Đàm luận Phật Pháp
- 35 -

Mười bài Đạo ca 

Thơ: Phạm Thiên Thư -- Nhạc: Phạm Duy -- Ca sĩ: Thái Thanh 
Sài Gòn, 1972

 

 [ Home ]

 

 

 

daoca01.mp3

Đạo Ca 1 – Pháp Thân

Xưa em là kiếp chim, chết mục trên đường nhỏ
Anh làm cội băng mai, để tang em, chờ mấy thuở
Xưa em làm kiếp lá, rụng xuống lòng suối thu
Anh làm mưa tháng bẩy, đôi hàng lệ ướt tương tư

Xưa em làm kiếp hoa, chết rũ trong nội cỏ
Anh làm giọt sương sa, sầu thương em, lệ anh nhỏ
Xưa em làm kiếp gió hay có làm kiếp mây
Anh làm chim chích choè, trên đầu gậy, anh hát ca

A ha, ta tuy hai mà một! A ha, ta tuy một mà hai!
A ha, ta tuy hai mà một! A ha, ta tuy một mà hai!

Xưa em làm kiếp ao, ưu tư mùa cuối Hạ
Anh làm chim bói cá, đậu soi mấy mùa trăng
Xưa em là chữ biếc, nằm giữa lòng cuốn kinh
Anh là thiền sư buồn, ngồi tụng dưới ánh trăng

Xưa ta hẹn với nhau, tìm nhau giữa vô thường
Anh hoá thân làm mực, thấm vào cuốn kinh thơm
Mai sau chờ nhau nhé, đầu thai vào kiếp hoa
Chốn mây mờ phiêu bạt, chờ đợi ... chim hót ca

A ha, ta tuy hai mà một! A ha, ta tuy một mà hai!
A ha, ta tuy hai mà một! A ha, ta tuy một mà hai!

* * *

 

daoca02.mp3

Đạo Ca 2 – Đại Nguyện

Muôn loài như sương rơi, xin làm hoa trắng đỡ
Hoa yêu sương chẳng rời, hoa yêu sương tuyệt vời
Muôn loài như cát trắng, xin làm dòng nước trong
Ra trùng dương tím mát, cát sông vẫn nguyện lòng

Muôn loài như mây lam, xin làm trời bát ngát
Cho mây trôi bạt ngàn, như sương trong rừng trầm
Muôn loài như hoa thắm, xin làm một ánh dương
Cây cỏ mừng ánh nắng, tiếng chim hót dị thường.

Thương người như thương thân! Thương người như thương mình!
Thương người như thương thân! Thương người như thương mình!
Thương người như thương thân!

Muôn loài như hương thơm, xin làm cơn gió sớm
Ðưa hương đi thập phương, nuôi trăng sao tỏ tường
Muôn loài như con suối, xin làm biển khát khao
Khi buồn như kiếp núi, nước mưa sẽ gột sầu
Xin làm mầu hoa kia, hoa vàng trong kiếp sống
Xin xanh như cỏ dại, bao Thu Ðông thường tại
Xin làm hạt cây nhé, cho đời hiện hữu Xuân
Xin làm chim gõ mõ, gõ tan kiếp hồng trần.

Thương người như thương thân! Thương người như thương mình!
Thương người như thương thân! Thương người như thương mình!
Thương người như thương thân!

* * *

 

daoca03.mp3

Đạo Ca 3 - Chàng dũng sĩ và con ngựa vàng

Một chàng dũng sĩ trên thớt ngựa vàng rong ruổi sa trường
Một chàng dũng sĩ trên thớt ngựa vàng rong suốt thời gian
Một chàng dũng sĩ đôi mắt u buồn như ánh trăng vàng
Lòng chàng nung nấu một mối u sầu tìm dấu người yêu

Một sớm mai chàng dừng nơi đỉnh núi
Mai trắng đôi hàng... mai trắng đôi hàng rơi rơi
Như mường tượng áo tơ người
Một chiều dừng cương nơi bờ sông vắng
Lớp lớp suôi dòng, sóng biếc mơ mòng
Như những nỗi buồn mênh mông

Rồi một đêm chàng ngừng nơi bãi núi
Chiến trường thoảng tiếng mưa rơi
Như vẳng gót hài xa xôi
Rồi một ngày nao dừng ngay bờ suối
Ngỡ tóc người xưa, mái tóc cài hoa, những làn tơ

Chàng tìm khắp cõi không thấy bóng người
Không thấy bóng người
Ðường dài soải bóng, trong gió ngựa vàng thay sắc đổi lông
Chàng còn đi mãi, đi mãi, đi hoài, đi mãi, đi hoài
Vào làn sương khói, chiếc áo tươi mầu nay đã nhạt phai

Rồi một hôm chàng trở lại
Ngựa dừng bên dòng nước mưa
Ngâm mình sâu trong suối biếc,
Bỗng thấy yêu thương vô bờ

Rồi một hôm chàng trở lại,
Cầy lại sa trường xác xơ
Ươm bầu, ươm dưa khắp lối
Lũ bướm bay quanh hoa vàng
Ngỡ bước chân xưa của nàng
Ngỡ bước chân xưa của nàng.

