Đàm luận Phật Pháp
- 54 -

Giới thiệu Kinh Điềm Lành
(Mangala Sutta)  

 

01-hoangphap.jpg
01-hoangphap.jpg
1201 * 901
02-tamtang_pali.jpg
02-tamtang_pali.jpg
1479 * 813
03-cacbankinhpc.jpg
03-cacbankinhpc.jpg
1325 * 881
04-phapcu_palihan1.jpg
04-phapcu_palihan1.jpg
1208 * 1601
05-kinhdiemlanh_pali.jpg
05-kinhdiemlanh_pali.jpg
1523 * 2265
06-kinhdiemlanh_tomtat.jpg
06-kinhdiemlanh_tomtat.jpg
1212 * 785
07-kinhdiemlanh_b.jpg
07-kinhdiemlanh_b.jpg
1176 * 774
08-kinhdiemlanh_c.jpg
08-kinhdiemlanh_c.jpg
1296 * 765
09-kinhcattuong.jpg
09-kinhcattuong.jpg
1115 * 2291

 

Kinh tụng tiếng Việt: mangala_viet.mp3

Võ Tá Hân phổ nhạc, Bảo Yến hát: mangala_by.mp3

Chư Tăng Thái Lan tụng tiếng Pali: mangala_thai.mp3

Sách PDF: 38 Pháp Hạnh Phúc, Mahà Thông Kham, Minh Đức Triều Tâm Ảnh hiệu đính (2010)

1. Bahū devā manussā ca maṅgalāni acintayuṃ,
ākaṅkhamānā sotthānaṃ brūhi maṅgalamuttamaṃ.

“Many devas and human beings
have reflected on blessings,
longing for safety,
so declare the highest blessing.” (1)
(translated by Bhikkhu Bodhi)

1. “Nhiều chư Thiên và nhân loại, trong khi mong mỏi các điều hưng thịnh, đã suy nghĩ về các điềm lành, xin Ngài hãy nói về điềm lành tối thượng.”
(Bhikkhu Indacanda dịch văn xuôi)

1) Nhiều Thiên nhân và Người,
Suy nghĩ đến điềm lành,
Mong ước và đợi chờ,
Một nếp sống an toàn,
Xin Ngài hãy nói lên
Về điềm lành tối thượng.

"Maṅgala" theo Bhikkhu Bodhi có nghĩa là auspicious (điềm tốt lành, thuận lợi), foretoken of good fortune (điềm, dấu hiệu báo trước cho sự may mắn, thịnh vượng). Nhưng ngài Bodhi dịch thoát ý là "blessing" (phúc lành, hạnh phúc, may mắn) để thích hợp với giọng kệ tiếng Anh.

Một vị Thiên tử (con của một vị trời) đến gặp Đức Phật và xin Ngài chỉ dạy về những điềm lành để có đời sống tốt, hưng thịnh.

2. Asevanā ca bālānaṃ paṇḍitānañca sevanā,
pūjā ca pūjanīyānaṃ etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

“Not associating with fools,
associating with the wise,
and venerating those worthy of veneration:
this is the highest blessing. (2)

2. “Không thân cận những kẻ ác, thân cận các bậc sáng suốt, và cúng dường các bậc xứng đáng cúng dường, điều này là điềm lành tối thượng.

2) Không gần kẻ ngu si,
Thân cận người hiền trí,
Cúng dường bậc xứng đáng,
Là điềm lành tối thượng

Đức Phật dạy đầu tiên có 3 điềm lành: tránh xa kẻ ngu (bāla, fool, ignorant), thân cận người hiền trí, thiện tri thức (paṇḍita), cúng dường (pūjā) những bậc xứng đáng để được cúng dường. Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Người ngu ở đây là người không biết phân biệt thiện ác và có khuynh hướng theo các điều xấu ác. Bậc trí hiền là những người có đạo đức, tinh cần học và hành trong giáo pháp. Tôn kính và dâng tặng phẩm vật đến các bậc tôn túc, phẩm hạnh thanh cao là một điều quý nên làm.

Patirūpadesavāso ca pubbe ca katapuññatā,
attasammāpaṇidhi ca etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

“Residing in a suitable place,
merit done in the past,
and directing oneself rightly:
this is the highest blessing. (3)

3. Cư ngụ ở địa phương thích hợp, tính cách đã làm việc phước thiện trong quá khứ, và quyết định đúng đắn cho bản thân, điều này là điềm lành tối thượng.

