BuddhaSasana Home Page

Vietnamese, with VU-Times font


THERAVĀDA

SỬ LIỆU VỀ XÁ-LỢI RĂNG PHẬT
DĀṬHĀVAṂSA

Nguyên tác Pāli: Dhammakitti Rājaguru Thera
Lời tiếng Việt: Indacanda Bhikkhu (Trương đình Dũng)

SRI JAYAWARDHANARAMAYA
COLOMBO – 2005


 Lưu ý: Đọc với phông chữ VU-Times (Viet-Pali Unicode)

-ooOoo-

PAÑCAMO PARICCHEDO
CHƯƠNG THỨ NĂM

1/- Saṃvaccharamhi navamamhi mahādisena-
puttassa kittisirimeghanarādhipassa,
te jampatī tamatha paṭṭanamotaritvā
devālaye paṭivasiṃsu manobhirāme.

Sau đó ,vào năm thứ chín [1] của đức vua Kittisirimegha là con trai của Mahādisena, hai vợ chồng ấy đã đến được bến tàu ấy và đã trú ở trong lâu đài lộng lẫy của chư thiên.

2/- Disvāna te dvijavaro pathike nisāyaṃ
santappayittha madhurāsanapānakehi,
rattikkhaye ca anurādhapurassa maggaṃ
jāyāpatīnamatha so abhivedayittha.

Người bà-la-môn cao cả đã nhìn thấy họ ở trên đường lộ vào ban đêm và đã làm hài lòng họ với thức ăn ngon ngọt và nước uống, v.v... Sau đó, vào lúc cuối đêm ông ta đã chỉ dẫn cho hai vợ chồng đường đi Anurādhapura.

3/- Ādāya te dasanadhātuvaraṃ jinassa
sammānitā dvijavarenatha paṭṭanamhā,
nikkhamma dūrataraṃ maggamatikkamitvā
padvāragāmamanurādhapurassa gañchuṃ.

Sau khi đã được người bà-la-môn cao cả tiếp đãi nồng hậu, họ đã mang xá-lợi răng cao quý của đấng Chiến Thắng rời khỏi bến tàu, rồi đã vượt qua chặng đường dài đi đến ngôi làng là cửa ngõ đưa vào Anurādhapura.

4/- Yaṃ dhammikaṃ naravaraṃ abhitakkayitvā
jāyāpatī visayametamupāgamiṃsu,
taṃ vyādhinā samuditena mahādisena-
laṅkissaraṃ sucirakālakataṃ suṇiṃsu.

Được người bà-la-môn cao cả chỉ bảo đúng đắn, hai vợ chồng đã đi đến khu vực ấy và đã nghe được rằng đức vua xứ Laṅkā tên Mahādisena ấy băng hà đã lâu do bệnh tật phát khởi.

5/- Sokena te sikharineva samuggatena
ajjhotthaṭā bahutaraṃ vilapiṃsu mūḷhā,
khāyiṃsu tesamatha mucchitamānasānaṃ
sabbā disā ca vidisā ca ghanandhakārā.

Họ đã bị choáng ngợp vì nỗi buồn tợ như trái núi đang đè lên. Họ đã trở nên bối rối, và đã than thở rất nhiều. Khi ấy, tất cả các phương hướng chính và phụ đều là bóng tối mịt mùng đã nuốt chửng lấy những người có tâm tư bị choáng váng ấy.

6/- Sutvāna kittisirimeghanarādhipassa
rajje ṭhitassa ratanattayamāmakattaṃ,
vassena nibbutamahādahanā va kacchā
te jampatī samabhavuṃ hatasokatāpā.

Sau khi nghe được tấm lòng tôn kính Tam Bảo của đức vua đang trị vì quốc độ tên Kittisirimegha, cặp vợ chồng ấy đã không còn bị nỗi buồn rầu thiêu đốt, ví như khu rừng có đám cháy lớn đã được cơn mưa dập tắt.

7/- Sutvāna meghagirināma mahāvihāre
bhikkhussa kassaci narādhipavallabhattaṃ,
tassantikaṃ samupagamma katātitheyyā
dhātuppavattimavadiṃsu ubho samecca.

Sau khi biết được tấm lòng quý mến của đức vua đối với một vị tỳ khưu nào đó ở tại tu viện lớn tên là Meghagiri, cả hai đã đến gặp vị tỳ khưu ấy với tư cách là khách phương xa và đã nói về sự việc của xá-lợi như thế.

8/- Sutvāna so munivaradasanappavattiṃ
haṭṭho yathāmatarasenabhisittagatto,
gehe sake sapadi paṭṭavitānakehi
vaḍḍhesi dhātumamalaṃ samalaṅkatamhi.

Sau khi nghe được tin về xá-lợi răng của đấng Mâu Ni cao quý, vị ấy đã trở nên mừng rỡ như thể toàn thân đã được tưới mát hương vị bất tử rồi lập tức đã rước xá-lợi tinh khiết vào trú xá của mình đã được trang hoàng với các mái che bằng vải.

9/- Tesañca jānipatikānamubhinnameso
katvāna saṅgahamuḷārataraṃ yathicchaṃ,
vuttantametamabhivedayituṃ pasatthaṃ
laṅkādhipassa savidhaṃ pahiṇittha bhikkhuṃ.

Và sau khi thực hiện việc bố trí tốt đẹp hơn theo như ước muốn của hai vợ chồng ấy, vị ấy đã mau chóng phái đi vị tỳ khưu để thông báo cho đức vua xứ Laṅkā tin tức tốt đẹp này.

10/- Rājā vasantasamaye saha kāminīhi
uyyānakeḷisukhamekadinenubhonto,
āgacchamānamatha tattha sudūrato ca
taṃ vippasannamukhavaṇṇamapassi bhikkhuṃ.

