VŨ TRỤ QUAN PHẬT GIÁO
Tăng Chi Bộ
IV.77
Không Thể Nghĩ Ðược
– Có bốn điều này không thể
nghĩ đến được, này các Tỳ-khưu, nếu nghĩ đến, thời người
suy nghĩ có thể đi đến cuồng loạn và thống khổ. Thế nào
là bốn?
1- Phật giới của các đức
Phật, này các Tỳ-khưu, không thể nghĩ đến được, nếu nghĩ
đến, thời người suy nghĩ có thể đi đến cuồng loạn và
thống khổ.
2- Thiền giới của người khi
nhập Thiền, này các Tỳ-khưu, không thể nghĩ đến được,
nếu nghĩ đến, thời người suy nghĩ có thể đi đến cuồng
loạn và thống khổ.
3- Quả dị thục của nghiệp,
này các Tỳ-khưu, không thể nghĩ đến được, nếu nghĩ đến,
thời người suy nghĩ có thể đi đến cuồng loạn và thống
khổ.
4- Tâm tư thế giới, này các
Tỳ-khưu, không thể nghĩ đến được, nếu nghĩ đến, thời
người suy nghĩ có thể đi đến cuồng loạn và thống khổ.
Có bốn điều này không thể
nghĩ đến được, này các Tỳ-khưu, nếu nghĩ đến, thời có
thể đi đến cuồng loạn và thống khổ. |
Anguttara
Nikaya IV.77
Acintita Sutta (Unconjecturable)
"There are these four
unconjecturables that are not to be conjectured about,
that would bring madness & vexation to anyone who
conjectured about them. Which four?
1. "The Buddha-range of the
Buddhas [ie. the range of powers a Buddha develops as a
result of becoming a Buddha] is an unconjecturable that
is not to be conjectured about, that would bring madness
& vexation to anyone who conjectured about it.
2. "The jhana-range of a
person in jhana [ie. the range of powers that one may
obtain while absorbed in jhana] is an unconjecturable
that is not to be conjectured about, that would bring
madness & vexation to anyone who conjectured about it.
3. "The [precise working out
of the] results of kamma is an unconjecturable that is
not to be conjectured about, that would bring madness &
vexation to anyone who conjectured about it.
4. "Conjecture about [the
origin, etc., of] the world is an unconjecturable that
is not to be conjectured about, that would bring madness
& vexation to anyone who conjectured about it.
"These are the four
unconjecturables that are not to be conjectured about,
that would bring madness & vexation to anyone who
conjectured about them." |
(Hòa
thượng Thích Minh Châu dịch Việt) |
(English
translation by Bhikkhu Thanissaro) |
· conjecture: ước đoán, phỏng đoán
· A IV 77 Acinteyyasutta, bốn điều bất khả
tư nghị (acinteyyāni): 1. cảnh giới Phật của chư
Phật (buddhānaṃ buddhavisayo), 2. cảnh giới thiền
của những người tu thiền (jhāyissa jhānavisayo),
3. dị thục của nghiệp (kammavipāko), 4. tư duy về
thế giới (lokacintā) (– TT Tuệ Sỹ) |
Bốn điều bất khả tư nghì (Acinteyya),
bốn điều không thể suy nghĩ đối với kẻ phàm phu:
1. Phật vức (Buddhavisayo), cảnh giới trí tuệ
của Đức Phật, lãnh vực nhất thiết chủng trí của Đức Phật. Đây là
điều bất khả tư nghì đối với phàm phu.
2. Thiền vức (Jhānavisayo), năng lực thiền
định thần thông. Đây là điều bất khả tư nghì đối với phàm phu.
3. Nghiệp quả (Kammavipāko), quả dị thục của
nghiệp dị thời. Đây là điều bất khả tư nghì đối với phàm phu.
4. Vũ trụ quan hay thế giới tư duy
(Lokacintā), các hiện tượng về vũ trụ như tinh tú, mặt trăng, mặt
trời... tại sao có? Đây là điều bất khả tư nghì đối với phàm phu.
