Đàm luận Phật Pháp
- 318 -

Tỉnh thức trước bệnh tật và cái chết
Lời Phật dạy trong kinh văn nguyên thủy

18. LỜI KHUYÊN VỀ CHĂM SÓC GIẢM NHẸ  

 
1-mucluc_18.jpg
1-mucluc_18.jpg
1238 * 932
2-thegioi.jpg
2-thegioi.jpg
1223 * 800
3-caccoi.jpg
3-caccoi.jpg
1243 * 881

 

XVIII

18. LỜI KHUYÊN VỀ CHĂM SÓC GIẢM NHẸ    
Bhikkhu Anālayo, Mindfully facing disease and death (2017)

XVIII.1 GIỚI THIỆU

Chương này tiếp tục với chủ đề không chấp thủ tại thời điểm cận kề cái chết, đặc biệt là đối với những người thân thương. Bài kinh đề cập đến các lời khuyên của Đức Phật về việc chăm sóc giảm nhẹ theo yêu cầu của một đệ tử cư sĩ trong bộ tộc Thích-ca (Sakya).

Bài kinh ghi lại vào dịp Đức Phật trở về thăm quê nhà. Sự hiện diện của Đức Phật tạo cơ hội cho các đệ tử cư sĩ trong bộ tộc Thích-ca được gần gũi Ngài và các vị đệ tử tu sĩ. Biết rằng rồi sau đó Ngài sẽ rời họ để tiếp tục cuộc sống du hành, các cư sĩ đó đến gặp Đức Phật để nhờ Ngài giải đáp một câu hỏi đặc biệt. Câu hỏi này biểu thị lòng trắc ẩn quan tâm của họ, vì họ muốn biết chắc chắn về sự chăm sóc đúng cách cho một người bị bệnh và sắp qua đời. Có được các lời chỉ dạy của Đức Phật về vấn đề này sẽ giúp đảm bảo rằng, khi Đức Phật và các đệ tử tu sĩ ra đi, các đệ tử cư sĩ của bộ tộc Thích-ca sẽ có một hướng dẫn cơ bản để tuân theo trong khả năng tốt nhất của họ để chăm sóc những người bị bệnh trầm trọng và sắp chết.

Bài kinh trong Tạp A-hàm (SĀ 1122) được dịch ở đây có bản kinh đương đương trong Tương ưng bộ (SN 55.54). Tuy nhiên, nhân vật chính trong bài kinh Tương ưng bộ là một đệ tử cư sĩ duy nhất, tên là Mahānāma (Đại Danh), trong khi đó, bài kinh trong Tạp A-hàm, ghi nhận có một nhóm đệ tử cư sĩ với người lãnh đạo tên là Nandiya (Nan-đề).

XVIII.2 KINH VĂN

SĀ 1122
TẬT BỆNH
Hòa thượng Thích Đức Thắng dịch
Bình Anson hiệu đính dựa theo bản Anh dịch của Bhikkhu Anālayo

Tôi nghe như vầy. Một thời Đức Phật ở trong vườn Ni-câu-luật (Nigrodha), nước Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavatthu). Bấy giờ, có nhiều người dòng họ Thích nhóm họp tại nhà luận nghị. Khi ấy, có người họ Thích nói với người họ Thích tên là Nan-đề (Nandiya): “Tôi có khi được đến Như Lai để cung kính cúng dường, có khi không được. Có khi được gần gũi cúng dường các vị tỳ-khưu quen biết, có khi không được. Lại cũng không biết một vị ưu-bà-tắc trí tuệ khi đến thăm vị ưu-bà-tắc hay vị ưu-bà-di trí tuệ khác bị tật bệnh khốn khổ, thì sẽ thuyết pháp, giáo giới như thế nào? Bây giờ chúng ta cùng đến chỗ Thế Tôn thưa hỏi về vấn đề này. Rồi theo như lời dạy Thế Tôn mà thọ trì.”

Sau đó, Nan-đề và những người dòng họ Thích, cùng nhau đến gặp Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, ngồi lui qua một bên, rồi bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, chúng con những người họ Thích có nhóm họp tại nhà nghị luận. Có người họ Thích đến nói với con rằng: ‘Này Nan-đề, chúng tôi có khi được đến Như Lai để cung kính cúng dường, có khi không được. Có khi được gần gũi cúng dường các vị tỳ-khưu quen biết, có khi không được. Lại cũng không biết một vị ưu-bà-tắc trí tuệ khi đến thăm vị ưu-bà-tắc hay vị ưu-bà-di trí tuệ khác bị tật bệnh khốn khổ, thì sẽ thuyết pháp, giáo giới như thế nào? Bây giờ chúng ta cùng đến chỗ Thế Tôn thưa hỏi về vấn đề này. Rồi theo như lời dạy Thế Tôn mà thọ trì.’