Chàng lên đỉnh núi, vun mai giữa trời
Mùa Ðông rồi tới, hoa bay trước đời
Rừng mai nở mãi, trông như nét cười của ai ... ai ơi
Ngoài sông gầm gió, trên sông bắc cầu
Cùng con ngựa quý, qua sông lúc nào
Chợt con ngựa cũ thân yêu hoá thành người yêu

Ngựa vàng đã hoá thân, hoá thân là người yêu muôn thuở
Ngựa vàng đã hoá thân, hoá thân là người vẫn hằng mơ
Rồi chàng dũng sĩ, đôi mắt sáng ngời như ánh mặt trời
Cùng người yêu quý đi suốt cuộc đời, tình ái nở hoa

Ngựa vàng đã hoá thân, hoá thân là người yêu muôn thuở
Ngựa vàng đã hoá thân, hoá thân là người vẫn hẵng mơ
Rồi chàng dũng sĩ, đôi mắt sáng ngời như ánh mặt trời
Cùng người yêu quý đi suốt cuộc đời, tình ái nở hoa

Viên thành đạo ca cho đời ca hát!

* * *

 

daoca04.mp3

Đạo Ca 4 – Quán Thế Âm

Có bà mẹ đi tìm con trên đỉnh đồi lan trắng
Có bà mẹ đi tìm con trong động hang lan vàng
Có bà mẹ đi tìm con bên bờ sông lam tím
Có bà mẹ đi tìm con trong thung lũng cỏ hoang.
Trên đỉnh mùa Xuân, mẹ ta thương cả rừng hoa lá
Trong mùa Hạ, bên bờ lau, Mẹ yêu tiếng ve rầu rầu
Thu về nằm trong bụi cây, nhớ mây trời xanh ngát
Nuôi một đàn chim mồ côi, khi Ðông tuyết lạnh rơi

Bốn mùa hoa đua nở, bốn mùa Mẹ lang thang
Tìm con, loà đôi mắt, gọi con, lời đã khan
Khóc con, lệ đã cạn, thương con, lòng vắng hoang
Nhớ con, sầu đã ngất, đợi con, hồn đã tan.
Tay Mẹ đang quờ quạng, như một cành khô khan
Nhớ con tìm khắp chốn, rời rã cả thời gian
Khi còn là thiếu phụ, thơm như nhành ngọc lan
Ðến nay, già tóc trắng, tìm con đà mấy trăng.

Thế rồi, một hôm Mẹ chết, hơi Mẹ trong trời chưa hết
Ôm cả trần gian đầy vơi, nhân loại đeo tang người
Tim Mẹ thành ra trùng dương, máu Mẹ thành sông thành nước
Ôi đời trầm luân, Mẹ thương, chiếu ánh sáng từ quang.
Bây giờ Mẹ đã thành mơ, hơi Mẹ hoá thành hơi gió
Bốn mùa ngồi nghe mọi nơi, tiếng Mẹ ru bồi hồi

Xưa là Mẹ đi tìm con, tiếng Mẹ ru buồn khắp chốn
Bây giờ hiện thân Mẹ chung, tiếng Mẹ hát ru dịu dàng
Tiếng Mẹ hát ru dịu dàng
Tiếng Mẹ hát ru dịu dàng.

* * *

 

daoca05.mp3

Đạo ca 5 – Một Cành Mai

Em bé khóc đòi cha, như mẹ khóc đòi con
Người chồng khóc người vợ, người yêu khóc người yêu
Nước mắt vẫn đầy vơi, sinh tử vẫn còn đây
Ðời này qua đời nọ, tử sinh vẫn còn kia

U ù u U u u u U u u U u …

Ôi máu đã thành sông, xương người đã thành non
Hận thù như trời bể, hờn căm vẫn còn nghe
Cái chết vẫn còn kia, sao cuộc sống còn mê
Ðòi thù, thì oán đời đời
Ðền nhau chỉ có chút lệ thôi

U ù u U u u u U u u U u …

Nước mắt bỗng ngừng trôi, khi người đã nguyện dâng
Thân mình làm đuốc hồng, cho đòng lúa trổ bông
Cuộc sống chết nào đây ? Ðau buồn sẽ đổi thay
Ðem mình vào kiếp người, thoát khỏi nỗi tử sinh.

Cành mai đã rụng rơi, rơi rụng xuống cuộc đời
Một cành mai rụng rời, làn hương vẫn chẳng phai
Người không riêng của ai, nhân loại vẫn của người
Ðặt mình trong dòng đời, tử sinh cũng là vui

Một cành mai, mai mãi, mãi mãi
Một cành mai, mai mãi, mãi mãi
Mãi mãi ...

