BuddhaSasana Home Page

Vietnamese, with Unicode Times font


Trích giảng Tiểu Bộ Kinh

Nguyên Tâm Trần Phương Lan


Tiểu Bộ Kinh - Chuyện Tiền Thân

Chuyện Đại Thọ Bồ Đề và Thánh đế Kàlinga
(Tiền thân Kàlinga - Bodhi)


Chuyện này Bậc Đạo Sư kể trong khi trú tại Kỳ Viên, về việc Tôn giả Ananda cử hành lễ cúng dường cây Bồ đề.

Trong lúc Đức Như Lai đi du hành vì mục đích thâu nhận những người đủ cơ duyên để thọ giới, dân chúng thành Xá Vệ tiến đến Kỳ Viên, tay cầm đầy vòng hoa thơm ngát, thấy không có nơi nào khác để tỏ lòng ngưỡng mộ sùng kính, bền đặt hoa bên cổng vào Hương phòng (1) của Đức Phật rồi ra đi. Việc này đã gây được niềm hoan hỷ rất lớn. Song trưởng giả Cấp Cô Độc nghe được chuyện ấy; khi Đức Như Lai trở về, trưởng giả bèn đến thăm Tôn giả Ànanda và nói với ngài: "Thưa Tôn giả, tinh xá này không được cúng dường trong lúc Đức Như Lai đi du hóa, và không có nơi nào cho dân chúng dâng hoa thơm để tỏ lòng sùng bái. Xin Tôn giả từ bi thưa với Đức Như Lai về vấn đề này để Ngài cho biết xem có thể tìm được nơi nào dùng vào mục đích này chăng?". Vị Tôn giả kia sẵn sàng làm theo, liền thưa Đức Phật: "Bạch Thế Tôn, có bao nhiêu loại Bảo tháp?".

- Này Ànanda, có ba loại.

- Bạch Thế Tôn, đó là các loại nào?

- Bảo tháp thờ kim thân, Bảo tháp thờ các vật thường dùng hay mang trên người và Bảo tháp thờ các kỷ vật khác (2).

- Trong lúc Thế Tôn còn tại thế, có thể xây một Bảo tháp được chăng?

- Không được, này Ànanda, không thể xây một Bảo tháp thờ kim thân, loại tháp đó chỉ được xây khi nào một Đức Phật nhập diệt. Một Bảo tháp thờ kỷ vật cũng không đúng đâu vì mối liên hệ chỉ hoàn toàn tùy thuộc vào tâm tưởng mà thôi. Còn cây Đại Bồ đề đã được chư Phật sử dụng, nên rất đáng làm nơi chiêm bái, dù chư Phật còn tại thế, hay diệt độ.

- Bạch Thế Tôn, trong thời gian Thế Tôn đi du hóa xa xôi, ngôi đại Tinh xá Kỳ Viên này không có nơi nương tựa, và dân chúng không có nơi nào để có thể tỏ bày lòng quy ngưỡng. Xin Thế Tôn cho phép con trồng một hạt giống từ cây Đại Bồ đề (ở Bồ đề Đạo tràng) ngay trước cổng Tinh xá này được chăng?

- Dĩ nhiên nên làm như vậy lắm, này Ananda, và nó cũng sẽ là một nơi an trú cho Ta như trước kia.

Vị Tôn giả này nói lại chuyện ấy với Trưởng giả Cấp Cô Độc (3) và bà Visakkà (4) cùng vua Kosala. Sau đó tại cổng tinh xá Kỳ Viên, Tôn giả đào một lỗ để trồng cây Bồ đề và nói với vị Đại trưởng lão Moggallàna (Mục Kiền Liên):

- Tiểu đệ muốn trồng một cây Bồ đề trước tinh xá Kỳ Viên, xin tôn huynh kiếm cho tiểu đệ một quả Bồ đề có được chăng?

Trưởng lão kia rất sẵn sàng đồng ý, liền bay qua không gian đến tận vùng đất cây Bồ đề ấy. Ngài lấy đặt dưới tấm y một quả Bồ đề đang rụng ra khỏi thân cây nhưng không rớt xuống đất, và mang nó về giao cho Tôn giả Ànanda. Tôn giả này báo tin cho vua Kosal biết là mình sắp trồng cây Bồ đề. Vì thế buổi chiều vua đến cùng một đám tùy tùng đông đảo, sau đó, ông Cấp Cô Độc và bà Visàkà cũng đến cùng một đám người mộ đạo nữa.

