This article is written in Vietnamese, using Unicode Times font

"Cáo Tật Thị Chúng" Và Ẩn Ngữ Của Nền Văn Hóa Phương Ðông

(Từ thực tại biểu kiến đến thực tại tiềm ẩn)

Nguyễn Chí Trung


Trong mối tương quan giữa văn học và văn hóa, văn học thường được xem là một bộ phận có giá trị đặc thù trong tổng thể chung của văn hóa một dân tộc. Văn học không bao giờ có thể tách rời ra khỏi cái môi trường văn hóa mà trong đó nó được nuôi dưỡng, tồn tại và phát triển. Tất nhiên không phải bất cứ một tác phẩm văn học cụ thể nào cũng đều có khả năng phản ánh những nét đặc trưng cơ bản nhất của một nền văn hóa, nhưng cũng không phải không có những tác phẩm văn học, dù rất hạn chế trong hình thức biểu hiện, lại có khả năng chuyên chở được cả một nội dung văn hóa hết sức rộng lớn, có thể đại diện cho cả một khuynh hướng tư tưởng. Một giọt sương long lanh trên cành hoa chỉ là một giọt sương bé nhỏ nhưng lại có khả năng phản chiếu cả một bầu trời rộng lớn lấp lánh muôn vàn các vì sao ...

Trong kho tàng văn học Lý-Trần hết sức quí báu của dân tộc, bài kệ "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác Thiền sư chính là giọt sương ấy, một giọt sương long lanh đầy chất thơ, chất thiền mà mãi cho đến tận ngày nay vẫn còn ánh lên những nét đẹp của tư tưởng và ngôn từ ... (1)

Từ thực tại biểu kiến ...

Bài kệ bắt đầu bằng một hình ảnh thông thường của mùa Xuân mà bất cứ ai cũng đều có thể cảm nhận bằng đôi mắt trần của mình:

Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai

"Xuân đi trăm hoa rụng, Xuân đến trăm hoa nở " đó chính là một thực tại tự nhiên của trời đất, một thứ "chân lý hiển nhiên" của vũ trụ vạn vật. Tất cả đều vận hành theo cùng một qui luật muôn thuở như thế: hết đêm đến ngày, hết mùa Ðông đến mùa Xuân, trăng khuyết lại tròn ... là một sãn phẩm của tự nhiên, cho dù có được tôn xưng là "chúa tể của muôn loài", con người cũng phải chịu sự chi phối của qui luật này. Và bằng chứng sinh động nhất cho điều này chính là xác thân của tác giả đang sắp chuyển hóa qua bên kia thế giới sau một thời gian dài sinh sinh biến biến.

Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai

(Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi)

Mọi sự đều là vô thường, tất cả đều là biến dịch (2), như Khổng Tử, khi đứng trên bờ sông, đã từng thốt lên cách đây hơn hai nghìn năm: "Thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ" (Cứ chảy mãi như thế này ư, ngày đêm không ngừng -- Luận ngữ). Chỉ với bốn câu thơ ngắn ngủi và tám động từ được dùng ở thế đối lập (khứ/đáo, lạc/kha) và liên tục (trục/quá, tòng/lai), cả một bức tranh thời gian rộng lớn đã được vẽ lại chỉ trong một vài nét chấm phá đầy sinh động, gợi hình. Ðây cũng là một đặc trưng quan trọng của nền mỹ học phương Ðông thường chú trọng đến tính biểu trưng và hàm súc của sự vật. Sự vận động của bốn câu thơ đầu cũng chính là sự vận động của thời gian và không gian, và đó chính là thực tại biểu kiến, đối tượng nhận thức của tư duy nhị nguyên (dualiste). Với tư duy nhị nguyên này, thực tại thường được nhận thức thông qua các cặp phạm trù đối lập: trắng là trắng, đen là đen ...

... Ðến thực tại tiềm ẩn:

Nếu bài thơ "Cáo tật thị chúng" chỉ nói lên một sự thật biểu kiến có tính chất hiển nhiên như vậy thì có lẽ giá trị của nó cũng không lớn lắm. Ðỉnh cao giá trị của bài thơ nằm ở hai câu thất ngôn cuối:

Mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận
Ðình tiền tạc dạ nhất chi mai
(Chớ bảo Xuân tàn hoa rụng hết
Ðêm qua sân trước một cành mai)

Sự xuất hiện bốn câu đầu được diễn tả bằng ngôn ngữ khách quan chính là để chuẩn bị cho hai câu cuối cùng mở ra một chân trời tư tưởng rộng lớn, bát ngát! Ở đây, hai từ "mạc vị" (chớ bảo) đóng vai trò của chiếc bản lề tạo ra một sự chuyển hóa tuy có vẻ đột ngột nhưng lại phù hợp với tâm thức của người đã "nhập đạo". Vâng, một khi thấy mùa Xuân đã tàn thì người đời rất dễ ngậm ngùi than rằng hoa sẽ rụng hết, và một khi sinh lực của con người đã cạn thì chắc chắn cái chết sẽ xảy ra và chấm dứt tất cả. Nhưng Sư đã đột ngột chỉ cho chúng ta thấy một cành mai đang rung rinh nở trong sương sớm ... và nếu chúng ta hiểu được Sư thì chúng ta sẽ không còn nhìn thực tại với đôi mắt nhị nguyên như trước nữa. Sư không nói nhiều lời. Sư chỉ cho chúng ta thấy một cành mai đang nở ngoài sân, và nếu chúng ta hiểu được, chúng ta sẽ mỉm cười như ngày xưa Ma Ha Ca Diếp đã mỉm cười khi Phật không nói mà chỉ đưa một cành hoa lên trước một cử tọa bao gồm 1250 vị Tỳ kheo. (3)

