Trang gốc

Trang web BuddhaSasana

VU Times font

 

THERAVĀDA
TẠNG KINH - TIỂU BỘ

 THÁNH NHÂN KÝ SỰ
APADĀNAPĀḶI

KÝ SỰ VỀ TRƯỞNG LÃO NI
THERĪ APADĀNA PĀḶI

 Lời tiếng Việt: Tỳ khưu Indacanda
(Trương đình Dũng)

Lưu ý: Ðọc với phông chữ VU Times (Viet-Pali Unicode)


II. EKUPOSATHIKAVAGGO

II. PHẨM MỘT LẦN TRAI GIỚI:

 

11. Ekuposathikāpadānaṃ

11. Ký Sự về Ekuposathikā:[1]

 

131. Nagare bandhumatiyā bandhumā nāma khattiyo,
divase puṇṇamāyaṃ so upavasi uposathaṃ.

Ở thành phố Bandhumatī, có vị Sát-đế-lỵ tên là Bandhumā. Vào ngày trăng tròn, vị ấy thực hành Bát quan trai giới.

 

132. Ahaṃ tena samayena kumbhadāsī ahuṃ tahiṃ,
disvā sarājikaṃ senaṃ evāhaṃ cintayiṃ tadā.

Vào lúc bấy giờ, tôi (đã) là cô nô tỳ đội nước ở tại nơi ấy. Sau khi nhìn thấy đoàn quân cùng với đức vua, khi ấy tôi đã suy nghĩ như vầy:

 

133. “Rājāpi rajjaṃ chaḍḍhetvā upavasi uposathaṃ,
saphalaṃ nūna taṃ kammaṃ janakāyo pamodito.”

Ngay cả đức vua cũng đã buông bỏ vương quyền và thực hành Bát quan trai giới, chắc hẳn việc làm ấy là có quả báu khiến đám đông người hứng thú.”

 

134. Yoniso paccavekkhitvā duggaccañca daḷiddataṃ,
mānasaṃ saṃpahaṃsetvā upavasiṃ uposathaṃ.

Sau khi suy xét chính chắn về cảnh giới khổ đau và sự nghèo khó, tôi đã tự hoan hỷ tâm và đã thực hành Bát quan trai giới.

 

135. Ahaṃ uposathaṃ katvā sammāsambuddhasāsane,
tena kammena sukatena tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ.

Tôi đã thực hành Bát quan trai giới theo lời dạy của đấng Chánh Đẳng Giác. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.

 

136. Tattha me sukataṃ vyamhaṃ uddhaṃ yojanamuggataṃ,
kūṭāgāravarūpetaṃ sayanāsanabhūsitaṃ.

Tại nơi ấy, có cung điện đã được kiến tạo khéo léo dành cho tôi, phía bên trên vươn cao một do-tuần, được kề cận với ngôi nhà mái nhọn quý giá, được trang hoàng với chỗ nằm ngồi.

 

137. Accharā satasahassā upatiṭṭhanti maṃ sadā,
aññe deve atikkamma atirocāmi sabbadā.

Một trăm ngàn tiên nữ luôn luôn kề cận tôi. Tôi luôn luôn vượt trội và rực rỡ hơn các vị thiên nhân khác.

 

138. Catusaṭṭhidevarājūnaṃ mahesittamakārayiṃ,
tesaṭṭhicakkavattīnaṃ mahesittamakārayiṃ.

Tôi đã được thiết lập vào ngôi hoàng hậu của sáu mươi bốn vị Thiên Vương. Tôi đã được thiết lập vào ngôi hoàng hậu của sáu mươi ba vị Chuyển Luân Vương.

 

139. Suvaṇṇavaṇṇā hutvāna bhavesu saṃsarāmahaṃ,
sabbattha pavarā homi uposathassidaṃ phalaṃ.

Có được màu da vàng chói, tôi luân hồi ở các cảnh giới. Tôi là người cao quý ở tất cả các nơi; điều này là quả báu của Bát quan trai giới.

 

140. Hatthiyānaṃ assayānaṃ rathayānañca sivikaṃ,
labhāmi sabbametampi uposathassidaṃ phalaṃ.

Về phương tiện di chuyển bằng voi, phương tiện di chuyển bằng ngựa, phương tiện di chuyển bằng xe, và kiệu khiêng, tôi cũng đều đạt được tất cả điều ấy; điều này là quả báu của Bát quan trai giới.

 

141. Sovaṇṇamayaṃ rūpimayaṃ athopi phalikāmayaṃ,
lohitaṅkamayañceva sabbaṃ paṭilabhām’ ahaṃ.

Khi ấy, ngay cả vật làm bằng vàng, làm bằng bạc, làm bằng ngọc pha-lê, luôn cả vật làm bằng hồng ngọc, tôi đều đạt được tất cả.

 

142. Koseyyakambaliyāni khomakappāsikāni ca,
mahagghāni ca vatthāni sabbaṃ paṭilabhām’ ahaṃ.

Các tấm mền làm bằng tơ lụa, sợi len, và bông vải, cùng với các tấm vải giá trị cao, tôi đều đạt được tất cả.

 

143. Annaṃ pānaṃ khādaniyaṃ vatthasenāsanāni ca,
sabbametaṃ paṭilabhe uposathassidaṃ phalaṃ.

Thức ăn, nước uống, vật nhai, vải vóc, và chỗ nằm ngồi, tôi đều đạt được tất cả (các) thứ ấy; điều này là quả báu của Bát quan trai giới.

 

144. Varagandhañca mālañca cuṇṇakañca vilepanaṃ,
sabbametaṃ paṭilabhe uposathassidaṃ phalaṃ.

Hương thơm cao quý, tràng hoa, bột phấn thơm, dầu thoa, tôi đều đạt được tất cả (các) thứ ấy; điều này là quả báu của Bát quan trai giới.

 

145. Kūṭāgārañca pāsādaṃ maṇḍapaṃ hammiyaṃ guhaṃ,
sabbametaṃ paṭilabhe uposathassidaṃ phalaṃ.

Ngôi nhà mái nhọn, tòa lâu đài, mái che, tòa nhà dài, hang động, tôi đều đạt được tất cả (các) thứ ấy; điều này là quả báu của Bát quan trai giới.

 

146. Jātiyā sattavasso ’haṃ pabbajiṃ anagāriyaṃ,
aḍḍhamāse asampatte arahattaṃ apāpuṇiṃ.

Bảy năm sau khi sanh ra, tôi đã xuất gia vào cuộc sống không gia đình. Chưa đầy nửa tháng, tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán.

 

147. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe samūhatā,
sabbāsavā parikkhīṇā natthidāni punabbhavo.

Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch, tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, giờ đây không còn tái sanh nữa.

 

148. Ekanavute ito kappe yaṃ kammamakariṃ tadā,
duggatiṃ nābhijānāmi uposathassidaṃ phalaṃ.

Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy cho đến chín mươi mốt kiếp, tôi (đã) không biết đến cõi khổ; điều này là quả báu của Bát quan trai giới.

 

149. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

 

150. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

 

Itthaṃ sudaṃ Ekuposathikā bhikkhunī imā gāthāyo abhāsitthāti.
Tỳ khưu ni Ekuposathikā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

 

Ekuposathikātheriyāpadānaṃ paṭhamaṃ.

Ký sự về trưởng lão ni Ekuposathikā là phần thứ nhất.

--ooOoo--

12. Salalapupphikāpadānaṃ
12. Ký Sự về Salalapupphikā:
[2]

 

151. Candabhāgānadītīre ahosiṃ kinnarī tadā,

addasāhaṃ devadevaṃ caṅkamantaṃ narāsabhaṃ.

Khi ấy, tôi đã là loài kim-sỉ-điểu cái ở bờ sông Candabhāgā. Tôi đã nhìn thấy bậc Nhân Ngưu, vị Trời của chư thiên, đang đi kinh hành.

 

152. Ocinitvāna salalaṃ buddhaseṭṭhass’ adās’ ahaṃ,
“Upasiṅgha mahāvīra salalaṃ devagandhikaṃ.”

Sau khi thâu nhặt bông hoa salala, tôi đã dâng lên đức Phật tối thượng (nói rằng): “Bạch đấng Đại Hùng thỉnh ngài ngửi bông hoa salala có hương thơm của cõi trời.”

 

153. Paṭiggahetvā sambuddho vipassī lokanāyako,
upasiṅghi mahāvīro pekkhamānāya me tadā.

Khi ấy, trong lúc tôi đang chăm chú nhìn, đấng Toàn Giác Vipassī, bậc Lãnh Đạo thế gian, đấng Đại Hùng đã thọ nhận và đã ngửi (bông hoa ấy).

 

154. Añjaliṃ paggahetvāna vanditvā dipaduttamaṃ,
sakaṃ cittaṃ pasādetvā tato pabbatamārūhiṃ.

Sau khi chắp tay lên, tôi đã đảnh lễ bậc Tối Thượng Nhân. Sau khi làm cho tâm của mình được tịnh tín, từ nơi ấy tôi đã đi lên ngọn núi.

 

155. Ekanavute ito kappe yaṃ pupphamadadiṃ tadā,
duggatiṃ nābhijānāmi buddhapūjāyidaṃ phalaṃ.

Kể từ khi tôi đã cúng dường bông hoa cho đến chín mươi mốt kiếp, tôi (đã) không biết đến cõi khổ; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.

 

156. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā.

Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.

 

157. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

 

158. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

 

Itthaṃ sudaṃ Salalapupphikā bhikkhunī imā gāthāyo abhāsitthāti.

Tỳ khưu ni Salalapupphikā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

 

Salalapupphikātheriyāpadānaṃ dutiyaṃ.

Ký sự về trưởng lão ni Salalapupphikā là phần thứ nhì.

--ooOoo--

13. Modakadāyikāpadānaṃ
13. Ký Sự về Modakadāyikā:
[3]

  

159. Nagare bandhumatiyā kumbhadāsī ahos’ ahaṃ,
mama bhāgaṃ gahetvāna gacchiṃ udakahārikā.

Ở thành phố Bandhumatī, tôi đã là người nữ tỳ đội nước. Là người vận chuyển nước, tôi đã nhận lấy phần (nước) của mình rồi đã ra đi.

 

160. Panthamhi samaṇaṃ disvā santacittaṃ samāhitaṃ,
pasannacittā sumanā modake tīṇi ’dās’ ahaṃ.

Ở đường lộ, tôi đã nhìn thấy vị sa-môn có tâm thanh tịnh, định tĩnh. Với tâm tịnh tín, với ý hoan hỷ, tôi đã dâng ba cục thịt vò viên.

 

161. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
ekanavuti kappāni vinipātaṃ na gacch’ ahaṃ.

Do việc làm ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, tôi đã không đi đến đọa xứ chín mươi mốt kiếp.

 

162. Sampattiṃ taṃ karitvāna sabbaṃ anubhavāmahaṃ,
modake tīṇi datvāna pattā ’haṃ acalaṃ padaṃ.

Sau khi đã thực hiện thành tựu điều ấy, tôi đã đạt được mọi thứ. Sau khi bố thí ba cục thịt vò viên, tôi đã đạt đến vị thế không bị lay chuyển.

 

163. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā.

Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.

 

164. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

 

165. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

 

Itthaṃ sudaṃ Modakadāyikā bhikkhunī imā gāthāyo abhāsitthāti.
Tỳ khưu ni Modakadāyikā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

 

Modakadāyikātheriyāpadānaṃ tatiyaṃ.

Ký sự về trưởng lão ni Modakadāyikā là phần thứ ba.

 --ooOoo--

14. Ekāsanadāyikāpadānaṃ
14. Ký Sự về Ekāsanadāyikā:
[4]

  

166. Nagare haṃsavatiyā ahosiṃ bālikā tadā,
mātā ca me pitā ceva kammantaṃ agamaṃsu te.

Lúc bấy giờ, tôi đã là cô thiếu nữ ở tại thành phố Haṃsavatī. Mẹ và luôn cả cha của tôi, họ đều đã đi làm công việc.

 

167. Majjhantikamhi suriye addasaṃ samaṇaṃ ahaṃ,
vīthiyaṃ anugacchantaṃ āsanaṃ paññapes’ ahaṃ.

Vào lúc mặt trời ở chính ngọ, tôi đã nhìn thấy vị sa-môn đang đi dọc theo đường lộ. Tôi đã xếp đặt chỗ ngồi.

 

168. Goṇakacittakādīhi paññapetvā ’hamāsanaṃ,
pasannacittā sumanā idaṃ vacanamabraviṃ.

Sau khi xếp đặt chỗ ngồi bằng nhiều loại lông cừu, v.v... rồi với tâm tịnh tín, với ý hoan hỷ, tôi đã nói lời nói này:

 

169. “Santattā kuthitā bhūmi sūro majjhantike ṭhito,
mālutā ca na vāyanti kālo cettha upaṭṭhito.

Mặt đất bị nóng bỏng, bị thiêu đốt, mặt trời đã đứng ở chính ngọ, và các cơn gió ngưng thổi, vậy là lúc ngài hãy nghỉ ở đây.

 

170. Paññattamāsanamidaṃ tavatthāya mahāmuni,
anukampamupādāya nisīda mama āsane.”

Thưa bậc đại hiền triết, đây là chỗ ngồi đã được sắp xếp dành cho ngài. Vì lòng bi mẫn, xin ngài hãy ngồi xuống chỗ ngồi của con.”

 

171. Nisīdi tattha samaṇo sudanto suddhamānaso,
tassa pattaṃ gahetvāna yathārandhamadāsahaṃ.

Với tâm ý thanh tịnh, vị sa-môn được rèn luyện chu đáo đã ngồi xuống ở tại nơi ấy. Tôi đã nhận lãnh bình bát của vị ấy và đã cúng dường không chút sai sót.

 

172. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsamagacchahaṃ.

Do việc làm ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.

 

173. Tattha me sukataṃ vyamhaṃ āsanena sunimmitaṃ,
saṭṭhiyojanamubbedhaṃ tiṃsayojanavitthataṃ.

Tại nơi ấy, dành cho tôi có cung điện đã khéo được xây dựng, đã khéo được hóa hiện ra với chỗ ngồi, có chiều cao sáu mươi do-tuần, có chiều rộng ba mươi do-tuần.

 

174. Soṇṇamayā maṇimayā athopi phalikāmayā,
lohitaṅkamayā ceva pallaṅkā vividhā mama.

Cũng vào khi ấy, thuộc về tôi có các ghế dựa nhiều kiểu làm bằng vàng, làm bằng ngọc ma-ni, làm bằng ngọc pha-lê, và làm bằng hồng ngọc nữa.

 

175. Tūlikāvikatikāhi kaṭṭhissacittakāhi ca,
udda-ekantalomīhi pallaṅkā me susanthatā.

Các ghế dựa của tôi được khéo lót trải với các tấm nệm bằng len dệt, với nhiều loại tấm trải bằng tơ dệt có đính các viên ngọc, và với các tấm trải viền ren ở một bên.

 

176. Yadā icchāmi gamanaṃ hāsakhiḍḍā samappitaṃ,
saha pallaṅkaseṭṭhena gacchāmi mama patthitaṃ.

Khi nào tôi ước muốn sự ra đi với mục đích giải trí nô đùa, điều ước nguyện của tôi là tôi ra đi bằng chiếc ghế dựa thù thắng của tôi.

 

177. Asītidevarājūnaṃ mahesinnamakārayiṃ,
sattaticakkavattīnaṃ mahesittamakārayiṃ.

Tôi đã được thiết lập vào ngôi hoàng hậu của tám mươi vị Thiên Vương. Tôi đã được thiết lập vào ngôi hoàng hậu của bảy mươi vị Chuyển Luân Vương.

 

178. Bhavābhave saṃsarantī mahābhogaṃ labhāmahaṃ,
bhoge me ūnatā natthi ekāsanaphalaṃ idaṃ.

Trong khi luân hồi ở cõi này cõi khác, tôi đã đạt được tài sản lớn lao. Đối với tôi, không có sự thiếu hụt về của cải; điều này là quả báu của một chỗ ngồi.

 

179. Duve bhave saṃsarāmi devatte atha mānuse,
aññe bhave na jānāmi ekāsanaphalaṃ idaṃ.

Tôi (đã) luân hồi ở hai cảnh giới, trong bản thể chư thiên và nhân loại. Tôi (đã) không biết đến các cõi khác; điều này là quả báu của một chỗ ngồi.

 

180. Duve kule pajāyāmi khattiye cāpi brāhmaṇe,
uccākulīnā sabbattha ekāsanaphalaṃ idaṃ.

Tôi (đã) được sanh ra ở hai gia tộc, Sát-đế-lỵ và cả Bà-la-môn nữa. Ở mọi nơi, tôi đều thuộc gia đình thượng lưu; điều này là quả báu của một chỗ ngồi.

 

181. Domanassaṃ na jānāmi cittasantāpanaṃ mama,
vevaṇṇiyaṃ na jānāmi ekāsanaphalaṃ idaṃ.

Tôi không biết đến tâm bực bội và tôi có sự thỏa mãn ở tâm. Tôi không biết đến việc tàn tạ dung nhan; điều này là quả báu của một chỗ ngồi.

 

182. Dhātiyo maṃ upaṭṭhanti khujjā kheḷāsikā bahū,
aṅkena aṅkaṃ gacchāmi ekāsanaphalaṃ idaṃ.

Các nữ tỳ hầu hạ tôi, nhiều người bị gù lưng, bị chảy nước dãi. Tôi đã (được ẳm bồng) di chuyển từ hông này đến hông khác; điều này là quả báu của một chỗ ngồi.

 

183. Aññā nahāpenti bhojenti aññā ramenti maṃ sadā,
aññā gandhaṃ vilimpenti ekāsanaphalaṃ idaṃ.

Luôn luôn có các cô này tắm (cho tôi), các cô kia chăm lo thức ăn, các cô khác làm cho tôi vui thích, các cô nọ thoa dầu thơm (cho tôi); điều này là quả báu của một chỗ ngồi.

 

184. Maṇḍape rukkhamūle vā suññāgāre vasantiyā,
mama saṅkappamaññāya pallaṅko upatiṭṭhati.

Trong lúc tôi sống ở mái che, ở gốc cây, hoặc ở ngôi nhà trống vắng, chiếc ghế dựa biết được ý định của tôi đều đến ở kế bên.

 

185. Ayaṃ pacchimako mayhaṃ carimo vattate bhavo,
ajjāpi rajjaṃ chaḍḍetvā pabbajiṃ anagāriyaṃ.

Đây là kiếp sống cuối cùng của tôi, là lần hiện hữu cuối cùng trong sự luân chuyển. Hiện nay, tôi đã từ bỏ vương quốc và đã xuất gia vào cuộc sống không gia đình.

 

186. Satasahasse ito kappe yaṃ dānamadadiṃ tadā,
duggatiṃ nābhijānāmi ekāsanaphalaṃ idaṃ.

Kể từ khi tôi đã cúng dường vật thí cho đến một trăm ngàn kiếp, tôi (đã) không biết đến cõi khổ; điều này là quả báu của một chỗ ngồi.

 

187. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā.

Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.

 

188. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

 

189. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

 

Itthaṃ sudaṃ Ekāsanadāyikā bhikkhunī imā gāthāyo abhāsitthāti.

Vị tỳ khưu ni Ekāsanadāyikā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

 

Ekāsanadāyikātheriyāpadānaṃ catutthaṃ.

Ký sự về trưởng lão ni Ekāsanadāyikā là phần thứ tư.

 --ooOoo--

15. Pañcadīpadāyikāpadānaṃ
15. Ký Sự về Pañcadīpadāyikā:
[5]

 

190. Nagare haṃsavatiyā cārikā ās’ ahaṃ tadā,
ārāmena ca ārāmaṃ carāmi kusalatthikā.

Khi ấy, tôi đã là nữ du sĩ ở thành phố Haṃsavatī. Có sự tầm cầu thiện pháp, tôi (đã) đi từ tu viện này đến tu viện khác.

 

191. Kālapakkhamhi divase addasaṃ bodhimuttamaṃ.
tattha cittaṃ pasādetvā bodhimūle nisīdahaṃ.

Vào một ngày thuộc hạ huyền, tôi đã nhìn thấy cội cây Bồ Đề tối thượng. Tại đó, tôi đã khởi tâm tịnh tín và đã ngồi xuống ở gốc cây Bồ Đề.

 

192. Garucittaṃ upaṭṭhapetvā sire katvāna añjaliṃ,
somanassaṃ pavedetvā evaṃ cintesiṃ tāvade.

Sau khi thiết lập tâm cung kỉnh, chắp tay lên ở đầu, và bày tỏ lòng hoan hỷ, tôi đã tức thời suy nghĩ như vầy:

 

193. “Yadi buddho amitayaso asamappaṭipuggalo,
dassetu pāṭihīraṃ me bodhi obhāsatu ayaṃ.”

Nếu đức Phật có đức hạnh vô lượng, không người sánh bằng, xin cội Bồ Đề này hãy thị hiện thần thông, hãy chói sáng cho tôi thấy.”

 

194. Saha āvajjanā mayhaṃ bodhi pajjali tāvade,
sabbasoṇṇamayā āsi disā sabbā virocayi.

Với điều suy nghĩ của tôi, cội Bồ Đề ngay lập tức đã phát sáng, đã biến thành vàng toàn bộ, và đã chiếu sáng tất cả các phương.

 

195. Sattarattindivaṃ tattha bodhimūle nisīdahaṃ,
sattame divase patte dīpapūjaṃ akāsahaṃ.

Tôi đã ngồi xuống tại nơi ấy ở gốc cây Bồ Đề bảy ngày đêm. Khi đã đạt đến ngày thứ bảy, tôi đã thực hiện việc cúng dường các ngọn đèn.

 

196. Āsanaṃ parivāretvā pañcadīpāni pajjaluṃ.
yāva udeti suriyo dīpā me pajjaluṃ tadā.

Sau khi được đặt quanh chỗ ngồi, năm ngọn đèn đã phát sáng. Khi ấy, các ngọn đèn của tôi đã phát sáng cho đến khi mặt trời mọc lên.

 

197. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsamagacchahaṃ.

Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.

 

198. Tattha me sukataṃ vyamhaṃ pañcadīpīti vuccati,
saṭṭhiyojanamubbedhaṃ tiṃsayojanavitthataṃ.

Tại nơi ấy, cung điện đã được kiến tạo khéo léo dành cho tôi được gọi là “Pañcadīpī,” có chiều cao sáu mươi do-tuần, chiều rộng ba mươi do-tuần.

 

199. Asaṅkhiyāni dīpāni parivāre jalanti me,
yāvatā devabhavanaṃ dīpālokena jotati.

Xung quanh tôi có vô số ngọn đèn chiếu sáng. Cho đến cung điện của chư thiên cũng sáng rực bởi ánh sáng của các ngọn đèn.