Ở chỗ cây Bồ đề sắp được trồng, Tôn giả Ànanda đặt một chiếc bình vàng, dưới đáy có lỗ, dựng đầy đất tẩm nước hương thơm ngát. Tôn giả bảo:

- Tâu Đại vương, xin hãy trồng hạt giống Bồ đề này.

Rồi trao hạt ấy cho vua. Song vua nghĩ rằng vương quốc này không ở trong tay mình mãi được nên để cho ông Cấp Cô Độc trồng, liền giao hạt giống cho vị Trưởng giả đại phú kia. Sau đó ông Cấp Cô Độc xới đất thơm lên và thả hạt giống vào. Vừa lúc hạt rơi ra khỏi tay ông, ngay trước mắt mọi người, vọt lên một cây Bồ đề con, to cỡ bằng đầu lưỡi cày, cao chừng năm mươi cubit (1 cubit = 0,45m) tứ phía nảy ra năm cành lớn dài 50 cubit, như thân cây ấy. Cây đứng sừng sững như thế, quả là một chúa tể rừng xanh, một phép lạ hy hữu thần kỳ! Vua tưới quanh thân cây những bình bằng vàng, bằng bạc, tất cả tám trăm bình đựng đầy nước tỏa hương thơm ngát, tươi đẹp với vô số hoa sen xanh. Bao giờ cũng vậy, vua ra lệnh đặt một dãy dài bình bát đựng đầy thực phẩm và một sàng tọa làm bằng bảy báu vật, có lớp nhũ vàng rảy lên, rồi dựng một bức tường bao quanh vùng ấy, lại xây một nhà canh cổng làm bằng bảy báu vật. Vua bày tỏ lòng sùng kính đặc biệt trọng thể như vậy đối với cây Bồ đề.

Trưởng lão Ànanda đến gần Đức Như Lai và thưa với Ngài:

- Bạch Đức Thế Tôn, vì lợi lạc của chúng sinh, xin Thế Tôn thị hiện ngay dưới cây Bồ đề con vừa mới trồng này sự chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng giác mà Thế Tôn đã thành tựu dưới gốc cây Bồ đề trước kia.

- Nay Ànanda, ông nói gì thế? Không có nơi nào khác có thể chịu đựng nổi sức mạnh của Ta nếu Ta ngồi nơi đó để chứng đắc quả vị mà Ta đã chứng đắc trong khu vực có cây Đại Bồ đề trước kia cả đâu.

Tôn giả Ànanda lại nói:

- Bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn vì lợi lạc của chúng sinh mà dùng cây Bồ đề này làm nơi nhập đại định, bao lâu mặt đất chốn này đủ sức chịu đựng sức mạnh của Thế Tôn.

Bậc Đạo Sư liền sử dụng nơi mới trồng cây Bồ đề ấy để nhập đại định suốt một đêm.

Tôn giả Ànanda liền báo tin với vua và mọi người khác, rồi gọi nó bằng tên "Hội Bồ đề" và cây này do Tôn giả Ànanda trồng nên được đặt tên là Cây Bồ đề của Ànanda.

Vào thời ấy, Tăng chúng bắt đầu nói đến việc trên tại Chánh Pháp đường:

- Này hiền hữu, ngay Đức Như Lai còn tại thế, Tôn giả Ànanda đã xin trồng một cây Bồ đề và cử hành đại lễ cúng dường. Uy lực của Tôn giả ấy thật cao cả thay!

Bậc Đạo sư đi vào hỏi Tăng chúng đang bàn luận điều gì. Các vị trình với Ngài. Ngài bảo:

- Này các Tỷ kheo, đây không phải là lần đầu tiên Ànanda hướng dẫn hội chúng loài người trên khắp bốn châu thế giới cùng các đám tùy tùng đông đảo mang đến vô số vòng hoa thơm và mở hội Bồ đề trong vùng đạo tràng quanh cây Bồ đề kia đâu.