* * *

 

daoca06.mp3

Đạo Ca 6 - Lời Ru, Bú Mớm, Nâng Niu

Ru con bằng vòng tay ấm, cho con yêu tiếng dịu dàng
Ru con bằng bầu sữa nóng, cho con ơn mãi tình nồng
Ru con bằng bài ca ngắn, cho con mến Nhạc và Thơ
Ru con còn nhờ mây gió, tim con chẳng có vực bờ
Ru con bằng rừng trên núi, con ơi, mưa nắng còn dài
Ru con bằng đồi ven suối, cho con không oán thù người
Ru con bằng cỏ hoa mới, trăng sao kết lại thành đôi
Yêu muôn loại và muôn tánh, mai sau chẳng sống một mình.

Ù ơ Mẹ ru con biết:
Yêu thương như câu đầu lòng
Nghìn năm còn đây thắm thiết
Câu ru mạch máu Ðông Phương.

Tim em là bình minh mới, cho con tia máu đỏ ngờị
Ru con bằng làn hương mới, cho con thơm ngát lòng đời
Ôm con nhìn vào con nhé! Cho con lẽ đạo thường chân
Môi em là nụ hoa thánh, cho con ngợp ánh chiêu dương
Con ơi! Mẹ là Thượng Ðế, cho con tâm lý nguyên sơ
Câu ru và dòng sữa quý, cho con nguyên lý diệu vời
Ru con rằng: Ðời muôn lối, như mây kết hợp, rồi tan
Thân con là Trời cao vói, tim con là cõi địa đàng.

Ù ơ Mẹ ru con biết:
Yêu thương như câu đầu lòng
Nghìn năm còn đây thắm thiết
Câu ru mạch máu Ðông Phương.

* * *

 

daoca07.mp3

Đạo Ca 7 – Qua suối mây hồng

Một sớm mai tuyệt vời
Mỵ Nương về đỉnh núi
Làn suối mây lưng trời
Ðưa Nàng lên chơi vơi
Bầy hạc vàng lượn múa
Hoà sáo trúc vô thanh
Núi quấn lụa trời xanh
Hoa dâng hương trên cành.

Sáo tơ làm mưa nhẹ
Nghiêng lầu các Thủy Vương
Giật mình trên nệm ngọc
Thét quan quân lên đường
Người yêu đà mất rồi!
Suối mây hồng phơi phới
Ðem Nàng lên đỉnh núi
Thành cũ hoa còn rơi

Này hồng ngọc lưu ly
Không được gì đôi mắt
Này bốn bể quyền uy
Không nghiêng được lòng người ...

Thề quyết không một trời
Thủy Vương vùng kiếm thét
Trả đoá hoa hồng ngời
Thủy Vương vùng kiếm thét
Nhưng trên ngọn đỉnh núi
Chẳng được ai trả lời
Thủy Vương căm giận điếng
Xua quan quân thẳng tiến!
Sơn Vương ngồi trên núi
Cùng Mỵ Nương mỉm cười
Thủy Vương căm thổ máu
Xua quan quân tràn đồi …

Sóng ầm ầm, sóng ầm ầm nổi dậy!
Gió ào, gió ào ào nghiêng trời!
Mây ùn ùn, mây ùn ùn kéo tới!
Sét ầm ỳ, sét ầm ỳ ra oai Nước bừng bừng, nước bừng bừng tràn ngập!
Ðất dồn dập, đất dồn dập lên trời!
Mây dần dà, mây dần dà ra nước!
Núi vùn vụt, núi vùn vụt lên cao!

Cuộc chiến tranh thầm lặng, cuộc chiến tranh thầm lặng
Cuộc chiến tranh thầm lặng, cuộc chiến tranh thầm lặng.

Thủy Vương vung kiếm hét
Núi tịch liêu không lời
Thủy Vương xua sóng tới
Sóng tan nhành hoa suôi
Thủy Vương kêu thét mãi
Núi mù khơi thêm mù
Thủy Vương hộc thêm máu
Lui quân về biển khơi

Một sớm, hoa rụng nhài
Mỵ Nương và Thần Núi
Làn suối mây lưng trời
Ðưa về nơi mãi mãi
Còn lại siêu hùng ca
Thiên Thư không cần chữ
Sáo Thần không cần lỗ
Vi vu trong lòng người
Một khúc ca giục người
Vượt muôn trùng ảo huyễn
Về chốn không lụy phiền
Suối mây này dẫn đến ...