Bốn điều này, khả năng tư duy của phàm phu
không thể hiểu thấu đáo, nếu cố gắng suy nghĩ sẽ sanh ra loạn trí. –
(Kho tàng Pháp học, Tk Giác Giới)
LIỆT KÊ CÁC CÕI TRONG KINH TẠNG:
Tăng chi (4.123):
Tỳ khưu an trú Thiền thứ nhất, sống an trú với
Thiền ấy, không có thối đọa; khi thân hoại mạng chung, được sanh
cộng trú với chư Thiên ở Phạm chúng thiên.
Tỳ khưu an trú Thiền thứ hai, sống an trú với
Thiền ấy, không có thối đọa; khi thân hoại mạng chung, được sanh
cộng trú với chư Thiên ở Quang âm thiên.
Tỳ khưu an trú Thiền thứ ba, sống an trú với
Thiền ấy, không có thối đọa; khi thân hoại mạng chung, được sanh
cộng trú với chư Thiên ở Quảng quả thiên.
Tỳ khưu an trú Thiền thứ tư, sống an trú với
Thiền ấy, không có thối đọa; khi thân hoại mạng chung, được sanh
cộng trú với chư Thiên ở Biến tịnh thiên.
Trung bộ, 41 (Kinh Saleyyaka):
1) … Nếu một vị hành phi pháp, phi chánh đạo
(… thập bất thiện nghiệp), … vị ấy sau khi thân hoại mạng chung,
được sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
2) … Nếu một vị hành đúng pháp, đúng chánh đạo
(… thập thiện nghiệp), … vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, được
sanh vào thiện thú, thiên giới:
… đại phú gia gia chủ, vương tộc Sát-đế-lị,
hàng Bà-la-môn
… chư thiên Tứ thiên vương... chư thiên cõi
trời Ba mươi ba... chư thiên Dạ ma... chư thiên Ðâu-suất-đà...
chư thiên Hóa lạc... chư thiên Tha hóa tự tại,.
… chư thiên Phạm chúng... chư thiên Quang
thiên... chư thiên Thiểu Quang thiên... chư thiên Vô lượng quang
thiên... chư thiên Quang âm thiên... chư thiên Tịnh thiên... chư
thiên Thiểu tịnh thiên... chư thiên Vô lượng tịnh thiên... chư
thiên Biến tịnh thiên... chư thiên Quảng quả thiên... chư thiên Vô
phiền thiên... chư thiên Vô nhiệt thiên... chư thiên Thiện hiện
thiên... chư thiên Thiện kiến thiên... chư thiên Sắc cứu kính
thiên,
... chư thiên Hư không vô biên xứ thiên...
chư thiên Thức Vô biên xứ thiên... chư thiên Vô sở hữu xứ thiên...
chư thiên Phi tưởng Phi phi tưởng xứ thiên.
*
CÁC CÕI GIỚI
Tóm tắt về vũ trụ quan và thế giới quan thường
gặp trong kinh điển và luận giải Phật giáo. Đây là quan điểm của
người thời xưa – 2,500 năm trước, chung cho các đạo giáo, không nhất
thiết chỉ có trong Phật giáo.