Nói xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

-ooOoo-

Một thuở nọ, trong vương quốc Kàlinga tại kinh thành Dantapura, có một vị vua mệnh danh là Kàlinga cai trị. Vua có hai vương tử tên là Mahà-Kàlinga và Culla-Kàlinga. Thời ấy các nhà tiên tri đã đoán rằng vị thái tử sẽ cai trị sau khi vua cha băng hà, còn vị hoàng đệ sẽ trở thành nhà tu khổ hạnh, sống đời khất sĩ, tuy thế con trai vị sau này lại sẽ làm một đấng Chuyển luân Thánh vương (5).

Thời gian trôi qua khi vua cha băng hà, thái tử lên ngôi báu, còn hoàng đệ làm Phó vương. Vị hoàng đệ cứ nghĩ rằng con trai mình sau này sẽ là một bậc Chuyển luân Thánh vương, nên sinh lòng kiêu mạn về cớ đó. Vua không chịu được chuyện này, liền ra lệnh cho một vị sứ thần truy bắt Phó vương Kalinga. Vị sứ giả kia đi đến bảo:

- Tâu Điện hạ, Đại vương muốn sai bắt ngài, vậy ngài hãy lo cứu mạng mình.

Vương tử liền chỉ cho vị sứ thần được giao trọng trách này thấy chiếc nhẫn có dấu hiệu riêng của mình, một tấm thảm thật đẹp và một cây kiếm: Có ba bảo vật tất cả. Rồi vương đệ bảo:

- Khanh phải nhận ra được vương nhi ta nhờ những tín vật này và phò vương nhi lên ngôi báu.

Cùng với những lời dặn dò trên, vương tử ấy vội trốn vào rừng. Tại đó chàng dựng một am thất ở một nơi đẹp, vừa ý và sống như người tu khổ hạnh trên một bờ sông.

Lúc bấy giờ trong vương quốc Madda ở kinh thành Sagala, vua Madda vừa hạ sinh một công chúa. Về phần công chúa này, cũng như vương tử kia, các nhà tiên tri đoán rằng nàng sẽ phải làm nhà tu khổ hạnh, song con trai nàng lại sẽ thành một Chuyển luân Thánh vương. Các vị vua ở cõi Diêm phù đề (tức Ấn Độ) (6) nghe tin đồn ấy liền đồng một lúc đến bao vây kinh thành.

Vua nghĩ thầm: "Nay ta gả con gái ta cho một quốc vương nào thì các vị vua kia sẽ nổi giận. Vậy ta phải cố gắng cứu mạng con gái ta". Vì thế vua cùng hoàng hậu và công chúa cải trang trốn vào rừng, và sau khi dựng một am thất hơi xa bờ sông, phía trên thảo am của vương tử Kàlinga, cùng sống tại đó như người tu khổ hạnh, ăn toàn những thứ cây trái lượm hái được.

Hai vị cha mẹ muốn con gái được an ổn, nên để nàng ở lại trong am, rồi đi ra hái trái rừng. Trong lúc hai vị đi vắng, nàng lượm hoa đủ các loại kết thành vòng hoa. Bấy giờ trên bờ sông Hằng có một cây xoài nở hoa đẹp, tạo thành một cái thang thiên nhiên. Nàng trèo lên đó, đùa chơi và tìm cách thả vòng hoa xuống nước.

Một ngày kia, vương tử Kàlinga vừa bước ra khỏi nước sau khi tắm thì vòng hoa nọ vướng lên tóc chàng.

Chàng nhìn hoa và tự bảo: "Một nữ nhân nào đã kết hoa này, song đó không phải là một người đàn bà trưởng thành mà là một cô gái còn thơ dại. Ta phải đi kiếm nàng mới được". Thế là chàng đâm ra si tình, đi lên phía thượng lưu sông Hằng, cho đến khi chàng nghe nàng ca hát bằng một giọng ngọt ngào trong lúc ngồi trên cây xoài. Chàng đến gần gốc cây, vừa thấy nàng, liền bảo:

- Này giai nhân, nàng là loài gì thế?

- Thưa công tử, thiếp là người, nàng đáp.

- Thế thì hãy xuống đi, chàng bảo.

- Thưa công tử không được, vì thiếp thuộc dòng dõi Sát đế lỵ.

- Thưa cô nương, ta cũng vậy, xin nàng bước xuống.

