Tóm lược:
1) "Ta phải bị già, không thoát khỏi già" là sự kiện
cần phải thường xuyên quán sát bởi nữ nhân hay nam nhân, bởi tại
gia hay xuất gia. Sự kiêu mạn tuổi trẻ trong tuổi trẻ được hoàn
toàn đoạn tận hay được giảm thiểu
2) "Ta phải bị bệnh, không thoát khỏi bệnh" là sự kiện
cần phải thường xuyên quán sát bởi nữ nhân hay nam nhân, bởi tại
gia hay xuất gia. Sự kiêu mạn khỏe mạnh trong khỏe mạnh được
hoàn toàn đoạn tận hay được giảm thiểu
3) "Ta phải bị chết, không thoát khỏi chết" là sự kiện
cần phải thường xuyên quán sát bởi nữ nhân hay nam nhân, bởi tại
gia hay xuất gia. Sự kiêu mạn sự sống trong sự sống được hoàn
toàn đoạn tận hay được giảm thiểu.
4) "Tất cả pháp khả ái, khả ý đối với ta sẽ phải đổi khác,
sẽ phải biến diệt", là sự kiện cần phải thường xuyên quán
sát bởi nữ nhân hay nam nhân, bởi tại gia hay xuất gia. Tham dục
đối với các vật khả ái được đoạn tận hoàn toàn hay được giảm
thiểu.
5) "Ta là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp,
nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa.
Phàm nghiệp nào ta sẽ làm thiện hay ác, ta sẽ thừa tự nghiệp ấy"
là sự kiện cần phải thường xuyên quán sát bởi nữ nhân hay
nam nhân, bởi tại gia hay xuất gia. Ác hạnh được hoàn toàn đoạn
tận hay được giảm thiểu.
Do vị ấy thường xuyên quán sát năm sự kiện ấy, nên con đường
được sanh khởi. Vị ấy sử dụng con đường ấy, tu tập, làm cho sung
mãn. Do vị ấy sử dụng con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn,
nên các kiết sử được đoạn tận, các tùy miên được chấm dứt.
2. Niệm Tam Bảo
Tụng niệm hằng ngày cho nhuần nhuyễn, thuộc lòng, ghi nhớ trong tâm
và thông hiểu ý nghĩa để có được lòng tín thành và niềm hân hoan
khi tụng đọc và khi nghe người khác tụng cho mình lúc lâm chung:
Buddho Dhammo Sangho
(Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng)
Ân đức Tam
Bảo:
Itipi so bhagavā arahaṁ sammā-sambuddho
Vijjā-caraṇa-sampanno sugato lokavidū
Anuttaro purisa-damma-sārathi satthā deva-manussānaṁ buddho bhagavā
|
Thật thế, Đức Thế Tôn là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác,
Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. |
Svākkhāto bhagavatā dhammo
Sandiṭṭhiko akāliko ehipassiko
Opanayiko paccattaṁ veditabbo viññūhī |
Giáo pháp của đức Thế Tôn đã khéo được thuyết giảng,
hoàn toàn hiển nhiên, không bị chi phối bởi thời gian,
hãy đến và hãy thấy, có khả năng dẫn dắt về hướng (Niết-bàn),
và nên được hiểu biết tự cá nhân bởi các bậc trí tuệ. |
Supaṭipanno bhagavato sāvaka-saṅgho
Uju-paṭipanno bhagavato sāvaka-saṅgho
Ñāya-paṭipanno bhagavato sāvaka-saṅgho
Sāmīci-paṭipanno bhagavato sāvaka-saṅgho
Yadidaṁ cattāri purisa-yugāni aṭṭha purisa-puggalā
Esa bhagavato sāvaka-saṅgho
Āhuneyyo pāhuneyyo dakkhiṇeyyo añjali-karaṇīyo
Anuttaraṁ puññakkhettaṁ lokassa |
Tăng chúng đệ tử của đức Thế Tôn đã khéo được huấn luyện.
Tăng chúng đệ tử của đức Thế Tôn đã được huấn luyện đúng đắn.
Tăng chúng đệ tử của đức Thế Tôn đã được huấn luyện có phương pháp.