3) Ở trú xứ thích hợp,
Quá khứ tạo nhân lành,
Hướng tâm theo lẽ chánh,
Là điềm lành tối thượng

Có 3 điềm lành:

- Trú xứ (desa) thích hợp (patirūpa) là những nơi có môi trường văn hóa xã hội tốt cho sự tu tập. Ở bầu thì dài, ở ống thì tròn. Chúng ta thường bị tác động bởi hoàn cảnh xã hội. Ở những nơi chỉ chuộng hình thức hào nhoáng bên ngoài, hưởng thụ vật chất, chạy theo nhu cầu dục lạc, lễ nghi rườm rà, chuộng các lời hoa mỹ rỗng tuếch thì cũng khó tu tập.

- Nếu trong quá khứ của đời này, hay trong các đời trước, đã tạo các công đức (katapuññatā), nay, quả phước lành sẽ được gặt hái trong hiện tại. Đây là một điềm lành. Bằng không, hãy nỗ lực làm việc thiện, để tạo nhân lành cho tương lai.

- Một điềm lành khác là tâm ta có định hướng chân chánh, đúng đắn (sammāpanidhi), hiệp theo lẽ đạo. Đây là điều quan trọng, phải có tác ý đúng.

4. Bāhusaccañca sippañca vinayo ca susikkhito,
subhāsitā ca yā vācā etaṃ maṅgalamuttamaṃ ti.

“Much learning, a craft,
a well-trained discipline,
and well-spoken speech:
this is the highest blessing. (4)

4. Kiến thức rộng và (giỏi) nghề thủ công, việc rèn luyện khéo được học tập, và lời nói được khéo nói, điều này là điềm lành tối thượng.

4) Học nhiều, nghề nghiệp giỏi,
Giới luật biết tu tập,
Có những lời khéo nói,
Là điềm lành tối thượng

Có 4 điềm lành ở đây: được học và có nhiều hiểu biết (bāhu-saccam) , có nghề nghiệp tốt (sippam), biết hành trì các nguyên tắc giới luật đạo đức (vinayo), và biết dùng ngôn từ hòa ái, chân thật.

5. Mātāpitū upaṭṭhānaṃ puttadārassa saṅgaho,
anākulā ca kammantā etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

“Serving one’s mother and father,
maintaining a wife and children,
and an honest occupation:
this is the highest blessing. (5)

5. Phụng dưỡng mẹ và cha, cấp dưỡng các con và vợ, các nghề nghiệp không có xung đột (thuần là công việc), điều này là điềm lành tối thượng.

6) Hiếu dưỡng mẹ và cha,
Biết nuôi nấng vợ con.
Việc làm không xung khắc,
Là điềm lành tối thượng

Có 3 điềm lành: phụng dưỡng cha mẹ (mātāpitu), nuôi nấng gia đình (puttadārassa), có công việc làm không gây xung đột (anākulā) với người khác.

6. Dānañca dhammacariyā ca ñātakānañca saṅgaho,
anavajjāni kammāni etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

“Giving and righteous conduct,
assistance to relatives,
blameless deeds:
this is the highest blessing. (6)

6. Bố thí và thực hành Giáo Pháp, trợ giúp các thân quyến, những việc làm không bị chê trách, điều này là điềm lành tối thượng.

6) Bố thí, hành đúng pháp,
Giúp quyến thuộc họ hàng,
Hành xử không tỳ vết,
Là điềm lành tối thượng

Có 4 điềm lành: có lòng bố thí rộng rãi (dānā), có phẩm hạnh trong sạch theo giáo pháp (dhammacariyā), biết giúp đỡ bà con họ hàng (ñātakā), có những hành động giao tiếp trong sạch, không bị chê trách (anavajjā).

7. Ārati virati pāpā majjapānā ca saññamo,
appamādo ca dhammesu etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

“Desisting and abstaining from evil,
refraining from intoxicating drink,
heedfulness in good qualities:
this is the highest blessing. (7)

7. Sự kiêng cữ, xa lánh điều ác, tự chế ngự trong việc uống các chất say, và không xao lãng trong các (thiện) pháp, điều này là điềm lành tối thượng.

7) Ghê sợ, tránh điều ác
Không nghiện ngập rượu chè,
Tinh tấn hành thiện pháp,
Là điềm lành tối thượng

Có 4 điềm lành: biết ghê sợ (āratī) tội lỗi, biết tránh xa (viratī) tội lỗi (viratī pāpā), không rượu chè say sưa làm u mê (majjapānā), tinh tấn (appamādo) làm các điều lành, thiện pháp (dhammesu).