Vào mùa xuân nhằm một ngày nọ, trong lúc đang hưởng thụ niềm khoái lạc của việc du ngoạn trong công viên cùng với hầu thiếp, vào khi ấy đức vua đã nhìn thấy vị tỳ khưu ấy với gương mặt vô cùng rạng rỡ từ rất xa đang tiến đến nơi ấy.

11/- So saṃyamī samupagamma narādhipaṃ taṃ
vuttantametamabhivedayi tuṭṭhacitto,
sutvāna taṃ paramapītibharaṃ vahanto
sampattacakkaratano va ahosi rājā.

Vị tỳ khưu ấy với tâm tư hoan hỷ đã đến gặp đức vua và đã thông báo cho ngài tin tức tốt đẹp ấy. Sau khi nghe được điều ấy, đức vua trong lúc thọ hưởng nỗi niềm hoan hỷ tối thượng tưởng chừng như mình đã đạt được bánh xe ngọc (của vị Chuyển Luân Vương).

12/- Laṅkissaro dvijavarā jinadantadhātuṃ
ādāya jānipatayo ubhaye samecca,
essanti laṅkamacirena itīritaṃ taṃ
nemittikassa vacanañca tathaṃ amaññi.

Đức vua xứ Laṅkā đã nghĩ đến điều đã được nói lên giống hệt như lời tiên đoán của vị thầy bói rằng: “Hai vợ chồng sau khi nhận lấy xá-lợi răng của đấng Chiến Thắng từ người thủ lãnh bà-la-môn không bao lâu nữa sẽ cùng nhau đi đến xứ Laṅkā.”

13/- Rājā tato mahatiyā parisāya saddhiṃ
tassānurādhanagarassa puruttarāya,
āsāya taṃ sapadi meghagiriṃ vihāraṃ
saddho agañchi padasāva pasannacitto.

Sau đó, là người có đức tin và có lòng tịnh tín, đức vua do lòng nôn nóng liền tức thời đã cùng với đoàn tùy tùng đông đảo đi bộ đến tu viện Meghagiri ấy ở về phía đông-bắc thành Anurādhapura của mình.

14/- Disvā tato sugatadhātumalabbhaneyyaṃ
ānandajassunivahena ca tārahāraṃ,
siñcaṃ vidhāya paṇidhiṃ bahumānapubbaṃ
romañcakañcukadharo iti cintayittha.

Kế đến, sau khi nhìn thấy xá-lợi của đức Thiện Thệ là vật khó thể đạt được, đức vua với làn da có lông dựng đứng đã chùi con mắt bị nhòe đi bởi giòng nước mắt trào ra vì vui sướng khi đã đạt được điều ước nguyện trước đây với nhiều sự tôn kính, rồi đã suy nghĩ rằng:

15/- Sohaṃ anekaratanujjalamoḷidhāriṃ
pūjeyyamajja yadi duccajamuttamaṅgaṃ,
lokattayekasaraṇassa tathāgatassa
no dhātuyā mahamanucchavikaṃ kareyyaṃ.

“Hôm nay, nếu ta bày tỏ sự tôn kính bằng đầu là vật dùng để đội chiếc vương miện lấp lánh vô số ngọc quý và khó thể dứt bỏ, thì ta không thể thực hiện được điều thích đáng cao cả đối với xá-lợi của đức Như Lai là nơi nương tựa của cả tam giới.

16/- Etaṃ pahūtaratanaṃ sadhanaṃ sabhoggaṃ
sampūjayaṃ api dharāvalayaṃ asesaṃ,
pūjaṃ karomi tadanucchavikaṃ ahaṃ ti
cinteyya ko hi bhuvanesu amūḷhacitto.

Ta sẽ thực hiện sự cúng dường vật thích đáng đối với Ngài là cả toàn thể trái đất đáng kính này với vô số châu ngọc tài sản của cải. Bởi vì là người có tâm trí không si mê ở trong các cõi, ai mới có thể nghĩ đến (điều ấy)?

17/- Laṅkādhipaccamidamappataraṃ mamāsi
buddho guṇehi vividhehi pamāṇasuñño,
sohaṃ parittavibhavo tibhavekanāthaṃ
taṃ tādisaṃ dasabalaṃ kathamaccayissaṃ.

Vương quyền ở xứ Laṅkā này của ta thì nhỏ nhoi còn đức Phật thì vô lượng công đức đủ các loại, ta là người có quyền lực nhỏ bé làm sao có thể tôn vinh đấng Thập Lực như thế ấy là vị chúa tể của cả Tam Giới?”

18/- Itthaṃ punappuna tadeva vicintayanto
āpajji so dhitiyutopi visaññibhāvaṃ,
saṃvījito sapadi cāmaramārutena
khinnena sevakajanena alattha saññaṃ.

Trong lúc suy đi nghĩ lại về chính điều ấy như thế, đức vua dầu có sự vững chải cũng đã rơi vào trạng thái bất tỉnh, ngay lập tức đã được người hầu tận tụy quạt mát bằng đuôi bò rừng nên đã phục hồi sự tỉnh táo.

19/- Thokampi bījamathavā abhiropayantā
medhāvino mahatiyā pi vasundharāya,
kālena pattatacapupphaphalādikāni
vindanti patthitaphalāni anappakāni.

“Vả lại, những người thông minh khi gieo vào lòng trái đất to lớn chỉ một ít hạt giống, theo thời gian sẽ đạt được các thứ lá, vỏ cây, hoa, trái, v.v... và các thành quả mong mỏi không phải là nhỏ nhoi.