BUDDHIST COSMOLOGY - VŨ TRỤ QUAN PHẬT GIÁO
A. VÔ SẮC GIỚI (Formless World, Arūpa Loka)
31. Phi tưởng, phi phi tưởng thiên (Devas of Sphere of
Neither-perception nor non-perception; Nevasaññā-nasaññā-yatanūpagā
devā) 30. Vô sở hữu thiên (Devas of Sphere of No-thingness;
Ākiñcañña-yatanūpagā devā) 29. Thức vô biên thiên (Devas of Sphere of Infinite Concsiousness;
Viññānañca-yatanūpagā devā) 28. Không vô biên thiên (Devas of Sphere of Infinite Space;
Ākāsānañca-yatanūpā devā)
B. SẮC GIỚI (World of Form, Rūpa Loka)
B4. Tứ thiền
27. Vô song thiên (Peerless devas; Akanitthā
devā) 26. Thiện kiến thiên (Clear-sighted devas; Sudassī devā)
25. Thiện hiện thiên (Beautiful or Clearly Visible devas); Sudassā
devā) 24. Vô phiền thiên (Untroubled devas; Atappā devā) 23. Vô đọa thiên (Devas not Falling Away; Avihā devā)
22. Vô tưởng thiên (Unconscious beings; Asaññā sattā) 21. Quảng quả thiên (Very Fruitful devas; Vehapphalā devā)
B3. Tam thiền
20. Biến tịnh thiên (Devas of Refulgent Glory;
Subhakinnā devā) 19. Vô lượng tịnh thiên (Devas of Unbounded Glory; Appamānasubhā
devā) 18. Thiểu tịnh thiên (Devas of Limited Glory; Parittasubhā devā)
B2. Nhị thiền
17. Quang minh thiên (Devas of Streaming
Radiance; Ābhassarā devā) 16. Vô lượng quang thiên (Devas of Unbounded Radiance; Appamānabhā
devā) 15. Thiểu quang thiên (Devas of Limited Radiance; Parittabhā devā)
B1. Sơ thiền
14. Ðại phạm thiên (Great Brahmas; Mahā
Brahmā) 13. Phạm phụ thiên (Ministers of Brahmas; Brahma-Purohitā devā)
12. Phạm chúng thiên (Retinue of Brahma; Brahma-Parisajjā devā)
C. DỤC GIỚI (World of Sense-Desires, Kama Loka)
11. Tha hóa tự tại thiên (Devas Wielding Power over Others'
Creations; Paranimmita-vasavattī devā) 10. Hóa lạc thiên (Devas Delighting in Creation; Nimmānaratī devā)
09. Ðâu-suất thiên (Contented devas; Tusitā devā) 08. Dạ-ma thiên (Yama devas; Yāmā devā)
07. Ðao-lợi thiên (The Thirty-Three Gods; Tāvatimsa devā)
06. Tứ thiên vương thiên (Devas of the Four Great Kings;
Catumahārājikā devā)
05. Loài người (Human beings; Manussā)
04. Loài a-tu-la (Titans; Asurā)
03. Loài ngạ quỷ (Hungry ghosts; Petā) 02. Loài thú vật (Animals; Tiracchānā)
01. Loài đọa địa ngục (Hells; Nirayā)
*
Mặt đất: Hình đĩa tròn, vành ngoài là 1
vòng đai rặng núi sắt, chứa đại dương. Ở chính giữa là núi Tu-di
(Sineru, Meru). Có 4 đại lục (châu) ở 4 hướng:
- Đông: Phất-vu-đãi (Pubbavideha), Đông thắng
thần châu. Hình bán nguyệt.
- Tây: Câu-đa-ni (Godaniya), Tây ngưu xa châu. Hình tròn.
- Nam: Diêm-phù-đề (Jampudipa), còn gọi là Nam thiện bộ châu, nơi
chúng ta trú ngụ. Hình tam giác ngược, giống như hình bán đảo Ấn Độ.
- Bắc: Uất-đan-viết (Uttarakuru), Bắc câu lưu châu. Hình vuông.
Đĩa mặt đất này có 4 lớp: trên cùng là
lớp đất xốp mà chúng ta đang ở. Bên dưới là 1 lớp đất cứng, cứng như
vàng. Kế đến là 1 lớp chất lỏng, gọi là lớp nước. Dưới cùng là 1 lớp
không khí có những cơn gió vận chuyển. Toàn bộ đĩa mặt đất nầy lơ
lững trong chân không.
Núi Tu-di: Trên đỉnh núi là cõi trời
Đao-lợi (Tavatimsa) – hay Tam thập tam (33). Thiên chủ là Đế-thích
(Sakka).
Ở triền núi Tu-di là cõi trời Tứ đại thiên vương (Catummaharajika),
kể cả các loài Cưu-bàn-trà (Kumbhanda) hay La-sát (Rakkhasa),
Càn-thác-bà (Gandhabba), Rồng hay Rắn thần (Naga), Dạ-xoa (Yakkha),
Kim xí điểu (Garuda, Đại bàng), Nhân điểu (Kinnara).