- Thưa công tử, không được, thiếp không xuống đâu. Lời nói không làm nên một vị Sát đế lỵ; nếu quả thật ngài là một vị Sát đế lỵ hãy kể cho thiếp nghe những bí mật của nghi lễ truyền thống kia.

Sau đó hai người nói cho nhau nghe những chuyện truyền ký trong giòng họ. Rồi công chúa bước xuống và hai bên kết giao với nhau.

Khi cha mẹ nàng trở về, nàng kể cho hai vị nghe chuyện vương tử của vua Kalinga, vì sao chàng đã phải vào rừng với đầy đủ mọi chi tiết. Hai vị bằng lòng đem gả nàng cho chàng. Trong thời gian sống chung sắt cầm hòa hợp, công chúa thụ thai và sau mười tháng, nàng hạ sinh một nam tử đầy đủ tướng mạo tốt lành, phước đức và đặt tên là Kalinga. Cậu trai lớn lên, học tập đủ mọi nghệ thuật tài năng từ thân sinh và ngoại tổ chàng.

Về sau người cha chàng nhìn theo cách kết hợp của các ngôi sao mà biết được vương huynh đã băng hà. Vì thế ông gọi con trai vào và bảo:

- Này con, con không nên phí cuộc đời trong rừng già buồn tẻ, vì vương huynh ta, Đại vương Kalinga ấy đã qua đời. Vậy con phải về Dantapura và kế vị vương quyền của giòng họ ta.

Sau đó, người cha trao cho con các vật mang theo mình: chiếc nhẫn có tín hiệu, tấm thảm và thanh kiếm rồi bảo:

- Này con, trong kinh thành Dantapura ở phía kia có một vị thần vốn là bề tôi thân tín của cha. Con hãy đến nhà vị ấy, đi thẳng vào phòng riêng, đưa cho ông thấy ba vật này rồi nói cho ông biết con là con của ta. Ông sẽ đưa con lên ngai vàng.

Chàng trai giã từ cha mẹ và ông bà. Rồi nhờ thần lực công đức của chàng, chàng bay qua không gian, xuống nhà vị đại thần nọ, đi thẳng vào phòng riêng của ông.

- Công tử là ai?, vị quan hỏi.

Chàng đáp:

- Ta là con trai của Tiểu vương Kalinga.

Rồi rút ba tín vật ấy ra. Vị quan liền báo tin cho cả hoàng cung, các triều thần liền trang hoàng kinh thành và giương chiếc lọng hoàng gia lên đầu chàng. Sau đó vị Tế sư của triều đình tên là Kàlinga - Bhàvadvàja dạy chàng Mười pháp mà một vị Chuyển luân Thánh vương phải thành tựu và chàng học tất cả mười pháp ấy. Thế rồi vào một ngày rằm tức ngày Trai giới, từ Cakkadaha xuất hiện cho nhà vua Bánh xe báu, từ giòng Uposatha xuất hiện Voi báu, từ giống quí tộc Valàha xuất hiện Ngựa báu, từ Veppulla xuất hiện Bảo châu, kế là Nữ vương báu cùng đám cung phi thị nữ và Vương tử báu dần dần xuất hiện.

Sau đó nhà vua thống trị toàn cõi địa cầu.

* * *

Một ngày kia ngài được đám tùy tùng hộ tống suốt ba mươi sáu dặm đường, ngự trên bảo tượng toàn trắng, cao như đỉnh núi Kelasa. Trong cảnh uy nghi lộng lẫy, ngài trở về thăm song thân ở chốn cũ. Nhưng khi muốn vượt qua vùng đất quanh cây Đại Bồ đề, bảo tọa vinh quang của chư Phật, nơi đã trở thành trung tâm điểm của vũ trụ, thì voi báu không thể nào qua được: vua cứ thúc voi mãi, song voi vẫn không thể nào vượt qua.

Để giải thích việc này, bậc Đạo Sư ngâm vần kệ đầu:

1. Kha Linh Thánh đế
Chuyển luân vương,
Chân chánh, ngài cai trị cõi trần,
Một thuở đến Bồ đề đại thọ,
Trên mình voi báu đại oai thần.

Do đó, vị Tế sư của triều đình cùng du hành với đức vua thầm nghĩ: "Trên không gian chẳng có gì cản trở cả, tại sao đức vua không giục voi qua được? Ta muốn đến xem sao". Từ trên không hạ xuóng, vị này chiêm ngưỡng bảo tọa vinh quang của chư Phật, và khu quanh cây Đại Bồ đề.