* * *

 

daoca08.mp3

Đạo Ca 8 - Giọt chuông cam lộ

Bóng đêm qua rồi, bóng đêm qua rồi
Tiếng chuông vang hồi, tiếng chuông vang hồi
Thấy trong nhân loại tiếng chuông vang hồi
Ngọt lành thơm mát, từng giọt chuông rơi
Nụ hoa đang ngủ, giấc êm giữa nội
Giọt sương trên lá đón đưa ánh trời
Ðể cho con suối vươn vai trở mình
Chùa rêu lơ lửng giữa lưng núi mờ
Ðại hồng, chuông lớn đã khua tiếng ròn
Nụ cười yên tĩnh ngát hương khói trầm
Lời kinh cao ngất A Di Ðà Phật
Ngọt lành thơm mát, từng giọt chuông vang ...

Tiếng chuông đầu ngày cho bừng giấc ngủ
Tiếng chuông mơ hồ cho Thái Dương hồng
Tiếng chuông lẫy lừng cho cội đá mừng
Xóm thôn tưng bừng, chim chóc xôn xao
Tiếng chuông lên núi, làm trái mật say
Xuống trên luống cầy, cho đòng lúa trổ
Tiếng chuông Cam Lộ cho biển trầm tư
Cho đời người hết ưu tư ...

Một nụ mai nở giữa cơn gió rừng
Thiền Sư lững thững xuống non, chống gậy
Lòng tay nắm lấy tiết Ðông giá lạnh
Giọt mưa lóng lánh, lắng trên gậy vàng
Gậy Thiền đưa xuống không gian vô tận
Gậy Thiền đưa xuống thế gian cõi thường
Thời gian mãi mãi, tiếng chuông sáng ngời
Thiền Sư xuống núi, cứu nguy cho đời
Ngọt lành thơm mát, từng giọt chuông vang ...

* * *

 

daoca09.mp3

Đạo Ca 9 – Chấp tay hoa

Chắp tay lạy Người, cho xin nụ cười
Chắp tay lạy Trời, cho đám mưa rơi
Chắp tay lạy Ðất, cho mầm cây tươi
Chắp tay lạy Nước, cho mát cõi đời
Chắp tay lạy rồi, lạy mãi không thôi
Chắp tay lạy nữa

Tôi lạy mây bay cho trời cao rộng
Tôi lạy sông trôi cho sạch sầu đời
Tôi lạy tất cả hiện hữu diệu vời
Ðâu không là Phật? Ðâu chẳng là Trời?

Dù bông hoa cỏ, dù hạt bụi rơi
Như suối suôi non, như mây lên ngàn
Như sông vượt trùng, như ánh trăng vàng
Xin mở lòng ra cho trời đất hiện.
Tâm là đảo quý giữa biển luân hồi
Thần thánh đi rồi, chỉ có lòng thôi
Hiện hữu đây rồi, không ý không lời
Tôi không là Tôi, Người không là Người

Mười phương mây nổi như cánh hoa trôi
Như sóng ra khơi, như hơi gió thổi
Như mây xa vời, như bóng hạc trời
Tôi không là Tôi, Người không là Người

Chắp tay lạy Người, xin cho nụ cười
Chắp tay lạy Trời, cho đám mưa rơi
Chắp tay lạy Ðất, cho mầm cây tươi
Chắp tay lạy Nước, cho mát cõi đời
Chắp tay lạy Người, chắp tay lạy Trời
Chắp tay lạy rồi, lạy mãi không thôi
Lạy mãi không thôi!
Lạy mãi không thôi!

* * *

 

daoca10.mp3

Đạo Ca 10 – Tâm Xuân

Xuân về trong gió, hoa lay lững lờ
Xuân về đám mây, bướm vàng nhụy bay
Xuân về lòng đất, mầm tươi nhựa trào
Xuân về non cao, chim mừng suối reo ...

Xuân về biển mát, suôi nhanh cánh buồm
Xuân về suối xanh, cá hồng lượn quanh
Xuân về trầm ngát, Di Lạc hiền lành
Em về thiên nhiên, ngâm mình suối tiên.

Em về thôn trang, tiếng hò giao duyên
Em về khơi hương, thơm ngôi từ đường
Em về quê nhà, lễ đình làng ta
Nhớ cội, nhớ nguồn, đất tổ, quê cha
Em về siêu nhiên, hành hương chùa chiền
Dâng hoa cúng Phật, ưu phiền sẽ tan
Em mở lòng ra, vui cùng cỏ hoa
Xuân về vũ trụ! Ta về lòng Ta!

Có thiên nhiên mới, an vui hiền hoà
Có lò hương đợi, nối liền ngày qua
Mái đình diệu vợi, nặng tình quốc gia
Chuông chuà siêu thoát, Ta vượt lòng Ta
Bao dung độ lượng như bốn mùa hoa

Mùa Xuân có không? Hay là cõi Tâm?
Mùa Xuân có không? Hay là cõi không?
Về nguồn về cội! Về nguồn về cội!
Ðể rồi vươn tới, với lòng mênh mông ...