Có sách liệt kê La-sát, Càn-thác-bà, Rồng và
Dạ-xoa là "á thần, á thiên" - chư thiên loại thấp, trong cõi Tứ đại
thiên vương, do 4 thiên vương cai quản:
1) Thiên vương Dhatarattha, Trì Quốc Thiên –
cửa Đông, cai quản loài Càn-thác-bà,
2) Thiên vương Virulhaka, Tăng Trưởng Thiên – cửa
Nam, cai quản loài La-sát,
3) Thiên vương Virupakkha, Quảng Mộc Thiên – cửa
Tây, cai quản loài Rồng,
4) Thiên vương Kuvera, Đa Văn Thiên – cửa
Bắc, cai quản loài Dạ-xoa.
Ở chân núi, các hang hố sâu, là nơi của loài
A-tu-la (asura). Có sách phân biệt 2 loại: Atula thiên & Atula quỷ
(địa ngục).
Mặt trăng – trú xứ của thiên tử Candima, và mặt trời – trú xứ
của thiên tử Suriya – quay quanh núi Tu-di, được xem như thuộc về
cõi trời Tứ đại thiên vương.
Loài người, thú vật, ngạ quỷ ở lẫn lộn, chung
với nhau. Ngoài ra, cũng có các địa cư thiên (địa tiên) và các chúng
sinh khác thuộc quyền cai quản của Tứ đại thiên vương.
Toàn thể hệ thống mặt đất nêu trên gọi là 1
Thế giới (world-system, sāhasra). Một ngàn thế giới như thế tạo
thành 1 Tiểu thiên thế giới (sāhasra-cūḍika-lokadhātu). Một ngàn
tiểu thiên thế giới như thế tạo thành 1 Trung thiên thế giới
(dvisāhasra-madhyama-lokadhātu). Một ngàn trung thiên thế giới như
thế tạo thành 1 Đại thiên thế giới
(trisāhasra-mahāsāhasra-lokadhātu).
Mặt đất là nơi cư trú của loài thú, ngạ quỷ,
a-tu-la, loài người, chư thiên dục giới (Tứ thiên vương, Đao-lợi). Bên dưới mặt đất là địa ngục: ngục nóng (hỏa
ngục) và ngục lạnh (hàn ngục). Bên trên mặt đất là các tầng trời, từ cõi 08
đến cõi 31:
a) 08-11: Dục giới b) 12-27: Sắc giới
c) 28-31: Vô sắc giới
Tịnh cư thiên (Pure abodes, Sudavasa):
5 cõi trời cao nhất của cõi Vô sắc, số 23-27, là trú xứ của các vị
Bất lai (A-na-hàm, Anagami).
Brahmā: Phạm thiên
Vài vị Phạm thiên thường gặp trong kinh điển:
Sahampati: thường thân cận với Đức Phật, thỉnh cầu
Ngài hoằng pháp sau khi Ngài thành đạo, và cũng hiện diện khi Ngài
nhập diệt. Trong Tương ưng bộ có ghi các lời đối thoại của Phạm
thiên Sahampati.
Baka: kinh Bakabrahma sutta (SN VI.04), và
Brahmanimantanika sutta (MN 49)
Brahmayu: Brahmayu sutta (MN 91)
Sanankumāra: kinh Xa-ni-sa - Janavasabha sutta (DN.18)
Mahābrahmā – Đại phạm thiên: kinh Phạm Võng -
Brahmajāla sutta (DN.1)
Xem Chương VI, Tương ưng Phạm thiên (SN VI).