8. Gāravo ca nivāto ca santuṭṭhi ca kataññutā,
kālena dhammasavaṇaṃ etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

“Reverence and humility,
contentment and gratitude,
timely listening to the Dhamma:
this is the highest blessing. (8)

8. Sự cung kính, khiêm nhường, tự biết đủ, và biết ơn, sự lắng nghe Giáo Pháp vào đúng thời điểm, điều này là điềm lành tối thượng.

8) Sống lễ độ, khiêm cung,
Tri túc và tri ân,
Đúng thời, nghe giảng Pháp,
Là điềm lành tối thượng.

Có 5 điềm lành: thái độ lễ phép có văn hóa (gāravo), tính khiêm hạ (nivāto), biết sống đủ, tri túc (santutthī), biết nhớ ơn, tri ân (kataññutā), và biết đến nghe Pháp (dhammassavanam) đúng thời, đúng lúc (kālena).

9. Khantī ca sovacassatā samaṇānañca dassanaṃ,
kālena dhammasākacchā etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

“Patience, being amenable to advice,
the seeing of ascetics,
timely discussion on the Dhamma:
this is the highest blessing. (9)

9. Sự nhẫn nại, trạng thái người dễ dạy, và việc yết kiến các bậc Sa-môn, sự bàn luận Giáo Pháp lúc hợp thời, điều này là điềm lành tối thượng.

9) Kham nhẫn, biết phục thiện,
Thường đến gặp Sa-môn,
Ðúng thời, đàm luận Pháp,
Là điềm lành tối thượng

Có 4 điềm lành: biết kiên nhẫn (khantī) và chịu đựng, biết phục thiện dễ dạy (sovacassatā), thường thân cận các bậc tu hành (samana), và đàm luận, trao đổi học Pháp (dhammasākacchā).

10. Tapo ca brahmacariyañca ariyasaccānadassanaṃ,
nibbānasacchikiriyā ca etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

“Austerity and the spiritual life,
seeing of the noble truths,
and realization of nibbāna:
this is the highest blessing. (10)

10. Sự khắc khổ, và thực hành Phạm hạnh, sự nhận thức các Chân Lý Cao Thượng, và việc chứng ngộ Niết Bàn, điều này là điềm lành tối thượng.

10) Tự chế, sống phạm hạnh,
Thấy chân lý nhiệm mầu.
Thực chứng quả Niết Bàn
Là điềm lành tối thượng

Có 4 điềm lành: sống tinh cần tự chế (tapo), sống đời sống phạm hạnh (brahmacariya), thẩm thấu chân lý nhiệm mầu (ariyasaccā) – tức là tứ thánh đế, thực chứng Niết bàn (nibbāna sacchikiriyā).

11. Phuṭṭhassa lokadhammehi cittaṃ yassa na kampati,
asokaṃ virajaṃ khemaṃ etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

“One whose mind does not shake
when touched by worldly conditions,
sorrowless, dust-free, secure:
this is the highest blessing. (11)

11. Tâm không dao động khi tiếp xúc với các pháp thế gian, không sầu muộn, có sự xa lìa bợn nhơ, được an ổn, điều này là điềm lành tối thượng.

11) Khi xúc chạm việc đời,
Tâm không động, không sầu,
An nhiên, không uế não,
Là điềm lành tối thượng

Có 4 điềm lành: Tâm bất động, không lay chuyển khi bị gió đời hay pháp thế gian (lokadhamma) – khen chê, được mất, vinh nhục, buồn vui – thổi đến. Ba điềm lành khác: không còn sầu não (asoka), sống an nhiên (khema), không còn uế nhiễm (virajam).

12. Etādisāni katvāna sabbatthamaparājitā,
sabbattha sotthiṃ gacchanti taṃ tesaṃ maṅgalamuttaman ”ti.

“Those who have done these things
are victorious everywhere;
everywhere they go safely:
theirs is that highest blessing.” (12)

12. (Những người) đã thực hành những điều như thế này thì không bị thất bại ở mọi nơi, đi đến mọi nơi một cách hưng thịnh; đối với họ (những) điều ấy là điềm lành tối thượng.”

12) (Kết luận)
Ai sống được như thế,
Đến đâu không thối thất,
Đến đâu cũng an toàn,
Những điềm lành tối thượng.