 

200. Parammukhā nisīditvā yadi icchāmi passituṃ,
uddhaṃ adho ca tiriyaṃ sabbaṃ passāmi cakkhunā.

Sau khi ngồi xuống mặt quay về hướng khác, nếu tôi muốn nhìn thấy ở bên trên, bên dưới, và chiều ngang, tôi đều nhìn thấy tất cả bằng mắt.

 

201. Yāvatā abhikaṅkhāmi daṭṭhuṃ sugataduggate,
tattha āvaraṇaṃ natthi rukkhesu pabbatesu vā.

Ngay cả khi tôi mong muốn nhìn thấy những việc đi đến tốt đẹp hoặc đi đến xấu xa thì không có gì che đậy được việc ấy dầu ở các cây cối hoặc ở các núi non.

 

202. Asīti devarājūnaṃ mahesittamakārayiṃ,
satānaṃ cakkavattīnaṃ mahesittamakārayiṃ.

Tôi đã được thiết lập vào ngôi chánh hậu của tám mươi vị Thiên Vương. Tôi đã được thiết lập vào ngôi chánh hậu của một trăm vị Chuyển Luân Vương.

 

203. Yaṃ yaṃ yonupapajjāmi devattaṃ atha mānuse,
dīpasatasahassāni parivāre jalanti me.

Mỗi khi tôi nhập thai bào dầu là cảnh giới chư thiên hoặc loài người, có một trăm ngàn ngọn đèn chiếu sáng ở xung quanh tôi.

 

204. Devalokā cavitvāna uppajjiṃ mātukucchiyaṃ,
mātukucchigatā santī akkhi me na nimīlati.

Sau khi mệnh chung từ thế giới chư thiên, tôi đã tái sanh vào bụng mẹ. Trong khi đi vào bụng mẹ và trụ lại, mắt của tôi không nhắm lại.

 

205. Dīpasatasahassāni puññakammasamaṅgitā,
jalanti sūtikāgehe pañcadīpānidaṃ phalaṃ.

Một trăm ngàn ngọn đèn là kết quả của nghiệp phước thiện, chúng chiếu sáng ở nhà bảo sanh; điều này là quả báu của năm ngọn đèn.

 

206. Pacchime bhave sampatte mānasaṃ vinivaṭṭayiṃ,
ajarāmaraṃ sītibhūtaṃ nibbānaṃ phassayiṃ ahaṃ.

Khi đạt đến cuộc sống cuối cùng, tôi đã gìn giữ tâm ý. Tôi đã chạm đến Niết Bàn là trạng thái mát mẻ, không già, không chết.

 

207. Jātiyā sattavassāhaṃ arahattamapāpuṇiṃ,
upasampādayī buddho guṇamaññāya gotamo.

Bảy năm kể từ khi sanh, tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán. Sau khi biết được đức hạnh (của tôi), đức Phật Gotama đã cho tôi tu lên bậc trên.

 

208. Maṇḍape rukkhamūle vā suññāgāre vasantiyā,
sadā pajjalate dīpaṃ pañcadīpānidaṃ phalaṃ.

Trong lúc sinh sống ở mái che, ở gốc cây, hoặc ở ngôi nhà trống vắng, luôn luôn có ngọn đèn chiếu sáng; điều này là quả báu của năm ngọn đèn.

 

209. Dibbacakkhu visuddhaṃ me samādhikusalā ahaṃ,
abhiññāpāramippattā pañcadīpānidaṃ phalaṃ.

Thiên nhãn của tôi được thanh tịnh, tôi được thiện xảo về định, được thành đạt các thắng trí và các pháp toàn hảo; điều này là quả báu của năm ngọn đèn.

 

210. Sabbavositavosānā katakiccā anāsavā,
pañcadīpā mahāvīra pāde vandati cakkhuma.

Bạch đấng Đại Hùng, bậc Hữu Nhãn, con là Pañcadīpā có toàn bộ nguồn nhiên liệu đã cạn, có các phận sự đã được làm xong, không còn các lậu hoặc, xin đảnh lễ ở bàn chân (Ngài).”

 

211. Satasahasse ito kappe yaṃ dīpamadadiṃ tadā,
duggatiṃ nābhijānāmi pañcadīpānidaṃ phalaṃ.

Kể từ khi tôi đã cúng dường ngọn đèn cho đến một trăm ngàn kiếp, tôi (đã) không biết đến cõi khổ; điều này là quả báu của năm ngọn đèn.

 

212. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā.

Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.

 

213. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

 

214. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

 

Itthaṃ sudaṃ Pañcadīpayikā bhikkhunī imā gāthāyo abhāsitthāti.

Vị tỳ khưu ni Pañcadīpadāyikā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Pañcadīpayikātheriyāpadānaṃ pañcamaṃ.

 Ký sự về trưởng lão ni Pañcadīpadāyikā là phần thứ năm.

 --ooOoo--

16. Sālamālikāpadānaṃ
16. Ký Sự về Sālamālikā:[6]

 

 

215. Candābhāgānadītīre ahosiṃ kinnarī tadā,
addasaṃ virajaṃ buddhaṃ sayambhuṃ aparājitaṃ.

Khi ấy, tôi đã là loài kim-sỉ-điểu cái ở bờ sông Candabhāgā. Tôi đã nhìn thấy đức Phật, bậc Vô Cấu Uế, đấng Tự Chủ, bậc không bị hàng phục.

 

216. Pasannacittā sumanā vedajātā katañjalī,
sālamālaṃ gahetvāna sayambhuṃ abhipūjayiṃ.

Với tâm tịnh tín, với ý hoan hỷ, tràn đầy niềm phấn khởi, tôi đã chắp tay lên cầm lấy tràng hoa Sālā và đã cúng dường đến bậc Tự Chủ.

 

217. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
jahitvā kinnarīdehaṃ tāvatiṃsamagacchahaṃ.

Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân xác kim-sỉ-điểu, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.

 

218. Chattiṃsa devarājūnaṃ mahesittamakārayiṃ,
manasā patthitaṃ mayhaṃ nibbattati yathicchitaṃ.

Tôi đã được thiết lập vào ngôi hoàng hậu của ba mươi sáu vị Thiên Vương. Điều ước nguyện trong tâm của tôi là được tái sanh theo ước muốn.

 

219. Dasannaṃ cakkavattīnaṃ mahesittamakārayiṃ,
ocitattāva hutvāna saṃsarāmi bhavesvahaṃ.

Tôi đã được thiết lập vào ngôi hoàng hậu của mười vị Chuyển Luân Vương. Sau khi thành tựu kết quả, tôi tự luân hồi ở nhiều cõi.

 

220. Kusalaṃ vijjate mayhaṃ pabbajiṃ anagāriyaṃ,
pūjārahā ahaṃ ajja sakyaputtassa sāsane.

Điều tốt lành của tôi đã được tìm thấy, tôi đã xuất gia vào cuộc sống không gia đình. Hiện nay, tôi là bậc xứng đáng sự cúng dường ở trong Giáo Pháp của người con trai dòng dõi Sakya (Thích Ca).

 

221. Visuddhamanasā ajja apetamanapāpikā,
sabbāsavā parikkhīṇā natthidāni punabbhavo.

Hiện nay, với tâm ý đã được thanh tịnh, các ác pháp đã không còn, tất cả các lậu hoặc đã cạn kiệt, giờ đây không còn tái sanh nữa.

 

222. Catunavute ito kappe yaṃ buddhamabhipūjayiṃ,
duggatiṃ nābhijānāmi sālamālāyidaṃ phalaṃ.

Kể từ khi tôi đã cúng dường đến đức Phật cho đến chính mươi bốn kiếp, tôi (đã) không biết đến cõi khổ; điều này là quả báu của tràng hoa Sālā.

 

223. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā.

Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.

 

224. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

 

225. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

 

Itthaṃ sudaṃ Sālamālikā bhikkhunī imā gāthāyo abhāsitthāti.
Vị tỳ khưu ni Sālamālikā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

 

Sālamālikātheriyāpadānaṃ chaṭṭhaṃ.

Ký sự về trưởng lão ni Sālamālikā là phần thứ sáu.

 --ooOoo--

17. Mahāpāpatigotamī-apadānaṃ
17. Ký sự về Mahāpajāpatigotamī:
[7]

 

226. Ekadā lokapajjoto vesāliyaṃ mahāvane,
kūṭāgāre susālāyaṃ vasate narasārathi.

Một thời, bậc Quang Đăng của thế gian, đấng Điều Phục loài người ngự tại thành Vesālī, khu Đại Lâm, ngôi nhà mái nhọn, trong giảng đường xinh xắn.

 

227. Tadā jinassa mātucchā mahāgotami bhikkhunī,
tahiṃ kate pure ramme vasī bhikkhunupassaye.

Khi ấy, người dì ruột của đấng Chiến Thắng là tỳ khưu ni Mahāgotamī đã cư ngụ tại tu viện của tỳ khưu ni được xây dựng ở tại nơi ấy, trong thành phố đáng yêu.

 

228. Bhikkhunīhi vimuttāhi satehi saha pañcahi,
rahogatāya tassevaṃ cittassāsi vitakkitaṃ.

Khi đang ở nơi thanh vắng cùng với năm trăm vị tỳ khưu ni đã được hoàn toàn giải thoát, có điều suy tầm đã khởi đến tâm của vị ni ấy như vầy:

 

229. “Buddhassa parinibbāṇaṃ sāvakaggayugassa vā,
rāhulānandanandānaṃ nāhaṃ lacchāmi passituṃ.

Ta sẽ không thể chứng kiến sự viên tịch Niết Bàn của đức Phật, hoặc của hai vị Tối Thượng Thinh Văn, của Rāhula, Ānanda, vā Nanda.

 

230. Paṭigaccāyusaṅkhāre ossajitvāna nibbutiṃ,
gaccheyyaṃ lokanāthena anuññātā mahesinā.”

Trước khi có thể buông bỏ thọ hành rồi thành tựu Niết Bàn, ta cần được đấng Hộ Trì Thế Gian, bậc Đại Ẩn Sĩ cho phép.

 

231. Tathā pañcasatānampi bhikkhunīnaṃ vitakkitaṃ,
āsi khemādikānampi etadeva vitakkitaṃ.

Sự suy tầm của năm trăm vị tỳ khưu ni cũng như thế. Chính điều suy tầm này cũng đã khởi đến các vị như là Khemā, v.v...

 

232. Bhūmicālo tadā āsi nāditā devadundubhi,
upassayādhivatthāyo devatā sokapīḷitā.
vipalantā sakaruṇaṃ tathassūni pavattayuṃ.

Khi ấy, đã có sự lay động của trái đất, tiếng trống của cõi trời đã vang lên. Các thiên nhân cư ngụ ở ni viện đã bị dày vò bởi sầu muộn. Tại nơi ấy, trong khi than vãn với niềm bi mẫn họ đã tuôn rơi những giọt nước mắt.

 

233. Mittā bhikkhuniyo tāhi upagantvāna gotamiṃ,
nipacca sirasā pāde idaṃ vacanamabravuṃ:

Cùng với các vị (thiên nhân) ấy, các vị tỳ khưu ni bạn đã đi đến gặp bà Gotamī. Họ đã cúi mình đê đầu ở bàn chân và đã nói lời nói này:

 

234. “Tattha toyalavāsittā mayamayye rahogatā,
sācalā calitā bhūmi nāditā devadundubhi,
paridevā ca sūyanti kimatthaṃ nūna gotamī.”

Thưa ni sư, ở tại nơi ấy chúng tôi đã tưới ướt với những giọt nước rồi đã đi đến nơi thanh vắng. Trái đất có sự không lay động đã lay động, tiếng trống của cõi trời đã vang lên, và được nghe những tiếng than khóc. Bà Gotamī, chẳng lẽ là có sự việc gì hay sao?

 

235. Tadā avoca sā sabbaṃ yathāparivitakkitaṃ,
tāyopi sabbā āhaṃsu yathāparivitakkitaṃ.

Khi ấy, bà Gotamī đã kể lại mọi việc theo như đã được suy tầm. Các vị ni ấy cũng đã kể lại mọi việc theo như đã được suy tầm:

 

236. “Yadi te rucitaṃ ayye nibbāṇaṃ paramaṃ sivaṃ,
nibbāyissāma sabbāpi buddhānuññāya subbate.

Thưa ni sư, thưa vị có sự hành trì tốt đẹp, nếu Niết Bàn tối thắng thù diệu được ni sư thích thú, thì tất cả chúng tôi cũng sẽ Niết Bàn với sự chấp thuận của đức Phật.

 

237. Mayaṃ sahāva nikkhantā gharāpi ca bhavāpi ca,
sahayeva gamissāma nibbāṇapuramuttamaṃ.”

Chúng tôi sẽ cùng nhau rời khỏi ngôi nhà và rời khỏi luôn cả sự hiện hữu, chúng tôi sẽ cùng nhau đi đến thành phố Niết Bàn tối thượng.

 

238. Nibbānāya vajantīnaṃ kiṃ vakkhāmī’ti sā vadaṃ,
saha sabbāhi niggacchi bhikkhunīnilayā tadā.

Bà Gotamī đã nói rằng: “Ta sẽ nói gì đây đến những người đang đi đến Niết Bàn?” Khi ấy, cùng với tất cả các vị ni ấy bà Gotamī đã rời khỏi chỗ cư ngụ của các tỳ khưu ni.

 

239. Upassaye yādhivatthā devatā tā khamantu me,
bhikkhunīnilayassedaṃ pacchimaṃ dassanaṃ mama.

Xin chư thiên đang ngự tại trú xá hãy thông cảm cho ta. Đây là sự nhìn thấy ni viện lần cuối cùng của ta.

 

240. Na jarā maccu vā yattha appiyehi samāgamo,
piyehi vippayogo ’tthi taṃ vajissaṃ asaṅkhataṃ.

Nơi nào sự già hoặc sự chết, sự gần gũi với những gì không yêu thích, sự xa lìa với những gì yêu thích là không có, thì ta nên đi đến nơi không bị tạo tác ấy.”

 

241. Avītarāgā taṃ sutvā vacanaṃ sugatorasā,
sokaṭṭā parideviṃsu “Aho no appapuññatā.

Nghe được lời nói ấy, những vị tỳ khưu ni của đấng Thiện Thệ chưa lìa tham ái bị dằn vặt bởi sầu muộn đã than vãn rằng: “Than ôi, chúng tôi có phước báu kém cỏi.

 

242. Bhikkhunīnilayo suñño bhūto tāhi vinā ayaṃ,
pabhāte viya tārāyo na dissanti jinorasā.

Trú xứ này của các tỳ khưu ni thiếu vắng các vị ấy trở nên trống không. Các vị tỳ khưu ni của đấng Chiến Thắng không còn được nhìn thấy ví như các vì sao không còn được nhìn thấy vào ban ngày.”

 

243. Nibbānaṃ gotamī yāti satehi saha pañcahi,
nadīsatehiva saha gaṅgā pañcahi sāgaraṃ.”

Bà Gotamī đi đến Niết bàn cùng với năm trăm vị tương tợ như sông Gaṅgā cùng với năm trăm dòng sông chảy về biển cả.”

 

244. Rathikāya vajantiṃ taṃ disvā saddhā upāsikā,
gharā nikkhamma pādesu nipacca idamabraviṃ:

Sau khi nhìn thấy bà Gotamī đang đi ở trên đường, các nữ cư sĩ thành tín đã rời khỏi nhà rồi đã cúi xuống ở hai bàn chân (của bà) và đã nói điều này:

 

245. “Pasīdassu mahābhoge anāthāyo vihāya no,
tayā na yuttaṃ nibbātuṃ” iccaṭṭaṃ vilapiṃsu tā.

Hỡi vị có tài sản vĩ đại, xin người hoan hỷ. Xin chớ lìa bỏ chúng con (trở thành) không người lãnh đạo. Xin người chớ quyết định Niết Bàn,” họ đã than van ầm ĩ như thế.

 

246. Tāsaṃ sokapahāṇatthaṃ avoca madhuraṃ giraṃ,
“Ruditena alaṃ puttā hāsakālo ’yamajja vo.

Nhằm mục đích xóa đi nỗi sầu muộn của họ, bà Gotamī đã nói với giọng nói ngọt ngào rằng: “Này các con, than khóc đã đủ rồi, hôm nay đây là thời điểm vui cười của các con.

 

247. Pariññātaṃ mayā dukkhaṃ dukkhahetu vivajjito,
nirodho me sacchikato maggo cāpi subhāvito.

Khổ đã được ta biết toàn diện, nhân của Khổ đã được ta dứt bỏ, sự Diệt Tận đã được ta tác chứng, và Đạo cũng đã được ta thực hành khéo léo.

 

 (Bhāṇavāraṃ paṭhamaṃ).
Tụng Phẩm thứ nhất.

 

248. Pariciṇṇo mayā satthā kataṃ buddhassa sāsanaṃ,
ohito garuko bhāro bhavanetti samūhatā.

Bậc Đạo Sư đã được ta phục vụ, lời dạy của đức Phật đã được ta thực hành, nhiệm vụ nặng nề đã được đặt xuống, lối dẫn đi tái sanh đã được xóa tan.

 

249. Yassatthāya pabbajitā agārasmānagāriyaṃ,
so me attho anuppatto sabbasaññojanakkhayo.

Vì mục đích nào ta đã rời khỏi gia đình xuất gia vào cuộc sống không gia đình, mục đích ấy tức là sự đoạn tận tất cả các sự trói buộc đã được ta đạt đến.

 

250. Buddho tassa ca saddhammo anūno yāva tiṭṭhati,

nibbātuṃ tāva kālo me mā maṃ socatha puttikā.

Này các con, đức Phật và Chánh Pháp không bị thiếu sót của Ngài vẫn còn tồn tại vào thời điểm Niết Bàn của ta, chớ có khóc than cho ta.

 

251. Koṇḍaññānandanandādī tiṭṭhanti rāhulo jino,
sukhito sahito saṅgho hatadappā ca titthiyā.

Koṇḍañña, Ānanda, Nanda, v.v..., vị Rāhula chiến thắng còn tại tiền, hội chúng là được an lạc, hòa hợp, còn đối với các ngoại đạo thì niềm kiêu hãnh đã bị tiêu tan.

 

252. Okkākavaṃsassa yaso usasito māramaddano,
nanu sampati kālo me nibbānatthāya puttikā.

Danh tiếng của dòng tộc Okkāka với sự tiêu diệt Ma Vương đã được giương cao. Này các con, chẳng phải chính lúc này là thời điểm cho mục đích Niết Bàn của ta hay sao?

 

253. Cirappabhūti yaṃ mayhaṃ patthitaṃ ajja sijjhate,
ānandabherikālo ’yaṃ kiṃ vo assūhi puttikā.

Điều ước nguyện của ta được nung đúc từ lâu hôm nay được thành tựu. Này các con, giờ đây là thời điểm của những tiếng trống vui mừng, việc gì với những giọt nước mắt của các con?

 

254. Sace mayi dayā atthi yadi catthi kataññutā,
saddhammaṭṭhitiyā sabbā karotha viriyaṃ daḷhaṃ.

Nếu có lòng thương mến đối với ta, và nếu có lòng bi mẫn, tất cả các con hãy thể hiện sự tinh tấn kiên cố cho sự tồn tại của Chánh Pháp.

 

255. Thīnaṃ adāsi pabbajjaṃ sambuddho yācito mayā,
tasmā yathāhaṃ nandissaṃ tathā tamanutiṭṭhatha.

Khi được ta thỉnh cầu, đấng Toàn Giác đã ban cho sự xuất gia một cách lưỡng lự. Do điều đó, ta đã hoan hỷ như thế nào thì các con hãy thuận theo điều ấy như thế.”

 

256. Tā evamanusāsitvā bhikkhunīhi purakkhatā,
upecca buddhaṃ vanditvā idaṃ vacanamabravi:

Sau khi dặn dò như thế, bà Gotamī dẫn đầu các vị tỳ khưu ni đã đi đến đảnh lễ đức Phật rồi đã nói lời nói này:

 

257. “Ahaṃ sugata mātā te tvaṃ ca vīra pitā mama,
saddhammasukhado nātha tayā jātamhi gotama.

Bạch đấng Thiện Thệ, con là mẹ của Ngài. Và bạch đấng Anh Hùng, Ngài là cha của con. Bạch đấng Lãnh Đạo, Ngài là người ban cho niềm an lạc trong Chánh Pháp. Bạch ngài Gotama, con đã được sanh ra bởi Ngài.

 

258. Saṃvaḍḍhīto ’yaṃ sugata rūpakāyo mayā tava,
anindiyo dhammakāyo mama saṃvaḍḍhīto tayā.

Bạch đấng Thiện Thệ, hình hài và thân xác này của Ngài đã được lớn mạnh là nhờ con. Còn Pháp thân không thể phê phán của con đã được tăng trưởng là nhờ vào Ngài.

 

259. Muhuttataṇhāsamanaṃ khīraṃ tvaṃ pāyito mayā,
tayāhaṃ santamaccantaṃ dhammakhīraṃ hi pāyitā.

Nhờ con, Ngài đã được uống nước sữa làm dịu đi sự khao khát trong chốc lát. Nhờ Ngài, con cũng đã được uống chính dòng sữa Giáo Pháp thanh tịnh vô cùng tận.

 

260. Vaddhanarakkhane mayhaṃ anaṇo tvaṃ mahāmune,
puttakāmā thiyo yā tā labhantu tādisaṃ sutaṃ.

Bạch đấng Đại Hiền Triết, trong việc dưỡng nuôi chăm sóc của con Ngài không có nợ nần. Mong sao cho các phụ nữ có lòng mong mỏi con trai có thể đạt được người con trai như thế này.

 

261. Mandhātādinarindānaṃ yā mātā sā bhavaṇṇave,
nimuggāhaṃ tayā putta tāritā bhavasāgarā.

Mẹ của các vị vua như đức vua Mandhātu, v.v... là ở trong biển cả của hiện hữu. Này con trai, ta đã bị chìm đắm, nhờ Ngài ta đã vượt qua khỏi đại dương của hiện hữu.

 

262. Rañño mātā mahesīti sulabhaṃ nāmamitthinaṃ,
buddhamātāti yaṃ nāmaṃ etaṃ paramadullabhaṃ.

Đối với hàng phụ nữ, danh xưng “Hoàng hậu mẹ của đức vua” là dễ dàng đạt được. Còn danh xưng “Người mẹ của đức Phật” là đạt được vô cùng khó khăn.