* * *

 

 

 

 
Phạm Duy:

… Nhưng sự công phẫn của tôi qua những bài ca muộn phiền hay phẫn nộ (và đi thêm một bước nữa là văng tục) cũng không thể kéo dài. Thứ nhất: không thể đổ thêm dầu vào lửa, Thứ hai: tâm lý chung của người Việt Nam là họ tìm thấy sự cao qúy khi chẳng may trở thành nạn nhân. Có thể nói đó là một thứ triết lý nhẫn nhục, nhưng thực sự khi ta chịu đựng thời gian đau khổ của mình một cách chững chạc, thì ta tìm ra cái lớn lao. Và chính ở trong thái độ đó mà tôi đi ra khỏi phẫn nộ để đạt tới một thế quân bình mới.

Nhưng khi có thế quân bình mới rồi thì lần này tôi không còn ngây thơ nữa. Không còn tin là phải ngồi lại với nhau, lấy lòng ra giải quyết vấn đề chung. Biết tấm lòng cũng không đủ nữa rồi! Bây giờ phải thăng hoa sự đau khổ lên.

Cái may mắn cho tôi là gặp được nhà thơ Phạm Thiên Thư. Sau khi có được vài bài thơ của anh để soạn thành vài bài tình ca rất trong sáng như Ngày Xưa Hoàng Thị, Em Lễ Chùa Này… tôi đả động tới chuyện cùng nhau soạn nhạc đạo, vì chúng ta đã đánh mất đạo giáo và đang tìm đường trở về Đạo Việt Nam.

Và Đạo Ca tuần tự ra đời... Quên chuyện thưc tại rất ê chề đi, chúng tôi cùng nhau đi vào cõi siêu hình. Không còn là tả thực trong âm nhạc nữa, đạo ca dùng cốt truyện, âm điệu, nhất là hợp âm, để diễn tả những ý tưởng trừu tượng. Đạo ca đi ra ngoài hành trình âm nhạc đại chúng của tôi, không còn có những yếu tố cận nhân tình như quê hương, dân tộc, xã hội, chính trị…

Ðạo ca là thơ của Phạm Thiên Thư, một thầy tu kiêm thi sĩ (hoặc thi sĩ đội lốt thầy tu) do tôi phổ nhạc. Chữ "Ðạo" không có nghĩa là tôn giáo, mà có nghĩa là con đường. Tuy nhiên Ðạo không phải chỉ có nghĩa là con đường của Lão. Ý nghĩa chữ Ðạo đã rõ ràng trong toàn thể mười bài Ðạo Ca và thâu tóm trong bài một: Mình với ta tuy hai mà một, thì tại sao lại còn phân biệt Lão với Phật hay với gì khác?

Ðạo Ca cũng không phải là một bài học triết lý. Ðã rất nhiều tác phẩm văn học nói về những ý tưởng trong Ðạo Ca một cách sâu sắc hơn. Cái đặc biệt của Ðạo Ca là sự cộng tác mật thiết giữa hai tác giả, đưa đến một sự đồng nhất chưa từng có giữa thơ và nhạc.

*

Đạo Ca 1 có tên là Pháp Thân. Ðạo Ca 1 có thêm phụ đề là Giữa thành vách sương mù, kể chuyện một người đi tìm chân lý, để thoát ra khỏi đám sương mù tối ám. Chân lý có thể ở rất gần ta nhưng ta không thấy.

Từ quan điểm toàn thể đã phát biểu qua Đạo Ca 1, Đạo Ca 2 dẫn đến một tâm linh bao la, diệu vợi. Đó là lòng từ bi, là ý lực cứu độ muôn loài như cứu chính mình. Thương người như thể thương thân (Gia Huấn Ca).

Tên Đạo Ca 2 là Đại Nguyện. Trên những câu thơ tinh vi, thanh tịnh đó, giai điệu lướt qua như đám mây xanh giữa bầu trời bao la và trong sáng của giọng Do trưởng. Nhưng phải chăng chính ngọn gió ban mai đó đã gợi hứng cho nghệ sĩ một giai điệu dịu dàng và như là phai biến này, một bản luân vũ mềm mại và không cần dấu diếm sự nồng nhiệt?

Đạo Ca 3 đưa ra hình ảnh một dũng sĩ cưỡi ngựa vàng đi tìm người yêu muôn thuở. Đi hết năm tháng, đi khắp mọi nơi, đi cho tới khi áo bào đã sờn rách, ngựa vàng đã đổi lông mà vẫn không tìm ra người yêu lý tưởng. Thế rồi một ngày kia, dũng sĩ dừng chân xuống ngựa trên chiếc cầu bắc qua một con sông đang gầm sóng, ngựa vàng bỗng hoá thành người đẹp mà dũng sĩ ra công đi tìm. Thì ra, đã từ lâu, dũng sĩ ngồi lên sự thật mà không biết!

Đạo Ca 4, Quán Thế Âm (Hoá Thân) là biểu tượng cá nhân bước vào đại thể. Nghe được tiếng khóc của một người mẹ đi tìm con với niềm đau khổ riêng của bà là nghe thấy tiếng khổ chung của nhân loại. Đây là một bài hát buồn trong 10 đạo ca vô hương vô sắc.