20/- Evaṃ guṇehi vividhehipi appameyye
dhammissaramhi mahamappatarampi katvā,
kālaccayena pariṇāmavisesarammaṃ
saggāpavaggāsukhamappaṭimaṃ labhissaṃ.

Như thế, sau khi thực hiện sự việc mặc dầu vô cùng nhỏ nhoi đến đấng Pháp Chủ là vị có vô lượng công đức đủ các loại, đến khi từ trần ta sẽ đạt được kết quả đặc biệt tốt đẹp là an lạc cõi trời và sự giải thoát không gì sánh bằng.”

21/- Itthaṃ vicintiya pamodabharātireka-
sampuṇṇacandimasarikkhamukho narindo,
sabbaññuno dasanadhātuvarassa tassa
pūjesi sabbamapi sīhaḷadīpametaṃ.

Sau khi suy nghĩ điều ấy, đức vua có khuôn mặt tợ như ánh trăng tròn lộ vẻ hoan hỷ tột độ đã cúng dường toàn thể đảo Sīhaḷa này đến xá-lợi răng cao quý ấy của đấng Toàn Giác.

22/- Bhikkhūpi tepiṭakajātakabhāṇakādī
takkāgamādi kusalā api buddhimanto,
vatthuttayekasaraṇā api poravaggā
kotūhalā sapadi sannipatiṃsu tattha.

Ngay cả các vị tỳ khưu là những bậc đạo hạnh và có trí tuệ chuyên trùng tụng về Tam Tạng, Kinh Bổn Sanh, v.v... hoặc rành rẽ về lý luận, kinh điển, v.v... có sự nương tựa hoàn toàn vào ba ngôi báu, cùng với đám người ở thành phố có sự háo hức đã mau chóng tụ hội tại nơi ấy.

23/- Rājā tato mahatiyā parisāya majjhe
iccabravī munivaro hi susukkadāṭho,
dāṭhā jinassa yadi osadhitārakāva
setā bhaveyya kimayaṃ malināvabhāsā.

Khi ấy, đức vua đã nói ở giữa hội chúng đông đảo rằng: “Đấng Mâu Ni cao quý có răng màu trắng tinh. Nếu vật này là răng của đấng Chiến Thắng thì phải trắng giống như sao Mai, sao lại có màu sắc như là sẫm tối?”

24/- Tasmiṃ khaṇe dasanadhātu munissarassa
pakkhe pasāriya duve viya rājahaṃsī,
vitthāritaṃsunivahā gaganaṅganamhi
āvaṭṭato javi javena muhuttamattaṃ.

Vào giây phút ấy, xá-lợi răng của đấng Mâu Ni có hào quang lan tỏa ở trên bầu trời giống như là chim thiên nga chúa có hai cánh xoè rộng đã xoay tròn với tốc độ nhanh trong một chốt lát.

25/- Paccagghamattharaṇakaṃ sitamattharitvā
bhaddāsanamhi vinidhāya munindadhātuṃ,
taṃ jātipupphanikarena thakesi rājā
vassaccayambudharakūṭasamappabhena.

Sau khi đã trải ra tấm thảm mới màu trắng, đức vua đã đặt xá-lợi của đấng Mâu Ni ở trên chiếc ghế xinh xắn rồi đã phủ lên xá-lợi ấy bằng nhiều hoa nhài trông giống như những đám mây vào lúc dứt cơn mưa.

26/- Uggamma khippamatha dhātu munissarassa
sā puppharāsisikharamhi patiṭṭhahitvā,
raṃsīhi duddhadhavalehi virocamānā
sampassataṃ animise nayane akāsi.

Khi ấy, xá-lợi của đấng Mâu Ni đã nhanh chóng trồi lên ngự ở bên trên đống hoa và trong lúc tỏa ra những tia hào quang trắng tinh như sữa đã khiến cho những ánh mắt nhìn sững không máy động.

27/- Taṃ dhātumāsanagatamhi patiṭṭhapetvā
khīrodapheṇapaṭalappaṭime dukūle,
chādesi sāṭakasatehi mahārahehi
bhiyyo pi so upaparikkhitukāmatāya.

Với ý định muốn tìm hiểu thêm, đức vua đã an vị xá-lợi ấy ở trên chiếc ghế phủ tấm vải mịn màng tợ như đám bọt sữa rồi đã đậy lại bằng trăm tấm vải vô cùng giá trị.

28/- Abbhuggatā sapadi vatthasatāni bhetvā
setambudodaraviniggatacandimā va,
ṭhatvāna sā upari tesamabhāsayittha
raṃsīhi kundavisadehi disā samantā.

Xá-lợi ấy ngay lập tức đã xuyên qua trăm tấm vải, bay lên, và ngự ở bên trên các tấm vải ấy, rồi đã tỏa sáng khắp các hướng ở xung quanh với các tia hào quang màu trắng hoa nhài trông giống như mặt trăng đã thoát ra khỏi quầng mây trắng.

29/- Tasmiṃ khaṇe vasumatī saha bhūdharehi
gajjittha sādhuvacanaṃ va samuggirantī,
taṃ abbhutaṃ viya samekkhitumamburāsi
so niccalo abhavi santataraṅgabāhu.

Vào giây phút ấy, trái đất cùng với các ngọn núi đã gầm lên tợ như đang phát ra tiếng nói “Sādhu, lành thay!” Để chiêm ngưỡng điều kỳ diệu ấy, đức vua đã bất động tay chân giữ yên, ví như biển cả đã trở nên yên lặng và có làn sóng êm ả.

30/- Mattebhakampitasupupphitasālato va
bhassiṃsu dibbakusumāni pi antaḷikkhā,
naccesu cāturiyayamacchariyaṃ janassa
sandassayiṃsu gagane surasundarī pi.