 

263. Tañca laddhaṃ mayā vīra paṇidhānaṃ mamaṃ tayā,
aṇukaṃ vā mahantaṃ vā taṃ sabbaṃ pūritaṃ mayā.

Và bạch đấng Anh Hùng, nhờ Ngài con đã đạt được điều ước nguyện ấy của con. Với con toàn bộ điều ấy dầu nhỏ bé hay lớn lao đều đã được tròn đủ.

 

 264. Parinibbātumicchāmi vihāyemaṃ kalebaraṃ,
anujānāhi me vīra dukkhantakara nāyaka.

Sau khi từ bỏ xác thân này con muốn viên tịch Niết Bàn. Bạch đấng Anh Hùng, vị Lãnh Đạo, bậc Đoạn Tận Khổ Đau, xin Ngài hãy cho phép con.

 

265. Cakkaṅkusadhajākiṇṇe pāde kamalakomale,
pasārehi paṇāmaṃ te karissaṃ puttapemasā.

Xin Ngài hãy duỗi ra (hai) bàn chân mềm dịu như hoa sen được điểm tô bằng những cây căm bánh xe và các ngọn cờ, con sẽ thể hiện sự tôn kính đến Ngài với lòng yêu mến đối với người con trai.

 

266. Suvaṇṇarāsisaṃkāsaṃ sarīraṃ kuru pākaṭaṃ,
katvā dehaṃ sudiṭṭhaṃ te santiṃ gacchāmi nāyaka.”

Bạch đấng Lãnh Đạo, xin Ngài hãy thể hiện rõ ràng thân thể tợ như khối vàng, sau khi thực hiện việc chiêm ngưỡng thân thể của Ngài, con sẽ đi về chốn an tịnh.”

 

267. Dvattiṃsalakkhaṇūpetaṃ suppabhālaṅkataṃ tanuṃ,
sañjhāghanāva bālakkaṃ mātucchaṃ dassayī jino.

Đấng Chiến Thắng đã khiến cho người dì nhìn thấy thân thể được thành tựu ba mươi hai tướng trạng và được điểm tô với những hào quang xinh xắn trông giống như ánh mặt trời non trẻ từ đám mây chiều.

 

268. Phullāravindasaṅkāse taruṇādiccasappabhe,
cakkaṅkite pādatale tato sā sirasā pati.

Sau đó, bà Gotamī đã đê đầu ở lòng bàn chân được in dấu hình bánh xe tợ như đóa hoa sen nở rộ, (và) chói sáng như mặt trời buổi bình minh.

 

269. “Paṇamāmi narādiccaṃ ādiccakulaketukaṃ,
pacchime maraṇe mayhaṃ na taṃ ikkhāmahaṃ puno.

Con xin đảnh lễ đấng mặt trời của nhân loại, vị tiêu biểu của dòng dõi mặt trời. Đây là lần tử biệt cuối cùng của con, con không gặp Ngài nữa rồi.

 

270. Itthiyo nāma lokagga sabbadosakarā matā,
yadi ko catthi doso me khamassu karuṇākara.

Bạch đấng Tối Cao của thế gian, hàng nữ nhân tạo nên mọi điều xấu xa rồi chết đi. Và bạch đấng Thực Hành bi mẫn, nếu con có điều sai trái gì xin Ngài tha thứ.

 

271. Itthikānañca pabbajjaṃ yamahaṃ yāciṃ punappunaṃ,
tattha ce atthi doso me taṃ khamassu narāsabha.”

Và bạch đấng Nhân Ngưu, con đã liên tục cầu xin sự xuất gia cho hàng phụ nữ, trong việc này nếu con có điều sai trái, xin Ngài hãy thứ tha điều ấy.

 

272. Mayā bhikkhuniyo vīra tavānuññāya sāsitā,
tatra ce atthi dunnītaṃ taṃ khamassu khamādhipa.

Bạch đấng Đại Hùng, các tỳ khưu ni đã được con dạy dỗ với sự cho phép của Ngài. Bạch đấng Chúa Tể về kham nhẫn, trong trường hợp này nếu có vấn đề huấn luyện kém cỏi, xin Ngài hãy thứ tha điều ấy.”

 

273. “Akkhante nāma khantabbaṃ kiṃ bhave guṇabhūsane,
kimuttaraṃ te vakkhāmi nibbānāya vajantiyā.

Này người có đức hạnh là vật trang điểm, có thể kham nhẫn những điều gọi là không thể kham nhẫn thì còn có việc gì? Ta sẽ nói điều gì hơn nữa về bà là người đang tiến đến Niết Bàn?

 

274. Suddhe anūne mama bhikkhusaṅghe
lokā ito nissarituṃ kamante,
pabhātakāle vyasanaṃ gahānaṃ
disvāna niyyāti va candalekhā.

Khi hội chúng tỳ khưu của Ta là thanh tịnh không khiếm khuyết đang tiến bước để ra khỏi thế gian này, ví như vầng trăng ra đi vào lúc rạng đông sau khi đã nhìn thấy sự biến mất dần của các vì thiên thể.”

 

275. Tadetarā bhikkhuniyo jinaggaṃ
tārāva candānugatā sumeruṃ,
padakkhiṇaṃ katva nipacca pāde
ṭhitā mukhantaṃ samudikkhamānā.

Khi ấy, các vị tỳ khưu ni kia đã hướng vai phải nhiễu quanh đấng Chiến Thắng tối cao, trông giống như các vì sao theo gót mặt trăng di chuyển xung quanh núi Sumeru, sau đó đã quỳ xuống đê đầu ở bàn chân (đức Phật) rồi đứng lên chiêm ngưỡng khuôn mặt (của Ngài).

 

276. “Na tittapubbaṃ tava dassanena
cakkhuṃ na sotaṃ tava bhāsitena,
cittaṃ mamaṃ kevalamekameva
pappuyya taṃ dhammarasena tittiṃ.

Mắt chưa có sự thỏa mãn đối với việc nhìn ngắm Ngài, tai chưa có sự thoả mãn đối với việc được (nghe) Ngài thuyết giảng, chỉ riêng một mình tâm của con đã đạt được sự thoả mãn ấy nhờ vào hương vị của Giáo Pháp.

 

277. Nadato parisāyaṃ te vādidappāpahārino,
ye te dakkhanti vadanaṃ dhaññā te narapuṅgava.

Bạch đấng Cao Quý của loài người, Ngài là vị đánh đổ sự kiêu căng của những người đối chất, khi Ngài đang tuyên thuyết ở hội chúng những người nào nhìn thấy khuôn mặt của Ngài, những người ấy là hữu duyên.

 

278. Dīghaṅgulī tambanakhe subhe āyatapaṇhike,
ye pāde paṇamissanti tepi dhaññā guṇandhara.

Bạch đấng có lóng (tay chân) dài, những người nào sẽ khom mình ở bàn chân xinh đẹp có gót chân nhô ra, bạch bậc Thượng Đức, những người ấy cũng là hữu duyên.

 

279. Madhurāni pahaṭṭhāni dosagghāni hitāni ca,
ye te vākyāni sossanti tepi dhaññā naruttama.

Bạch đấng Thượng Nhân, những người nào sẽ lắng nghe những lời nói ngọt ngào, vui vẻ, tiêu diệt lỗi lầm, và có lợi ích của Ngài, những người ấy cũng là hữu duyên.

 

280. Dhaññāhaṃ te mahāvīra pādapūjanatapparā,
tiṇṇasaṃsārakantārā suvākyena sirīmato.”

Bạch đấng Đại Hùng, với sự nhiệt tâm trong việc lễ bái bàn chân (Ngài), con đã vượt qua khu rừng rậm luân hồi nhờ vào lời thiện thuyết của đấng Quang Vinh, con là hữu duyên với Ngài.

 

281. Tato sā anusāsetvā bhikkhusaṅghampi subbatā,
rāhulānandanande ca vanditvā idamabravi:

Sau đó, vị ni có hạnh kiểm tốt đẹp ấy cũng đã thông báo đến hội chúng tỳ khưu. Và sau khi đảnh lễ các vị Rāhula, Ānanda, Nanda, bà đã nói điều này:

 

282. “Āsīvisālayasame rogāvāse kalebare,
nibbinnā dukkhasaṃghāte jarāmaraṇagocare.

Ta nhờm gớm cái xác thân tợ như chỗ trú của rắn độc, là chỗ ngụ của bệnh tật, bị chồng chất khổ đau, là chốn lai vãng của sự già và sự chết, ...

 

283. Nānākalimalākiṇṇe parāyatte nirīhake,
tena nibbātumicchāmi anumaññatha puttakā.”

... đầy rẫy nhiễm ô và tội lỗi, lệ thuộc vào người khác, không năng động. Vì thế Mẹ muốn Niết Bàn. Này các con trai, hãy thông cảm (cho Mẹ).”

 

284. Nando rāhulabhaddo ca vītasokā nirāsavā,
ṭhītācalaṭṭhītithīrā dhammataṃ anucintayuṃ.

Vị Nanda và bậc hiền thiện Rāhula, có sầu muộn đã lìa, không còn lậu hoặc, bền vững, không bị lay động, chắc chắn, kiên quyết, đã suy xét về lẽ tự nhiên rằng:

 

285. Dhīratthu saṅkhataṃ lolaṃ asāraṃ kadalūpamaṃ,
māyāmarīcisadisaṃ ittaraṃ anavaṭṭhitaṃ.

Thật là xấu hổ cho (xác thân) bị tạo tác, chao đảo, không có lõi tương tợ như cây chuối, giống như trò xảo thuật hay ảo ảnh, ngắn ngủi, không bền vững.

 

286. Yattha nāma jinassāyaṃ mātucchā buddhaposikā,
gotamī nidhanaṃ yāti aniccaṃ sabbasaṅkhataṃ.”

Ngay cả bà Gotamī này, đối với đấng Chiến Thắng là người dì, là người nuôi dưỡng Đức Phật, rồi cũng đi đến sự tử vong; tất cả pháp hữu vi là vô thường.”

 

287. Ānando ca tadā sekho sokaṭṭo jinavacchalo,
tatthassūni dharanto so karuṇaṃ paridevati.

Và lúc bấy giờ, ngài Ānanda, vị có lòng thương mến đối với đấng Chiến Thắng, là bậc hữu học, đã bị dằn vặt vì sầu muộn. Tại đó, trong khi tuôn trào những giọt lệ, vị ấy rên rĩ nỗi tiếc thương:

 

288. “Hā santiṃ gotamī yāti nūna buddhopi nibbutiṃ,
gacchati na cireneva aggiriva nirindhano.”

Hỡi ôi! Bà Gotamī đi đến chốn thanh tịnh. Hiển nhiên, chẳng bao lâu nữa đức Phật cũng đi đến tịch diệt ví như ngọn lửa hết nguồn nhiên liệu.”

 

289. Evaṃ vilapamānaṃ taṃ Ānandaṃ āha gotamī:
“Sutisāgaragambhīra buddhupaṭṭhānatappara.

Bà Gotamī đã nói với vị Ānanda đang than vãn ấy như vầy: “Này vị sâu sắc như biển cả về việc nghe (học hỏi). Này vị nhiệt tâm trong việc hầu cận đức Phật ...

 

290. Na yuttaṃ socituṃ putta hāsakāle upaṭṭhite,
tava me saraṇaṃ putta nibbānaṃ samupāgataṃ.

Này con trai, chớ miệt mài thương tiếc khi thời điểm cười vui đã đến đối với con. Này con trai, nơi nương nhờ của ta là Niết Bàn đã đến.

 

291. Tayā tāta samajjhiṭṭho pabbajjaṃ anujāni no,
mā putta vimano hohi saphalo te parissamo.

Này con yêu, được cầu khẩn bởi con (đức Phật) đã cho phép sự xuất gia đến chúng tôi. Này con trai, chớ có phiền muộn, sự nỗ lực của con là có kết quả.

 

292. Yaṃ na diṭṭhaṃ purāṇehi titthikācariyehi pi,
taṃ padaṃ sukumārīhi sattavassāhi veditaṃ.

Đạo lộ ấy thậm chí không được nhìn thấy bởi các vị ngoại đạo sư trước đây lại được biết đến bởi những bé gái hiền thiện bảy tuổi.

 

293. Buddhasāsanapāletā pacchimaṃ dassanaṃ tava,
tattha gacchāmahaṃ putta gato yattha na dissate.”

Này vị hộ trì Giáo Pháp của đức Phật, (giờ là) lần nhìn thấy cuối cùng của con. Này con trai, nơi nào đi đến mà không được nhìn thấy thì ta đi đến nơi ấy.”

 

294. Kadāci dhammaṃ desento khipi lokagganāyako,

tadāhaṃ āsiṃsavacaṃ avocaṃ anukampikā:

Có lần nọ đấng Lãnh Đạo tối cao của thế gian bị hắt hơi trong khi đang thuyết giảng Giáo Pháp, khi ấy với lòng từ mẫn tôi đã nói lời mong mỏi rằng:

 

295. “Ciraṃ jīva mahāvīra kappaṃ tiṭṭha mahāmune,
sabbalokassa atthāya bhavassu ajarāmaro.”

Bạch đấng Đại Hùng, xin Ngài hãy sống thọ. Bạch bậc Đại Hiền Triết, xin Ngài hãy tồn tại trọn kiếp. Vì lợi ích của tất cả thế gian, xin Ngài hãy là vị thiên thần bất lão.”

 

296. Taṃ tathāvādiniṃ buddho mamaṃ so etadabravi:
“Na hevaṃ vandiyā buddhā yathā vandasi gotamī.”

Đối với tôi là người nữ có lời nói như thế về điều ấy, đức Phật ấy đã nói điều này: “Này Gotamī, chư Phật không nên được tôn vinh như thế, giống như cách bà đã tôn vinh.”

 

297. “Kathaṃ carahi sabbaññu vanditabbā tathāgatā,
kathaṃ avandiyā buddhā taṃ me akkhāhi pucchito.”

Bạch đấng Toàn Tri, vậy thì các đấng Như Lai là nên được tôn vinh như thế nào? Chư Phật là không nên được tôn vinh như thế nào? Được hỏi, xin Ngài hãy giảng cho con về điều ấy.”

 

298. “Āraddhaviriye pahitatte niccaṃ daḷhaparakkame,
samagge sāvake passe esā buddhānavandanā.”

Bà hãy nhìn xem các vị đệ tử là có sự ra sức tinh tấn, có tính khẳng quyết, có sự nỗ lực mạnh mẽ một cách bền bĩ, có sự hòa hợp; ấy là sự tôn vinh chư Phật.”

 

299. Tato upassayaṃ gantvā ekikāhaṃ vicintayiṃ,
samaggaṃ parisaṃ nātho roceti tibhavantago.

Từ nơi ấy, sau khi đi về ni viện, chỉ có một mình tôi đã suy nghiệm rằng: “Đấng Bảo Hộ, vị đi đến tận cùng Tam Giới hài lòng về tập thể có sự hòa hợp.

 

300. Handāhaṃ parinibbissaṃ mā vipattiṃ tamaddasaṃ,”
evāhaṃ cintayitvāna disvāna isisattamaṃ.

Vậy thì ta sẽ Niết Bàn, ta chớ chứng kiến sự băng hoại ấy.” Sau khi suy nghĩ như thế, tôi đã diện kiến bậc Đệ Nhất Ẩn Sĩ.

 

301. Parinibbānakālaṃ me ārocesiṃ vināyakaṃ,
tato so samanuññāsi “Kālaṃ jānāhi gotamī.”

Tôi đã thông báo thời điểm viên tịch Niết Bàn của tôi đến bậc Hướng Đạo. Sau đó, vị ấy đã đồng ý rằng: “Này Gotamī, bà hãy biết lấy thời điểm.”

 

302. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā.

Các phiền não của con đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), con sống không còn lậu hoặc.

 

303. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Quả vậy, con đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

 

304. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Con đã đắc chứng bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; con đã thực hành lời dạy của đức Phật.”

 

305. Thīnaṃ dhammābhisamaye ye bālā vimatiṃ gatā,
tesaṃ diṭṭhipahānatthaṃ iddhiṃ dassehi gotamī.

Này Gotamī, những kẻ ngu đi đến sự không chú tâm và sự trì trệ trong việc lãnh hội Giáo Pháp, bà hãy thị hiện thần thông vì lợi ích cho sự từ bỏ tà kiến của những kẻ ấy.”

 

306. Tadā nipacca sambuddaṃ uppatitvāna ambaraṃ,
iddhī anekā dassesi buddhānuññāya gotamī.

Khi ấy, với sự cho phép của đức Phật, bà Gotamī đã cúi mình (kính lễ) đấng Toàn Giác rồi đã bay lên không trung và đã thị hiện nhiều loại thần thông.

 

307. Ekikā bahudhā āsi bahukā cekikā tathā,
āvibhāvaṃ tirobhāvaṃ tirokuḍḍaṃ tironagaṃ.

308. Asajjamānā agamā bhūmiyampi nimujjatha,
abhijjamāne udake agañchi mahiyā yathā.

Là một, bà đã trở thành nhiều, và tương tợ như thế là nhiều trở thành một. Bà đã hiện ra, biến mất, đi xuyên qua vách tường, xuyên qua ngọn núi không bị chướng ngại. Bà cũng đã chìm vào trong trái đất. Bà đã đi ở trên nước mà không làm chao động như là ở trên đất liền.

 

309. Sakuṇīva yathākāse pallaṅkena gamī tadā,
vasaṃ vattesi kāyena yāva brahmanivesanaṃ.

Khi ấy, bà đã di chuyển với thế kiết già tương tợ như là loài chim ở trên không trung. Bằng thân bà đã thể hiện sự tác động đến tận chỗ ngụ của đấng Phạm Thiên.

 

310. Sineruṃ daṇḍaṃ katvāna chattaṃ katvā mahāmahiṃ,
samūlaṃ parivattetvā dhārentī caṅkamī nabhe.

Sau khi đã làm ngọn núi Sineru thành cây cán lọng và đã làm đại địa cầu thành cái lọng che, bà đã xoay ngược lại đến tận gốc rễ. Trong khi che lọng bà đã đi kinh hành ở hư không.

 

311. Chassūrodayakāleva lokañcākāsi dhūmikaṃ,
yugante viya lokaṃ sā jālāmālākulaṃ akā.

Và bà đã làm thế gian mù mịt khói đúng vào lúc mọc lên của sáu mặt trời. Bà đã gây rối ren bằng những tràng hoa rực lửa như là thế gian vào lúc hoại kiếp.

 

312. Mucalindaṃ mahāselaṃ meru mandāra daddare,
sāsaperiva sabbāni ekenaggahi muṭṭhinā.

Về tảng đá khổng lồ Mucalinda, núi Meru, núi Mandāra, và núi Daddara, bà đã nắm lấy toàn bộ bằng một nắm tay như là (nắm lấy) những hạt cải.

 

313. Aṅgulaggena chādesi bhākaraṃ sanisākaraṃ,
candasūrasahassāni āvelamiva dhārayi.

Với đầu ngón tay bà đã che khuất mặt trời cùng với mặt trăng. Bà đã nắm giữ một ngàn mặt trăng và mặt trời như là (nắm giữ) tràng hoa đội đầu.

 

314. Catusāgaratoyāni dhārayī ekapāṇinā,
yugantajaladākāraṃ mahāvassaṃ pavassayī.

Bà đã nắm giữ nước của bốn bể bằng một bàn tay, đã làm đổ mưa trận mưa lớn có hình dáng của đám mây đen vào lúc tận thế.

 

315. Cakkavattiṃ saparisaṃ māpayī sā nabhatthale.
garuḷaṃ dviradaṃ sīhaṃ vinadantaṃ ca dassayī.

Bà đã biến hóa thành vị Chuyển Luân Vương cùng với tùy tùng ở bề mặt của không trung. Bà đã khiến cho nhìn thấy loài kim-sỉ-điểu, loài voi, và loài sư tử đang gầm rống.

 

316. Ekikā abhinimmitvāppameyyaṃ bhikkhunīgaṇaṃ,
puna antaradhāpetvā ekikā munimabravī:

Chỉ một mình, bà đã biến hóa thành hội chúng tỳ khưu ni vô số kể sau đó lại làm cho biến mất chỉ còn một mình, rồi đã nói với bậc Hiền Triết rằng:

 

317. “Mātucchā te mahāvīra tavasāsanakārikā,
anuppattā sakaṃ atthaṃ pāde vandati cakkhuma.”

Bạch đấng Đại Hùng, bạch bậc Hữu Nhãn, người dì cùa Ngài, là người nữ thực hành theo lời dạy của Ngài, đã đạt được lợi ích cho bản thân, (xin) đảnh lễ ở bàn chân (Ngài).”

 

318. Dassetvā vividhā iddhī orohitvā nabhatthalā,
vanditvā lokapajjotaṃ ekamantaṃ nisīdi sā.

Sau khi thị hiện nhiều thể loại thần thông, vị ni ấy đã từ bề mặt của không trung đáp xuống đảnh lễ đấng Quang Đăng của thế gian rồi đã ngồi xuống ở một bên.

 

319. “Sā vīsaṃvassasatikājātiyāhaṃ mahāmune,

alamettāvatā vīra nibbāyissāmi nāyaka.”

Bạch đấng Đại Hiền Triết, con đây đã được một trăm hai mươi tuổi tính từ lúc sanh. Bạch đấng Anh Hùng, chừng ấy là vừa đủ. Bạch đấng Lãnh Đạo, con sẽ Niết Bàn.”

 

320. Tadā ’tivimhitā sabbā parisā sā katañjalī,
avoc’ ayye kathaṃ āsi atuliddhiparakkamā.

Khi ấy, toàn thể hội chúng ấy vô cùng sửng sốt đã chắp tay lên nói rằng: “Thưa ni sư, làm thế nào bà đã trở thành vị có thần thông và sự nỗ lực không thể sánh bằng?

 

321. Padumuttaro nāma jino sabbadhammesu cakkhumā,
ito satasahassamhi kappe uppajji nāyako.

Trước đây một trăm ngàn kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc Hữu Nhãn về tất cả các pháp đã hiện khởi.

 

322. Tadāhaṃ haṃsavatiyaṃ jātāmaccakule ahuṃ,
sabbūpakārasampanne iddhe phīte mahaddhane.

Khi ấy, tôi đã được sanh ra ở tại Haṃsavatī, trong gia đình vị quan cận thần có đủ mọi thứ tiện nghi, sung túc, thịnh vượng, có đại tài sản.

 

323. Kadāci pitunā saddhiṃ dāsigaṇapurakkhatā,
mahatā parivārena taṃ upecca narāsabhaṃ.

Có lần nọ, tôi đã dẫn đầu nhóm nữ tỳ cùng người cha với đoàn tùy tùng đông đảo đi đến đấng Nhân Ngưu ấy.