Đức Phật kết luận: Những ai được như thế là nhập vào dòng thánh giải thoát. Khi ấy, cho dù sống trong dòng đời, đi đến đâu cũng không bao giờ bị tham sân si đánh bại (sabbattha aparājitā), đi đến đâu cũng bình an tự tại, an toàn (sabbattha sotthim gacchanti). Đó là điềm lành cao quý nhất.

 

 

Chú giải Kinh Tập - Tóm tắt Kinh Điềm Lành

Giờ đây, để làm quen với những phúc lành này, chúng cần được hiểu ở đây ngay từ đầu: Những chúng sinh nào ước ao có hạnh phúc trong đời hiện tại và đời sau và hạnh phúc siêu thế, phải bắt đầu bằng việc không kết hợp với những người ngu si, nương tựa nơi người khôn ngoan, và tôn kính những người xứng đáng tôn kính (1-2).

Bằng cách cư trú ở một nơi thích hợp, tạo nhiều công đức trong quá khứ, được động viên tham gia vào các việc thiện lành, họ có định hướng đúng đắn (3). Họ trang bị cho mình nhiều học tập, nghề thủ công và giới luật, và nói những lời nói hòa ái phù hợp với giới luật (4). Khi còn sống trong đời cư sĩ, họ giải quyết các khoản nợ cũ bằng cách chăm sóc cha mẹ, giải quyết nợ mới bằng cách nuôi nấng vợ và con cái, và tạo tài sản bằng nghề nghiệp lương thiện (5). Với lòng bố thí san sẻ, họ sử dụng tài sản hợp lý, và với đức hạnh, họ có cuộc sống đúng đắn. Qua giúp đỡ những người thân, họ giúp những người ấy được hưng thịnh, và bằng những hành động không chê trách, họ giúp những người khác được hưng thịnh (6). Bằng cách tránh xa điều ác, họ không làm hại người khác, và bằng cách tránh các thứ rượu say sưa, họ không làm hại mình. Bằng cách chu đáo với những phẩm chất tốt đẹp, họ tăng nguồn thiện lành của họ (7).

Vì nguồn thiện đó tăng lên, họ từ bỏ đời cư sĩ, bắt đầu đời tu sĩ, và với sự tôn kính và khiêm tốn thực hiện nhiệm vụ của họ đối với Đức Phật, các vị đệ tử của Ngài, thầy truyền giới, thầy giáo thọ, và những vị khác. Sống biết đủ, họ từ bỏ lòng tham các vật dụng cần thiết; với lòng biết ơn họ đứng vào hàng của những người tốt; lắng nghe Pháp, họ từ bỏ tâm trạng lừ đừ (8). Với kiên nhẫn họ vượt qua mọi trở ngại; sẵn sàng nghe theo lời khuyên bảo, họ tự bảo vệ mình; quan sát các vị tu khổ hạnh, họ thấy áp dụng vào thực hành; và qua thảo luận về Pháp, họ xua tan những nghi ngờ về những điều tạo ra nghi ngờ (9).

Nghiêm túc chế ngự giác quan, họ tự thanh lọc để có hành vi tốt; bởi đời sống tâm linh bao gồm các nhiệm vụ của một nhà tu khổ hạnh, họ làm thanh tịnh tâm ý và thực hiện bốn pháp thanh lọc tiếp theo; và bằng cách thực hành này, họ làm thanh tịnh tri kiến, hiển lộ bởi “thấy rõ các sự thật cao thượng”[*]. Qua đó họ chứng ngộ Niết-bàn, ở đây là chứng đắc quả vị A-la-hán (10).

Khi họ thực chứng như thế, tâm trí của họ không bị chao đảo bởi tám điều kiện thế gian giống như núi Tu-di không bị lay chuyển bởi gió thổi mạnh, và họ không ưu sầu, không bị bợn nhơ và sống an nhiên (11). Những ai sống an nhiên như thế ở mọi nơi không bị ai đánh bại, và họ đi đứng an toàn ở mọi nơi. Vì thế, Đức Thế Tôn đã nói:

“Ai làm được như thế,
Chiến thắng khắp mọi nơi,
Đến đâu cũng an toàn:
Những điềm lành của họ
Cao thượng nhất thế gian.”
(12)

-----------------------------------------------
[*] Bảy giai đoạn thanh lọc:
1. Giới thanh tịnh (sīla-visuddhi)
2. Tâm thanh tịnh (citta-visuddhi)
3. Kiến thanh tịnh (ditthi-visuddhi)
4. Đoạn nghi thanh tịnh (kankhā-vitarana-visuddhi)
5. Đạo-phi đạo tri kiến thanh tịnh (maggāmagga ñānadassana-visuddhi)
6. Đạo tri kiến thanh tịnh (patipadā-ñānadassana-visuddhi)
7. Tri kiến thanh tịnh (ñānadassana-visudhi)

 

 

Bài kinh nầy trong Hán tạng được xem như tương đương với kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) trong tạng Pali.