Tăng chúng đệ tử của đức Thế Tôn đã được huấn luyện làm tròn nhiệm
vụ.
Điều trên có nghĩa là thế này: bốn cặp hạng người (bốn đôi Đạo Quả),
tám hạng người tính đơn (bốn Đạo và bốn Quả là tám).
Tăng chúng đệ tử ấy của đức Thế Tôn đáng được cung kính,
đáng được thân cận, đáng được cúng dường, đáng được lễ bái,
là nơi để gieo nhân phước báu của thế gian không gì hơn được. |
Hoặc ngắn gọn:
Arahaṁ sammāsambuddho bhagavā
Buddhaṁ bhagavantaṁ abhivādemi |
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác, Thế Tôn,
Con xin đảnh lễ Đức Thế Tôn Phật. |
Svākkhāto bhagavatā dhammo
Dhammaṁ namassāmi |
Chánh Pháp được đức Thế Tôn giảng dạy rõ
ràng,
Con xin đảnh lễ Pháp. |
Supatipanno bhagavato sāvakasaṅgho
Saṅghaṁ namāmi |
Tăng chúng đệ tử của đức Thế Tôn đã khéo được huấn luyện.
Con xin đảnh lễ chư Tăng. |
3. Niệm Chết (Thanh Tịnh Đạo, Luận sư
Buddhaghosa)
Tập niệm chết thường xuyên, như hướng dẫn trong cuốn Thanh Tịnh Đạo.Tóm lược:
-
Một
người muốn tu tập phép quán này, cần đi vào độc cư và luyện sự tác ý một
cách có trí tuệ như sau: "Chết sẽ xảy đến, mạng căn sẽ bị gián đoạn", hay:
"Chết, chết".... Hành giả nên nhìn chỗ này chỗ kia, những người đã bị giết
hoặc đã chết, và tác ý đến cái chết của những hữu tình đã chết mà trước đây
mình đã trông thấy chúng hưởng thọ các lạc, tưởng nghĩ như vậy với chánh
niệm, với một ý thức khẩn trương và với tri kiến, sau đó hành giả có thể tác
ý: "Cái chết sẽ xảy đến, mạng căn sẽ bị gián đoạn". Làm như vậy, vi ấy tu
tập niệm chết một cách có trí tuệ. Nghĩa là vị ấy tu tập niệm chết như là
một phương tiện chính đáng.
Khi một người tu tập niệm chết như vậy, thì những triền cái của chúng được
điều phục, niệm được an trú với cái chết làm đối tượng, và đề mục thiền, đạt
đến cận hành định.
-
Những
người nào nhận thấy niệm chết không tiến xa đến mức ấy, thì hãy niệm chết
theo tám cách như sau: (1) Có sự xuất hiện của một kẻ sát nhân, (2) Sự thành
công bị phá sản, (3) So sánh, (4) Thân thể bị san sẻ với nhiều chúng sinh,
(5) Mạng sống mong manh, (6) Vô tướng, (7) Sự giới hạn của đời người, (8) Sự
ngắn ngủi của sát na.
(1)
Có sự xuất hiện của một kẻ sát nhân: Vị ấy nên tưởng thế này: "Cũng như
một kẻ sát nhân xuất hiện với cây gươm, nghĩ ta sẽ chặt đầu người này, rồi kề
gươm vào cổ người ấy, cũng vậy, cái chết xuất hiện như thế". Tại sao? Vì cái
chết cùng đến với sự sinh ra và cái chết đoạt mạng sống. Cái chết này, đi kèm
với sinh, thật giống như một kẻ sát nhân với cây kiếm chực sẵn. Và giống như kẻ
sát nhân kề gươm vào cổ, cái chết đoạn mất mạng sống và không bao giờ đem trở
lại mạng sống. Do vậy, cái chết xuất hiện như một kẻ sát nhân với cây gươm chực
sẵn, khi nó đã đi cùng với sinh và đoạt mất mạng sống, ta phải tưởng đến cái
chết "như dạng một kẻ sát nhân".