 

324. Vāsavaṃ viya vassentaṃ dhammameghaṃ anāsavaṃ,
saradādiccasadisaṃ raṃsimālākulaṃ jinaṃ.

Tợ như vị (Thiên Vương) Vāsava đang làm mưa, đấng Chiến Thắng, bậc không còn lậu hoặc, rực rỡ với quầng hào quang giống như mặt trời của mùa thu, đang làm đổ xuống cơn mưa Pháp.

 

325. Disvā cittaṃ pasādetvā sutvā cassa subhāsitaṃ,
mātucchaṃ bhikkhuniṃ agge ṭhapentaṃ naranāyakaṃ.

Sau khi nhìn thấy, tôi đã khởi tâm tịnh tín và đã lắng nghe (Pháp) khéo được thuyết giảng của vị đấng Lãnh Đạo nhân loại ấy khi Ngài đang thiết lập vị tỳ khưu ni Mātucchā vào vị thế hàng đầu.

 

326. Sutvā datvā mahādānaṃ sattāhaṃ tassa tādino,
sasaṅghassa naraggassa paccayāni bahūni ca.

Sau khi lắng nghe và sau khi đã cúng dường đại thí và nhiều vật dụng trong bảy ngày đến bậc Tối Thượng Nhân như thế ấy cùng với hội chúng (của Ngài), ...

 

327. Nipajja pādamūlamhi taṃ ṭhānaṃ abhipatthayiṃ,
tato mahāparisatiṃ avoca isisattamo:

... Tôi đã nằm dài xuống ở bàn chân (Ngài) và đã phát nguyện vị thế ấy. Sau đó, vị Đệ Nhất Ẩn Sĩ đã nói với đoàn tùy tùng đông đảo rằng:

 

328. “Yā sasaṅghaṃ abhojesi sattāhaṃ lokanāyakaṃ,
tamahaṃ kittayissāmi suṇātha mama bhāsato.

Người nữ nào đã cúng dường vật thực đến vị Lãnh Đạo Thế Gian cùng với hội chúng trong bảy ngày, Ta sẽ tán dương người nữ ấy. Các người hãy lắng nghe Ta nói.

 

329. Satasahasse ito kappe okkākakulasambhavo,
gotamo nāma gottena satthā loke bhavissati.

Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.

 

330. Tassa dhammesu dāyādā orasā dhammanimmitā,
gotamī nāma nāmena hessati satthusāvikā.

(Người n này) sẽ trở thành nữ thinh văn của bậc Đạo Sư, là người tha t Giáo Pháp ca v (Pht) y, là chánh thng, được to ra t Giáo Pháp, có tên là Gotamī.

 

331. Tassa buddhassa mātucchā jīvitāpādikā ayaṃ,
rattaññūnañca aggattaṃ bhikkhunīnaṃ labhissati.”

Người nữ này sẽ là người dì nuôi dưỡng mạng sống của vị Phật ấy và sẽ đạt được vị thế hạng nhất trong số các tỳ khưu ni kỳ cựu.” 

 

332. Taṃ sutvāna pamuditā yāvajīvaṃ tadā jinaṃ,
paccayehi upaṭṭhitvā tato kālakatā ahaṃ.

Sau khi nghe điều ấy, được hoan hỷ, khi ấy tôi đã hộ độ đấng Chiến Thắng bằng các vật dụng cho đến hết cuộc đời, sau đó đã từ trần.

 

333. Tāvatiṃsesu devesu sabbakāmasamiddhisu,
nibbattā dasahaṅgehi aññe abhibhaviṃ ahaṃ.

Được sanh lên giữa chư Thiên thuộc cõi Đạo Lợi có các sự dồi dào về mọi dục lạc, tôi đã vượt trội các vị (trời) khác về mười phương diện:

 

334. Rūpasaddehi gandhehi rasehi phusanehi ca,
āyunāpi ca vaṇṇena sukhena yasasāpi ca.

Là các sắc, các thinh, các hương, các vị, và các xúc, luôn cả tuổi thọ và sắc đẹp, sự an lạc và luôn cả danh tiếng nữa.

 

335. Tathevādhipateyyena adhigayha viroc’ ahaṃ,
ahosiṃ amarindassa mahesī dayitā tahiṃ.

Với ưu thế như thế ấy, tôi đã nổi bật và sáng chói. Tôi đã là hoàng hậu yêu dấu của vị Trời Đế Thích ở tại nơi ấy.

 

336. Saṃsāre saṃsarantīhaṃ kammavāyusameritā,
kāsissa rañño visaye ajāyiṃ dāsagāmake.

Trong khi trôi nổi luân hồi, bị dời chuyển dưới tác động của nghiệp, tôi đã được sanh ra ở trong ngôi làng dân nô lệ thuộc lãnh địa của đức vua Kāsi.

 

337. Pañcadāsasatānūnā nivasanti tahiṃ tadā,
sabbesaṃ tattha yo jeṭṭho tassa jāyā ahos’ ahaṃ.

Khi ấy, có không dưới năm trăm người nô lệ cư ngụ ở tại nơi ấy. Ở nơi ấy, người nào là đứng đầu của tất cả (nhóm người nô lệ), tôi đã trở thành vợ của người ấy.

 

338. Sayambhuno pañcasatā gāmaṃ piṇḍāya pāvisuṃ,
te disvāna ahaṃ tuṭṭhā saha sabbehi ñātihi.

Năm trăm bậc Tự Chủ đã đi vào làng để khất thực. Sau khi nhìn thấy những vị ấy, tôi đã vui mừng cùng với tất cả thân quyến.

 

339. Katvā pañcasatakuṭī catumāse upaṭṭhiya,
ticīvarāni datvāna pasannāmha sasāmikā.

Sau khi đã xây dựng năm trăm cốc liêu, đã hộ độ trong bốn tháng, đã cúng dường ba y, chúng tôi cùng với những người chồng đã hoan hỷ.

 

340. Tato cutā sapatikā tāvatiṃsagatā mayaṃ,
pacchime ca bhave ’dāni jātā devadahe pure.

Từ nơi ấy chết đi, chúng tôi cùng với những người chồng đã đi đến cõi trời Đạo Lợi. Và trong kiếp sống cuối cùng hiện nay, chúng tôi đã được sanh về thành phố Devadaha.

 

341. Pitā añjanasakko me mātā mama sulakkhaṇā,
tato kapilavatthusmiṃ suddhodanagharaṃ gatā.

Cha của tôi là Añjana thuộc dòng Sakya, mẹ của tôi là (hoàng hậu) Sulakkhaṇā. Sau đó, tôi đã đi đến nhà (làm vợ) của (đức vua) Suddhodana ở thành Kapilavatthu.

 

342. Sesā sakyakule jātā sakyānaṃ gharamāgamuṃ,
ahaṃ visiṭṭhā sabbāsaṃ jinassāpādikā ahuṃ.

Những người còn lại đã được sanh vào gia tộc Sakya, đã đi đến nhà (làm vợ) của các vị dòng Sakya. Là ưu việt trong số tất cả, tôi đã là người bảo mẫu của đấng Chiến Thắng.

 

343. Mama putto ’bhinikkhamma buddho āsi vināyako,
pacchāhaṃ pabbajitvāna satehi saha pañcahi.

Người con trai của tôi sau khi lìa bỏ ra đi đã trở thành đức Phật, bậc Hướng Đạo. Về sau, tôi đã xuất gia cùng với năm trăm vị (công nương).

 

344. Sākiyānihi dhīrāhi saha santisukhaṃ phusiṃ,
ye tadā pubbajātiyaṃ amhākaṃ ahu sāmino.

Cùng với các công nương dòng Sakya, tôi đã chạm đến sự an lạc của Niết Bàn. Khi ấy, những người nào đã là chồng của chúng tôi trong cuộc sống trước đây, …

 

345. Saha puññassa kattāro mahāsamayakārakā,
phusiṃsu arahattaṃ te sugatenānukampitā.

… những người cùng thực hiện phước báu, những người đã tạo ra thời điểm trọng đại, được đấng Thiện Thệ thương tưởng những người ấy đã chạm đến quả vị A-la-hán.

 

346. Tadetarā bhikkhuniyo āruhiṃsu nabhatthalaṃ,
saṅgatā viya tārāyo virociṃsu mahiddhikā.

Khi ấy, các vị tỳ khưu ni kia đã ngự lên bề mặt của không trung. Có đại thần lực, các vị ni đã chói sáng như là các vì sao đã được quần tụ lại.

 

347. Iddhī anekā dassesuṃ piḷandhavikatī yathā,
kammāro kanakasseva kammaññassa susikkhito.

Các vị ni đã thị hiện nhiều loại thần thong, tương tợ như những thợ vàng khéo được huấn luyện đã làm ra nhiều mẫu mã trang sức đối với kim loại vàng đã được chế biến.

 

348. Dassetvā pāṭihīrāni vicittāni bahūni ca,
tosetvā vādipavaraṃ muniṃ saparisaṃ tadā.

Khi ấy, các vị ni đã thị hiện các phép lạ đa dạng nhiều loại và đã làm hoan hỷ đấng Hiền Triết, vị thuyết giảng hàng đầu, cùng với đồ chúng.

 

349. Orohitvāna gaganā vanditvā isisattamaṃ,
anuññātā naraggena yathāṭhāne nisīdisuṃ.

Sau khi từ không trung đáp xuống, các vị ni đã đảnh lễ bậc Ẩn Sĩ tối thượng. Được sự cho phép của đấng Tối Thượng Nhân, các vị ni đã ngồi xuống đúng theo vị thế (nói rằng):

 

350. “Aho ’nukampikā amhaṃ sabbāsaṃ vīra gotamī,
vāsitā tava puññehi pattā no āsavakkhayaṃ.

Ôi! Bạch đấng Anh Hùng, bà Gotamī là người có lòng từ mẫn đối với tất cả chúng con. Được sống nhờ vào những phước báu của Ngài, chúng con đã đạt được sự đoạn tận các lậu hoặc.

 

351. Kilesā jhāpitā amhaṃ bhavā sabbe samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāma anāsavā.

Các phiền não của chúng con đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là những con voi cái (đã được cởi trói), chúng con sống không còn lậu hoặc.

 

352. Svāgataṃ vata no āsi buddhaseṭṭhassa santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Quả vậy, chúng con đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

 

353. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Chúng con đã đắc chứng bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; chúng con đã thực hành lời dạy của đức Phật.

 

354. Iddhīsu ca vasī homa dibbāya sotadhātuyā,
cetopariyañāṇassa vasī homa mahāmune.

Bạch đấng Đại Hiền Triết, chúng con đã có năng lực về các loại thần thông và thiên nhĩ giới, chúng con đã có năng lực về trí biết tâm của người khác.

 

355. Pubbe nivāsaṃ jānāma dibbacakkhu visodhitaṃ,
sabbāsavā parikkhīṇā natthidāni punabbhavo.

Chúng con biết được đời sống trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, giờ đây không còn tái sanh nữa.

 

356. Atthe ca dhamme nerutte paṭibhāne ca vijjati,
ñāṇaṃ amhaṃ mahāvīra uppannaṃ tava santike.

Bạch đấng Đại Hùng, trí của chúng con về ý nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và về phép biện giải là được phát hiện, được thành tựu trong sự hiện diện của Ngài.

 

357. Asmāhi pariciṇṇo ’si mettacittāhi nāyaka,
anujānāhi sabbāsaṃ nibbānāya mahāmune.”

Bạch đấng Lãnh Đạo, Ngài đã hành sử đối với chúng con bằng các từ tâm.
Bạch đấng Đại Hiền Triết, xin Ngài cho phép về việc Niết Bàn đến tất cả (chúng con).

 

358. “Nibbāyissāma iccevaṃ kiṃ vakkhāmi vadantiyo,
yassadāni ca vo kālaṃ maññāthā’ti jino ’bravi.

Đấng Chiến Thắng đã nói rằng: “Khi các nàng nói: ‘Chúng con sẽ Niết Bàn,’ như thế thì Ta còn nói điều gì nữa. Vậy thì giờ đây, các nàng hãy suy nghĩ về thời điểm của các nàng.”

 

359. Gotamī ādikā tāyo tadā bhikkhuniyo jinaṃ,
vanditvā āsanā tamhā vuṭṭhāya agamaṃsu tā.

Khi ấy, các vị tỳ khưu ni ấy đứng đầu là Gotamī, v.v... đã đảnh lễ đấng Chiến Thắng rồi đã từ chỗ ngồi ấy đứng dậy và các vị ni ấy đã ra đi.

 

360. Mahatā janakāyena saha lokagganāyako,
anusaṃyāyi so vīro mātucchaṃ yāva koṭṭhakaṃ.

Bậc Anh Hùng ấy, vị Lãnh Đạo tối cao của thế gian cùng với đại chúng đông đảo đã cùng đi theo người dì cho đến tận cổng.

 

361. Tadā nipati pādesu gotamī lokabandhuno,
sahetarāhi sabbāhi pacchimaṃ pādavandanaṃ.

Khi ấy, bà Gotamī đã cúi xuống ở các bàn chân của đấng Quyến Thuộc thế gian, là sự đảnh lễ bàn chân lần cuối cùng với tất cả các vị ni kia.

 

362. “Idaṃ pacchimakaṃ mayhaṃ lokanāthassa dassanaṃ,
na puno amatākaraṃ passissāmi mukhaṃ tava.

"Đây là lần nhìn thấy đấng Bảo Hộ Thế Gian lần cuối cùng của con. Con sẽ không còn nhìn thấy lại khuôn mặt của Ngài là nguồn phát sanh lên sự bất tử.

 

363. Na ca me vandanaṃ vīra tava pāde sukomale,
samphusissāmi lokagga ajja gacchāmi nibbutiṃ.

Và bạch đấng Anh Hùng, (đây) không phải là sự đảnh lễ của con ở bàn chân vô cùng mềm mại của ngài. Bạch đấng Tối Cao của thế gian, con sẽ sờ nắn (chúng); hôm nay con đi đến nơi an tịnh.

 

364. Rūpena kiṃ tavānena diṭṭhe dhamme yathātathe,
sabbaṃ saṅkhatamevetaṃ anassāsitamittaraṃ.”

Có gì với sắc tướng này của Ngài khi pháp đã được thấy đúng theo bản thể? Toàn bộ sắc tướng này chỉ là hữu vi, không được thoải mái, là tạm bợ.”

 

365. Sā tāhi saha gantvāna bhikkhunupassayaṃ sakaṃ,
aḍḍhapallaṅkamābhujja nisīdi paramāsane.

Sau khi đi về tu viện tỳ khưu ni của mình cùng với các vị ni ấy, bà Gotamī đã xếp chân bán già ngồi xuống ở trên chỗ ngồi cao nhất.

 

366. Tadā upāsikā tattha buddhasāsanavacchalā,
tassā pavattiṃ sutvāna upesuṃ pādavandikā.

Khi ấy, các nữ cư sĩ mến chuộng Phật Pháp ở tại nơi ấy, sau khi nghe được tin tức về bà ấy đã đi đến đảnh lễ ở bàn chân.

 

367. Karehi uraṃ pahantvā chinnamūlā yathā latā,
rodantā karuṇaṃ rāvaṃ sokaṭṭā bhūmipātikā.

Bị dằn vặt vì sầu muộn, họ đã đấm vào ngực bằng những bàn tay. Rồi giống như là các dây leo bị chặt đứt gốc rễ, họ đã ngã xuống ở trên đất trong khi nức nở tiếng khóc lóc thảm thương rằng:

 

368. “Mā no saraṇade nāthe vihāya gami nibbutiṃ,
nipatitvāna yācāma sabbāyo sirasā mayaṃ.”

Hỡi người ban bố sự nương nhờ, hỡi người bảo hộ, xin người đừng từ bỏ chúng con mà đi đến nơi an tịnh. Toàn thể người nữ chúng con quỳ xuống đê đầu thỉnh cầu (người).”

 

369. Yā padhānatamā tāsaṃ saddhā paññā upāsikā,
tassā sīsaṃ pamajjantī idaṃ vacanamabravi:

Trong khi xoa đầu của người nữ cư sĩ có sự nỗ lực cao nhất, có tín tâm, có trí tuệ trong số ấy, bà Gotamī đã nói lời nói này:

 

370. “Alaṃ puttā visādena mārapāsānuvattinā,
aniccaṃ saṅkhataṃ sabbaṃ viyogantaṃ calācalaṃ.”

Này các con, thôi đủ rồi bởi vì thất vọng là sự xoay vần theo mưu kế của Ma Vương. Tất cả pháp hữu vi là vô thường, sự chia lìa và sự tử vong là không chừng đổi.”

 

371. Tato sā tā vissajjitvā paṭhamaṃ jhānamuttamaṃ,
dutiyaṃ tatiyaṃ cāpi samāpajji catutthakaṃ.

Sau đó, bà ấy đã giã từ những người nữ ấy rồi đã thể nhập bậc thiền tối thượng thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, và luôn cả bậc thứ tư.

 

372. Ākāsāyatanañceva viññāṇāyatanaṃ tathā,
ākiñcaññaṃ nevasaññaṃ samāpajji yathākkamaṃ.

Tương tợ như thế, theo tuần tự bà đã thể nhập không gian xứ, thức xứ, vô sở hữu, phi tưởng.

 

373. Paṭilomena jhānāni samāpajjittha gotamī,
yāvatā paṭhamaṃ jhānaṃ tato yāva catutthakaṃ.

Bà Gotamī đã thể nhập các bậc thiền theo chiều nghịch về lại bậc thiền thứ nhất, rồi từ đó tiến đến bậc thứ tư.

 

374. Tato vuṭṭhāya nibbāyi dīpaccīva nirāsanā,
bhūmicālo mahā āsi nabhasā vijjutā pati.

Từ đó bà đã xuất ra và đã Niết Bàn tợ như ngọn lửa của cây đèn cạn dầu. Đã có sự chuyển động của trái đất dữ dội, sét đã giáng xuống từ bầu trời.

 

375. Panāditā dundubhiyo parideviṃsu devatā,
pupphavuṭṭhi ca gaganā abhivassatha mediniṃ.

Các tiếng trống đã được vang lên, chư thiên đã than vãn, và cơn mưa bông hoa từ bầu trời đã đổ xuống trái đất.

 

376. Kampito merurājāpi raṅgamajjhe yathā naṭo,
sokenevātidīno ca viravo āsi sāgaro.

Ngọn núi chúa Meru cũng đã rung động tương tợ như người vũ công ở giữa sàn nhảy. Chính vì sầu muộn, biển cả đã có sự gào thét vô cùng thảm thiết.

 

377. Devā nāgāsurā brahmā saṃvigg’ āhaṃsu taṅkhaṇe:
“Aniccā vata saṅkhārā yathāyaṃ vilayaṃ gatā.

Vào giây phút ấy, chư Thiên, các Long Vương, Atula, và đấng Phạm Thiên bị chấn động đã thốt lên rằng: “Các pháp hữu vi quả thật là vô thường, vị ni này đã đi đến hoại diệt là thế ấy.

 

378. Yā c’ emaṃ parivāriṃsu satthusāsanakārikā,
tāyo ’pi anupādānā dīpaccī viya nibbutā.”

Và các vị ni nào là những người thực hành theo lời dạy của bậc Đạo Sư đã tháp tùng vị ni này, các vị ni ấy cũng không còn chấp thủ, như là ngọn lửa của cây đèn đã bị lụi tàn.”

 

379. “Hā yogā vippayogantā hāniccaṃ sabbasaṅkhataṃ,
hā jīvitaṃ vināsantaṃ” iccāsi paridevanā.

Và đã có sự than vãn rằng: “Chao ôi! Các sự hội tụ có sự chia lìa là điểm kết thúc. Chao ôi! Tất cả pháp hữu vi là vô thường. Chao ôi! Cuộc sống có sự hoại diệt là điểm kết thúc.”

 

380. Tato devā ca brahmā ca lokadhammānuvattanaṃ,
kālānurūpaṃ kubbanti upetvā isisattamaṃ.

Sau đó, chư Thiên và đấng Phạm Thiên (đã) tiến hành công việc thuận theo pháp thế gian, đúng thời điểm, rồi đã đi đến gần vị Đệ Nhất Ẩn Sĩ.

 

381. Tadā āmantayī satthā ānandaṃ sutisāgaraṃ,
“Gacchānanda nivedehi bhikkhūnaṃ mātunibbutiṃ.”

Khi ấy, bậc Đạo Sư đã bảo ngài Ānanda là vị có sự học ví như biển cả rằng: “Này Ānanda, hãy đi thông báo đến các tỳ khưu về việc Niết Bàn của mẹ.”

 

382. Tad’ ānando nirānando assunā puṇṇalocano,
gaggadena sarenāha “Samāgacchantu bhikkhavo.

Khi ấy, ngài Ānanda, không còn nét hân hoan,[8] mắt đẫm lệ, đã nói với giọng nói nghẹn ngào rằng: “Hỡi chư tỳ khưu, hãy cùng nhau đi đến.

 

383. Pubbadakkhiṇapacchāsu uttarāyaṃ vasanti ye,
suṇantu bhāsitaṃ mayhaṃ bhikkhavo sugatorasā.

Hỡi chư tỳ khưu là các đệ tử của đấng Thiện Thệ đang ngụ ở các hướng đông, nam, tây, bắc, xin hãy lắng nghe lời nói của tôi.

 

384. Yā vaḍḍhayi payattena sarīraṃ pacchimaṃ mune,
sā gotamī gatā santiṃ tārāva suriyodaye.

Bà gotamī ấy, người đã ra sức nuôi dưỡng xác thân cui cùng ca đấng Hin Triết, đã đi đến nơi an tnh như là vì sao vào lúc ló dng ca mt tri.

 

385. Buddhamātāti paññattiṃ ṭhapayitvā gatāsamaṃ,
na yattha pañcanettopi gataṃ dakkhati nāyako.

Sau khi đã thiết lập danh xưng cho vị ni đã ngự đến Niết Bàn là “Người Mẹ của đức Phật,” đấng Lãnh Đạo, dầu là bậc Ngũ Nhãn, cũng không nhìn thấy nơi nào là nơi (bà) đã đi đến.

 

386. Yassatthi sugate saddhā yo ca piyo mahāmune,

buddhamātarī sakkāraṃ karotu sugatoraso.”

V nào có nim tin vào đấng Thin Th, và vnào yêu quý bc Đại Hin Triết, xin vị đệ t ca đấng Thin Th hãy th hin s tôn kính đối vi người mẹ của đức Phật.