Thậm chí các bông hoa ở cõi trời cũng đã từ trên không trung rơi xuống tưởng chừng như đã bị rụng xuống từ cây Sa-la nở đầy hoa đang bị con voi điên lay động. Và ở trên bầu trời các nàng tiên xinh đẹp cũng đã trình diễn cho mọi người xem tài nghệ tuyệt vời trong các vũ khúc.

31/- Ānandasañjanitatāraravābhirāmaṃ
gāyiṃsu gītamamatāsanagāyakāpi,
muñciṃsu dibbaturiyāni pi vāditāni
gambhīramuccamadhuraṃ diguṇaṃ ninādaṃ.

Những ca sĩ có địa vị bất tử đã cất giọng ca tuyệt vời với giọng hát lanh lảnh sanh lên bởi niềm hoan hỷ. Ngay cả những nhạc cụ thiên đình cũng đã phát ra âm thanh hòa tấu sâu sắc, cao vút, và ngọt ngào.

32/- Saṃsibbitaṃ rajatarajjusatānukārī
dhārāsatehi vasudhambaramambudena,
sabbā disā jaladakūṭamahagaghiyesu
dittācirajjutipadīpasatāvabhāsā.

Mặt đất và bầu trời được dệt bởi đám mây có hàng trăm luồng nước y như là hàng trăm sợi dây thừng bằng châu ngọc. Khắp các phương, ở trên đỉnh những đám mây vô cùng quý báu, đã được chiếu sáng trông giống như hàng trăm ngọn đèn với ánh sáng rực rỡ.

33/- Ādhūyamānamalayācalakānananto
samphullapupphajaparāgabharābhihāri,
sedodabindugaṇasaṃharaṇappavīṇo
mandamavāyi sisiro api gandhavāho.

Trong lúc di chuyển đến cuối khu rừng ở ngọn núi Malaya lùa theo những hạt bụi phấn sanh ra từ những đóa hoa nở rộ, làn hương thơm mát lạnh khéo lùa theo những hạt sương cũng đã nhè nhẹ thổi qua.

34/- Rājā tamabbhutamavekkhiya pāṭihīraṃ
lokussavaṃ bahutarañca adiṭṭhapubbaṃ,
vipphāritakkhiyugalo paramappamodā
pūjaṃ karittha mahatiṃ ratanādikehi.

Trong lúc quan sát điều kỳ diệu tuyệt vời ấy chưa từng thấy trước đây hơn hẳn ngày lễ hội của nhân gian, đức vua với đôi mắt mở to bởi niềm hoan hỷ tột độ đã thể hiện sự cúng dường trọng thể bằng nhiều châu báu, v.v...

35/- So dhātumattasirasātha samubbahanto
ṭhatvā samussitasitātapavāraṇamhi,
cittatthare rathavare sitavājiyutte
lakkhīnidhānamanurādhapuraṃ pavekkhi.

Khi ấy, đức vua đã nâng xá-lợi đặt lên ở trên đầu rồi đã đứng ở dưới chiếc lọng che màu trắng ở trên cỗ xe trải tấm thảm nhiều màu đã được thắng vào những con ngựa trắng, và đã tiến vào thành Anurādhapura giàu có và thịnh vượng.

36/- Devindamandirasame samalaṅkatamhi
rājā sakamhi bhavane atulānubhāvo,
sīhāsane paṭikakojavasanthatamhi
dhātuṃ ṭhapesi munino sasitātapatte.

Đức vua với quyền lực tối cao đã đặt xá-lợi của đấng Hiền Triết ở trên long sàng có chiếc lọng che màu trắng và được trải tấm thảm len trắng ở bên trong cung điện của mình đã được trang hoàng tương xứng với điện thờ của vị Thiên Vương.

37/- Anto va bhūmipati dhātugharaṃ mahagghaṃ
katvāna tattha vinidhāya munindadhātuṃ,
sampūjayittha vividhehi upāyanehi
rattindivaṃ tidivamokkhasukhābhikaṅkhī.

Chính ở bên trong, đức vua đã thực hiện gian phòng thờ xá-lợi vô cùng giá trị rồi đã an vị xá-lợi của đấng Mâu Ni ở nơi ấy, và đã đích thân cúng dường ngày đêm bằng nhiều phương thức khác nhau với niềm mong mỏi an lạc cõi trời và sự giải thoát.

38/- Tesañca jānipatikānamubhinnameva
tuṭṭho bahūni ratanābharaṇādikāni,
gāme ca issarakulekanivāsabhūte
datvāna saṅgahamakāsi tisīhaḷindo.

Mừng rỡ, đức vua xứ Sīhaḷa đã thể hiện lòng ưu đãi và đã ban cho chính cặp vợ chồng ấy nhiều châu báu, vật dụng, v.v... và những ngôi làng là nơi cư ngụ của các gia đình quyền thế.

39/- Saṅgamma jānapadanegamanāgarādi
ukkaṇṭhitā sugatadhātumapassamānā,
lokuttamassa caritāni abhitthavantā
ugghosayiṃsu dharaṇipatisannidhāne.

Cư dân ở trong quốc độ, phố chợ, thị thành sau khi tụ hội lại đã không được thỏa mãn khi không nhìn thấy xá-lợi của đức Thiện Thệ nên đã hò reo ca ngợi các hạnh lành của đấng Tối Thượng trước sự hiện diện của đức vua rằng:

40/- Dhammissaro nikhilalokahitāya loke
jāyittha sabbajanatāhitamācarittha,
vitthāritā bahujanassa hitāya dhātū
icchāma dhātumabhipūjayituṃ mayampi.

