ‘concentrated’, and an
unconcentrated mind to be ‘unconcentrated’;
he knows a liberated mind to be ‘liberated’, and an unliberated mind
to be ‘unliberated.’
[Refrain]
“In this way, in regard to the mind he abides contemplating the mind
inter- nally … externally … internally and externally. He abides
contemplating the nature of arising … of passing away … of both
arising and passing away in regard to the mind. Mindfulness that
‘there is a mind’ is established in him to the extent necessary for
bare knowledge and continuous mindful- ness. And he abides
independent, not clinging to anything in the world. That is how in
regard to the mind he abides contemplating the mind.” (...) |
Trung A-hàm 98 KINH NIỆM XỨ Tuệ sỹ dịch (...) [Quán thân] (...) [Quán thọ]
(...)
[Quán tâm]
“Thế nào gọi là niệm xứ quán tâm như tâm?
Tỳ-khưu có tâm tham dục thì biết đúng như thật có tâm tham dục, có
tâm vô dục thì biết đúng như thật là có tâm vô dục.
Khi có sân hay không sân, có si hay không si, có ô uế hay không ô
uế, có hợp hay có tan, có thấp hay có cao, có nhỏ hay có lớn; tu hay
không tu, định hay không định, giải thoát hay không giải thoát.
Cũng như vậy, có tâm giải thoát thì biết đúng như thật có tâm giải
thoát; có tâm không giải thoát thì biết đúng như thật là có tâm
không giải thoát.
Tỳ-khưu như vậy, quán tâm nơi nội tâm, quán tâm nơi ngoại tâm , dựng
niệm tại tâm, có tri, có kiến, có minh, có đạt. Như vậy là Tỳ-khưu
quán tâm như tâm. Nếu Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni từng chi tiết quán tâm như
tâm như vậy, đó gọi là niệm xứ quán tâm như tâm.” (...) |
Tăng nhất
A-hàm 12.1 (...) [Quán
thân]
(...) [Quán thọ]
(...)
[Quán tâm]
“Thế nào là quán tâm nơi tâm mà tự an trú?
Ở đây, Tỳ-khưu có tâm ái dục, liền tự giác tri có tâm ái dục; không
có tâm ái dục, cũng tự giác tri không có tâm ái dục.
Có tâm sân nhuế, liền tự giác tri có tâm sân nhuế; không có tâm sân
nhuế, cũng tự giác tri không có tâm sân nhuế.
Có tâm ngu si, liền tự giác tri có tâm ngu si; không có tâm ngu
si, cũng tự giác tri ta không không có tâm ngu si.
Có tâm ái niệm, liền tự giác tri có tâm ái niệm; không có tâm ái
niệm, cũng tự giác tri không có tâm ái niệm.
Có tâm thọ nhập, thì tự
giác tri có tâm thọ nhập; không tâm thọ nhập, cũng tự giác tri không
tâm thọ nhập.
Có tâm loạn niệm, thì tự giác tri có tâm loạn niệm; không có tâm loạn
niệm, cũng tự giác tri không có tâm loạn niệm.
Có tâm tán lạc, liền tự giác tri có tâm tán lạc; không có tâm tán
lạc, cũng tự giác tri không có tâm tán lạc.
Có tâm phổ biến, liền tự giác tri có tâm phổ biến; không có tâm phổ
biến, cũng tự giác tri không có tâm phổ biến.
Có tâm lớn, liền tự giác tri có tâm lớn; không có tâm lớn, cũng tự
giác tri không có tâm lớn.
Có tâm vô lượng, liền tự giác tri có tâm vô lượng; không có tâm vô
lượng, cũng tự giác tri không có tâm vô lượng.
Có tâm tam-muội, liền tự giác tri có tâm tam-muội; không có tâm
tam-muội, cũng tự giác tri không có tâm tam-muội.
Có tâm chưa giải thoát, liền tự giác tri tâm chưa giải thoát; tâm đã
giải thoát, cũng tự giác tri tâm đã giải thoát.
“Như vậy, Tỳ-khưu tu niệm xứ với sự quán sát tướng của tâm; quán tập
pháp, quán diệt pháp, cùng quán pháp tập diệt; tư duy quán pháp mà
tự an trú. Những gì mà có thể biết, có thể thấy, có thể tư duy,
không thể tư duy, không nương tựa cái gì, không khởi lên niệm tưởng
thế gian. Đã không khởi tưởng liền không sợ hãi. Đã không sợ hãi
liền được vô dư. Đã được vô dư liền được Niết-bàn, như thật biết
rằng: ‘Sinh đã dứt. phạm hạnh đã vững, việc phải làm đã làm xong,
không còn thọ thân đời sau nữa.’
“Như vậy, Tỳ-khưu tu tập niệm, tự quán tự nội tâm, trừ bỏ loạn
tưởng, không có sầu lo; tu tập niệm, tự quán ngoại tâm, quán nội
ngoại tâm, trừ bỏ loạn niệm, không có sầu lo. Như vậy, Tỳ-khưu tu
tập niệm xứ quán tướng của tâm nơi tâm. (...) |
[ Home ]
06-11-2016