 

387. Sudūraṭṭhāpi taṃ sutvā sīghamāgañchu bhikkhavo,
keci buddhānubhāvena keci iddhisu kovidā.

Sau nghe được điều ấy, các vị tỳ khưu thậm chí từ quốc độ vô cùng xa xôi đã nhanh chóng đi đến, một số vị là nhờ vào năng lực của đức Phật, một số vị là được thuần thục về các thần thông.

 

388. Kūṭāgāravare ramme sabbasoṇṇamaye subhe,
mañcakaṃ samaropesuṃ yattha suttāsi gotamī.

Ở trong ngôi nhà mái nhọn cao quý đáng yêu toàn bộ làm bằng vàng sáng chói, các vị đã cùng nhau sắp đặt chiếc giường nhỏ là nơi bà Gotamī an nghỉ.

 

389. Cattāro lokapālā te aṃsehi samadhārayuṃ,
sesā sakkādayo devā kūṭāgāre samaggahuṃ.

Bốn vị (Trời) hộ trì thế gian ấy đã cùng nhau gánh vác bằng những bả vai. Chư Thiên còn lại như là (vua trời) Sakka, v.v... đã cùng nhau khiêng các ngôi nhà mái nhọn.

 

390. Kūṭāgārāni sabbāni āsuṃ pañcasatānipi,
saradādiccavaṇṇāni vissakammakatāni hi.

Toàn bộ đã có đến năm trăm ngôi nhà mái nhọn có màu sắc như ánh mặt trời vào mùa thu đều đã được tạo nên bởi vị trời Vissakamma.

 

391. Sabbāpi tā bhikkhuniyo āsuṃ mañcesu sāyitā,
devānaṃ khandhamāruḷhā niyyanti anupubbaso.

Toàn thể các vị tỳ khưu ni ấy đã được đặt nằm trên những chiếc giường được nâng lên đặt ở vai của chư Thiên rồi được tuần tự rước đi.

 

392. Sabbaso chāditaṃ āsi vitānena nabhatthalaṃ,
satārā candasuriyā lañchitā kanakāmayā.

Bề mặt không trung đã được che phủ toàn bộ bằng mái che. Mặt trăng, mặt trời, cùng các vì sao đã được ghi dấu hiệu bằng vàng.

 

393. Patākā ussitā nekā vitatā pupphakañcukā,
ogatākāsapadumā mahiyā pupphamuggataṃ.

Vô số ngọn cờ đã được dựng lên, các tấm màn hoa đã được trải rộng, từ trên không trung những đóa hoa sen đã rơi xuống, ở trên mặt đất là bông hoa đã được vun cao.

 

394. Dissanti candasuriyā pajjalanti ca tārakā,
majjhaṃgatopi cādicco na tāpeti sasī yathā.

Mặt trăng và mặt trời được nhìn thấy và các vì sao lấp lánh. Và mặt trời dầu đã đi đến chính ngọ nhưng không làm cho nóng bức, tợ như là mặt trăng vậy.

 

395. Devā dibbehi gandhehi mālehi surabhīhi ca,
vāditehi ca naccehi saṅgītīhi ca pūjayuṃ.

Chư Thiên đã cúng dường bằng các hương thơm ở cõi trời, những tràng hoa thơm ngát, các khúc nhạc, những điệu vũ, và các bản đồng ca.

 

396. Nāgā surā ca brahmāno yathāsatti yathābalaṃ,
pūjāyiṃsu ca nīyantiṃ nibbutaṃ buddhamātaraṃ.

Và các vị Long Vương, chư Thiên, và các Phạm Thiên tùy theo khả năng, tùy theo sức lực đã cúng dường người mẹ của đức Phật đã Niết Bàn đang được rước đi.

 

397. Sabbāyo purato nītā nibbutā sugatorasā,
gotamī nīyate pacchā sakkatā buddhapositā.

Toàn bộ các vị ni đệ tử của đấng Thiện Thệ đã tịch diệt là được rước đi ở phía trước, bà Gotamī, người đã nuôi dưỡng đức Phật, được kính trọng, đã được rước đi phía sau.

 

398. Purato devamanujā sanāgāsurabrahmakā,
pacchā sasāvako buddho pūjatthaṃ yāti mātuyā.

Chư Thiên và nhân loại cùng với các Long Vương, A-tu-la, Phạm Thiên là ở phía trước, đức Phật cùng các vị Thinh Văn đi ở phía sau nhằm mục đích tôn vinh người mẹ.

 

399. Buddhassa parinibbānaṃ nedisaṃ āsi yādisaṃ,
gotamī parinibbānaṃ atīvacchariyaṃ ahu.

Lễ viên tịch Niết Bàn của đức Phật đã là như thế nào chứ không được như thế này, lễ viên tịch Niết Bàn của bà Gotamī đã là vô cùng phi thường.

 

400. Buddho buddhassa nibbāne nopadissati bhikkhavo,
buddho gotaminibbāne sāriputtādikā tathā.

Ở lễ Niết Bàn của đức Phật, đức Phật không hiện diện (chỉ có) các vị tỳ khưu. Ở lễ Niết Bàn của bà Gotamī có đức Phật cũng như có các vị Sāriputta, v.v...

 

401. Citakāni karitvāna sabbagandhamayāni te,
gandhacuṇṇāvakiṇṇāni jhāpayiṃsu ca tā tahiṃ.

Các vị ấy đã thực hiện các giàn hỏa thiêu được làm bằng tất cả các loại vật thơm, được rải rắc các loại bột phấn thơm, rồi đã hỏa thiêu bà ở nơi đó.

 

402. Sesabhāgāni ḍayhiṃsu aṭṭhisesāni sabbaso,
ānando ca tadāvoca saṃvegajananaṃ vaco:

Các phần còn sót lại đã được đốt cháy toàn bộ, toàn bộ phần còn lại là các hạt xương. Và khi ấy, ngài Ānanda đã nói lời nói khơi dậy nỗi chấn động:

 

403. “Gotamī nidhanaṃ yātā daḍḍhaṃ cassā sarīrakaṃ,
saṅke ’haṃ buddhanibbānaṃ na cirena bhavissati.”

Bà Gotamī đã đi đến sự yên nghỉ, và thi thể của bà ấy đã được thiêu đốt. Tôi e rằng sự Niết Bàn của đức Phật sẽ là không lâu.”

 

404. Tato gotamidhātūni tassā pattagatāni so,
upanāmesi nāthassa ānando buddhacodito.

Sau đó, được đức Phật khuyên bảo vị Ānanda ấy đã dâng lên đấng Bảo Hộ các xá-lợi của bà Gotamī đã được đặt vào trong bình bát của bà ấy. 

 

405. Pāṇinā tāni paggayha avoca isisattamo:
“Mahato sāravantassa yathā rukkhassa tiṭṭhato.

Sau khi đã nhận lấy các xá-lợi bằng bàn tay, vị Đệ Nhất Ẩn Sĩ đã nói rằng: “So sánh với thân cây to lớn có lõi đang đứng thẳng, ...

 

406. Yo so mahattaro khandho palujjeyya aniccatā,
tathā bhikkhunīsaṅghassa gotamī parinibbutā.

... giống cây nào dầu có thân lớn hơn vẫn bị ngã xuống bởi vì tính chất vô thường, tương tợ như thế bà Gotamī của hội chúng tỳ khưu ni đã viên tịch Niết Bàn.

 

407. Aho acchariyaṃ mayhaṃ nibbutāyapi mātuyā,
sarīramattasesāya natthi sokapariddavo.

Ôi! Quả là ngạc nhiên đối với Ta ngay cả trong sự Niết Bàn của người mẹ chỉ còn lại phần nhỏ về xá-lợi, không có gì sầu muộn hay than vãn.

 

408. Na sociyā paresaṃ sā tiṇṇasaṃsārasāgarā,
parivajjitasantāpā sītibhūtā sunibbutā.

Những người khác không có gì phải sầu khổ, bà ấy có biển cả luân hồi đã được vượt qua, sự bực bội đã lìa, được trạng thái mát mẻ, đã Niết Bàn tốt đẹp.

 

409. Paṇḍitāsi mahāpaññā puthupaññā tatheva ca,
rattaññū bhikkhunīnaṃ sā evaṃ dhāretha bhikkhavo.

Bà đã là vị thông thái có tuệ vĩ đại, và tương tợ như thế ấy bà là vị có tuệ bao quát, là vị kỳ cựu trong số các tỳ khưu ni. Này các tỳ khưu, các ngươi hãy ghi nhận như thế ấy.

 

410. Iddhiyā ca vasī āsi dibbāya sotadhātuyā,
cetopariyañāṇassa vasī āsi ca gotamī.

Bà Gotamī đã có năng lực về thần thông, về thiên nhĩ giới, và đã có năng lực về trí biết tâm của người khác.

 

411. Pubbe nivāsaṃ aññāsi dibbacakkhu visodhitaṃ,
sabbāsavaparikkhīṇā natthi tassā punabbhavo.

Bà đã biết được đời sống trước đây, thiên nhãn đã được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, đối với bà ấy không còn tái sanh nữa.

 

412. Atthadhammaniruttīsu paṭibhāne tatheva ca,
parisuddhaṃ ahu ñāṇaṃ tasmā socaniyā na sā.

Bà ấy đã có được trí hoàn toàn thanh tịnh về ý nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ y như thế về phép biện giải; vì thế không nên sầu muộn.

 

413. Ayoghanahatasseva jalato jātavedaso,
anupubbūpasantassa yathā na ñāyate gati.

Giống như đối với ngọn lửa cháy sáng hủy hoại luôn cả chiếc búa sắt (nhưng khi) đã được dập tắt theo tuần tự thì nơi đi đến cũng không được biết.

 

414. Evaṃ sammā vimuttānaṃ kāmabandhoghatārinaṃ,
paññāpetuṃ gati natthi pattānaṃ acalaṃ padaṃ.

Tương tợ như vậy, đối với những người đã được giải thoát đúng đắn, có sự vượt qua dòng lũ ràng buộc của các dục lạc, đã đạt được vị thế bất động thì không còn cảnh giới tái sanh nào đế nhận biết nữa.

 

415. Attadīpā tato hotha satipaṭṭhānagocarā,
bhāvetvā sattabojjhaṅge dukkhassantaṃ karissathā’ti.

Do đó, các ngươi hãy là hòn đảo của chính bản thân, có hành xứ là các sự thiết lập niệm. Sau khi tu tập bảy chi phần giác ngộ, các ngươi sẽ làm chấm dứt sự khổ đau.”

 

Itthaṃ sudaṃ Mahāpajāpatigotamī imā gāthāyo abhāsitthāti.
Vị tỳ khưu ni Mahāpajāpatigotamī đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

 

Mahāpajāpatigotamītheriyāpadānaṃ sattamaṃ.

Ký sự về trưởng lão ni Mahāpajāpatigotamī là phần thứ bảy.

--ooOoo--

18. Khemāpadānaṃ
18. Ký Sự về Khemā:

  

416. Padumuttaranāmajino sabbadhammesu cakkhumā,
ito satasahassamhi kappe uppajji nāyako.

Trước đây một trăm ngàn kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc Hữu Nhãn về tất cả các pháp đã hiện khởi.

 

417. Tadā ’haṃ haṃsavatiyaṃ jātā seṭṭhikule ahuṃ,
nānāratanapajjote mahāsukhasamappitā.

Khi ấy, tôi đã được sanh ra ở tại Haṃsavatī, trong gia đình triệu phú được rạng rỡ với vô số châu báu, tôi đã được thừa hưởng lạc thú lớn lao.

 

418. Upetvā taṃ mahāvīraṃ assosiṃ dhammadesanaṃ,
tato jātappasādā ’haṃ upesiṃ saraṇaṃ jinaṃ.

Tôi đã đi đến đấng Đại Hùng ấy và đã lắng nghe lời giảng Pháp. Sau đó, có niềm tịnh tín sanh khởi, tôi đã đi đến nương tựa vào đấng Chiến Thắng.

 

419. Mātaraṃ pitaraṃ cāpi āyācitvā vināyakaṃ,
nimantayitvā sattāhaṃ bhojayiṃ sahasāvakaṃ.

Và tôi cũng đã yêu cầu mẹ cha rồi đã thỉnh mời đấng Hướng Đạo cùng với các vị Thinh Văn và đã cung ứng vật thực trong bảy ngày.

 

420. Atikkante ca sattāhe mahāpaññānamuttamaṃ,
bhikkhuniṃ etadaggamhi ṭhapesi narasārathi.

Và khi bảy ngày đã trôi qua, đấng Điều Ngự Trượng Phu đã thiết lập vị tỳ khưu ni đứng đầu trong số các vị ni có đại trí tuệ vào vị thế tối thắng.

 

421. Taṃ sutvā muditā hutvā puno tassa mahesino,
kāraṃ katvāna taṃ ṭhānaṃ paṇipacca paṇidahiṃ.

Sau khi được nghe điều ấy, trở nên hoan hỷ, tôi đã thể hiện sự tôn kính đến bậc Đại Ẩn Sĩ ấy lần nữa rồi đã nằm dài xuống và đã phát nguyện vị thế ấy.

 

422. Tato maṃ sa jino āha “Sijjhataṃ paṇidhi tava,

sasaṅghe me kataṃ kāraṃ appameyyaphalaṃ tayā.

Do đó, đấng Chiến Thắng ấy đã nói với tôi rằng: “Điều phát nguyện của nàng (sẽ) được thành tựu. Sự tôn kính đã được nàng thực hiện ở nơi Ta cùng với hội chúng là có quả báu vô lượng.

 

423. Satasahasse ito kappe okkākakulasambhavo,
gotamo nāma gottena satthā loke bhavissati.

Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.

 

424. Tassa dhammesu dāyādā orasā dhammanimmitā,
ekadaggaṃ anuppattā khemā nāma bhavissasi.”

(Người n này) sẽ có tên là Khemā, là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, được đạt đến vị trí hạng nhất.

 

425. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsūpagā ahaṃ.

Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.

 

426. Tato cutā yāmamagaṃ tato ’haṃ tusitaṃ gatā,
tato ca nimmāṇaratiṃ vasavattipuraṃ tato.

Từ nơi ấy chết đi, tôi đã đi đến cõi trời Dạ Ma, từ đó đã đi đến cõi trời Đẩu Suất, và từ đó đến cõi Hóa Lạc Thiên, rồi từ đó đến cõi Tha Hóa Tự Tại.

 

427. Yattha yatthūppajjāmi tassa kammassa vāhasā,
tattha tattheva rājūnaṃ mahesittamakārayiṃ.

Do tác động của nghiệp ấy, ở bất cứ nơi nào tôi sanh ra, tôi đều đã được thiết lập vào ngôi chánh hậu của các vị vua ở chính tại các nơi ấy.

 

428. Tato cutā manussatte rājūnaṃ cakkavattīnaṃ,
maṇḍalīnañca rājūnaṃ mahesittamakārayiṃ.

Từ nơi ấy chết đi (sanh) vào thân nhân loại, tôi đã được thiết lập vào ngôi chánh hậu của các vị Chuyển Luân Vương và các vị vua cai quản các lãnh thổ.

 

429. Sampattiṃ anubhotvāna dese manujesu ca,
sabbattha sukhitā hutvā nekakappesu saṃsiriṃ.

Tôi đã thọ hưởng sự thành đạt ở giữa chư thiên và loài người, đã được an vui ở tất cả các nơi, và đã luân hồi trong nhiều kiếp.

 

430. Ekanavute ito kappe vipassī lokanāyako,
uppajji cārunayano sabbadhammavipassako.

Trước đây chín mươi mốt kiếp, đấng Lãnh Đạo Thế Gian Vipassī, là vị có ánh mắt thu hút, vị thấy rõ tất cả các pháp đã hiện khởi.

 

431. Tamahaṃ lokanāyakaṃ upetvā narasārathiṃ,
dhammaṃ paṇītaṃ sutvāna pabbajiṃ anagāriyaṃ.

Tôi đã đi đến gặp vị Lãnh Đạo thế gian, đấng Điều Ngự Trượng Phu ấy. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp cao quý, tôi đã xuất gia vào cuộc sống không gia đình.

 

432. Dasavassasahassāni tassa vīrassa sāsane,
brahmacariyaṃ caritvāna yuttayogā bahussutā.

Sau khi thực hành Phạm hạnh trong Giáo Pháp của đấng Anh Hùng ấy mười ngàn năm, tôi đã gắn bó vào thiền tập, có sự nghe nhiều (học rộng).

 

433. Paccayākārakusalā catusaccavisāradā,
nipuṇā cittakathikā satthusāsanakārikā.

Là vị thiện xảo về các biểu hiện của duyên (tùy thuận sanh khởi), có niềm tự tín ở bốn Sự Thật, khôn khéo là vị thuyết giảng hay, là người thực hành theo lời dạy của bậc Đạo Sư.

 

434. Tato cutāhaṃ tusitaṃ upapannā yasassinī,

abhibhosiṃ tahiṃ aññe brahmacariyaphalen’ ahaṃ.

Từ nơi ấy chết đi, tôi đã đạt đến cõi trời Đẩu Suất, là tiên nữ có danh tiếng. Tại nơi ấy, tôi đã vượt trội những người khác nhờ vào quả báu của việc hành Phạm hạnh.

 

435. Yattha yatthūpapannāhaṃ mahābhogā mahaddhanā,
medhāvinī rūpavatī vinītaparisā’pi ca.

Ở bất cứ nơi nào tôi được sanh ra, tôi đều có nhiều của cải, nhiều tài sản, là người có sự thông minh, có sắc đẹp, và có luôn cả hội chúng đã được rèn luyện nữa.

 

436. Bhavāmi tena kammena yogena jinasāsane,
sabbā sampattiyo mayhaṃ sulabhā manaso piyā.

Do nghiệp ấy có sự gắn bó với Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng, tất cả các sự thành tựu của tôi đều đạt được dễ dàng và tôi có sự thích thú ở trong tâm.

 

437. Yopi me bhavate bhattā yattha yattha gatāyapi,
vimāneti na maṃ koci paṭipattiphalena me.

Thậm chí ở bất cứ nơi đâu tôi sanh đến, tôi cũng đều có chồng (và) không có người nào khinh miệt tôi nhờ vào quả báu tu tập của tôi.

 

438. Imasmiṃ bhaddake kappe brahmabandhu mahāyaso,
nāmena koṇāgamano uppajji vadataṃ varo.

Ở vào kiếp Bhadda này, trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi đấng cao quý tên Koṇāgamana, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của đấng Phạm Thiên.

 

439. Tadāhaṃ bārāṇasiyaṃ susamiddhakulappajā,
dhanañjāni sumedhā ca ahampi ca tayo janā.

Khi ấy, tôi là hậu duệ của một gia đình vô cùng giàu có ở tại Bārāṇasī. Dhanañjāni, Sumedhā, và tôi nữa là ba người.

 

440. Saṅghārāmamadāsimha dānasahāyikā pure,
saṅghassa ca vihārampi uddissa kārikā mayaṃ.

Là những người cộng sự trong việc bố thí trước đây và là những người tạo lập, chúng tôi đã xác định trú xá là của hội chúng rồi đã cúng dường tu viện đến hội chúng .

 

441. Tato cutā mayaṃ sabbā tāvatiṃsūpagā ahuṃ,
yasasā aggataṃ pattā manussesu tatheva ca.

Từ nơi ấy chết đi, tất cả chúng tôi đã đi đến cõi Đạo Lợi, đã đạt được tư cách cao tột về danh vọng, và tương tợ y như thế ở giữa loài người.

 

442. Imasmiṃ yeva kappamhi brahmabandhu mahāyaso,
kassapo nāma gottena uppajji vadataṃ varo.

Chính ở vào kiếp này, trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi đấng cao quý tên Kassapa, thuộc dòng dõi, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của đấng Phạm Thiên.

 

443. Upaṭṭhāko mahesissa tadā āsi narissaro,
kāsirājā kikī nāma bārāṇasipuruttame.

Khi ấy, có vị quân vương là đức vua xứ Kāsi tên Kikī ở tại kinh thành Bārāṇasī là người hộ độ của bậc Đại Ẩn Sĩ.

 

444. Tass’ āsiṃ jeṭṭhikā dhītā samaṇī iti vissutā,
dhammaṃ sutvā jinaggassa pabbajjaṃ samarocayiṃ.

Tôi đã là người con gái lớn nhất của vị ấy được nổi danh là Samaṇī. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng cao cả, tôi đã xin xuất gia.

 

445. Anujāni na no tāto akāreva tadā mayaṃ,
vīsavassasahassāni vicarimha atanditā.

Cha đã không cho phép chúng tôi. Khi ấy, chúng tôi chẳng có việc gì làm, đã đi đây đó trong hai chục ngàn năm, không mệt mỏi.

 

446. Komāribrahmacariyaṃ rājakaññā sukhedhitā,
buddhūpaṭṭhānaniratā muditā satta dhītaro.

Là những người con gái của đức vua được nuôi dưỡng sung sướng về tư cách nghiêm trang của người thiếu nữ. Được hoan hỷ, bảy người con gái đã vui thích trong việc hộ độ đức Phật.

 

447. Samaṇī samaṇaguttā ca bhikkhunī bhikkhudāsikā,
dhammā ceva sudhammā ca sattamī saṅghadāsikā.

Samaṇī, Samaṇaguttā, Bhikkhunī, Bhikkhudāsikā, Dhammā, luôn cả Sudhammā nữa, và Saṅghadāsikā là thứ bảy.

 

448. Ahaṃ uppalavaṇṇā ca paṭācārā ca kuṇḍalā,
kisāgotamī dhammadinnā visākhā hoti sattamī.

Tôi, Uppalavaṇṇā, Paṭācārā, Kuṇḍalā, Kisāgotamī, Dhammadinnā, và Visākhā là thứ bảy (vào thời hiện tại).

 

449. Kadāci so narādicco dhammaṃ deseti abbhutaṃ,
mahānidānasuttantaṃ sutvā taṃ pariyāpuṇiṃ.

Có lần nọ đấng Mặt Trời của nhân loại ấy thuyết giảng Giáo Pháp tuyệt vời. Sau khi lắng nghe bài Kinh Đại Duyên tôi đã học thuộc lòng bài Kinh ấy.

 

450. Tehi kammehi sukatehi cetanāpaṇidhīhi ca,
jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ.

Do các nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.

 

451. Pacchime ca bhave dāni sāgalāyaṃ puruttame,
rañño maddassa dhītāmhi manāpā dayitā piyā.

Và trong kiếp cuối cùng hiện nay, tôi là người con gái vui tính, được mến, đáng yêu của đức vua Madda ở tại kinh thành Sāgalā.