Thời ấy tương truyền rằng trong khoảng chừng một dặm vũng ấy không bao giờ có một ngọn cỏ mọc, dù chỉ bằng một sợi lông nhỏ, mặt đất như thể cát mịn, bốn bề là thảo mộc, cát đằng và đại thọ chẳng khác nào các chúa tể sơn lâm sừng sững như đang chiêm ngưỡng, đầu quay mặt về hướng Bảo tọa Bồ đề. Khi vị Bà la môn Tế sư quan sát chỗ này, lại suy nghĩ: "Đây là nơi chư Phật đã đoạn tận mọi dục tham của trần thế nên không ai có thể vượt qua được, dù cho đó chính là Đế Thích Thiên chủ đi nữa". Và tiến về phía đức vua, vị Tế sư tâu với ngài các đặc tính của địa phận quanh cây Bồ đề, cùng thỉnh cầu Thánh vương ngự xuống voi.

Để giải thích vấn đề này, bậc Đạo Sư ngâm các vần kệ sau:

2. Vị Tế sư tâu với Thánh vương,
Là con nhà khổ hạnh hiền nhơn,
Khi ngài chuyển vận xa luân báu,
Đảnh lễ ngài xong, hướng dẫn đường:

3. Đây chốn thi nhân vẫn tán dương,
Xin ngài ngự xuống, tấu Hùng vương,
Nơi đây chư Phật Đà vô thượng
Chánh giác viên thành tỏa ánh quang.

4. Tương truyền rằng ở cõi phàm trần
Đây chính là linh địa thánh thần,
Thảo mộc, cát đằng, cùng đại thọ,
Đứng quanh trong dáng điệu tôn sùng.

5. Xuống đây, xin đảnh lễ trang nghiêm,
Vì đến miền xa tận hải biên,
Trên đại địa cầu nuôi vạn vật,
Nơi này là đất thánh thiêng liêng.

6. Đại vương đầy đủ các loài voi
Thuần chủng nhờ cha mẹ tốt đôi,
Ngự giá đến đây, voi vẫn muốn
Nhưng không thể tiến bước gần nơi.

7. Ngự trên mình bảo tượng thuần nòi,
Thánh ý tùy nghi, cứ thúc voi,
Song chẳng cách nào voi bước được,
Đến đây, voi phải đứng yên thôi.

8. Vua nghe lời nói vị tiên tri,
Vừa phán truyền cho bảo tượng đi,
Vừa thúc gậy sâu vào bảo tượng:
"Nếu vầy, ta sẽ thấy liền khi".

9. Bị thúc, voi kêu thét tựa kèn,
Như cò lanh lảnh, hạc vang rền
Chuyển rung, liền ngã vì hùng lực
Đè nặng sườn, không thể đứng lên.

Vì cứ bị đức vua thúc mãi, thúc mãi, con voi không thể nào chịu được cơn đau đớn, nên phải chết ngay. Song đức vua không biết là voi đã chết, cứ điềm nhiên ngự trên lưng voi. Một lát sau, Tế sư Kàlinga - Bhàradvàja nói:

- Muôn tâu Thánh thượng, vương tượng đã chết rồi, xin Thánh thượng ngự qua voi khác.

Bậc Đạo sư ngâm vần kệ thứ mười để giải thích việc này:

10. Quốc sư lo sợ lúc nhìn voi
Đã chết, lòng kinh động thốt lời:
"Xin tìm voi khác, tâu Hoàng thượng,
Bảo tượng ngài nay bỏ mạng rồi!".

Nhờ công đức và thần lực của vị Thánh vương, một con voi khác thuộc chủng loại Uposatha xuất hiện trước đức vua và đưa lưng ra mời. Đức vua ngự lên lưng nó. Lúc ấy thi thể vương tượng kia liền ngã xuống đất và biến mất.

Bậc Đạo Sư ngâm vần kệ để giải thích việc này:

11. Vua hãi kinh nghe tấu việc này,
Ngự lên voi khác, bỗng liền ngay
Thi hài bảo tượng kia nhào xuống.
Lời thật tiên tri đã hiển bày.