Tiếp theo là Đạo Ca 5, Một Cành Mai. Cành Mai hiển hiện trong bài thơ của Thiền Sư Mãn Giác (thế kỷ thứ 11):

Xuân qua, trăm hoa rụng
Xuân tới, trăm hoa cười
Trước mắt: việc đi mãi
Trên đầu: già đến rồi

Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước nở cành mai.

Đây là bức ký hoạ t­ươi tắn, hay một câu hỏi đau đáu về lẽ tử sinh của đời người mà biết bao thế hệ phải trăn trở? Vượt lên triết lý tuần hoàn của nhà Phật, lẽ sống đã được quan niệm một cách mới mẻ, lạc quan: sự sống là bất diệt. Cũng giống nh­ư cành mai có thể vượt ra ngoài cuộc sinh hoá của trời đất.

Đạo Ca 6 có tên Lời Ru, Bú Mớm, Nâng Niu. Đạo Ca này nói về hiện thể tạo hoá của người mẹ đã khiến cho đứa con có một nền tảng tâm linh, hiền hoà giữa tạo vật, nhân sinh không còn là tù ngục giữa con người.

Trẻ sơ sinh chưa thể có ngay một tâm hồn. Khi người mẹ cho con bú mớm, cho con lời ru và sự nâng niu, tức là đã cho đưa trẻ có được tâm hồn. Thật là đúng biết bao! Ðó là chân lý nguyên sơ, chân lý của buổi đầu cuộc đời: Con ơi! Mẹ là Thượng Ðế, cho con tâm lý nguyên sơ. Trên bài thơ của những bài thơ này, giai điệu vút lên đơn giản và thanh khiết trong những nẻo đường nhẹ nhàng thanh thoát của giọng La giảm trưởng. Ở đây, mến thương, nồng nàn, xúc cảm cùng nhau hoà hợp tinh vi trong một bức thủy họa bằng âm thanh có nét quyến rũ độc nhất và lưu giữ.

Đạo Ca 7 lại là một truyện ca, không phảichuyện thật mà là chuyện tưởng tượng, là nhạc biểu hiện, nhạc tượng trưng như Đạo ca 3. Mang tên Qua Suối Mây Hồng (Vô Ngôn), ca khúc có tới CHÍN hay MƯỜI câu, mỗi câu là một đoạn. Đạo Ca này diễn tả cuộc chiến tranh thầm lặng giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh, tranh nhau trái tim Mỵ Nương tượng trưng cho ý thức sáng tạo. Sơn Tinh là sự vắng lặng của ý niệm ngôn ngữ, cùng người đẹp biến vào Đại Thể, còn lưu lại trên đỉnh núi cuốn thiên thư không chữ và cây sáo thần không lỗ, thúc giục loài người vượt thoát ý niệm ngôn ngữ để thể nhập vào cõi uyên nguyên.

Ðạo Ca 8 là một ca khúc chú trọng tới nhạc điệu với âm hưởng của tiếng chuông chùa, ca khúc nhan đề Giọt Chuông Cam Lộ, nói với chúng ta về tiếng chuông chùa -- trong Phật giáo Việt Nam -- đã từng thức tỉnh con người trong kiếp sống rất cô đơn và bát ngát. Ca khúc sẽ gợi kỷ niệm của vị đại thiền sư Vạn Hạnh xuống núi theo tiếng đại hồng chung, nắm tất cả mùa đông trong lòng tay, gậy thiền chống xuống thời gian và không gian, vô ngại, cứu vớt nước Việt Nam và cứu cả nhân loại.

Ðạo Ca 9 mang tên Chắp Tay Hoa hay là Quy Y, là thái độ cung kính và yêu thương đối với tất cả những vật chung quanh, bởi vì tất cả đều thiêng liêng, nấc thang giá trị giữa mọi vật chỉ do con người đặt ra. Chắp tay như một đóa hoa, quỳ lạy cuộc đời, lạy tất cả chẳng trừ vật nào. Giai điệu tiến tới từ đầu đến cuối bằng những đoạn ngắn với nhịp điệu thay đối. Giai điệu có một tính chất trang trọng, nhưng một hoà điệu khá linh động, như bấy nhiều nụ cười, sẽ soi sáng bước đi của nhạc phẩm.

Đạo Ca 10Tâm Xuân tức Tam Giáo Đồng Nguyên là con đường trở về thiên nhiên, gia đình, xã hội và siêu nhiên khiến cho cá nhân được quân bình giữa cảm xúc, trí thức và hành động. Đó là nền đạo lý tổng hợp tối diệu ba nguồn tư tưởng Phật-Lão-Khổng của Việt tộc. Mùa hồi sinh của tạo vật cũng là sự bừng sống mãnh liệt của tâm tư.