Pháp Cú Kinh (T210), Phẩm Cát Tường, Chương 39

Kinh Điềm Lành Lớn Nhất
Thiền sư Nhất Hạnh dịch nghĩa

https://langmai.org/tang-kinh-cac/kinh-van/kinh-moi-dich/ket-mot-trang-hoa/kinh-diem-lanh-lon-nhat/
 

Bài kệ 1
Phật tôn quá chư thiên 佛 尊 過 諸 天
Như Lai thường hiện nghĩa 如 來 常 現 義
Hữu phạm chí đạo sĩ 有 梵 志 道 士
Lai vấn hà cát tường 來 問 何 吉 祥

Bụt được tôn quý hơn cả trong hai giới trời và người vì Ngài thường có khả năng đưa ra những giáo nghĩa mầu nhiệm của một bậc Như Lai. Một ngày kia, có một vị đạo sư Bà la môn tới hỏi: Cái gì mới thật là điềm lành lớn nhất?

Bài kệ 2
Ư thị Phật mẫn thương 於 是 佛 愍 傷
Vị thuyết chân hữu yếu 為 說 真 有 要
Dĩ tín lạc chánh pháp 已 信 樂 正 法
Thị vi tối cát tường 是 為 最 吉 祥

Ngay lúc đó với lòng xót thương, Bụt đã thuyết giảng về những gì thiết yếu và chân thật. Ngài dạy: Có niềm tin nơi chánh pháp và có hạnh phúc trong khi học hỏi giáo pháp. Đó là điềm lành lớn nhất.

Bài kệ 3
Nhược bất tùng thiên nhân 若 不 從 天 人
Hy vọng cầu kiểu hạnh 希 望 求 僥 倖
Diệc bất đáo thần từ 亦 不 禱 神 祠
Thị vi tối cát tường 是 為 最 吉 祥

Không đi theo trời và người để cầu mong ban phúc và tránh họa, cũng không đến cầu đảo ở các đền miếu. Đó là điềm lành lớn nhất.

Bài kệ 4
Hữu hiền trạch thiện cư 友 賢 擇 善 居
Thường tiên vi phúc đức 常 先 為 福 德
Sắc thân thừa trinh chánh 勅 身 承 貞 正
Thị vi tối cát tường 是 為 最 吉 祥

Chọn được môi trường tốt, có nhiều bạn hiền, có dịp làm những việc phúc đức, giữ lòng cho trinh bạch và chân chánh. Đó là điềm lành lớn nhất.

Bài kệ 5
Khứ ác tùng tựu thiện 去 惡 從 就 善
Tị tửu tri tự tiết 避 酒 知 自 節
Bất dâm ư nữ sắc 不 婬 於 女 色
Thị vi tối cát tường 是 為 最 吉 祥

Biết bỏ ác theo lành, không uống rượu, biết tiết chế, không đắm trong sắc dục. Đó là điềm lành lớn nhất.

Bài kệ 6
Đa văn như giới hành 多 聞 如 戒 行
Pháp luật tinh tấn học 法 律 精 進 學
Tu kỷ vô sở tranh 修 己 無 所 爭
Thị vi tối cát tường 是 為 最 吉 祥

Học rộng biết trì giới. Siêng năng tu tập theo giáo pháp và luật nghi. Biết tu dưỡng thân tâm, không vướng vào các cuộc tranh chấp. Đó là điềm lành lớn nhất.

Bài kệ 7
Cư hiếu sự phụ mẫu 居 孝 事 父 母
Trị gia dưỡng thê tử 治 家 養 妻 子
Bất vi không phạp hành 不 為 空 乏 行
Thị vi tối cát tường 是 為 最 吉 祥

Là người con hiếu thảo, có cơ hội phụng dưỡng mẹ cha. Biết chăm sóc gia đình, giữ cho trong nhà êm ấm, không để cho lâm vào cảnh nghèo đói. Đó là điềm lành lớn nhất.