Với hai câu cuối này, dường như chúng ta đang trải qua kinh nghiệm bất nhị của Phật giáo và nhìn thấy thực tại như là một sự toàn vẹn không gián đoạn trong dòng biến dịch sinh sinh hóa hóa không ngừng. Vì tâm của Sư đã nhập đạo rồi nên những gì được Sư thấy bằng trực giác nguyên sơ và toàn vẹn của mình chính là dòng biến dịch ấy, cái toàn thể liên tục không gián đoạn ấy. Nói theo ngôn ngữ ngày nay, thế giới mà Sư đã trực giác được trong giây phút lâm chung chính là thế giới "phi phạm trù" là một thực tại tiềm ẩn chi phối và làm nền tảng cho tất cả sự vận động của các thực tại hữu hình khác. Và những gì mà trong vô minh chúng ta gọi là "sống" và cũng trong vô minh chúng ta gọi là "chết" chỉ là những khoảnh khắc, những phương tiện khác nhau của cùng một thực tại toàn vẹn ấy. Ở đây, không thể vạch ra một đường ranh giới thật rạch ròi, dứt khoát giữa cái sống và cái chết. Cái chết, xét theo con mắt của nhà Ðạo, không phải là một sự chấm dứt vĩnh viễn cuộc sống như nhiều người lầm tưởng, mà cái chết chính là một phần của cuộc sống, một Cuộc-Sống-Miên-Viễn trường tồn và bất diệt. Với một quan niệm như thế về Sống Chết, sự ra đi của nhà-thơ-thiền-sư thật nhẹ nhàng biết bao, thanh thản biết bao! Nhẹ nhàng và thanh thản như một cành mai vô tư nở trước sân. Cái "năng lực hỷ lạc" này chỉ có thể tìm thấy ở những người thấu hiểu được thực chất, tự tánh và bản chất tâm linh của cái chết. Tiếc thay, một tri kiến đơn giản mà thiêng liêng như thế ngày nay không còn được hiểu một cách đúng đắn hoặc chỉ được hiểu theo một ý nghĩa khác, tuy không phải là sai nhưng chỉ mới dừng lại ở bề mặt của thực tại, hiện tượng chứ không đạt tới cái nền tảng sâu thẳm nhất của nó.

Có một điều mà ít ai để ý nhưng lại quan trọng đối với tư tưởng của bài thơ. Ðó là sự "giấu mặt" của động từ trong câu thơ cuối cùng. "Ðình tiền tạc dạ nhất chi mai" (So sánh với sự xuất hiện hàng loạt các động từ trong các câu thơ trên), hay nói cách khác, trong câu cuối này tác giả không sử dụng động từ hoặc chúng ta có thể hiểu ngầm động từ ở đây là một thứ động từ "ẩn" chi phối ngầm tiến trình vận động của sự vật. Phải chăng giải mã được "ẩn ngữ" này thì chúng ta mới có khả năng tiếp cận được những gì là tinh hoa nhất trong truyền thống văn hóa tư tưởng của phương Ðông? Tất nhiên hoàn toàn dễ dàng (và cũng hợp lý) giải thích sự vắng mặt của động từ ở đây bằng chính cấu trúc của câu thơ thất ngôn không cho phép dùng thêm một từ nào khác ngoài bảy chữ đã được qui định. Nhưng, với một phương pháp tiếp cận có tính chất biểu trưng và xuất phát từ chính nội dung tư tưởng của bài thơ, có thể xem cái "nốt lặng" của bài thơ này cũng là một biểu đạt tế nhị nội dung thâm trầm và siêu thoát của bài thơ. Cách biểu đạt đó cũng mang đậm màu sắc của mỹ học phương Ðông, một nền mỹ học chủ trương "thư bất tận ngôn, ngôn bất tận ý" và ý không chỉ nằm trong lời mà còn nằm ở ngoài lời, ở bên kia các phương tiện và hình thức biểu đạt.

Chỉ với một câu thơ ngắn ngủi gồm 7 chữ, cả không gian (đình tiền), thời gian (lạc dạ) va sự vật (nhất chi mai) dường như cùng thống nhất lại thành một trong tâm thức liễu đạo của nhà thơ, một sự thống nhất chỉ có thể tìm thấy trong thế giới của thực tại tiềm ẩn. Ở đây, tư duy luận phân tích phải nhường chỗ cho tư duy trực giác tổng hợp, và với hình thái tư duy đầy những cảm xúc nguyên sơ này, một thực tại vốn đã từng bị chia cắt, phân ly thành nhiều mảnh vụn sẽ được khôi phục lại trong tính toàn vẹn và chân như của nó. Cái đẹp của bài thơ là cái đẹp của sự thống nhất ba phạm trù Chân, Thiện và Mỹ trong cùng một Thực Tại Tối Cao.