(2)
Như sự thành công bị phá sản: Tưởng đến cái chết như "như sự phá sản mọi
sự nghiệp", bằng cách xem cái chết là vố phá sản cuối cùng của mọi thành công
trên đời -- kể cả sức khỏe, tuổi trẻ.
(3)
Bằng cách so sánh là so sánh mình với những kẻ khác: Ở đây, chết cần
được tưởng bằng cách so sánh theo 7 hạng: so với hạng người có danh vọng lớn,
công đức lớn, sức mạnh lớn, thần thông lớn, trí tuệ lớn, với Ðộc giác và với Chư
Phật. Tất cả đều phải chết.
(Riêng đối với cá nhân tôi, mỗi khi đi dự đám tang hay được thông báo có
người qua đời, tôi đến đó, lặng lẻ ngắm nhìn người chết, suy tư rằng rồi một ngày nào đó,
không sớm thì muộn, mình cũng như thế nầy ...)
(4) Về
sự san sẻ thân xác với nhiều chúng sanh: Cái thân này được nhiều chúng
sinh cộng trú. Nơi thân này, có các loại chúng sinh sống bám vào để sinh sống.
Và tại đấy chúng sinh già, chết, bài tiết phẩn tiểu, thân thể là nhà bảo sanh
của chúng, là dưỡng đường của chúng, nghĩa địa của chúng, chỗ đại tiện, tiểu
tiện của chúng. Thân thể cũng có thể đi đến chết chóc vì một cuộc nổi loạn của
những sâu bọ này. Không những thân này được san sẻ với sâu bọ, mà còn san
sẻ với hàng trăm thứ bệnh nội thương và nhiều nguyên nhân gây ra chết chóc từ
bên ngoài như rắn rết, bò cạp, v.v...
(5) Về sự mong manh của đời sống: sự sống này bất lực và mong
manh. Và đời sống con người gắn liền với hơi thở, gắn liền với những uy nghi đi
đứng nằm ngồi, gắn liền với lạnh và nóng, gắn liền với tứ đại, gắn liền với thức
ăn.
Sự sống chỉ xảy ra khi hơi thở vào và hơi thở ra có đều đặn. Nhưng khi
hơi gió trong lỗ mũi đã đi ra mà không vào lại, và khi nó đi vào mà không ra
lại, thì khi ấy một con người được kể là đã chết.
Sự sống cũng chỉ có, khi bốn uy nghi được điều hoà, khi một trong bốn uy
nghi trội hẳn ba cái kia, thì sự sống bị gián đoạn.
Sự sống cũng chỉ có khi nóng lạnh điều hoà. Khi quá nóng hoặc quá lạnh
thì con người không thể sống.
Sự sống cũng chỉ xảy đến khi bốn đại điều hoà. Nhưng với sự rối loạn của
một đại, ngay cả một người mạnh cũng có thể chết.
Và sự sống cũng chỉ xảy ra nơi một người được thực phẩm đúng thời, nếu
không được ăn, thì hết sống.
(6) Vô
tướng (signless): nghĩa là không thể xác định (indefinable), không thể
đoán trước được (unpredictable).
Thọ mạng không có tướng, vì không thể định đoạt những điều sau: phải sống
chừng ấy thời gian, không nhiều hơn.
Bệnh không có tướng, vì không thể định như sau: các hữu tình chỉ chết vì
bệnh này, không chết vì bệnh nào khác. Chúng sinh thường chết vì đủ thứ
bệnh.
Thời gian không có tướng, vì không thể định đoạt rằng ta phải chết vào
lúc này, không vào lúc nào khác. Vì các hữu tình có thể chết bất cứ vào thời
khoảng nào, sáng trưa chiều tối.
Nơi chốn thân xác sẽ được đặt xuống cũng không có tướng, bởi vì không thể
định rằng, khi người ta chết, chúng phải để thây của chúng nằm xuống tại chỗ
này, không chỗ nào khác. Vì người sinh trong làng có thể chết để thây ở
ngoài làng, người sinh ngoài làng, có thể chết để thây trong làng. Cũng thế,
có kẻ sinh ra trên nước mà chết để thây trên đất, có kẻ sinh ra trên đất,
chết để thân trên nước. Tương tự nhiều cách.