“Đấng Pháp Vương đã xuất hiện ở trên đời vì lợi ích cho toàn thể thế gian và đã thực hiện điều ích lợi cho tất cả chúng sanh. Xá-lợi đã được phổ biến lan rộng vì lợi ích cho số đông người, chúng tôi cũng mong muốn được cúng dường trọng thể đến xá-lợi.”

41/- So sannipātiya mahīpati bhikkhusaṅghaṃ
ārāmavāsimanurādhapuropakaṇṭhe,
ajjhāsayaṃ tamabhivedayi satthudhātu-
pūjāya sannipatitassa mahājanassa.

Vị đại vương ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu cư ngụ tại tu viện ở khu vực lân cận Anurādhapura và đã nói rõ ý định ấy của đám đông dân chúng đang tụ tập lại để cúng dường xá-lợi của bậc Đạo Sư.

42/- Thero tahiṃ mahati bhikkhugaṇe paneko
medhābalena asamo karuṇādhivāso,
evaṃ tisīhaḷapatissa mahāmatissa
lokatthacāracaturassa nivedayittha.

Hơn nữa trong hội chúng tỳ khưu đông đảo ở nơi ấy, có một vị trưởng lão có khả năng trí tuệ không ai sánh bằng và luôn trú vào tâm bi mẫn đã nói như vầy với đức vua xứ Sīhaḷa là bậc đại trí và là người khéo thực hành điều lợi ích cho dân chúng:

43/- Yo ācareyya anujīvijanassa atthaṃ
eso have ’nucarito mahataṃ sabhāvo,
dhātuṃ vasantasamaye bahi nīharitvā
dassehi puññamabhipatthayataṃ janānaṃ.

“Người nào có thể thực hành điều lợi ích cho những kẻ dưới quyền, người ấy quả nhiên đã thực hành bản tánh của bậc đại nhân. Vào tiết trời mùa xuân, xin hãy đưa xá-lợi ra bên ngoài và hãy cho dân chúng đang cầu nguyện phước báu được chiêm bái.”

44/- Sutvāna saṃyamivarassa subhāsitāni
pucchittha so naravaro puna bhikkhusaṅghaṃ,
dhātuṃ namassitumanena mahājanena
thānaṃ kimettha ramaṇīyataraṃ siyāti.

Sau khi nghe được những lời tốt đẹp của vị có đạo hạnh cao quý, đức vua ấy đã hỏi lại hội chúng tỳ khưu rằng: “Ở đây, nơi nào là địa điểm tốt đẹp hơn để cho đám đông dân chúng ấy tôn vinh xá-lợi?”

45/- Sabbe pi te atha nikāyanivāsibhikkhū
ṭhānaṃ sakaṃ sakamavaṇṇayumādarena,
aññoññabhinnavacanesu ca tesu rājā
nevābhinandi na paṭikkhipi kiñci vākyaṃ.

Khi ấy, mặc dầu tất cả các vị tỳ khưu cư ngụ theo từng nhóm đã hết lòng ca ngợi khu vực của chính mình, đức vua đã không hài lòng với những lời nói đối đáp giữa các vị ấy và cũng không từ chối bất cứ lời đề nghị nào.

46/- Majjhattatānugatamānasatāya kintu
rājā avoca puna bhikkhugaṇassa majjhe,
attānurūpamayameva munindadhātu
ṭhānaṃ khaṇena sayameva gamissatīti.

Khi ấy, với trạng thái tâm thuận theo vị thế trung hòa, đức vua đã nói giữa hội chúng tỳ khưu rằng: “Chính xá-lợi này của đức Mâu Ni sẽ tự thân ngự đến địa điểm thích hợp trong chốc nữa đây.”

47/- Rājā tato bhavanameva sakaṃ upecca
dhātuppaṇāmamabhipatthayataṃ janānaṃ,
khippaṃ mukhambujavanāni vikāsayanto
sajjetumāha nagarañca vihāramaggaṃ.

Sau đó, đức vua đã quay trở về cung điện của mình rồi đã chỉ thị trang hoàng thành phố và con đường đi đến tu viện, ngay lập tức đã làm rạng rỡ các khuôn mặt như đóa sen của dân chúng có ước vọng lễ bái xá-lợi.

48/- Sammajjitā salilasecanasantadhūlī
racchā tadāsi pulinattharaṇābhirāmā,
ussāpitāni kanakādivicittitāni
vyagghādi rūpakhacitāni ca toraṇāni.

Sau đó, khi đã được quét dọn và bụi bặm đã được lắng xuống nhờ việc rưới nước, con đường thật là xinh đẹp với lớp thảm trải bằng cát. Các cổng chào được trang điểm bằng vàng, v.v... và có gắn các hình tượng cọp, v.v... đã được dựng lên.

49/- Chāyānivāritavirocanaraṃsitāpā
naccaṃ va dassayati vātadhutā dhajālī,
vīthī vasantavanarājisamānavaṇṇā
jātā sujātakadalītarumālikāhi.

Với các bóng râm ngăn lại ánh nắng mặt trời chiếu xuống và những lá cờ run rẩy bởi cơn gió trông giống như điệu vũ, con đường đã được tạo nên có dáng vẻ như là nẻo đường rừng vào tiết xuân với những chùm hoa của cây chuối khéo sanh trưởng.

50/- Saṃsūcayanti ca sataṃ navapuṇṇakumbhā
saggāpavaggasukhamicchitamijjhatīti,
kappūrasāratagarāgarusambhavehi
dhūpehi duddinamatho sudinaṃ ahosi.

Và các chum mới chứa đầy nước đã được trưng bày có đến cả trăm (với ý nghĩa rằng): “Niềm an lạc cõi trời và sự giải thoát được mong mỏi sẽ thành tựu.” Khi ấy, ngày xấu đã trở thành ngày tốt với các làn khói được sanh lên thoang thoảng mùi tinh dầu long não và hương cây tagara.