Sau đó đức vua ngự xuống từ trên không gian, và chiêm ngưỡng vùng đất quanh cây Bồ đề. Trước sự việc thần kỳ kia vừa thị hiện xong, đức vua tán thán quốc sư Bhàradvàja qua vần kệ:

12. Thế này, với vị Tế sư mình,
Đại đế Kha Linh bảo: "Thực tình
Mọi việc khanh am tường thấu suốt,
Hiền khanh thấy trước mọi duyên sinh"

Song bấy giờ vị Bà la môn kia không muốn nhận lời tán thán trên, mà vẫn giữ vững nguyên vị trí khiêm tốn của mình, vị ấy tán thán công đức chư Phật hết lời:

Bậc Đạo Sư lại ngâm kệ để giải thích vấn đề:

13. Quốc sư từ chối sự tuyên dương
Và tấu như vầy với Thánh vương:
"Thần chỉ biết điềm cùng tướng triệu,
Còn chư Phật giác ngộ hoàn toàn.

14. Phật Đà tri kiến đạt toàn chân,
Điềm triệu, các Ngài chẳng chú tâm,
Chư Phật toàn tri nhờ tuệ quán,
Thần là học giả chẳng uyên thâm".

Vua nghe nói về công đức của chư Phật, nên lòng đầy hoan hỷ, liền ban lệnh cho người trần thế đem thật nhiều vòng hoa thơm đến cúng dường vùng đất quanh linh thọ Bồ đề suốt bảy ngày đêm liền.

Bậc Đạo Sư ngâm đôi vần kệ để giải thích việc này:

15. Thánh thọ Bồ đề, chúa cúng dường
Với bao âm nhạc thật du dương,
Các vòng hoa đẹp thơm ngào ngạt,
Ngài lại xây quanh một bức tường.

16. Thế rồi Thánh đế ngự ra về,
Mang đến hoa đầy sáu vạn xe,
Làm lễ cúng dường, vì Đại đế,
Kha Linh sùng Thánh địa Bồ đề.

Sau khi đã làm lễ cúng dường trọng thể Đại thọ Bồ đề như trên, đức vua đến thăm song thân, rồi rước hai vị về thành Dantapura sống cùng ngài. Tại đây ngài chuyên bố thí và làm các phận sự khác, cho đến khi mạng chung thì tái sinh vào cõi Trời Ba mươi ba.

Sau khi chấm dứt pháp thoại, bậc Đạo Sư bảo:

"Này các Tỷ kheo, đây không phải là lần đầu tiên Ànanda làm lễ cúng dường cây Bồ đề, mà ngày xưa cũng vậy.

Rồi ngài nhận diện tiền thân:

Vào thời ấy Ànanda là Thánh đế Kàlinga, và Ta chính là quốc sư Kàlinga-Bhàradvàja.


Nhận xét:

Bồ Đề đạo tràng là Thánh địa thiêng liêng đã được biết bao áng văn thơ ca tụng từ ngàn xưa đến nay, và chuyện Tiền thân này là một ví dụ.

Sau khi Đức Phật thành đạo, Ngài thọ hưởng giải thoát lạc và Niết bàn lạc trong nhiều tuần tại vùng đất đã chứng kiến sự giác ngộ của Ngài dưới gốc cây Assatha (một cây thuộc họ sung) và Ngài đã không ngừng chiêm ngưỡng cây cổ thụ vĩ đại để thầm cám ơn cây cao bóng cả đã che chở Ngài suốt thời gian Ngài chiến đấu quyết liệt để đạt Phật quả.

Theo gương Ngài, các đệ tử Phật cũng tỏ lòng tôn quý cây cổ thụ này và đặt tên nó là cây Bồ đề để tượng trưng nơi Đức Phật đã chứng đắc trí tuệ tối thượng. Hơn nữa, Tăng chúng và giới đệ tử tại gia thời ấy đồng lòng thỉnh cầu Đức Phật cho phép các vị đem một hột giống của cây Bồ đề ấy về trồng ngay tại Kỳ Viên để làm biểu tượng của sự giác ngộ. Và trong những lúc Ngài đi du hóa xa, các đệ tử ở đó cũng có một nơi tượng trưng đặc biệt để chiêm bái Ngài.