Nhà phê bình Thụy Khuê nói: Đạo Ca đã thơ mộng hoá kinh điển nhà Phật: đem tình yêu vào đất thánh. Nhưng hồn của Đạo Ca mới chỉ là hồn bướm mơ tiên, là tình yêu chưa bước vào vườn địa đàng đã thoáng nghe tiếng chầy kình của thiền sư Không Lộ mà giật mình tỉnh ngộ quay về với đạo lý. Tình yêu trong Đạo Ca là thứ tình nửa chừng xuân: tình yêu đã diệt dục. Đạo Ca thuộc về đạo, là ý thức muốn giác ngộ, đang tìm đường giác ngộ, nhưng mới đi được nửa đường. Bản đạo ca Tâm Xuân kết thúc cuộc hành hương bên bờ nghi vấn:

Mùa Xuân có không? Hay là cõi Tâm?
Mùa Xuân có không? Hay là cõi không?
Về nguồn về cội! Về nguồn về cội!
Ðể rồi vươn tới, với lòng mênh mông...

*

 

PHẠM THIÊN THƯ tên thật Phạm Kim Long, sinh ngày 1-1-1940 xuất thân trong một gia đình Đông y. Quê cha: xã Đình Phùng, Kiên Xương, Thái Bình. Quê mẹ: xã Trung Mẫu, Từ Sơn, Bắc Ninh. Sinh quán: Lạc Viên, Hải Phòng. Trú quán: Trang trại Đá Trắng, Chi Ngãi, Hải Dương (1943-1951), Sài Gòn, TPHCM (1954- nay)

Từ 1964-1973: Tu sĩ PG (Không Tuệ), làm thơ. Năm 1973, đoạt giải nhất văn chương toàn quốc với tác phẩm Hậu Kiều - Đoạn trường Vô Thanh. Năm 1973 -2000: Nghiên cứu, sáng lập và truyền bá môn dưỡng sinh Điện công Phathata (viết tắt chữ Pháp -Thân - Tâm)

Tác phẩm đã in:

Thơ Phạm Thiên Thư (1968)
Kinh Ngọc (Thi hoá Kinh Kim Cương)
Động Hoa Vàng (Thơ) 1971)
Đạo ca (Nhạc Phạm Duy)
Hậu Kiều - Đoạn Trường Vô Thanh, 1972
Kinh Thơ (Thi hoá Kinh Pháp Cú)
Quyên Từ Độ Bỏ Thôn Đoài (Thơ)
Kinh Hiếu; Kinh Hiền (Thi hoá Kinh Hiền Ngu) gồm 12.000 câu lục bát
Ngày xưa người tình (thơ)
Trại Hoa Đỉnh Đồi (thơ) 1975.

Các nhạc bản:

Ngày Xưa Hoàng Thị, Đưa em tìm động hoa vàng, Gọi em là đóa hoa sầu, Em lễ chùa này, Huyền thoại trên một vùng biển, Loài chim bỏ xứ (Nhạc Phạm Duy), Như cánh chim bay (Nhạc Cung Tiến), Guốc tía, Đôi mắt thuyền độc mộc (Nhạc Võ Tá Hân); Độc Huyền (Nhạc Nguyễn Tuấn), Động Hoa vàng (Nhạc Trần Quang Long)....

Tác phẩm dự định xuất bản:

Hát ru lịch sử (Trường ca lục bát); Bốn chục ngàn câu châm ngôn; Tự điển cười (24.000 bài tứ tuyệt - tiếu liệu pháp; Huyền ngôn tâm bút; Điện cong Phathata dưỡng sinh, Vua núi vua nước (Sơn Tinh Thủy Tinh)


* * *
 

NHÀ THƠ PHẠM THIÊN THƯ
Người thi hoá kinh Phật

Nhà thơ Phạm Thiên Thư xuất hiện như một đạo sĩ xuống núi, ông trở thành người rao giảng về những Kinh Ngọc, Kinh Hiền, Kinh Thơ..., ông đã thi hóa Kinh Kim Cương Bát - Nhã của Phật giáo.

Trong lịch sử văn học, những nhà thơ Phật giáo, những thiền sư Việt Nam như Vạn Hạnh, Viên Chiếu, Khuông Việt, Không Lộ, Mãn Giác... đã góp phần không nhỏ làm phong phú, nâng cao giá trị cho văn học VN với những nét chấm phá ở mỗi thời điểm lịch sử tôn giáo và lịch sử dân tộc.

Bất ngờ xuất hiện lần đầu tiên vào khoảng 1969 "Đoạn Trường Vô Thanh" của nhà thơ Phạm Thiên Thư với 3254 câu thơ được tác giả viết như là “hậu Đoạn Trường Tân Thanh (Truyện Kiều)” của thi hào Nguyễn Du. Những năm tiếp theo, Nguyễn Du có Văn Chiêu Hồn thì Phạm Thiên Thư có Chiêu Hồn Ca. Phật giáo có Kinh Kim Cương, Kinh Hiền Ngu thì Phạm Thiên Thư cũng có Kinh Ngọc, Kinh Hiền, Kinh Thơ...