*
Tham khảo:
1. Vi diệu pháp Toát yếu,
http://www.buddhanet.net/budsas/uni/u-vdp-ty/vdpty00.htm
2. Thắng pháp tập yếu luận,
http://www.buddhanet.net/budsas/uni/u-vdp-mc/vdpmc00.htm
THẾ GIỚI
Toàn thể hệ thống lục đạo luân hồi gọi là 1
Thế giới (world-system, lokadhātu). Một ngàn thế giới như thế tạo
thành 1 Tiểu thiên thế giới (sāhasra-cūḍika-lokadhātu). Một ngàn
tiểu thiên thế giới như thế tạo thành 1 Trung thiên thế giới
(dvisāhasra-madhyama-lokadhātu). Một ngàn trung thiên thế giới như
thế tạo thành 1 Đại thiên thế giới
(trisāhasra-mahāsāhasra-lokadhātu).
1 Tiểu thiên thế giới = 10**3 Thế giới
1 Trung thiên thế giới = 10**6 Thế giới
1 Đại thiên thế giới = 10**9 Thế giới
VÀI CON SỐ KÍCH THƯỚC VŨ TRỤ THEO KIẾN THỨC
NGÀY NAY:
• Tốc độ ánh sáng (Light speed): 300,000
km/sec (299,792,458 m/sec)
• Quang niên, qn (Light-year, ly): Khoảng cách
ánh sáng truyền đi trong 1 năm
• 1 qn = 1012 km (10 ngàn tỷ km –
9,460,730,472,580 km)
Khoảng cách:
• Trái đất (Earth) – Mặt trời (Sun): 150 x 106
km (8 min 19 sec)
• Mặt trời – Sao gần nhất (Proxima Centauri):
4.22 qn
• Dãy Ngân hà (Milky Way): 200-400 tỷ ngôi
sao, đường kính 100,000 qn, dày 1,000 qn, khoảng cách từ trung tâm
dãy ngân hà đến mặt trời: 26,000 qn
• Khoảng cách có thể đo được từ mặt trời đến
viền ranh vũ trụ (universe): 46.5 x 109 qn
• Vũ trụ có thể quan sát được & đo được: hình
ống, đường kính 92 x 109 qn, chiều dài vô tận, số tuổi: 13.7 x
109 năm sau Big Bang (~ 1 thiên kiếp theo PG)
Hệ thống đo lường thời Ấn Độ cỗ xưa (tùy
theo nguồn kinh thư, không thống nhất):
· Yojana: do-tuần, 6-15 km (4-9 miles)
· Hasta (hắc-ta): 45 cm; Angula: lóng tay, 1.2 cm (1 hasta = 24
angula)
· Thiên niên
(celestial year) = 18,000 năm (1 ngày trời,
thiên nhật = 50 năm nhân thế)
· Kiếp, thường kiếp
(kappa / kalpa, kiếp-ba): 16 triệu
năm – Thiên kiếp: 1,000 thường kiếp = 16 tỷ năm.
· Vô lượng kiếp
(asankheyya-kappa, a-tăng-kỳ) = 20 thiên
kiếp = 320 tỷ năm
· Đại kiếp
(maha-kappa, đại a-tăng-kỳ) = 4 vô lượng kiếp
= 1,280 tỷ năm
Nếu có một cái
thùng bề cao một do tuần (yojana), bề ngang một do tuần, và
bề dài một do tuần, đựng đầy hạt cải. Mỗi một trăm năm lấy ra một
hạt. Thời gian một mahā-kappa dài hơn là thời gian mà người
ta ra hết các hạt cải trong thùng (HT Narada, Thắng pháp tập
yếu).
*
TẤT CẢ ĐỀU Ở NGAY NƠI THÂN NẦY
“Này Thiên tử Rohitassa, không có thể đi đến
để thấy, để biết, để đạt đến chỗ tận cùng của thế giới mà nơi đó
không có sinh, không có già, không có chết, không có suy diệt, không
có tái hiện. Nhưng này hiền giả, trong tấm thân một sải này, với suy
tưởng và hiểu biết của nó, Ta tuyên bố đây là thế giới, đây là tập
khởi thế giới, đây là đoạn diệt thế giới, đây là con đường tu tập để
đưa đến đoạn diệt thế giới”. – (Tăng chi 4.45, Tương ưng 2.26)
--ooOoo--
|