Số phận cũng không tướng, vì không thể định rằng một kẻ chết chỗ kia phải
tái sinh tại chỗ này. Vì có người chết từ thiên giới mà tái sinh ở cõi
người, có người chết ở nhân gian mà tái sinh ở cõi trời v.v... Và với cách
ấy thế giới xoay vần, chúng sinh xoay chuyển trong năm sanh thú (cõi) như
con bò được gắn vào một cái máy.
(7)
Giới hạn của đời người: Cõi người ngày nay có giới hạn ngắn ngủi. Một
người sống lâu cũng chỉ sống trên dưới một trăm tuổi.
Do đó đức Thế tôn nói:
"Này các tỳ-khưu, đời người ngắn ngủi. Có đời sống mới phải đi đến, có các
nghiệp thiện phải làm, có đời phạm hạnh phải được sống. Ðối với cái gì đã sinh
ra, không có chuyện không chết. Người nào sống lâu cũng chỉ sống trên dưới một
trăm năm".
"Và này các tỳ-khưu, khi một tỳ-khưu tu tập niệm chết như sau: Mong rằng ta
sống thời gian nhai nuốt một miếng ăn, tác ý đến lời dạy của Thế tôn, như vậy ta
đã làm nhiều". Khi một tỳ-khưu tu tập niệm chết như sau: "Mong rằng ta sống
khoảng thời gian hơi thở vào ra, hay trong khoảng thời gian hơi thở ra vào, tác
ý đến lời dạy của Thế Tôn, như vậy ta đã làm nhiều". Ðây gọi là những tỳ-khưu
trú trong tinh cần, sắc bén tu tập niệm chết để đoạn diệt các lậu hoặc".
Cuộc đời quả thật ngắn ngủi đến độ không chắc nó có kéo dài trong khoảng kịp
nhai nuốt bốn hay năm miếng. Đây là niệm chết bằng cách tưởng đến thời khắc ngắn
ngủi.
(8) Về tánh cách ngắn ngủi trong sát-na: Nói cho cùng, đời sống
chúng sinh vô cùng ngắn ngủi chỉ trong khoảng một niệm. Như cái bánh xe, khi lăn
chỉ lăn trên một điểm và khi nghỉ cũng chỉ nghỉ trên một điểm - điểm tiếp giáp
với mặt đất, cũng như thế, đời sống của chúng sinh chỉ kéo dài trong khoảng một
niệm. Khi niệm ấy qua đi, chúng sinh ấy được coi như đã chấm dứt, như lời trích
dẫn sau đây: "Trong một niệm quá khứ nó đã sống, khi ấy nó không có mặt trong
hiện tại, mà cũng không có trong vị lai. Trong một niệm vị lai nó sẽ sống, khi
ấy nói không có mặt trong hiện tại hay quá khứ. Và trong niệm hiện tại, nó đang
sống, thì nó không có mặt trong quá khứ hay vị lai".
Kết luận:
Một hành giả niệm chết luôn luôn tinh cần tinh tấn. Vị ấy không tham
luyến với bất cứ loại hiện hữu nào. Vị ấy chinh phục được sự bám víu vào đời
sống. Vị ấy chê trách các ác pháp. Vị ấy tránh tích trữ nhiều của cải. Vị ấy
không bị cấu uế bởi lòng tham các vật dụng. Niệm tưởng về vô thường dần dần phát triển trong tâm vị ấy,
và theo sau đó là niệm tưởng về khổ và vô ngã. Trong khi đối những ai chưa tu
tập niệm chết, tư tưởng của họ thường là nạn nhân của hãi hùng, kinh sợ, bối rối vào lúc chết,
như thể thình lình bị dã thú vồ, bị ma quỷ bắt, rắn mổ, bị kẻ cướp hay sát nhân sấn
tới, thì người tu tập niệm chết ngược lại, chết một cách tỉnh giác không vọng
tưởng, không sợ hãi, không rơi vào bất cứ một tình trạng nào như thế. Và cho dù không
đạt đến bất tử ngay trong hiện tại, ít ra vị ấy cũng hướng đến một cõi tốt đẹp
khi thân hoại mạng chung (Vism VIII.41).