Rung rinh một cành mai (thay lời kết)

"Cáo Tật Thị Chúng" của Mã Giác Thiền sư thực là một tuyên ngôn triết học mang đầy tính chất đặc trưng của nền văn hóa của phương Ðông nói chung và văn hóa Việt Nam nói riêng, đặc biệt là văn hóa thời Lý-Trần. Nhưng đây không phải là một thứ tuyên ngôn triết học được xây dựng bằng những hệ thống khái niệm trừu tượng, con đẻ của tinh thần phân tích lý trí như thường thấy trong các hệ thống triết học của phương Tây. Trái lại, đây là một văn bản triết học được sáng tạo bằng trực giác thẩm mỹ qua những hình tượng và ngôn ngữ nghệ thuật đầy chất thơ, chất thiền. Cái đẹp của bài kệ cũng là cái đẹp của sự thống nhất ba phạm trù Chân, Thiện, Mỹ trong cùng một Thực Tại Tối Cao, cũng như của sự cảm thông, hòa hợp giữa khách thể với chủ thể ...

Ðẹp thay, một cành mai của sự giải thoát và thực chứng. Và mãi cho đến tận ngày nay, khi sự tôn sùng lý trí khoa học được đẩy lên đến tột đỉnh, cành mai Mãn Giác ấy vẫn rung rinh bừng nở trước sân như một biểu tượng bất diệt của cái đẹp Uyên Nguyên toát ra từ sự thực chứng sâu sắc về bản chất của thế giới thực tại. Và đó cũng là một trong những cành mai đẹp nhất của khu vườn văn học phương Ðông.

Mai ở trong tâm hồn tôi hay ở ngoài trời?

Tất cả chỉ là Một.

oOo

Chú thích:

  1. Về mặt phương pháp, không thể lấy những khái niệm, phạm trù của nhận thức luận phương Tây làm tiêu chuẩn duy nhất để tiếp cận, nhận thức và đánh giá văn học phương Ðông, đặc biệt đối với bộ phận văn học tâm linh chiếm một vị trí rất quan trọng trong nền văn học cổ của Ấn Ðộ, Nhật Bản, Trung Quốc và Việt Nam. Sự đặc thù trong thi pháp cũng như trong nội dung tư tưởng của văn học phương Ðông đòi hỏi phải có cách nghiên cứu và nhận thức riêng, phù hợp với những đặc trưng đó.
  2. Kinh dịch: "Sinh sinh chi vị dịch", "Lý sương kiến băng chi" ...
  3. Không nên hiểu một cách đơn giản cái "thấy" ở đây như một hoạt động của thị giác. Ðiều quan trọng là phải thấy bằng chính cái Tâm của mình, đó chính là cái thấy "trực chỉ chân tâm, kiến tánh thành Phật".
  4. Ðể hiểu thế nào là "thực tại tiềm ẩn", có thể tham khảo thêm ý kiến của David Bohm, một trong những nhà vật lý có uy tín nhất hiện nay. Theo David Bohm, vũ trụ được biểu hiện qua ba phương diện liên kết với nhau: vật chất, năng lượng và ý nghĩa; và mỗi một phương diện này đều hàm chứa hai phương diện kia. Cái trật tự năng động, nhiều chiều mà Bohm thấy đang vận hành trong vũ trụ cốt yếu gồm ba khía cạnh: khía cạnh thứ nhất là thế giới vật thể thời - không với không gian ba chiều mà ông gọi là trật tự mở (hay trật tự rõ rệt). Khía cạnh thứ hai là trật tự hàm ẩn hay kín, là "một nền tảng ngoài thời gian" có khả năng bao quát tất cả kinh nghiệm của chúng ta. Tương quan giữa hai loại trật tự này là một tiến trình liên tục trong đó cái gì mở ra trong trật tự rõ rệt lại được khép vào trong trật tự hàm ẩn. Và cái nguồn gốc tổ chức nên tiến trình này thành ra những cơ cấu thiên hình vạn trạng chính là trật tự siêu ẩn, một chiều không gian tinh vi hơn và có tiềm năng vô hạn ... (Xem: "Tạng Thư Sống Chết" của Sogyal Rinpoche, Ni sư Trí Hải dịch, 1995). Mặc dù lý thuyết của David Bohm vẫn còn đang được tranh luận nhưng nó đã tạo được nhiều sự ủng hộ của các nhà nghiên cứu thuộc các lãnh vực khác nhau: vật lý, toán học, tâm lý học, sinh vật học và cả trong lãnh vực triết học nghệ thuật.

(NSGN, 12-96)


Sincere thanks to anh Nguyen Quang Trung for kindly retyping this article.