 

452. Saha me jātamattamhi khemaṃ tamhi pure ahu,
tato khemāti nāmaṃ me guṇato upapajjatha.

Cùng với tôi trong việc đã được sanh ra là trong kinh thành ấy đã có sự thái bình. Vì thế, tên “Khemā” đã được sanh lên cho tôi xuất phát từ công đức (ấy).

 

453. Yadāhaṃ yobbanaṃ pattā rūpalāvaññabhūsitā,
tadā adāsi maṃ tāto bimbisārassa rājino.

Khi tôi đạt đến tuổi trưởng thành, được tô điểm bởi của sắc đẹp và sự mặn mà, khi ấy người cha đã dâng tôi cho đức vua Bimbisāra.

 

 454. Tassāhaṃ suppiyā āsiṃ rūpakelāyane ratā,
rūpānaṃ dosavādīti na upesiṃ mahādayaṃ.

Tôi đã là người nữ vô cùng yêu quý của vị (vua) ấy. Thích thú trong việc trau chuốt xác thân, tôi đã không tỏ ra rộng lượng đối với những lời nói về khuyết điểm của các sắc đẹp.

 

455. Bimbisāro tadā rājā mamānuggahabuddhiyā,
vaṇṇayitvā veḷuvanaṃ gāyake gāpayī mamaṃ.

Khi ấy, với sáng kiến nhằm giúp đỡ cho tôi, đức vua Bimbisāra đã ngợi khen về Veḷuvana (Trúc Lâm) và đã bảo các ca sĩ ca hát cho tôi nghe rằng:

 

456. “Rammaṃ veḷuvanaṃ yena na diṭṭhaṃ sugatālayaṃ,
na tena nandanaṃ diṭṭhaṃ iti maññāmase mayaṃ.

Chúng tôi quan niệm rằng:Người nào chưa nhìn thấy Veḷuvana đáng yêu, chốn ngụ cư của đấng Thiện Thệ, thì người ấy chưa nhìn thấy (vườn hoa) Nandana (của cõi trời).

 

457. Yena veḷuvanaṃ diṭṭhaṃ naranandananandanaṃ,
sudiṭṭhaṃ nandinaṃ tena amarindasunandanaṃ.

Người nào đã nhìn thấy Veḷuvana là (vườn hoa) hoan lạc Nandana của nhân loại, người ấy đã nhìn thấy (vườn hoa) Nandana vô cùng hoan lạc của vị Thiên Vương.

 

458. Vihāya nandanaṃ devā otaritvā mahītalaṃ,
rammaṃ veḷuvanaṃ disvā na tappanti suvimhitā.

Chư Thiên sau khi rời (vườn hoa) Nandana ngự xuống mặt đất và đã nhìn thấy Veḷuvana đáng yêu thì vô cùng sửng sốt và không còn ân hận nữa.

 

459. Rājapuññena nibbattaṃ buddhapuññena bhūsitaṃ,
ko vattā tassa nissesaṃ vanassa guṇasañcayaṃ.”

(Veḷuvana) đã được sanh lên do phước báu của đức vua, được làm đẹp nhờ vào phước báu của đức Phật, có ai là người thuật lại một cách trọn vẹn về tổng thể các đức tính tốt đẹp của khu vườn ấy?

 

460. Taṃ sutvā vanasamiddhiṃ mama sotamanoharaṃ,
daṭṭhukāmā tamuyyānaṃ rañño ārocayiṃ tadā.

Sau khi nghe được sự thành công của khu rừng ấy, đối với tôi là có sự quyến rũ ở tai, vào khi ấy có lòng mong muốn nhìn thấy khu vườn ấy tôi đã trình lên đức vua.

 

461. Mahatā parivārena tadā ca so mahīpati,
maṃ pesesi tamuyyānaṃ dassanāya samussukaṃ.

Và khi ấy, vị lãnh chúa ấy đã phái đoàn tùy tùng đông đảo đưa tôi đi để nhìn xem khu vườn ấy một cách sốt sắng:

 

462. “Gaccha passa mahābhoge vanaṃ nettarasāyanaṃ,
yaṃ sadā bhāti siriyā sugatābhānurañjitaṃ.”

Hỡi nàng là của cải vĩ đại, nàng hãy đi, hãy nhìn xem khu rừng đem lại sự bổ ích cho cặp mắt, là nơi luôn luôn chói sáng với sự vinh quanh, được rực rỡ với hào quang của đấng Thiện Thệ.”

 

463. Yadā ca piṇḍāya muni giribbajapuruttame,
paviṭṭho ’haṃ tadāyeva vanaṃ daṭṭhumupāgamiṃ.

Và vào lúc đấng Hiền Triết đã đi vào kinh thành Giribbaja để khất thực, đúng vào lúc ấy tôi đã đi đến để nhìn thấy khu rừng.

 

464. Tadā ’haṃ phullavipinaṃ nānābhamarakūjitaṃ,
kokilāgītasahitaṃ mayūragaṇanaccitaṃ.

Khi ấy, khu rừng cây trải dài ấy[9] được rì rào tiếng vo ve của ong vò vẽ các loại, được phối hợp với tiếng rù rù của loài chim cu, được nhảy múa bởi đám chim công.

 

465. Appasaddamanākiṇṇaṃ nānācaṅkamabhūsitaṃ,
kuṭimaṇḍapasaṅkiṇṇaṃ yogīvaravirājitaṃ.

(Khu rừng cây) có ít tiếng động, không bị phân tán, được điểm tô bằng các đường kinh hành khác nhau, được rải rác với các cụm liêu cốc, được nổi bậc với các hành giả cao quý.

 

466. Vicarantī amaññissaṃ “saphalaṃ nayanaṃ mama,”
tatthāpi taruṇaṃ bhikkhuṃ yuttaṃ disvā vicintayiṃ.

Trong khi dạo quanh, tôi đã suy nghĩ rằng: “Mắt ta có được thành quả.” Cũng tại nơi ấy, tôi đã nhìn thấy vị tỳ khưu trẻ gắn bó (thiền tập) và đã suy gẫm rằng:

 

467. Īdise ’pi vane ramme ṭhito ’yaṃ navayobbane,
vasantamiva kantena rūpena ca samanvito.

Vị này ở vào độ tuổi rất trẻ và được phú cho dáng vóc dễ thương như là mùa xuân lại tồn tại ở trong khu rừng thậm chí đáng yêu như vầy.

 

468. Nisinno rukkhamūlamhi muṇḍo saṅghāṭipāruto,
jhāyate vat’ ayaṃ bhikkhu hitvā visayajaṃ ratiṃ.

Ngồi ở gốc cây, đầu cạo, đắp y hai lớp, tham thiền, quả nhiên vị tỳ khưu này đã từ bỏ khoái lạc sanh lên từ đối tượng (bên ngoài).

 

469. Nanu nāma gahaṭṭhena kāmaṃ bhutvā yathāsukhaṃ,
pacchā jiṇṇena dhammo ’yaṃ caritabbo subhaddako.

Phải chăng con người vô cùng hiền thiện này nên thọ hưởng (ngũ) dục cho thoải mái với cuộc đời tại gia, sau này về già mới nên thực hành Giáo Pháp?

 

470. Suññakanti viditvāna gandhagehaṃ jinālayaṃ,
upetvā jinamaddakkhiṃ udayantaṃva bhākaraṃ.

Sau khi biết được rằng “Sunññaka” là hương thất, là chỗ ngụ của đấng Chiến Thắng, tôi đã đi đến gần và đã nhìn thấy đấng Chiến Thắng tương tợ như là mặt trời đang mọc lên.

 

471. Ekakaṃ sukhamāsīnaṃ vījamānā varitthiyā,
disvānevaṃ vicintesiṃ “nāyaṃ lūkho narāsabho.”

(Tôi đã nhìn thấy đấng Chiến Thắng) ngồi mỗi một mình một cách an lạc đang được quạt bởi người nữ quý phái. Sau khi nhìn thấy tôi đã suy gẫm như vầy: “Bậc Nhân Ngưu này không có thô lỗ.”

 

472. Sā kaññā kanakābhāsā padumānanalocanā,
bimboṭṭhī kundadasanā manonettarasāyanā.

Người thiếu nữ ấy có diện mạo (sáng) như vàng, có khuôn mặt và đôi mắt như đóa sen, có môi đỏ, có răng màu hoa nhài, có sự thu hút con tim và ánh mắt.

 

473. Hemadolābhasavanā kalasākārasutthanī,
tanumajjhā ca sussoṇī rambhoru cārubhūsanā.

Có đôi tai lấp lánh khuyên vàng, có ngực dạng bầu bầu, có eo thon, có mông đẹp, có đùi thân chuối, và có đồ trang sức xinh xắn.

 

474. Rattaṃsukūpasabyānā nīlamaṭṭhanivāsanā,
atappaneyyarūpena hāvabhāvasamanvitā.

Với chiếc áo khoác ngoài lên đôi vai gợi tình, với y phục tinh khiết màu xanh, được sở hữu tính chất phụ nữ với hình dáng (nhìn) không thể nào thỏa mãn.

 

475. Disvā tamevaṃ cintesiṃ “Aho ’yaṃ abhirūpinī,
na mayā ’nena nettena diṭṭhapubbā kudācanaṃ.”

Sau khi nhìn thấy nàng ấy, tôi đã suy nghĩ như vầy: “Ôi, nàng này tuyệt đẹp. Ta chưa từng nhìn thấy trước đây bằng (cặp) mắt này.”

 

476. Tato jarābhibhūtā sā vivaṇṇā vitatānanā,
bhinnadantā setasirā salālavadanāsuci.

Kế đó, bị chế ngự bởi sự già, nàng ấy (trở nên) có dung nhan tàn tạ, khuôn mặt chảy dài, răng sứt mẻ, đầu bạc, miệng có nước dãi, dơ dáy, ...

 

477. Saṅkhittakaṇṇā setakkhī lambāsubhapayodharā,
valivitatasabbaṅgī sirāvitatadehinī.

... có tai bị co rút, mắt trắng (đục), bộ ngực xấu xí đong đưa, tất cả các bộ phận cơ thể bị nhăn nheo chảy xệ, thân thể nổi đầy gân.

 

478. Nataṅgā daṇḍadutiyā uppaṇḍuppaṇḍukā kisā,
pavedhamānā patitā nissasantī muhuṃ muhuṃ.

... có lưng bị còng, có gậy là bạn, vô cùng nhợt nhạt, gầy còm, trong lúc run rẩy bị té nhào, chốc chốc lại bị hụt hơi.

 

479. Tato me āsi saṃvego abbhuto lomahaṃsano,
dhiratthu rūpaṃ asuciṃ ramante yattha bālisā.

Do đó, tôi đã có sự chấn động, kinh ngạc, lông dựng đứng: “Thật là xấu hổ cho xác thân bất tịnh là nơi mà những kẻ ngu hứng thú!

 

480. Tadā mahākāruṇiko disvā saṃviggamānasaṃ,
udaggacitto sugato imā gāthā abhāsatha:

Khi ấy, sau khi nhìn thấy (tôi có) tâm bị chấn động, đấng Đại Bi, bậc Thiện Thệ với tâm phấn khởi, đã nói lên những lời kệ này:

 

481. “Āturaṃ asuciṃ pūtiṃ passa kheme samussayaṃ,
uggharantaṃ paggharantaṃ bālānaṃ abhinanditaṃ.

Này Khemā, hãy nhìn xem thân thể bệnh hoạn, bất tịnh, hôi thối đang tiết ra, đang rò rỉ lại được hứng thú đối với những kẻ ngu.

 

482. Asubhāya cittaṃ bhāvehi ekaggaṃ susamāhitaṃ,
sati kāyagatā tyatthu nibbidābahulā bhava.

Nàng hãy tu tập tâm được chuyên nhất khéo tập trung về đề mục bất mỹ, niệm hãy được hướng đến thân, nàng hãy có nhiều sự nhàm chán.

 

483. Yathā idaṃ tathā etaṃ yathā etaṃ tathā idaṃ,
ajjhattañca bahiddhā ca kāye chandaṃ virājaya.

Thân này như thế nào thì xác kia như vậy, xác kia như thế nào thì thân này như vậy. Nàng hãy lìa bỏ sự mong muốn về thân ở bên trong lẫn bên ngoài.

 

484. Animittañca bhāvetha mānānusayamujjaha,
tato mānābhisamayā upasantā carissasi.

Và nàng hãy tu tập về vô tướng, hãy dứt bỏ ngã mạn ngũ ngầm, từ đó có được sự lãnh hội về ngã mạn nàng sẽ sống thanh tịnh.

 

485. Ye rāgarattānupatanti sotaṃ
sayaṃ kataṃ makkaṭakova jālaṃ,
etampi chetvāna paribbajanti
anapekkhino kāmasukhaṃ pahāya.”

Những người bị đắm nhiễm ái dục rơi vào dòng chảy tương tợ như con nhện sa vào mạng lưới được chính nó tạo nên, sau khi cắt đứt luôn cả điều ấy xuất gia từ bỏ dục lạc trở thành những người vô tư lự.”

 

486. Tato kallitacittaṃ maṃ ñatvāna narasārathi,
mahānidānaṃ desesi suttantaṃ vinayāya me.

Kế đó, sau khi biết được tôi có tâm đã được sẵn sàng, đấng Điều Ngự Trượng Phu đã thuyết giảng bài Kinh Mahānidāna[10] nhằm hướng dẫn cho tôi.

 

487. Sutvā suttantaseṭṭhaṃ taṃ pubbasaññamanussariṃ,
tattha ṭhitāv’ ahaṃ santī dhammacakkhuṃ visodhayiṃ.

Sau khi lắng nghe bài kinh tuyệt vời ấy, tôi đã tưởng nhớ về quá khứ. Tại nơi ấy, tôi được an tịnh khi đang đứng; tôi đã làm cho Pháp nhãn được thanh tịnh.

 

488. Nipatitvā mahesissa pādamūlamhi tāvade,
accayaṃ desanatthāya idaṃ vacanamabraviṃ:

Ngay lập tức, tôi đã cúi xuống ở dưới bàn chân của bậc Đại Hiền Triết nhằm mục đích bày tỏ tội lỗi, và đã nói lời nói này:

 

489. “Namo te sabbadassāvi namo te karuṇākara,
namo te tiṇṇasaṃsāra namo te amataṃdada.

Hỡi đấng Toàn Tri, con kính lễ Ngài. Hỡi đấng hành bi mẫn, con kính lễ Ngài. Hỡi đấng đã vượt qua luân hồi, con kính lễ Ngài. Hỡi đấng ban cho sự bất tử, con kính lễ Ngài.

 

490. Diṭṭhigahanapakkhantā kāmarāgavimohitā,
tayā sammā upāyena vinītā vinaye ratā.

Con đã lao theo sự nắm bắt tà kiến, bị lầm lạc trong ái dục, nhờ Ngài với phương pháp đúng đắn con đã được dẫn dắt, được thỏa thích trong sự rèn luyện.

 

491. Adassanena vibbhogā tādisānaṃ mahesinaṃ,
anubhonti mahādukkhaṃ sattā saṃsārasāgare.

Là không có phước phần đối với việc không nhìn thấy các bậc Đại Hiền Triết như thế ấy, chúng sanh chịu đựng khổ đau lớn lao trong biển cả luân hồi.

 

492. Yadā ’haṃ lokasaraṇaṃ araṇaṃ maraṇantaguṃ,
nāddasāsimadūraṭṭhaṃ desayāmi tamaccayaṃ.

Khi con đã không nhìn thấy được sự lợi ích cận kề, nơi nương nhờ của thế gian, bậc không dục vọng, đã đạt đến tận cùng của sự chết, con xin bày tỏ lỗi lầm ấy.

 

493. Mahāhitaṃ varadadaṃ ahitoti visaṅkitaṃ,
nopesiṃ rūpaniratā desayāmi tamaccayaṃ.”

Bị đắm say xác thân, con đã không đến gần bậc có lợi ích lớn, vị có sự bố thí cao quý, hoài nghi là: ‘Không có lợi ích,’ con xin bày tỏ lỗi lầm ấy.”

 

494. Tadā madhuraniggoso mahākāruṇiko jino,
avoca “tiṭṭha kheme”ti siñcanto amatena maṃ.

Khi ấy, trong lúc rưới rắc sự bất tử đến tôi, bậc Đại Bi, đấng Chiến Thắng, vị có giọng nói vang ngọt ngào, đã nói rằng: “Này Khemā, hãy đứng lại.”

 

495. Tadā paṇamya sirasā katvā ca naṃ padakkhiṇaṃ,
gantvā disvā narapatiṃ idaṃ vacanamabraviṃ.

Khi ấy, sau khi đã đê đầu đảnh lễ và đã thực hiện việc nhiễu quanh vị ấy, tôi đã ra đi. Sau khi nhìn thấy đấng quân vương, tôi đã nói lời nói này:

 

496. “Aho sammā-upāyo te cintito ’yamarindama,
vanadassanakāmāya diṭṭho nibbānado muni.

Ôi vị khuất phục kẻ thù, phương pháp đúng đắn này đã được suy tính bởi bệ hạ. Do ước muốn nhìn thấy khu rừng, bậc Hiền Triết vị ban phát Niết Bàn đã được nhìn thấy.

 

497. Yadi te ruccate rāja sāsane tassa tādino,
pabbajissāmi rūpe ’haṃ nibbinnā munivāṇinā.

Tâu bệ hạ, nếu ngài vui thích thiếp sẽ xuất gia trong Giáo Pháp của vị như thế ấy. Nhờ vào lời nói của bậc Hiền Triết, thiếp đã nhàm chán sắc thân.”


Bhāṇavāraṃ dutiyaṃ.

Tụng phẩm thứ nhì.

 

498. Añjaliṃ paggahetvāna tadāha sa mahīpati,
“Anujānāmi te bhadde pabbajjā tava sijjhatu.”

Khi ấy, vị lãnh chúa ấy đã chắp tay lên và nói rằng: “Này hiền thê, trẫm cho phép nàng. Cầu chúc sự xuất gia được thành tựu đến nàng.”

 

499. Pabbajitvā tadā cāhaṃ addhamāse upaṭṭhite,
dīpodayañca bhedañca disvā saṃviggamānasā.

Và sau khi xuất gia, khi ấy đã được nửa tháng, sau khi nhìn thấy sự sáng lên của ngọn đèn và sự diệt tắt tôi có tâm bị chấn động.

 

500. Nibbinnā sabbasaṅkhāre paccayākārakovidā,
caturoghe atikkamma arahattamapāpuṇiṃ.

Nhàm chán tất cả các hành, được rành rẽ về biểu hiện của duyên (tùy thuận sanh khởi), sau khi đã vượt qua bốn dòng nước lũ (bộc lưu), tôi đã đạt được quả vị A-la-hán.

 

501. Iddhiyā ca vasī āsiṃ dibbāya sotadhātuyā,
cetopariyañāṇassa vasī cāpi bhavāmahaṃ.

Tôi đã có năng lực về thần thông, về thiên nhĩ giới, và tôi cũng đã có năng lực về trí biết tâm của người khác.

 

502. Pubbe nivāsaṃ jānāmi dibbacakkhu visodhitaṃ,
sabbāsavā parikkhīṇā natthidāni punabbhavo.

Tôi biết được đời sống trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, giờ đây không còn tái sanh nữa.

 

503. Atthadhammaniruttīsu paṭibhāne tatheva ca,
parisuddhaṃ mama ñāṇaṃ uppannaṃ buddhasāsane.

Trí tuệ hoàn toàn thanh tịnh của tôi về ý nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ y như thế về phép biện giải là được thành tựu trong Giáo Pháp của đức Phật.

 

504. Kusalā ’haṃ visuddhīsu kathāvatthu visāradā,
abhidhammanayaññū ca vasippattā ’mhi sāsane.

Tôi là thiện xảo về các (pháp) thanh tịnh, là tự tin trong vấn đề tranh luận, biết về phương thức của các pháp thù thắng, và đã đạt được năng lực ở Giáo Pháp.

 

505. Tato bhojanavatthusmiṃ raññā kosalasāminā,
pucchitā nipuṇe pañhe vyākarontī yathātathaṃ.

Sau đó, được đức vua (Pasenadi) chủ quản xứ Kosala hỏi các câu hỏi khôn khéo về vấn đề vật thực, tôi đã giải thích đúng theo bản thể.

 

506. Tadā sa rājā sugataṃ upasaṅkamma pucchatha,
tatheva buddho vyākāsi yathā te vyākatā mayā.

Sau đó, vị vua ấy đã đi đến gặp đấng Thiện Thệ và đã hỏi lại. Các điều ấy đã được tôi giải thích như thế nào thì đức Phật đã giải thích y như thế ấy.

 

507. Jino tasmiṃ guṇe tuṭṭho etadagge ṭhapesi maṃ,
mahāpaññānamaggāti bhikkhunīnaṃ naruttamo.

Đấng Chiến Thắng, bậc Tối Thượng Nhân hoan hỷ về đức hạnh ấy đã thiết lập tôi vào vị thế tối thắng là “Vị đứng đầu các vị có đại tuệ” trong số các vị tỳ khưu ni.

 

508. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā.

Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.

 

509. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

 

510. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

 

Itthaṃ sudaṃ Khemā bhikkhunī imā gāthāyo abhāsitthāti.

Tỳ khưu ni Khemā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Khemātheriyāpadānaṃ aṭṭhamaṃ.

Ký sự về trưởng lão ni Khemā là phần thứ tám.

 --ooOoo--

19. Uppalavaṇṇāpadānaṃ
19. Ký Sự về Uppalavaṇṇā:

  

511. Bhikkhunī uppalavaṇṇā iddhiyā pāramiṅgatā,
vanditvā satthuno pāde idaṃ vacanamabravi.

Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā, đạt đến sự toàn hảo về thần thông, đã đảnh lễ ở bàn chân của bậc Đạo Sư rồi đã nói lời nói này:

 

512. Nittiṇṇā jātisaṃsāraṃ pattā ’haṃ acalaṃ padaṃ,
sabbadukkhaṃ mayā khīṇaṃ ārocemi mahāmuni.

Bạch đấng Đại Hiền Triết, con xin trình rằng con đã vượt qua khỏi sự tái sanh luân hồi, đã đạt được vị thế bất động, con đã cạn kiệt tất cả khổ đau.

 

513. Yāvatā parisā atthi pasannā jinasāsane,
yesañca me ’parādho ’tthi khamantu jinasammukhā.

Cho đến nhóm người có lòng tịnh tín vào Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng, và đối với những ai con có lỗi lầm, mong rằng họ hãy tha thứ ở trước mặt đấng Chiến Thắng.

 

514. Saṃsāre saṃsarantāya khalitaṃ me sace bhave,
ārocemi mahāvīra aparādhaṃ khamassu taṃ.

Bạch đấng Đại Hùng, con xin trình rằng trong khi luân chuyển ở vòng luân hồi nếu con có điều lầm lỗi, xin Ngài tha thứ cho điều sai trái ấy.”