“Hôm nay chúng con thỉnh vấn Thế Tôn: Một vị ưu-bà-tắc trí tuệ khi đến thăm vị ưu-bà-tắc hay vị ưu-bà-di trí tuệ khác bị tật bệnh khốn khổ, thì sẽ thuyết pháp, giáo giới như thế nào?”

Phật bảo Nan-đề: “Nếu vị ưu-bà-tắc trí tuệ khi đến thăm vị ưu-bà-tắc hay ưu-bà-di trí tuệ khác đang bị tật bệnh khốn khổ, thì đem ba pháp an tâm này mà truyền dạy cho người ấy, nói rằng: ‘Thưa nhân giả! Hãy thành tựu lòng tin thanh tịnh bất hoại đối với Phật, đối với Pháp, đối với Tăng.’

“Sau khi đem ba pháp an tâm này truyền dạy xong, lại nên hỏi rằng: ‘Nhân giả có quyến luyến cha mẹ không?’ Nếu người ấy nói có quyến luyến cha mẹ, thì nên khuyên người ấy buông xả và nói rằng: ‘Nếu nhân giả quyến luyến cha mẹ mà được sống, thì đáng quyến luyến. Đã không do quyến luyến mà được sống, thì quyến luyến làm gì?’

“Nếu người ấy nói không có quyến luyến cha mẹ thì nên tùy hỷ khen ngợi và hỏi thêm rằng: ‘Đối với người phối ngẫu, con cái, nô bộc, tài sản của cải, nhân giả có quyến luyến không?’ Nếu người ấy nói quyến luyến thì nên khuyên buông xả và nói rằng: ‘Nếu nhân giả quyến luyến người phối ngẫu, con cái, nô bộc, tài sản của cải mà được sống, thì đáng quyến luyến. Đã không do quyến luyến mà được sống, thì quyến luyến làm gì?’

“Nếu người ấy nói không quyến luyến, thì nên tùy hỷ khen ngợi và hỏi thêm rằng: ‘Đối với ngũ dục thế gian [*], nhân giả có luyến tiếc không?’ Nếu người ấy nói luyến tiếc thì nên giải thích là ngũ dục thế gian là xấu xa, bất tịnh, bại hoại, hôi hám, không giống như ngũ dục thắng diệu ở cõi trời dục giới. Hãy khuyên người ấy buông xả ngũ dục thế gian và hướng đến ngũ dục thắng diệu ở cõi trời dục giới.

“Nếu người ấy nói tâm đã xa lìa ngũ dục thế gian và chỉ nghĩ đến ngũ dục thắng diệu ở cõi trời dục giới, thì nên tùy hỷ khen ngợi và nói thêm rằng: ‘Ngũ dục thắng diệu ở cõi trời dục giới là vô thường, khổ, không, biến hoại. Lạc thú của chư thiên ở cõi trời sắc giới thù thắng hơn ngũ dục ở cõi trời dục giới.’

“Nếu người ấy nói đã buông bỏ ý nghĩ tham luyến ngũ dục ở cõi trời dục giới và chỉ nghĩ đến lạc thú của chư thiên ở cõi trời sắc giới, thì nên tùy hỷ khen ngợi và nói thêm rằng: ‘Lạc thú của chư thiên ở cõi trời sắc giới cũng lại là vô thường, biến hoại. Chỉ có sự an lạc của xuất ly, Niết-bàn, với sự diệt tận của các hành là thù thắng, tối thượng. Nhân giả nên buông bỏ sự tham luyến lạc thú của chư thiên ở cõi trời sắc giới, mà nên vui với Niết-bàn là an tịnh, là thù thắng, là tối thượng.’

“Nếu vị thánh đệ tử ấy buông bỏ sự tham luyến vào cõi sắc giới, chỉ vui với Niết-bàn, thì nên tùy hỷ khen ngợi.

“Như vậy, này Nan-đề, vị thánh đệ tử kia được nhắc nhở chỉ dạy từng bước để buông xả và đạt đến Niết bàn, giống như tỳ-khưu đã giải thoát được một trăm năm, đạt đến Niết-bàn.”