51/- Olambamānasitamuttakajālakāni
sajjāpitāni vividhāni ca maṇḍapāni,
sampāditāni ca tahiṃ kusumagghikāni
āmodaluddhamadhupāvalikūjitāni.

Và có vô số mái che được sửa soạn với các màn lưới ngọc trai màu trắng treo lủng lẳng. Các bông hoa đắt giá ở nơi ấy đã thu hút tiếng vo ve của bầy ong mật hớn hở và tham đắm.

52/- Gacchiṃsu keci gahitussavavesasobhā
eke samuggaparipūritapupphahatthā,
aññe janā surabhicuṇṇabharaṃ vahantā
tatthetare dhatavicittamahātapattā.

Một số người rực rỡ trong bộ y phục dành cho lễ hội đã được khoác lên, một số mang giỏ chứa đầy hoa ở tay, một số người khác đang đem lại khối lượng lớn bột phấn thơm, số khác nữa mang những chiếc lọng lớn được trang hoàng biểu ngữ đã đi đến nơi ấy.

53/- Laṅkissarotha sasipaṇḍaravājiyutte
ujjotite rathavare ratanappabhāhi,
dhātuṃ tilokatilakassa patiṭṭhapetvā
etaṃ avoca vacanaṃ paṇipātapubbaṃ.

Rồi đức vua xứ Laṅkā đã đặt xá-lợi của đấng Chúa Tể Tam Giới ở trên chiếc xe cao quý sáng chói với những tia sáng của châu báu và đã được thắng vào những con ngựa màu trắng mặt trăng rồi cúi lạy về phía trước và đã nói lời này:

54/- Sambodhiyā iva munissara bodhimaṇḍaṃ
gaṇḍambarukkhamiva titthiyamaddanāya,
dhammañca saṃvibhajituṃ migadāyamajja
pūjānurūpamupagaccha sayaṃ padesaṃ.

“Bạch đấng Mâu ni, hôm nay xin ngài hãy đích thân hướng dẫn đến khu vực thích hợp cho việc cúng dường tương tợ (việc đi đến) khuôn viên cội Bồ Đề vì quả vị Toàn Giác, tương tợ (việc đi đến) cây xoài Gaṇḍa để hàng phục các ngoại đạo, và tương tợ (việc đi đến) Migadāya để chuyển vận Giáo Pháp.”

55/- Rājā tato samucitācaraṇesu dakkho
vissajji phussarathamaṭṭhitasārathiṃ taṃ,
pacchā sayaṃ mahatiyā parisāya saddhiṃ
pūjāvisesamasamaṃ agamā karonto.

Kế đó, đức vua là người khôn khéo trong các cách ứng xử hợp lý đã đẩy cỗ xe hoa không người điều khiển lao đi, rồi đích thân cùng với đoàn tùy tùng đông đảo đi theo phía sau và đã thực hiện các sự tôn vinh đặc biệt không gì sánh bằng.

56/- Ukkuṭṭhinādavisarena mahājanassa
hesāravena visaṭena turaṅgamānaṃ,
bherīravena mahatā karigajjitena
uddāmasāgarasamaṃ nagaraṃ ahosi.

Thành phố đã trở nên giống như biển cả bị xáo động bởi tiếng hò reo ca ngợi của đám đông dân chúng, bởi tiếng hí vang xa của những con ngựa, bởi tiếng trống vỗ, và tiếng rống ầm ĩ của những con voi.

57/- Āmoditā ubhayavīthigatā kulitthī
vātāyanehi kanakābhataṇe khipiṃsu,
sabbatthakaṃ kusumavassamavassayiṃsu
celāni ceva bhamayiṃsu nijuttamaṅge.

Phụ nữ các gia đình ở hai bên đường đã hớn hở ném ra các đồ trang sức bằng vàng qua những cánh cửa sổ. Họ đã rải rắc đám mưa hoa ở khắp các nơi và đã mở ra những tấm vải đội ở trên đầu xuống.

58/- Pācīnagopurasamīpamupāgatamhi
tasmiṃ rathe jaladhipiṭṭhigate va pote,
tuṭṭhā tahiṃ yatigaṇā manujā ca sabbe
sampūjayiṃsu vividhehi upāyanehi.

Khi cỗ xe ngựa ấy đi đến khu vực lân cận của cổng thành phía nam trông giống như con thuyền đang lướt đi trên mặt biển, đám đông tu sĩ và tất cả mọi người ở tại nơi ấy đã mừng rỡ bày tỏ sự tôn kính theo nhiều phương thức khác nhau.

59/- Katvā padakkhiṇamatho puramuttarena
dvārena so rathavaro bahi nikkhamitvā,
ṭhāne mahindamunidhammakathāpavitte
aṭṭhāsi titthagamitā iva bhaṇḍanāvā.

Sau đó, cỗ xe cao quý ấy đã nhiễu quanh thành phố rồi đã đi ra phía bên ngoài bằng cổng thành phía bắc và đã dừng lại tại địa điểm được hiển linh nhờ bài giảng Pháp của vị hiền triết Mahinda, tợ như chiếc thuyền vận tải dừng lại ở bến cảng.

60/- Ṭhāne tahiṃ dasanadhātuvaraṃ jinassa
laṅkissaro ratanacittā karaṇḍagabbhā,
sañjhāghanā iva vidhuṃ bahi nīharitvā
dassesi jānapadanegamanāgarānaṃ.