 

515. “Iddhiṃ cāpi nidassehi mama sāsanakārike,
catasso parisā ajja kaṅkhaṃ chindāhi yāvatā.”

Nàng cũng nên phô bày thần thông cho những người hành theo Giáo Pháp của Ta được thấy. Hôm nay nàng hãy cắt đứt sự hoài nghi cho cả tứ chúng.”

 

516. “Dhītu tuyhaṃ mahāvīra paññāvanta jutindhara,
bahuṃ ca dukkaraṃ kammaṃ kataṃ me atidukkaraṃ.

Bạch đấng Đại Hùng, bậc Trí Tuệ, đấng Quang Minh, là con gái của Ngài, con đã làm được nhiều công việc khó làm và vô cùng khó làm.

 

517. Uppalasseva me vaṇṇo nāmenuppalanāmikā,
sāvikā te mahāvīra pāde vandati cakkhuma.

Màu da của con chính là màu của hoa sen, tên gọi Uppala là theo tên gọi của hoa sen. Bạch đấng Đại Hùng, con là nữ Thinh Văn của Ngài. Bạch đấng Hữu Nhãn, con xin đảnh lễ ở bàn chân (của Ngài).

 

518. Rāhulo ca ahañceva nekajātisate bahū,
ekasmiṃ sambhave jātā samānacchandamānasā.

Trong nhiều trăm lần tái sanh, Rāhula và luôn cả con nữa đã được sanh ra trong cùng một kiếp sống do ý muốn tương tợ nhau.

 

519. Nibbatti ekato hoti jātīsu bahuso mama,
pacchimabhave sampatte ubhopi nānāsambhavā.

Có sự sanh ra cùng nhau trong nhiều lần tái sanh của con. Trong kiếp sống cuối cùng được thành tựu, cả hai còn có nhiều nguyên nhân khác nữa.

 

520. Putto ca rāhulo nāma dhītā uppalasavhayā,
passa vīra mamaṃ iddhiṃ balaṃ dassemi satthuno.”

Và người con trai tên là Rāhula, người con gái tên gọi Uppala. Bạch đấng Anh Hùng, xin hãy nhìn xem thần thông của con, con sẽ thị hiện năng lực đến bậc Đạo Sư.”

 

521. Mahāsamudde caturo pakkhipi hatthapātiyaṃ,
telaṃ hatthagataṃ ceva vejjo komārako yathā.

Vị ni đã đặt bốn đại dương ở trong lòng bàn tay tương tợ như vị y sĩ Jīvaka Komārabhacca đã đổ dầu vào bàn tay.

 

522. Ubbattayitvā paṭhaviṃ pakkhipi hatthapātiyaṃ,
cittamuñjaṃ yathā nāma luñci komārako yuvā.

Vị ni đã bứng trái đất lên rồi đặt ở trong lòng bàn tay tương tợ như người thiếu niên trẻ tuổi đã nhổ lên cọng cỏ muñja nhiều màu sắc.

 

523. Cakkavāḷasamaṃ pāṇiṃ chādayitvāna matthake,
vassāpetvāna phusitaṃ nānāvaṇṇaṃ punappunaṃ.

Vị ni đã đưa bàn tay tợ như vũ trụ che ở đầu và đã làm đổ xuống giọt mưa nhiều màu sắc thành nhiều lượt.

 

524. Bhūmiṃ udukkhalaṃ katvā dhaññaṃ katvāna sakkharaṃ,
sineruṃ musalaṃ katvā maddi komārikā yathā.

Vị ni đã biến mặt đất thành cái cối giã, đã biến hạt cát thành thóc lúa, đã biến ngọn núi Sineru thành cái chày, rồi đã giã nát tương tợ như cô thiếu nữ (giã lúa gạo).

 

525. “Dhītā ’haṃ buddhaseṭṭhassa nāmenuppalasavhayā,
abhiññāsu vasībhūtā tava sāsanakārikā.

Con là con gái của đức Phật tối thượng có tên gọi là Uppala, đã có được năng lực về các thắng trí, là người thực hành theo lời dạy của Ngài.

 

526. Nānā vikubbaṇaṃ katvā dassetvā lokanāyakaṃ,
nāmagottañca sāvetvā pāde vandāmi cakkhuma.

Bạch đấng Hữu Nhãn, sau khi đã thực hiện và đã phô bày vô số phép biến hóa đến vị Lãnh Đạo Thế Gian, sau khi công bố tên và dòng họ, con xin đảnh lễ ở bàn chân (của Ngài).

 

527. Iddhiyā ca vasī homi dibbāya sotadhātuyā,
cetopariyañāṇassa vasī homi mahāmune.

Bạch đấng Đại Hiền Triết, con đã có năng lực về thần thông, về thiên nhĩ giới, và đã có năng lực về trí biết tâm của người khác.

 

528. Pubbe nivāsaṃ jānāmi dibbacakkhu visodhitaṃ,
sabbāsavā parikkhīṇā natthidāni punabbhavo.

Con biết được đời sống trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc được cạn kiệt, giờ đây không còn tái sanh nữa.

 

529. Atthadhammaniruttīsu paṭibhāne tatheva ca,
ñāṇaṃ me vimalaṃ suddhaṃ pabhāvena mahesino.

Trí tuệ của con về ý nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ y như thế về phép biện giải là được trong sạch, không bợn nhơ nhờ vào quyền năng của bậc Đại Ẩn Sĩ.

 

530. Purimānaṃ jinaggānaṃ sammukhā ca parammukhā,
adhikāraṃ bahuṃ mayhaṃ tuyhatthāya mahāmuni.

Bạch đấng Đại Hiền Triết, nhiều việc làm hướng thượng của con đến các đấng Chiến Thắng cao cả trong quá khứ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp là nhằm mục đích về Ngài.

 

531. Yaṃ mayā pūritaṃ kammaṃ kusalaṃ sara me muni,
tavatthāya mahāvīra puññaṃ upacitaṃ mayā.

Bạch đấng Hiền Triết, thiện nghiệp nào đã được con làm tròn đủ, xin Ngài hãy nhớ lại cho con. Bạch đấng Đại Hùng, phước báu đã được tích lũy bởi con là nhằm mục đích về Ngài.

 

532. Abhabbaṭṭhāne vajjetvā parivajjentī anācāraṃ,
tavatthāya mahāvīra cattaṃ jīvitamuttamaṃ.

Bạch đấng Đại Hùng, sau khi tránh xa những nơi không xứng đáng, trong khi từ bỏ tánh hạnh xấu, mạng sống quý cao đã được từ bỏ là nhằm mục đích về Ngài.

 

533. Dasakoṭisahassāni adāsiṃ mama jīvitaṃ,
pariccattaṃ ca me hoti tavatthāya mahāmuni.”

Bạch đấng Đại Hiền Triết, con đã bố thí mười ngàn koṭi, và mạng sống của con đã được con dứt bỏ là nhằm mục đích về Ngài.”

 

534. Tadātivimhitā sabbā sirasāva katañjalī,
avoc’ ayye kathaṃ āsi atuliddhiparakkamā.

Khi ấy, vô cùng sửng sốt, tất cả đã chắp tay lên ngay ở đầu và đã nói rằng: “Thưa ni sư, làm thế nào ni sư có được sự nỗ lực về thần thông không thể sánh bằng?

 

535. Satasahasse ito kappe nāgakaññā ahuṃ tadā,
vimalā namā nāmena kaññānaṃ sādhusammatā.

Trước đây một trăm ngàn kiếp, khi ấy tôi đã là con gái của Long Vương, có tên Vimalā, được công nhận là đức hạnh trong số những người con gái.

 

536. Mahorago mahānāgo pasanno jinasāsane,
padumuttaraṃ mahātejaṃ nimantesi sasāvakaṃ.

Có con rắn lớn là vị Đại Long, tịnh tín với Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng, đã thỉnh mời đấng Đại Quyền Lực Padumuttara cùng với các vị Thinh Văn.

 

537. Ratanāmayaṃ maṇḍapañca pallaṅkaṃ ratanāmayaṃ,
ratanavālukākiṇṇaṃ upabhogaṃ ratanāmayaṃ.

(Vị ấy đã cho chuẩn bị) mái che làm bằng châu báu, ghế dựa làm bằng châu báu, và vật dụng làm bằng châu báu được rắc rải các hạt cát châu báu.

 

538. Maggaṃ ca paṭiyādesi ratanaddhajabhūsitaṃ,
paccuggantvāna sambuddhaṃ vajjanto turiyehi so.

Và vị ấy đã cho chuẩn bị đường đi được trang hoàng với các ngọn cờ bằng châu báu. Trong khi được vang lên bởi các nhạc cụ, vị ấy đã đi ra đón rước bậc Toàn Giác.

 

539. Parisāhi catūhi sahito lokanāyako,
mahoragassa bhavane nisīdi paramāsane.

Được tháp tùng bởi tứ chúng, đấng Lãnh Đạo Thế Gian đã ngồi xuống ở chỗ ngồi cao nhất trong tòa nhà của vị Đại Long.

 

540. Annaṃ pānaṃ khādanīyaṃ bhojanīyaṃ mahārahaṃ,
varaṃ varañca pādāsi nāgarājā mahāyaso.

Vị Long Vương có danh tiếng vĩ đại đã dâng lên thức ăn nước uống vật thực cứng, vật thực mềm có giá trị lớn lao vô cùng quý báu.

 

541. Bhuñjitvāna sambuddho pattaṃ dhoviya yoniso,
anumodanīyaṃ ’kāsi nāgarañño mahiddhino.

Sau khi thọ thực, đấng Toàn Giác đã rửa bình bát theo khuôn phép rồi đã nói lời tùy hỷ đến vị Long Vương có đại thần lực.

 

542. Sabbaññuṃ phullitaṃ disvā nāgakaññā mahāyasā,
pasannā satthuno cittaṃ sunibaddhañca mānasaṃ.

Sau khi nhìn thấy đấng Toàn Tri một cách trọn vẹn, người con gái có danh vọng lớn lao của vị Long Vương đã được tịnh tín đối với bậc Đạo Sư, và tâm đã được gắn liền chặt chẽ với ý.

 

543. Mamañca cittamaññāya jalajuttamanāyako,
tasmiṃ khaṇe mahāvīro bhikkhuniṃ dassayiddhiyā.

Và sau khi biết được tâm của tôi, bậc Đại Hùng, đấng Lãnh Đạo Padumuttara vào giây phút ấy đã bảo vị tỳ khưu ni thị hiện thần thông.

 

544. Iddhī anekā dassesi bhikkhunī sā visāradā,
pamoditā vedajātā satthāraṃ idamabraviṃ:

Được tự tin, vị tỳ khưu ni ấy đã thị hiện nhiều loại thần thông. Được hoan hỷ, tràn đầy niềm phấn khởi, tôi đã nói với bậc Đạo Sư điều này:

 

545. “Addasāhaṃ imaṃ iddhiṃ sumanāyitarāyapi,
Kathaṃ ahosi sā vīra iddhiyā suvisāradā?”

Bạch đấng Anh Hùng, con đã nhìn thấy loại thần thông này thậm chí với tâm vui mừng khác. Làm thế nào nàng ấy đã được vô cùng tự tin về thần thông?

 

546. “Orasā mukhato jātā dhītā mama mahiddhikā,
mamānusāsanikarā iddhiyā suvisāradā.”

Người con gái có đại thần lực của Ta là chánh thống, được sanh ra từ miệng, là người thực hành theo Giáo Pháp của Ta, vô cùng tự tin về thần thông.”

 

547. Buddhassa vacanaṃ sutvā evaṃ patthesahaṃ tadā,
“Ahampi tādisā homi iddhiyā suvisāradā.”

Sau khi lắng nghe lời nói của đức Phật, khi ấy tôi đã ước nguyện như vầy: “Mong sao cho ta cũng được vô cùng tự tin về thần thông như thế ấy.”

 

548. Pamoditā ’haṃ sumanā patta-uttamamānasā,
anāgatamhi addhāne īdisā homi nāyaka.

Được hoan hỷ, với tâm vui mừng, tôi đã đạt đến ý nghĩ cao quý rằng: “Bạch đấng Lãnh Đạo, mong sao trong tương lai xa vời con sẽ là như thế ấy.”

 

549. Maṇimayamhi pallaṅke maṇḍapasmiṃ pabhaṅkare,
annapānena tappetvā sasaṅghaṃ lokanāyakaṃ.

Ở chiếc ghế dựa làm bằng ngọc ma-ni tại mái che sáng ngời, tôi đã làm hài lòng đấng Lãnh Đạo Thế Gian cùng với hội chúng bằng cơm ăn và nước uống.

 

550. Nāgānaṃ pavaraṃ pupphaṃ aruṇaṃ nāma uppalaṃ,
“Vaṇṇaṃ me īdisaṃ hotu” pūjesiṃ lokanāyakaṃ.

Tôi đã cúng dường đấng Lãnh Đạo Thế Gian đóa hoa sen xanh cao quý của loài rồng tên là Aruṇa (nguyện rằng): “Mong sao cho tôi có được màu da như thế này.”

 

551. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacch’ ahaṃ.

Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.

 

552. Tato cutā ’haṃ manuje upapannā sayambhuno,
uppalehi paṭicchannaṃ piṇḍapātamadāsahaṃ.

Từ nơi ấy chết đi, được sanh vào loài người, tôi đã dâng vật thực được đậy lại bằng những đóa sen xanh đến đấng Tự Chủ.

 

553. Ekanavute ito kappe vipassī nāma nāyako,
uppajji cārunayano sabbadhammesu cakkhumā.

Trước đây chín mươi mốt kiếp, đã hiện khởi đấng Lãnh Đạo tên Vipassī, là vị có ánh mắt thu hút, là bậc Hữu Nhãn về tất cả các pháp.

 

554. Seṭṭhidhītā tadā hutvā bārāṇasipuruttame,
nimantetvāna sambuddhaṃ sasaṅghaṃ lokanāyakaṃ.

Khi ấy, là con gái của người triệu phú ở kinh thành Bārāṇasī, tôi đã thỉnh mời đấng Toàn Giác vị Lãnh Đạo Thế Gian cùng với hội chúng.

 

555. Mahādānaṃ daditvāna uppalehi vināyakaṃ,
pūjayitvā cetasāva vaṇṇasobhaṃ apatthayiṃ.

Sau khi cúng dường đại thí và đã dâng những đóa sen xanh đến đấng Hướng Đạo, tôi đã ước nguyện về sự xinh đẹp của làn da chỉ bằng tâm ý.

 

556. Imasmiṃ bhaddake kappe brahmabandhu mahāyaso,
kassapo nāma gottena uppajji vadataṃ varo.

Ở vào kiếp Bhadda này, trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi đấng cao quý tên Kassapa, thuộc dòng dõi, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của đấng Phạm Thiên.

 

557. Upaṭṭhāko mahesissa tadā āsi narissaro,
kāsirājā kikī nāma bārāṇasipuruttame.

Khi ấy, có vị quân vương là đức vua xứ Kāsi tên Kikī ở tại kinh thành Bārāṇasī là người hộ độ của bậc Đại Ẩn Sĩ.

 

558. Tass’ āsiṃ dutiyā dhītā samaṇaguttasavhayā,
dhammaṃ sutvā jinaggassa pabbajjaṃ samarocayiṃ.

Tôi đã là người con gái thứ hai của vị (vua) ấy có tên là Samaṇagutta. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng cao cả, tôi đã xin xuất gia.

 

559. Anujāni na no tāto agāreva tadā mayaṃ,
vīsaṃ vassasahassāni vicarimha atanditā.

Cha đã không cho phép chúng tôi về việc không gia đình. Khi ấy, dầu chỉ là người tại gia chúng tôi đã đi đó đây trong hai chục ngàn năm, không mệt mỏi.

 

560. Komāribrahmacariyaṃ rājakaññā sukhedhitā,
buddhupaṭṭhānaniratā muditā sattadhītaro.

Là những người con gái của đức vua được nuôi dưỡng sung sướng về tư cách nghiêm trang của người thiếu nữ. Được hoan hỷ, bảy người con gái đã vui thích trong việc hộ độ đức Phật.

 

561. Samaṇī samaṇaguttā ca bhikkhunī bhikkhudāsikā,
dhammā ceva sudhammā ca sattamī saṅghadāsikā.

Samaṇī, Samaṇaguttā, Bhikkhunī, Bhikkhudāsikā, Dhammā, luôn cả Sudhammā nữa, và Saṅghadāsikā là thứ bảy.

 

562. Ahaṃ khemā ca sappaññā paṭācārā ca kuṇḍalā,
kisāgotamī dhammadinnā visākhā hoti sattamī.

Tôi, Khemā có trí tuệ, Paṭācārā, Kuṇḍalā, Kisāgotamī, Dhammadinnā, và Visākhā là thứ bảy (vào thời hiện tại).

 

563. Tehi kammehi sukatehi cetanāpaṇidhīhi ca,
jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ.

Do các nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.

 

564. Tato cutā manussesu upapannā mahākule,
pītamaṭṭhaṃ varaṃ dussaṃ adaṃ arahato ahaṃ.

Từ nơi ấy chết đi, được sanh vào giữa loài người, trong đại gia tộc, tôi đã dâng đến vị A-la-hán tấm vải màu vàng mịn màng quý giá.

 

565. Tato cut’ āriṭṭhapure jātā vippakule ahaṃ,
dhītā tiriṭavacchassa ummādantī manoharā.

Từ nơi ấy chết đi, tôi đã được sanh vào gia tộc dòng Bà-la-môn ở trong thành Ariṭṭha, là con gái của Tiriṭavaccha, có nét quyến rũ, tên là Ummādantī.

 

566. Tato cutā janapade kule aññatare ahaṃ,
pasutā nātiphītamhi sāliṃ gopemahaṃ tadā.

Từ nơi ấy chết đi, được sanh ra vào gia tộc khác không được giàu có lắm ở trong quốc độ, khi ấy tôi đã chăm sóc lúa sāli.

 

567. Disvā paccekasambuddhaṃ pañcalājāsatān’ ahaṃ,
datvā padumachannāni pañcaputtasatānipi.

Sau khi nhìn thấy vị Độc Giác Phật, tôi đã dâng năm trăm hạt cốm được che đậy bởi những đóa hoa sen (và đã ước nguyện) năm trăm người con trai.

 

568. Patthesiṃ tepi patthesuṃ madhuṃ datvā sayambhuno,
tato cutā araññe ’haṃ ajāyiṃ padumodare.

Sau khi dâng cúng mật ong đến đấng Tự Chủ, tôi đã ước nguyện về những người con trai ấy.[11] Từ nơi ấy chết đi, tôi đã được sanh ra ở trong lòng đóa hoa sen ở trong rừng.

 

569. Kāsirañño mahesī ’haṃ hutvā sakkatapūjitā,
ajaniṃ rājaputtānaṃ anūnaṃ satapañcakaṃ.

Tôi đã trở thành chánh hậu của đức vua xứ Kāsi, được tôn vinh kính trọng. Tôi đã sanh ra năm trăm vị hoàng tử không thiếu (một vị).

 

570. Yadā te yobbanappattā kīḷantā jalakīḷitaṃ,
disvā opattapadumaṃ āsuṃ paccekanāyakā.

Khi các người con trai ấy đạt được tuổi thanh niên, trong lúc chơi giỡn cuộc vui ở trong nước, sau khi nhìn thấy đóa hoa sen bị rụng cánh, họ đã trở thành các vị Lãnh Đạo Độc Giác.

 

571. Sāhaṃ tehi vinābhūtā sutavarehi sokinī,
cutā isigilipasse gāmakamhi ajāyisaṃ.

Tôi đây, không có những người con trai cao quý ấy, có sự sầu muộn, chết đi, tôi đã được sanh ra ở ngôi làng nhỏ tại sườn núi Isigili.

 

572. Yadā cuddhā sutamatī sutānaṃ bhattunopi ca,
yāgumādāya gacchantī aṭṭhapaccekanāyake.

573. Bhikkhāya gāmaṃ gacchante disvā putte anussariṃ,
khīradhārā viniggacchi tadā me puttapemasā.

Khi ấy, tôi đã lớn lên, có con cái. Và tôi đã mang món cháo cho những người con trai và cả người chồng nữa. Trong khi đi tôi đã nhìn thấy tám vị Lãnh Đạo Độc Giác đang đi vào làng để khất thực, và đã tưởng nhớ lại những người con trai. Khi ấy, bầu sữa tôi đã tiết ra ngoài bởi lòng thương yêu những người con trai của tôi.

 

574. Tato tesaṃ adaṃ yāguṃ pasannā sehi pāṇihi,
tato cutā ’haṃ tidase nandanaṃ upapajjahaṃ.

Sau đó, được tịnh tín tôi đã dâng món cháo đến các vị ấy bằng hai bàn tay của mình. Từ nơi ấy chết đi, tôi đã đạt đến vườn hoa Nandana ở cõi Tam Thập.

 

575. Anubhotvā sukhaṃ dukkhaṃ saṃsaritvā bhavābhave,
tavatthāya mahāvīra pariccattañca jīvitaṃ.

Bạch đấng Đại Hùng, con đã trải qua an lạc khổ đau, đã luân hồi cõi này cõi khác, và mạng sống đã được dứt bỏ là nhằm mục đích về Ngài.

 

576. Evaṃ bahuvidhaṃ dukkhaṃ sampatti ca bahubbidhā,
pacchime bhave sampatte jātā sāvatthiyaṃ pure.

Như vậy là đã có khổ đau nhiều loại và đã có sự thành đạt nhiều cách. Khi đạt đến cuộc sống cuối cùng, tôi đã được sanh ra ở thành Sāvatthī.

 

577. Mahādhane seṭṭhikule sukhite sajjite tathā,
nānāratanapajjote sabbakāmasamiddhinī.

Tôi đã có được sự thành tựu về tất cả các dục lạc ở trong gia đình triệu phú có đại tài sản, được rực rỡ bởi nhiều loại châu báu khác nhau, được an vui, được chu cấp như thế ấy.

 

578. Sakkatā pūjitā āsiṃ mānitā ’pacitā tathā,
rūpasobhaggasampannā kulesu abhisammatā.

Tôi đã được kính trọng, được tôn vinh, được nể vì, được cung kỉnh như thế ấy, được phú cho vẻ xinh đẹp của dáng vóc, được trọng vọng ở các gia đình.

 

579. Atīva patthitā c’ āsiṃ rūpabhogasirīhi ca,
patthitā seṭṭhiputtehi anekehi satehi ca.

Và tôi đã được ao ước vô cùng mãnh liệt bởi những người có sắc tướng, giàu có, sang trọng, và được ao ước bởi hàng trăm người con trai triệu phú.