Phật nói kinh này xong, Nan-đề và các người họ Thích nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tùy hỷ, đảnh lễ ra về.

Ghi chú:
[*] ngũ dục thế gian: sắc, thanh, hương, vị, xúc dục ở cõi người.

XVIII.3 THẢO LUẬN

Khi một người đang trên bờ vực của cái chết, không có lý do gì tiếp tục với sự bám chấp và tham thủ. Hoặc, theo lý luận được trình bày trong bài kinh tương đương ở Tương ưng bộ, cho dù người ấy có bám thủ hay không, người ấy cũng sẽ chết. Vì vậy, người ấy nên buông xả mọi bám chấp. Điều này phản ánh thái độ đúng đắn xuất hiện từ bài kinh trong chương trước về gia chủ Dīghāvu và cha của anh ta là Jotika, cũng như từ các lời chỉ dạy cho trưởng giả Cấp Cô Độc (Anāthapiṇḍika) trong lúc lâm chung như đã trình bày ở Chương 16.

Bài kinh trong chương này tiếp tục với chủ đề về những lạc thú ở cõi trời, đã được giới thiệu sơ lược trong Chương 15. Những lạc thú này là được trình bày chi tiết hơn trong phiên bản Tạp A-hàm bằng cách tiến hành thông qua các cõi trời khác nhau, cũng được đề cập trong lời dạy của ngài Sāriputta cho bà-la-môn Dhānañjāni trong Chương 15, cho đến các lạc thú trong cõi trời sắc giới của các vị Phạm thiên.

Các hướng dẫn như thế cũng được đưa ra trong bài kinh ở chương này, liên quan đến sự tinh tế điều chỉnh dần dần về ý định cơ bản hướng đến hạnh phúc. Trong bối cảnh của con đường tu tập từng bước cho một vị tu sĩ, sự tinh luyện tiệm tiến như thế bắt nguồn từ niềm hạnh phúc không tội lỗi vì có giới hạnh tiến đến hạnh phúc của sự biết đủ, hài lòng và hạnh phúc của sự chế ngự các giác quan. Từ đó, hành giả tiếp tục tu tập để trải nghiệm hạnh phúc của mức tâm định thâm sâu và cuối cùng đạt đến hạnh phúc của sự giải thoát. Trong trường hợp hiện tại, cùng một nguyên tắc cơ bản được áp dụng cho người đệ tử cư sĩ đang lâm bệnh nặng, dưới hình thức hướng dẫn hành thiền từng bước giảm dần các bám chấp để tiến đến những loại hạnh phúc càng lúc càng tinh tế hơn.

Trong khung cảnh của thời hiện đại, hướng dẫn hành thiền như thế cần được điều chỉnh cho những ai không quen thuộc với những cảnh giới cõi trời này, để tìm cách dẫn dắt tâm trí của bệnh nhân dần dần từ những gì thô tháo đến những gì tinh tế hơn, và cuối cùng đưa đến sự tự do hoàn toàn thoát khỏi các bám chấp, bằng bất cứ phương cách nào phù hợp tốt nhất cho cá tính, khuynh hướng và niềm tin của bệnh nhân. Cơ bản của sự điều chỉnh như vậy là tiến hành dần dần từ bất cứ biểu hiện chấp trước nào của bệnh nhân ngay lúc ấy để gia tăng mức độ xả ly, tạo điều kiện giúp bệnh nhân có thể buông xả trong một mức độ nào đó ngay lúc ấy.

Quy trình dần dần điều chỉnh ý định hướng đến hạnh phúc trở nên đặc biệt rõ ràng trong các lời khuyên ghi lại trong bài kinh Tạp A-hàm ở trên. Theo đó, mỗi lần bệnh nhân buông bỏ những gì thô tháo và hướng đến một cái gì đó tinh tế, người chăm sóc nên “tùy hỷ khen ngợi” bệnh nhân ấy. Bằng cách này, bệnh nhân nhận được hỗ trợ, khuyến khích liên tục để tiếp tục tinh luyện dần dần các loại hạnh phúc, cho đến cuối cùng người ấy có thể buông xả hoàn toàn và đạt đến một mức độ rất cao của sự tự do thoát khỏi các chấp thủ, chính xác bằng cách thực hành theo phương pháp tiệm tiến này.