Nhà thơ họ Phạm này tuy xuất hiện khá muộn nhưng cũng đã đóng góp vào văn học khá nhiều tác phẩm, đặc biệt là những thi phẩm ở dạng khá độc đáo: thơ đạo! Một trong những tác phẩm ấy của Phạm Thiên Thư đã được giải thưởng Văn Học Toàn Quốc (miền Nam VN) vào năm 1971. Một số thơ của ông được phổ thành ca khúc đã mang lại một số đông công chúng yêu thích thơ ông: “Em lễ chùa này”, "Ngày Xưa Hoàng Thị", "Động Hoa Vàng", “Gọi Em Là Đóa Hoa Sầu”....


 
... Rằng xưa có gã từ quan
Lên non tìm động hoa vàng, ngủ say...
Ừ, thì mình ngại mưa mau
Cũng đưa anh đến bên cầu, nước xuôi
Sông này chảy một dòng thôi
Mây đầu sông thẫm tóc người cuối sông...

 
... Ta về rũ áo mây trôi
Gối trăng đánh giấc bên đồi dạ lan...

 
... Thì thôi! Tóc ấy phù vân
Thì thôi! lệ ấy còn ngần giang sương

 
... Mai anh chết dưới cội đào
Khóc anh xin nhỏ lệ vào thiên thu...
(Động Hoa Vàng)

Thơ Phạm Thiên Thư cứ vấn vít nửa đời nửa đạo thật khác thường, làm cho độc giả ngẩn ngơ, bất ngờ. Nhân vật chính trong thơ là một ông sư lãng mạn như những chàng trai mới biết yêu:

 
...Em làm trang tôn kinh
Anh làm nhà sư buồn
Đêm đêm buồn tụng đọc
Lòng chợt nhớ vương vương
Đợi nhau từ mấy thuở
Tìm nhau cõi vô thường
Anh hóa thân làm mực
Cho vừa giấy yêu đương...
(Pháp Thân)

Tình yêu trong thơ Phạm Thiên Thư là những cảm xúc thánh thiện, kín đáo với một chút bẽn lẽn: yêu nhau mà không dám tay trong tay, vì sợ tình sẽ tan biến thành khói sương:

 
... Anh trao vội vàng
Chùm hoa mới nở
Ép vào cuối vở
Muôn thuở còn vương...

Thiền tâm biểu lộ bằng ngôn ngữ im lặng:

 
... Đôi mày là Phượng cất cao
đôi môi chín ửng khóe đào rừng mơ
tiếng nàng vỡ bạc thành thơ
tụng dòng Kinh tuệ trên tờ khói mây


 
... Dù mai lều cỏ chân trời
khói hương lò cũ khóc người trong thơ
em còn ửng má đào tơ
tóc xưa dù có bây giờ sương bay...

Đôi khi tình yêu nồng nàn đến nỗi “con vạc đậu bờ kinh” cũng ghẹo nhà sư ỡm ờ trần tục:

 
...Hỏi con vạc đậu bờ kinh
Cớ sao lận đận cái hình không hư
Vạc rằng: Thưa bác Thiên Thư
Mặc chi cái áo Thiền Sư ỡm ờ...
(Động Hoa Vàng)


Thế giới thi ca Phạm Thiên Thư giúp chúng ta khám phá thêm những cửa ngõ mới lạ, phong phú về tôn giáo, tình yêu và thiên nhiên. Sau 30.4.1975 ông còn thực hiện cuốn Kinh Hồng ca ngợi chế độ mới. Sau đó là một giai đoạn nhà thơ lui về ở ẩn. Từ năm 1976 đến 1981, Phạm thi sĩ không “lên non tìm động hoa vàng” như Nguyễn Đức Sơn mà nhà thơ mở quán hớt tóc ở Lăng Cha Cả. Từ 1981 – 1983 ông bán tạp hoá, rượu thuốc, trà đá… ở đường Lý Chính Thắng. Sau 1983 Phạm Thiên Thư nghiên cứu về PHATHATA (Pháp, Thân, Tâm). Tiếp theo đó, ông được bác sĩ – nghệ sĩ Trương Thìn, Viện trưởng Viện Y học dân tộc mời về cộng tác với Viện. Trong suốt thời gian này, Phạm Thiên Thư vẫn lai rai cho đăng báo những bài thơ ngắn. Thỉnh thoảng đôi lần văn thi hữu cũng gặp ông đến dự họp ở Hội Nhà văn TPHCM. Phạm Thiên Thư thực sự hoà nhập trở lại với văn đàn khi trường ca "Đoạn Trường Vô Thanh" của ông được tái bản một cách trang trọng!
 
HÀ THI

 

 

[ Home ]

25-04-2011