Từ đó, lễ Hội Bồ đề do Tôn giả Ànada đề xướng đã đáp ứng nhu cầu tâm linh của các hàng đệ tử Phật. Nhân dịp Tôn giả Ànanda được hội chúng Tỷ kheo tán thán công đức, Đức Phật kể một chuyện Tiền thân cho biết trong quá khứ chư Phật cũng đã viên thành Chánh giác tại Thánh địa Bồ đề, cho nên nó đã trở thành một địa điểm đặc biệt mà tất cả mọi loài từ cỏ cây cho đến sinh vật đều bày tỏ thái độ tôn sùng.

Trong tiền kiếp xa xưa ấy, Bồ tát tiền thân Đức Phật là một vị Tế sư Bà la môn cũng đã khuyên vị Chuyển luân Thánh vương, tiền thân của Tôn giả Ànanda, đến chiêm bái Thánh địa này, vì không một loài nào có thể vượt qua vùng đất này mà không tỏ lòng tôn kính.

Vị Chuyển luân vương muốn thử xem sự thật ra sao, nên cứ tiếp tục thúc voi thần tiến lên, nhưng con voi đã ngã nhào và chết tại chỗ.

Trước sự kiện thần kỳ ấy, vị Thánh vương đã hết lời khen ngợi vị quốc sư thông thái của mình và ra lệnh thần dân cử hành đại lễ cúng dường Thánh địa Bồ đề.

Bồ Đề Đạo tràng ngày nay là nơi quy tụ chùa đền của các Phật tử khắp thế giới tỏ lòng tôn sùng nơi đã chứng kiến sự giác ngộ vô thượng của Đức Phật đem lại ánh sáng từ bi và trí tuệ cho toàn thể nhân loại.

Nhân dịp lễ Phật thành Đạo và cũng là dịp đầu Xuân, tôi xin gửi đến các vị đạo hữu gần xa câu chuyện Tiền thân đầy hương đạo cao quý này để kỷ niệm một trong bốn Thánh tích quan trọng mà Đức Phật đã để lại dấu chân trong thời Ngài tại thế mà ngày nay tất cả Phật tử bốn phương đều tỏ lòng tôn sùng: Lumbini (Lâm Tỳ Ni) nơi Đức Phật đản sinh; Bồ Đề đạo tràng, nơi Ngài thành đạo Giác ngộ; Lộc Uyển, nơi Ngài sơ chuyển Pháp luân và Kusinara (Câu Thi Na) nơi Ngài diệt độ trong Niết bàn tối hậu.

Ngoài ra, các học giả phương Tây còn nhận thấy sự tương tự trong các chi tiết của việc công chúa Madda thả vòng hoa xuống dòng suối đưa đến mối kỳ duyên giữa nàng và vương tử Kalinga, cũng như các chi tiết về các tín hiệu vương quyền để nhận ra vương tước sau này trong các chuyện cổ tích châu Âu. Như vậy, một lần nữa, chúng ta lại thấy rõ ảnh hưởng của các chuyện tiền thân Đưỏc Phật này lan rộng đến nhiều nền văn hóa khác nhau trên thế giới./.

Ghi chú:

(1) Phòng của Đức Phật trong Tinh xá Kỳ Viên

(2) Các tranh tượng Phật

(3) và (4) Đây là hai vị nam và nữ cư sĩ đệ nhất của Đức Phật

(5) Thuật chiêm tinh ngày xưa đoán biết vận mệnh con người theo cách luân chuyển các vì sao. Một vị Chuyển luân Thánh vương (Ràja Cakkavatti) là một vị Thánh vương thống trị toàn cõi địa cầu bằng Chánh pháp chứ không dùng đao trượng hình phạt.

Sự xuất hiện của vị Chuyển luân Thánh vương được miêu tả chi tiết trong kinh Trường Bộ số 17: Kinh Đại Thiện Kiến Vương.

(6) Jambudìpa (Diêm phù đề): xứ Hồng Đào: tên của nước Ấn Độ thời cổ đại, vì xứ này trồng nhiều cây Hồng đào nên lấy cây ấy làm biểu tượng của nước (Anh dịch: The country of Rose Apples)./.

(Trích Nguyệt san Giác Ngộ, số 70-71, 01-02/2002)

Ðầu trang | Mục lục  


[Trở về trang Thư Mục]
last updated: 17-02-2003