Bên cạnh việc cung cấp những hướng dẫn cơ bản cho việc chăm sóc giảm nhẹ của Phật giáo, bài kinh cũng nêu ra tiềm năng của thời gian tiến gần đến cái chết có thể là một cơ hội dẫn đến một mức độ giải thoát mà trước đó sẽ không thể thực hiện khi còn khỏe mạnh. Phần kết luận của cả hai phiên bản, trong Tạp A-hàm và Tương ưng bộ, tuyên bố rõ ràng rằng giờ phút lâm chung có thể là một cơ hội cho một đệ tử cư sĩ tiến đến cùng một cấp độ giải thoát như một vị tu sĩ đã đạt đến trong nhiều năm trước. Một sự tiến bộ đáng kể như thế xảy ra đơn giản là do những tác động của cái chết gần kề làm thăng hoa tâm trí để tiến đến giải thoát.

Tác động chuyển hóa mà cái chết có thể tạo ra trong tâm trí, một sự chuyển hóa mà lý tưởng nhất là phải được tu dưỡng từ trước những giây phút lâm chung, đã được ông Reynolds (1992) viết như sau [*]:

Cái chết tiếp tục hoạt động như một giới hạn để đặt câu hỏi về giá trị của tất cả những sự thỏa mãn và lạc thú có thể đạt được trong sự hiện hữu này của thế gian ... cho những người ai thực sự thông hiểu ... những hệ lụy đau đớn của cái chết tiếp tục tái phát trong quá trình liên tục về sống, chết, tái sinh và tái tử, phản ứng thích hợp duy nhất rõ ràng là phản ứng của chính Đức Phật và của các vị thánh đi theo bước chân của Ngài. Đối với các bậc thánh nhân ấy, mọi hiện tượng thực tế đều có tính vô thường, hủy diệt, đầy đau khổ; kết quả là, lòng ham muốn được dập tắt và do đó đạt được Niết-bàn (bất tử, giải thoát khỏi sự chi phối của cái chết).

Những người được giải thoát khỏi sự chi phối của cái chết theo phương cách này, tất nhiên cũng vẫn qua đời, nhưng phương cách họ làm được như vậy trở thành một biểu hiện của sự tự do trong nội tâm của họ, của một trạng thái tinh thần ổn cố, không lay chuyển của họ ngay cả khi cơ thể bị đau yếu và sắp gục ngã. Một yếu tố có tầm quan trọng chính yếu để đạt được sự giải thoát như thế là chánh niệm, sẽ được trình bày trong bài kinh được trích dẫn ở chương tiếp theo. Theo phương cách này, ngoài việc được dùng để đối diện với nỗi đau thể xác hoặc nỗi đau tinh thần lúc sầu khổ, và ngoài việc tăng thêm phẩm chất cần thiết để quan sát, ghi nhận khi chăm sóc người bị bệnh nan y, chánh niệm còn có thể hỗ trợ người bệnh ngay cả trong những giây phút cuối cùng của cuộc sống.

----------------------

[*] Reynolds, Frank E. 1992: “Death as Threat, Death as Achievement: Buddhist Perspectives with Particular Reference to the Theravada Tradition”, in Death and Afterlife: Perspectives of World Religions, Hiroshi Obayashi (ed.), 157–67, New York: Greenwood Press.

* * *

 

SĀ 1122
TẬT BỆNH
Hòa thượng Thích Đức Thắng dịch
Bình Anson hiệu đính dựa theo bản Anh dịch của Bhikkhu Anālayo

Tôi nghe như vầy. Một thời Đức Phật ở trong vườn Ni-câu-luật (Nigrodha), nước Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavatthu). Bấy giờ, có nhiều người dòng họ Thích nhóm họp tại nhà luận nghị. Khi ấy, có người họ Thích nói với người họ Thích tên là Nan-đề (Nandiya): “Tôi có khi được đến Như Lai để cung kính cúng dường, có khi không được. Có khi được gần gũi cúng dường các vị tỳ-khưu quen biết, có khi không được. Lại cũng không biết một vị ưu-bà-tắc trí tuệ khi đến thăm vị ưu-bà-tắc hay vị ưu-bà-di trí tuệ khác bị tật bệnh khốn khổ, thì sẽ thuyết pháp, giáo giới như thế nào? Bây giờ chúng ta cùng đến chỗ Thế Tôn thưa hỏi về vấn đề này. Rồi theo như lời dạy Thế Tôn mà thọ trì.”