Tại địa điểm ấy, đức vua xứ Laṅkā đã lấy ra xá-lợi răng cao quý của đấng Chiến Thắng từ bên trong lòng chiếc rương được tô điểm bằng châu báu cho các cư dân trong quốc độ, phố chợ, và thị thành chiêm ngưỡng, trông giống như mặt trăng xuất hiện ra từ bóng tối của đêm đen.

61/- Tasmiṃ jane sapadi ābharaṇādivassaṃ
accantapītibharite abhivassayante,
sānandavandijanamaṅgalagītakehi
sampāditesu mukharesu disāmukhesu.

Khi đám dân chúng ấy được tràn đầy niềm vui cực điểm đã tức thời tạo nên trận mưa gồm các vật trang sức, v.v... và đã được những người nồng nhiệt ở khắp các phương đáp ứng lại bằng những bài ca thánh thiện xuất phát từ sự vui mừng và lòng sùng kính.

62/- Hatthāravindanivahesu mahājanassa
candodayeva mukulattanamāgatesu,
brahmāmarādijanitāmitasādhuvāde
tārāpathamhi bhuvanodaramottharante.

Ngay khi mặt trăng vừa ló dạng, những cánh tay của đám đông dân chúng (đang giơ lên) như những đóa sen nở đã tự động chắp lại hình búp sen và những tiếng “Sādhu lành thay!” bất tận của các vị đại phạm thiên và chư thiên, v.v... được phát ra ở trên bầu trời lan rộng khắp cõi thế gian.

63/- Sā dantadhātu sasikhaṇḍasamānavaṇṇā
raṃsīhi kundanavacandanapaṇḍarehi,
pāsādagopurasiluccayapādapādiṃ
niddhotarūpiyamayaṃ va akā khaṇena.

Xá-lợi răng ấy có màu sắc tợ như mảnh trăng với các tia sáng màu trắng nhạt của hoa nhài và gỗ trầm hương còn non đã làm cho các lầu đài, cổng thành, núi non, v.v... giống như được cấu tạo bằng bạc tinh khiết.

64/- Tappāṭihāriyamacintiyamaccuḷāraṃ
disvāna ke tahimahesumahaṭṭhalomā,
ke vā nayuṃ sakasakābharaṇāni gehaṃ
ke vā na attapaṭilābhamavaṇṇayiṃsu.

Sau khi chứng kiến sự kỳ diệu không thể tưởng tượng và vô cùng tuyệt vời ấy, những ai ở nơi ấy đã không rởn lông? Hoặc những ai đã không mang về nhà các vật trang sức của chính bản thân? Hoặc những ai đã không phô bày thái độ tán thán của mình?

65/- Ke no jahiṃsu sakadiṭṭhimalānubaddhaṃ
ke vā na buddhamahimaṃ abhipatthayiṃsu,
ke nāma macchariyapāsavasā ahesuṃ
vatthuttayañca saraṇaṃ na gamiṃsu ke vā.

Những ai đã không từ bỏ tà kiến bị tiêm nhiễm của bản thân? Hoặc những ai đã không ngợi ca tính chất vĩ đại của đức Phật? Những ai đã bị sự ô nhiễm của lòng bỏn xẻn? Hoặc những ai đã không đi đến nương tựa vào Tam Bảo?

66/- Laṅkissaropi navalakkhaparibbayena
sabbaññudhātumatulaṃ abhipūjayitvā,
taṃ dantadhātubhavanaṃ puna vaḍḍhayitvā
antepuramhi paṭivāsaramaccayittha.

Ngay cả đức vua xứ Laṅkā, sau khi đã cúng dường đến xá-lợi không gì sánh bằng của đấng Toàn Giác với chi phí là chín trăm ngàn, còn làm lớn thêm điện thờ xá-lợi răng ấy và hàng ngày ở nội cung đã tỏ lòng tôn kính.

67/- Dhātuṃ vihāramabhayuttarameva netvā
pūjaṃ vidhātumanuvaccharamevarūpaṃ,
rājātha kittisirimeghasamavhayo so
cārittalekhamabhilekhayi saccasandho.

Sau đó, đức vua có tên là Kittisirimegha[2] ấy, là người tôn trọng sự chân thật, đã rước xá-lợi đến tại tu viện Abhayuttara[3] để thực hiện sự tôn vinh tương tợ như thế ấy hàng năm, và đã quy định văn bản trở thành truyền thống.

68/- Cārittametamitare pi pavattayantā
te buddhadāsapamukhā vasudhādhināthā,
saddhādayādhikaguṇābharaṇābhirāmā
taṃ sakkariṃsu bahudhā jinadantadhātuṃ.

Các vị vua khác bắt đầu là Buddhadāsa[4] hoan hỷ việc trau giồi các đức hạnh cao quý là đức tin và lòng từ ái, trong lúc duy trì truyền thống này cũng đã thờ phụng xá-lợi răng ấy của đấng Chiến Thắng theo nhiều phương thức.

69/- Satthārā sambhatatthaṃ purimatarabhave sampajānaṃ pajānaṃ
sambodhiṃ tassa sabbāsavavigamakariṃ saddahantodahanto,
sotaṃ tassaggadhamme nipuṇamatisataṃ saṅgame saṅgamesaṃ
nibbāṇaṃ santamicche tibhavabhayapariccāgahetuṃ gahetuṃ.

Những chúng sanh thấu hiểu việc lợi ích được bậc Đạo Sư tích lũy trong thời quá khứ trước đây, có niềm tin và lưu tâm đến quả vị Toàn Giác là việc đoạn tận tất cả các lậu hoặc của Ngài, là những người gắn bó vào tập thể các thiện nhân có trí tuệ sắc bén, và có sự lắng nghe Giáo Pháp cao quý của Ngài nên ước ao thành tựu Niết Bàn thanh tịnh là nhân từ bỏ các nỗi lo sợ trong tam giới.