Bài kệ 8
Bất mạn bất tự đại 不 慢 不 自 大
Tri túc niệm phản phúc 知 足 念 反 覆
Dĩ thời tụng tập kinh 以 時 誦 習 經
Thị vi tối cát tường 是 為 最 吉 祥

Không kiêu mạn, không cho mình là hơn người. Biết tri túc, biết xét suy. Có thì giờ đọc tụng và thực tập kinh điển. Đó là điềm lành lớn nhất.

Bài kệ 9
Sở văn thường dục nhận 所 聞 常 欲 忍
Nhạo dục kiến sa môn 樂 欲 見 沙 門
Mỗi giảng tiếp thính thọ 每 講 輒 聽 受
Thị vi tối cát tường 是 為 最 吉 祥

Biết nhẫn nhục khi nghe điều bất như ý. Có hạnh phúc mỗi khi được gặp người xuất gia. Mỗi khi nghe pháp hết lòng tiếp nhận để hành trì. Đó là điềm lành lớn nhất.

Bài kệ 10
Trì trai tu phạm hạnh 持 齋 修 梵 行
Thường dục kiến hiền minh 常 欲 見 賢 明
Y phụ minh trí giả 依 附 明 智 者
Thị vi tối cát tường 是 為 最 吉 祥

Biết ăn chay, biết tu theo phạm hạnh. Có hạnh phúc khi gặp các hiền đức. Biết nương vào các bậc có trí sáng. Đó là điềm lành lớn nhất.

Bài kệ 11
Dĩ tín hữu đạo đức 已 信 有 道 德
Chánh ý hướng vô nghi 正 意 向 無 疑
Dục thoát tam ác đạo 欲 脫 三 惡 道
Thị vi tối cát tường 是 為 最 吉 祥

Có niềm tin, có một đời sống tâm linh. Tâm ý ngay thẳng, không bị hoài nghi che lấp. Có quyết tâm lánh xa ba nẻo về xấu ác. Đó là điềm lành lớn nhất.

Bài kệ 12
Đẳng tâm hành bố thí 等 心 行 布 施
Phụng chư đắc đạo giả 奉 諸 得 道 者
Diệc kính chư thiên nhân 亦 敬 諸 天 人
Thị vi tối cát tường 是 為 最 吉 祥

Biết bố thí với tâm niệm bình đẳng. Biết phụng sự những bậc đắc đạo. Biết tôn quý những kẻ đáng tôn quý trong hai giới nhân và thiên. Đó là điềm lành lớn nhất.

Bài kệ 13
Thường dục ly tham dâm 常 欲 離 貪 婬
Ngộ si sân nhuế ý 遇 癡 瞋 恚 意
Năng tập thành đạo kiến 能 習 成 道 見
Thị vi tối cát tường 是 為 最 吉 祥

Biết xa lìa tham dục, sân hận và si mê. Thường tu tập để mong đạt được chánh kiến. Đó là điềm lành lớn nhất.

Bài kệ 14
Nhược dĩ khí phi vụ 若 以 棄 非 務
Năng cần tu đạo dụng 能 勤 修 道 用
Thường sự ư khả sự 常 事 於 可 事
Thị vi tối cát tường 是 為 最 吉 祥

Biết buông bỏ những nghiệp vụ phi nghĩa. Có khả năng áp dụng đạo pháp vào đời sống hằng ngày. Biết theo đuổi một lý tưởng đáng được theo đuổi. Đó là điềm lành lớn nhất.

Bài kệ 15
Nhất thiết vi thiên hạ 一 切 為 天 下
Kiến lập đại từ ý 建 立 大 慈 意
Tu nhân an chúng sinh 修 人 安 眾 生
Thị vi tối cát tường 是 為 最 吉 祥

Vì tất cả nhân loại vun bón tâm đại từ. Nuôi dưỡng tình thương để đem lại an bình cho thế gian. Đó là điềm lành lớn nhất.

Bài kệ 16
Trí giả cư thế gian 智 者 居 世 間
Thường tập cát tường hạnh 常 習 吉 祥 行
Tự trí thành tuệ kiến 自 致 成 慧 見
Thị vị tối cát tường 是 為 最 吉 祥

Là bậc trí giả ở trong cuộc đời thường tập hạnh tạo tác những điềm lành cho đến khi chính mình thành tựu được tuệ giác lớn. Đó là điềm lành lớn nhất.

[ Home ]
21-12-2017