 

580. Agāraṃ pajahitvāna pabbajiṃ anagāriyaṃ,
aḍḍhamāse asampatte arahattamapāpuṇiṃ.

Sau khi từ bỏ gia đình, tôi đã xuất gia vào cuộc sống không gia đình, không đầy nửa tháng tôi đã đạt được quả vị A-la-hán.

 

581. Iddhiyā abhinimmitvā caturassarathaṃ ahaṃ,
buddhassa pāde vandissaṃ lokanāthassa sirīmato.

Sau khi đã hóa hiện bằng thần thông thành chiếc xe bốn ngựa, tôi đã đảnh lễ ở bàn chân của đức Phật, bậc Bảo Hộ Thế Gian, đấng Quang Vinh.

 

582. Supupphitaggaṃ upagamma bhikkhunī

 ekā tuvaṃ tiṭṭhasi sālamūle,
na c’ atthi te dutiyā vaṇṇadhātu

bāle na tvaṃ bhāyasi dhuttakānaṃ.

Hỡi vị tỳ khưu ni, sau khi đi đến tột đỉnh của việc đã được phát triển toàn diện, nàng một mình đứng ở gốc cây Sāla. Và này người có phẩm chất về sắc đẹp, nàng không có người thứ nhì, nàng không hãi sợ lũ ngu dốt trong số những kẻ tồi bại hay sao?[12]

 

583. Sataṃ sahassānapi dhuttakānaṃ idhāgatā tādisakā bhaveyyuṃ,
lomaṃ na iñjāmi na santasāmi na māra bhāyāmi tamekikāpi.

Cho dầu là trăm ngàn kẻ tồi bại như ngươi có đi đến nơi đây, ta cũng không chao động sợi lông, ta cũng không bối rối. Này Ma Vương, ngươi chỉ một mình, ta không hãi sợ ngươi.” 

 

584. Esā antaradhāyāmi kucchiṃ vā pavisāmi te,
pakhumantarikāyampi tiṭṭhantiṃ maṃ na dakkhasi.

Hỡi nàng, ta sẽ biến mất hoặc ta sẽ đi vào trong bụng của nàng. Dẫu ta đang đứng ở ngay giữa lông mày, nàng vẫn không nhìn thấy ta.”

 

585. Cittasmiṃ vasībhūtamhi iddhipādā subhāvitā,
sabbabandhanamuttāmhi na taṃ bhāyāmi āvuso.

Các nền tảng của thần thông đã được khéo tu tập ở trong tâm có được năng lực. Này ông bạn, ta đã được thoát khỏi mọi sự trói buộc, ta không sợ hãi ngươi.”

 

586. Sattisūlūpamā kāmā khandhā’saṃ adhikuṭṭanā,
yaṃ tvaṃ kāmaratiṃ brūsi aratī ’dāni sā mama.

Các dục như là gươm giáo, các uẩn như là cái thớt. Điều ngươi đã gọi là sự thích thú trong các dục, sự không thích thú ấy giờ đây ta đã có được.”

 

587. Sabbattha vihatā nandi tamokhandho padāḷito,
evaṃ jānāhi pāpima nihato tvamasi antaka.

Sự vui thích đã được phá hủy ở tất cả các nơi. Khối đống mê mờ đã được phá tan. Này Ác Nhân, ngươi hãy biết như thế. Này Tử Thần, người đã bị bại trận.”

 

588. Jino tamhi guṇe tuṭṭho etadagge ṭhapesi maṃ,
aggā iddhimatīnan’ti parisāsu vināyako.

Hoan hỷ về đức hạnh ấy, đấng Chiến Thắng, bậc Lãnh Đạo, ở giữa các chúng đã thiết lập tôi vào vị thế tối thắng là “Vị đứng đầu trong số các vị ni có thần thông.

 

589. Pariciṇṇo mayā satthā kataṃ buddhassa sāsanaṃ,
ohito garuko bhāro bhavanetti samūhatā.

Bậc Đạo Sư đã được tôi phục vụ, lời dạy của đức Phật đã được tôi thực hành, nhiệm vụ nặng nề đã được đặt xuống, lối dẫn đi tái sanh đã được xóa tan.

 

590. Yassatthāya pabbajitā agārasmā ’nagāriyaṃ,
so me attho anuppatto sabbasaṃyojanakkhayo.

Vì mục đích nào tôi đã rời khỏi gia đình xuất gia vào cuộc sống không gia đình, mục đích ấy tức là sự đoạn tận tất cả các sự trói buộc đã được tôi đạt đến.

 

591. Cīvaraṃ piṇḍapātaṃ ca paccayaṃ sayanāsanaṃ,
khaṇena upanāmenti sahassāni samantato.

Trong phút chốc, hàng ngàn người từ các nơi dâng lên y phục, đồ ăn khất thực, thuốc men, và chỗ nằm ngồi.

 

592. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā.

Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.

 

593. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

 

594. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

 

Itthaṃ sudaṃ Uppalavaṇṇā bhikkhunī imā gāthāyo abhāsitthāti.

Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Uppalavaṇṇātheriyāpadānaṃ navamaṃ.

Ký sự về trưởng lão ni Uppalavaṇṇā là phần thứ chín.

 --ooOoo--

20. Paṭācārāpadānaṃ
20. Ký Sự về Paṭācārā:

 

595. Padumuttaro nāma jino sabbadhammānapāragū,
ito satasahassamhi kappe uppajji nāyako.

Trước đây một trăm ngàn kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông suốt về tất cả các pháp đã hiện khởi.

 

596. Tadāhaṃ haṃsavatiyaṃ jātā seṭṭhikule ahuṃ,
nānāratanapajjote mahāsukhasamappitā.

Khi ấy, tôi đã được sanh ra ở tại Haṃsavatī, trong gia đình triệu phú được rạng rỡ với vô số loại châu báu, tôi đã được thừa hưởng lạc thú lớn lao.

 

597. Upetvā taṃ mahāvīraṃ assosiṃ dhammadesanaṃ,
tato jātappasādā ’haṃ upesiṃ saraṇaṃ jinaṃ.

Tôi đã đi đến bậc Đại Hùng ấy và đã lắng nghe lời giảng Pháp. Sau đó, có niềm tịnh tín sanh khởi, tôi đã đến nương nhờ vào đấng Chiến Thắng.

 

598. Tato vinayadhārīnaṃ aggaṃ vaṇṇesi nāyako,
bhikkhuniṃ lajjiniṃ tādiṃ kappākappavisāradaṃ.

Sau đó, đấng Lãnh Đạo đã tán dương vị tỳ khưu ni khiêm tốn như thế ấy, được tự tin về các điều được phép và không được phép, là đứng đầu trong số các vị ni thông suốt về Luật.

 

599. Tadā muditacittā ’haṃ taṃ ṭhānamabhikaṅkhinī,
nimantetvā dasabalaṃ sasaṅghaṃ lokanāyakaṃ.

Khi ấy, có tâm được hân hoan, có sự mong muốn về vị thế ấy, tôi đã thỉnh mời đấng Thập Lực vị Lãnh Đạo Thế Gian cùng với hội chúng.

 

600. Bhojayitvāna sattāhaṃ daditvā ca ticīvaraṃ,
nipacca sirasā pade idaṃ vacanamabraviṃ:

Sau khi đã dâng vật thực trong bảy ngày, tôi đã cúng dường ba y, rồi đã quỳ xuống đê đầu ở bàn chân và đã nói lời nói này:

 

601. “Yā tayā vaṇṇitā vīra ito aṭṭhamake ’hani,
tādisā ’haṃ bhavissāmi yadi sijjhati nāyaka.”

Bạch đấng Anh Hùng, vị ni đã được Ngài tán dương vào tám ngày trước đây. Bạch đấng Lãnh Đạo, nếu được thành tựu con sẽ trở thành như vị ni ấy.”

 

602. Tadā avoca maṃ satthā “Bhadde mā bhāyi assasa,
anāgatamhi addhāne lacchase taṃ manorathaṃ.

Khi ấy, bậc Đạo Sư đã nói với tôi rằng: “Này cô gái hiền thục, chớ lo ngại, hãy yên tâm. Trong thời vị lai xa xôi, con sẽ đạt được điều mong ước ấy.

 

603. Satasahasse ito kappe okkākakulasambhavo,
gotamo nāma gottena satthā loke bhavissati.

Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.

 

604. Tassa dhammesu dāyādā orasā dhammanimmitā,
paṭācārāti nāmena hessasi satthusāvikā.”

(Người n này) sẽ trở thành nữ thinh văn của bậc Đạo Sư, là người tha t Giáo Pháp ca v (Pht) y, là chánh thng, được to ra t Giáo Pháp, có tên là Paṭācārā.”

 

605. Tadā ’haṃ muditā hutvā yāvajīvaṃ tato jinaṃ,
mettacittā paricariṃ sasaṅghaṃ lokanāyakaṃ.

Khi ấy, tôi đã được hoan hỷ. Với tâm từ mẫn tôi đã phục vụ đấng Chiến Thắng bậc Lãnh Đạo Thế Gian cùng với hội chúng từ đó cho đến hết cuộc đời.

 

606. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ.

Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.

 

607. Imasmiṃ bhaddake kappe brahmabandhu mahāyaso,
kassapo nāma gottena uppajji vadataṃ varo.

Ở vào kiếp Bhadda này, trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi đấng cao quý tên Kassapa, thuộc dòng dõi, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của đấng Phạm Thiên.

 

608. Upaṭṭhāko mahesissa tadā āsi narissaro,
kāsirājā kikī nāma bārāṇasisuparuttame.

Khi ấy, có vị quân vương là đức vua xứ Kāsi tên Kikī ở tại kinh thành Bārāṇasī là người hộ độ của bậc Đại Ẩn Sĩ.

 

609. Tass’ āsiṃ tatiyā dhītā bhikkhunī iti vissutā,
dhammaṃ sutvā jinaggassa pabbajjaṃ samarocayiṃ.

Tôi đã là người con gái thứ ba của vị (vua) ấy được nổi danh là Bhikkhunī. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng cao cả, tôi đã xin xuất gia.

 

610. Anujāni na no tāto agāreva tadā mayaṃ,
vīsaṃ vassasahassāni vicarimha atanditā.

Cha đã không cho phép chúng tôi. Khi ấy, dầu chỉ là người tại gia chúng tôi đã đi đây đó trong hai chục ngàn năm, không mệt mỏi.

 

611. Komāribrahmacariyaṃ rājakaññā sukhedhitā,
buddhupaṭṭhānaniratā muditā satta dhītaro.

Là những người con gái của đức vua được nuôi dưỡng sung sướng về tư cách nghiêm trang của người thiếu nữ. Được hoan hỷ, bảy người con gái đã vui thích trong việc hộ độ đức Phật.

 

612. Samaṇī samaṇaguttā ca bhikkhunī bhikkhudāsikā,
dhammā ceva sudhammā ca sattamī saṅghadāsikā.

Samaṇī, Samaṇaguttā, Bhikkhunī, Bhikkhudāsikā, Dhammā, luôn cả Sudhammā nữa, và Saṅghadāsikā là thứ bảy.

 

613. Ahaṃ uppalavaṇṇā ca khemā bhaddā ca bhikkhunī,
kisāgotamī dhammadinnā visākhā hoti sattamī.

Tôi, Uppalavaṇṇā, Khemā, Bhikkhunī hiền thục, Kisāgotamī, Dhammadinnā, và Visākhā là thứ bảy (vào thời hiện tại).

 

614. Tehi kammehi sukatehi cetanāpaṇidhīhi ca,
jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ.

Do các nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.

 

615. Pacchime ca bhavedāni jātā seṭṭhikule ahaṃ,
sāvatthiyaṃ puravare iddhe phīte mahaddhane.

Và trong kiếp sống cuối cùng hiện nay, tôi đã được sanh vào gia đình triệu phú sung túc, thịnh vượng, có tài sản lớn lao ở trong kinh thành Sāvatthī.

 

616. Yadā ca yobbanūpetā vitakkavasagā ahaṃ,
naraṃ jānapadaṃ disvā tena saddhiṃ agacch’ ahaṃ.

Và khi đã đạt đến tuổi trưởng thành, bị tác động của sự suy tầm, sau khi gặp người đàn ông quê mùa tôi đã bỏ đi cùng với người ấy.

617. Ekaputtappasūtā ’haṃ dutiyo kucchiyaṃ mama,
tadā ’haṃ mātāpitaro dakkhāmīti sunicchitā.

Tôi đã sanh ra một người con trai, đứa thứ nhì còn ở trong bụng của tôi. Khi ấy, tôi đã ước muốn mãnh liệt rằng: “Tôi sẽ gặp lại cha mẹ.”

 

618. Na rocesi pati mayhaṃ tadā tamhi pavāsite,
ekikā niggatā gehā gantuṃ sāvatthimuttamaṃ.

Người chồng của tôi đã không bằng lòng. Khi ấy, trong lúc người ấy đi vắng, mỗi một mình tôi đã rời khỏi ngôi nhà để đi đến kinh thành Sāvatthī.

 

619. Tato me sāmi āgantvā sambhāvesi pathe mamaṃ,
tadā me kammajā vātā uppannā atidāruṇā.

Sau đó, người chồng của tôi đã đi đến và đã gặp tôi ở trên đường lộ. Khi ấy, có cơn gió vô cùng khủng khiếp sanh lên do nghiệp của tôi đã ào tới.

 

620. Uṭṭhito ca mahāmegho pasūtisamaye mama,
dabbatthāya tadā gantvā sāmi sappena mārito.

Và có trận mưa lớn đã xuất hiện vào lúc lâm bồn của tôi. Khi ấy, người chồng đã đi vì mục đích củi gỗ (để sưởi ấm) và đã bị chết bởi con rắn.

 

621. Tadā vijātadukkhena anāthā kapaṇā ahaṃ,
kunnadiṃ pūritaṃ disvā gacchantī sakulālayaṃ.

Khi ấy, do đau đớn vì đã sanh đẻ, không người bảo hộ, tôi đã trở nên khốn khổ. Trong khi đi đến chỗ trú ngụ của gia đình, tôi đã nhìn thấy con sông cạn bị tràn ngập.

 

622. Bālaṃ ādāya atariṃ parakūle ca ekakaṃ,
sāyetvā bālakaṃ puttaṃ itaraṃ tāraṇāy’ ahaṃ.

Sau khi ẳm lấy đứa bé tôi đã lội qua, và có mỗi một đứa ở bờ bên kia. Tôi đã đặt đứa con trai thơ dại nằm xuống vì việc mang đứa kia sang.

 

623. Nivattā ukkuso ’hāsi taruṇaṃ vilapantakaṃ,
itarañca vahī soto sāhaṃ sokasamappitā.

Tôi đã quay trở lại. Có con chim ưng đã tha đi đứa nhỏ đang kêu khóc và dòng nước đã cuốn trôi đứa kia; tôi đây đã bị xâm chiếm bởi sầu muộn.

 

624. Sāvathīnagaraṃ gantvā assosiṃ sajane mate,
tadā avocaṃ sokaṭṭā mahāsokasamappitā.

Sau khi đi đến thành Sāvatthī, tôi đã nghe rằng những người thân đã chết. Khi ấy, bị dằn vặt bởi sầu muộn, bị xâm chiếm bởi nỗi sầu muộn lớn lao, tôi đã nói rằng:

 

625. “Ubho puttā kālakatā panthe mayhaṃ pati mato,
mātā pitā ca bhātā ca ekacitakasmiṃ ḍayhare.”

Cả hai người con trai đã lìa đời, chồng của tôi đã bị chết ở trên đường, mẹ cha và người em trai đã được thiêu chung ở một giàn hỏa táng.”

 

626. Tadā kisā ca paṇḍu ca anāthā dīnamānasā,
ito tato bhamantīhaṃ addasaṃ narasārathiṃ.

Khi ấy, trở nên ốm yếu, vàng vọt, không người bảo hộ, tâm ý thê lương, trong lúc đi quanh quẩn đó đây tôi đã nhìn thấy đấng Điều Ngự Trượng Phu.

 

627. Tato avoca maṃ satthā “putte mā soci assasa,
attānaṃ tvaṃ gavesassu kiṃ niratthaṃ vihaññasi.

Sau đó, bậc Đạo Sư đã nói với tôi rằng: “Này con gái, chớ khóc than, hãy bình tâm. Con hãy tìm kiếm lại chính mình. Sao con lại buồn đau một cách vô ích?

 

628. Na santi puttā tāṇāya na pitā napi bandhavā,
antakenādhipannassa natthi ñātīsu tāṇatā.”

Không có những người con trai, không có người cha, cũng không có những người thân trong việc bảo vệ. Đối với người đã bị khuất phục bởi sự chết, sự bảo vệ ở những người thân là không có.”[13]

 

629. Taṃ sutvā munino vākyaṃ paṭhamaṃ phalamajjhagaṃ,
pabbajitvāna na ciraṃ arahattamapāpuṇiṃ.

Sau khi lắng nghe lời nói ấy của bậc Hiền Triết, tôi đã chứng đạt quả vị thứ nhất. Sau khi xuất gia không lâu, tôi đã thành tựu quả vị A-la-hán.

 

630. Iddhīsu ca vasī homi dibbāya sotadhātuyā,
paracittāni jānāmi satthusāsanakārikā.

Là người thực hành theo lời dạy của đấng Đạo Sư, tôi có năng lực về các thần thông, về thiên nhĩ giới, tôi biết được tâm của người khác.

 

631. Pubbe nivāsaṃ jānāmi dibbacakkhu visodhitaṃ,
khepetvā āsave sabbe visuddhāmhi sanimmalā.

Tôi biết được đời sống trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh, sau khi quăng bỏ tất cả các lậu hoặc, tôi được thanh tịnh, với sự không uế nhiễm.

 

632. Tato ’haṃ vinayaṃ sabbaṃ santike sabbadassino,
uggaṇhiṃ sabbavitthāraṃ vyāhariṃ ca yathātathaṃ.

Sau đó, trong sự hiện diện của đấng Toàn Tri, tôi đã học toàn bộ về Luật cùng tất cả phần chi tiết và đã trình bày đúng theo như thế.

 

633. Jino tasmiṃ guṇe tuṭṭho etadagge ṭhapesi maṃ,
“Aggā vinayadhārīnaṃ paṭācārāva ekikā.”

Hoan hỷ về đức hạnh ấy, đấng Chiến Thắng đã thiết lập tôi vào vị thế tối thắng rằng: “Chỉ mỗi một mình Paṭācārā là đứng đầu trong số các vị ni thông suốt về Luật.”

 

634. Pariciṇṇo mayā satthā kataṃ buddhassa sāsanaṃ,
ohito garuko bhāro bhavanetti samūhatā.

Bậc Đạo Sư đã được tôi phục vụ, lời dạy của đức Phật đã được tôi thực hành, nhiệm vụ nặng nề đã được đặt xuống, lối dẫn đi tái sanh đã được xóa tan.

 

635. Yassatthāya pabbajitā agārasmā ’nagāriyaṃ,
so me attho anuppatto sabbasaṃyojanakkhayo.

Vì mục đích nào tôi đã rời khỏi gia đình xuất gia vào cuộc sống không gia đình, mục đích ấy tức là sự đoạn tận tất cả các sự trói buộc đã được tôi đạt đến.

 

636. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā.

Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.

 

637. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

 

638. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

 

Itthaṃ sudaṃ Paṭācārā bhikkhunī imā gāthāyo abhāsitthāti.
Tỳ khưu ni Paṭācārā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

 

Paṭācārātheriyāpadānaṃ dasamaṃ.

Ký sự về trưởng lão ni Paṭācārā là phần thứ mười.

--ooOoo--

Ekuposathikavaggo dutiyo.

Phẩm Một Lần Trai Giới là phẩm thứ nhì.

Tassuddānaṃ:

Tóm lược của phẩm này:[14]

 

Ekuposathikā ceva saḷalā cātha modakā,
ekāsanā pañcadīpā naḷamālī ca gotamī.
Khemā uppalavaṇṇā ca paṭācārā ca bhikkhunī,
gāthā satāni pañceva nava cāpi taduttari.

Vị ni Ekuposathikā, luôn cả Saḷalā, rồi Modakā, Ekāsanā, Pañcadīpā, Naḷamālī, và Gotamī, Khemā, Uppalavaṇṇā, và tỳ khưu ni Paṭācārā. Các câu kệ là năm trăm và luôn cả chín câu thêm vào đó nữa.

--ooOoo--


[1] Ekuposathikā nghĩa là “người nữ có một lần thực hành Bát quan trai giới.”

[2] Salalapupphikā nghĩa là “người nữ có bông hoa salala.”

[3] Modakadāyikā nghĩa là “người nữ bố thí thịt vò viên.”

[4] Ekāsanadāyikā nghĩa là “người nữ dâng một chỗ ngồi.”

[5] Pañcadīpadāyikā nghĩa là “người nữ cúng dường năm ngọn đèn.” Câu chuyện này tương tợ câu chuyện số 9 của Pañcadīpikā (người nữ có năm ngọn đèn).

[6] Sālamālikā nghĩa là “người nữ có tràng hoa Sālā.” Câu chuyện này tương tợ câu chuyện số 5 của vị trưởng lão ni có tên Naḷamālikā.

[7] Mahāpajāpatigotamī nghĩa là “người nữ lãnh tụ vĩ đại thuộc dòng họ Gotama.”

[8]ānando nir-ānando” là phép chơi chữ , không thể diễn tả bằng tiếng Việt.

[9] Dịch theo các bản Pāḷi của Thái, Miến, Anh: tadā taṃ phullapivinaṃ ...

[10] Xem Mahānidānasuttaṃ - Kinh Đại Duyên, Trường Bộ II.

[11] tepi patthesuṃ = các vị ấy cũng đã ước nguyện (?), vì thế đã dịch theo Tam Tạng Thái Lan: patthesiṃ tesu puttesu.

[12] Các câu kệ từ 581 đến 587 được thấy ở Trưởng Lão Ni Kệ, Phẩm Mười Một - Tập Mười Hai Kệ miêu tả cuộc đối thoại giữa Ma Vương và vị trưởng lão ni.

[13] Kinh Pháp Cú, câu 288.

[14] Không thấy phần tóm lược này ở Tam Tạng của Sri Lanka. Được thêm vào từ Tạng Miến.

-ooOoo-

Ðầu trang | Mục lục | 01 | 02 | 03 | 04

 

Chân thành cám ơn Tỳ khưu Indacanda đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 09-2007)

[Trở về trang Thư Mục]
last updated: 02-10-2007