Pañcamo paricchedo.
(Đây là) chương thứ năm.

DĀṬHĀVAṂSA SAMATTO.
Sử Liệu Xá-Lợi Răng Phật được hoàn tất.

--ooOoo--

KATTUSANDASSANAGĀTHĀ
BÀI KỆ GIỚI THIỆU TÁC GIẢ

 1/- Yo candagomiracite varasaddasatthe
ṭīkaṃ pasatthamakarittha ca pañcikāya,
buddhippabhāvajananiñca akā samanta-
pāsādikāya vinayaṭṭhakathāya ṭīkaṃ.

Vị ấy đã thực hiện bản Sớ Giải (Ṭīkā) đáng ngợi khen cho tác phẩm Pañcikā là tập sách văn phạm tuyệt vời được thực hiện bởi tác giả Candagomī[5] và đã thực hiện bộ Sớ Giải cho bản Chú Giải Luật Samantapāsādikā là nguồn đem lại sức mạnh của trí tuệ.

2/- Aṅguttarāgamavaraṭṭhakathāya ṭīkaṃ
sammohavibbhamavighātakariṃ akāsi,
atthāya saṃyamigaṇassa padhānikassa
ganthaṃ akā vinayasaṅgahanāmadheyyaṃ.

Vị ấy đã thực hiện Sớ Giải cho bộ Chú Giải cao quý của Kinh Tăng Chi (có khả năng) làm tiêu tan các điều si mê và nghi hoặc nhằm đem lại lợi ích cho những người có sự thu thúc và nỗ lực tu tập, và đã thực hiện tập sách tên là Vinayasaṅgaha.

3/- Santindriyassa paṭipattiparāyaṇassa
sallekhavuttiniratassa samāhitassa,
appicchatādiguṇayogavibhūsanassa
sambuddhasāsanamahodayakāraṇassa.

Vị ấy có các căn an tịnh, gắn bó với pháp Hành, kham nhẫn, hoan hỷ trong phận sự, thành tựu về thiền định, có tánh nết tốt đẹp là chăm chú vào các hạnh lành ví dụ như ham muốn ít, v.v... Vị ấy là nhân tố cho sự phát triển vững mạnh đối với Giáo Pháp của đấng Toàn Giác.

4/- Sabbesu ācariyataṃ paramaṃ gatassa
satthesu sabbasamayantarakovidassa,
sissena sāritanujassa mahādisāmi-
pādassa tassa vimalanvayasambhavassa.

Là vị đã đạt đến tột đỉnh về sự nghiệp dạy dỗ trong số tất cả và là vị có sự thông thái trong số các vị thầy thuộc về mọi thời đại. Vị ấy là đệ tử ở dưới trướng của vị đại sư Sāriputta là vị có nguồn gốc xuất thân không bị uế nhiễm.

5/- Suddhanvayena karuṇādiguṇodayena
takkāgamādikusalena visāradena,
sabbattha patthaṭasudhākararaṃsijāla-
saṅkāsakittivisarena parikkhakena.

Là vị thuộc dòng dõi thuần khiết có truyền thống về đức tánh tốt như lòng bi mẫn, v.v..., là vị rành rẽ và thiện xảo về lý luận và kinh điển, v.v... là người có sự suy xét, và là vị có danh tiếng lan xa tương tợ như mạng lưới hào quang của mặt trăng trải ra khắp mọi nơi.

6/- Saddhādhanena sakhilena ca dhammakitti
nāmena rājagarunācariyena eso,
sotuppasādajanano jinadantadhātu-
vaṃso kato nikhiladassipabhāvadīpo.

Tác phẩm “Sử Liệu về Xá-Lợi Răng của Đấng Chiến Thắng” này là ngọn đèn có khả năng giúp cho nhìn thấy rõ ràng, là nguồn phát sanh lên niềm tin cho người lắng nghe đã được thực hiện bởi vị tên Dhammakitti là giáo thọ sư kính mến của đức vua, là người có sự bặt thiệp và có đức tin là tài sản.

7/- Dhammo pavattatu cirāya munissarassa
dhamme ṭhitā vasumatīpatayo bhavantu,
kāle pavassatu ghano nikhilā pajāpi
aññoññamettipaṭilābhasukhaṃ labhantu.

Xin cho Giáo Pháp của đấng Mâu Ni được lưu truyền dài lâu. Mong rằng các đấng quân vương luôn duy trì công lý. Xin mây hãy đổ mưa đúng thời. Đồng thời hết thảy chúng sanh đều thành tựu sự an vui do tình thân hữu với nhau đem lại.


[1] Vào khoảng năm 308 sau công nguyên.

[2] Vị vua này trị vì xứ Laṅkā 27 năm (299-327 sau công nguyên).

[3] Công trình xây dựng ở tại phía bắc Anurādhapura, được biết tên là Abhayagiri.

[4] Vị vua này của xứ Lakā ngoài các công đức hộ trì Phật Giáo còn được biết tiếng là có tài phẩu thuật và điều trị bệnh. Ngài là vị vua có lòng từ bi đã thiết lập hệ thống y tế khắp các thôn làng để chăm sóc bệnh nhân, người tàn tật, và binh sĩ. Đức vua còn tổ chức hệ thống thú y phục vụ ngựa và voi nữa.

[5] Candagomī (Candragomin) là nhà văn phạm đã viết nên tập văn phạm Saṅskrit nổi tiếng tên Candravyākaraṇa.

-ooOoo-

Đầu trang | Mục lục | 01 | 02 | 03

Chân thành cám ơn Tỳ khưu Indacanda đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 05-2005)


[Trở về trang Thư Mục]
last updated: 11-05-2005