Sau đó, Nan-đề và những người dòng họ Thích, cùng nhau đến gặp Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, ngồi lui qua một bên, rồi bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, chúng con những người họ Thích có nhóm họp tại nhà nghị luận. Có người họ Thích đến nói với con rằng: ‘Này Nan-đề, chúng tôi có khi được đến Như Lai để cung kính cúng dường, có khi không được. Có khi được gần gũi cúng dường các vị tỳ-khưu quen biết, có khi không được. Lại cũng không biết một vị ưu-bà-tắc trí tuệ khi đến thăm vị ưu-bà-tắc hay vị ưu-bà-di trí tuệ khác bị tật bệnh khốn khổ, thì sẽ thuyết pháp, giáo giới như thế nào? Bây giờ chúng ta cùng đến chỗ Thế Tôn thưa hỏi về vấn đề này. Rồi theo như lời dạy Thế Tôn mà thọ trì.’

“Hôm nay chúng con thỉnh vấn Thế Tôn: Một vị ưu-bà-tắc trí tuệ khi đến thăm vị ưu-bà-tắc hay vị ưu-bà-di trí tuệ khác bị tật bệnh khốn khổ, thì sẽ thuyết pháp, giáo giới như thế nào?”

Phật bảo Nan-đề: “Nếu vị ưu-bà-tắc trí tuệ khi đến thăm vị ưu-bà-tắc hay ưu-bà-di trí tuệ khác đang bị tật bệnh khốn khổ, thì đem ba pháp an tâm này mà truyền dạy cho người ấy, nói rằng: ‘Thưa nhân giả! Hãy thành tựu lòng tin thanh tịnh bất hoại đối với Phật, đối với Pháp, đối với Tăng.’

“Sau khi đem ba pháp an tâm này truyền dạy xong, lại nên hỏi rằng: ‘Nhân giả có quyến luyến cha mẹ không?’ Nếu người ấy nói có quyến luyến cha mẹ, thì nên khuyên người ấy buông xả và nói rằng: ‘Nếu nhân giả quyến luyến cha mẹ mà được sống, thì đáng quyến luyến. Đã không do quyến luyến mà được sống, thì quyến luyến làm gì?’

“Nếu người ấy nói không có quyến luyến cha mẹ thì nên tùy hỷ khen ngợi và hỏi thêm rằng: ‘Đối với người phối ngẫu, con cái, nô bộc, tài sản của cải, nhân giả có quyến luyến không?’ Nếu người ấy nói quyến luyến thì nên khuyên buông xả và nói rằng: ‘Nếu nhân giả quyến luyến người phối ngẫu, con cái, nô bộc, tài sản của cải mà được sống, thì đáng quyến luyến. Đã không do quyến luyến mà được sống, thì quyến luyến làm gì?’

“Nếu người ấy nói không quyến luyến, thì nên tùy hỷ khen ngợi và hỏi thêm rằng: ‘Đối với ngũ dục thế gian [*], nhân giả có luyến tiếc không?’ Nếu người ấy nói luyến tiếc thì nên giải thích là ngũ dục thế gian là xấu xa, bất tịnh, bại hoại, hôi hám, không giống như ngũ dục thắng diệu ở cõi trời dục giới. Hãy khuyên người ấy buông xả ngũ dục thế gian và hướng đến ngũ dục thắng diệu ở cõi trời dục giới.

“Nếu người ấy nói tâm đã xa lìa ngũ dục thế gian và chỉ nghĩ đến ngũ dục thắng diệu ở cõi trời dục giới, thì nên tùy hỷ khen ngợi và nói thêm rằng: ‘Ngũ dục thắng diệu ở cõi trời dục giới là vô thường, khổ, không, biến hoại. Lạc thú của chư thiên ở cõi trời sắc giới thù thắng hơn ngũ dục ở cõi trời dục giới.’

“Nếu người ấy nói đã buông bỏ ý nghĩ tham luyến ngũ dục ở cõi trời dục giới và chỉ nghĩ đến lạc thú của chư thiên ở cõi trời sắc giới, thì nên tùy hỷ khen ngợi và nói thêm rằng: ‘Lạc thú của chư thiên ở cõi trời sắc giới cũng lại là vô thường, biến hoại. Chỉ có sự an lạc của xuất ly, Niết-bàn, với sự diệt tận của các hành là thù thắng, tối thượng. Nhân giả nên buông bỏ sự tham luyến lạc thú của chư thiên ở cõi trời sắc giới, mà nên vui với Niết-bàn là an tịnh, là thù thắng, là tối thượng.’

“Nếu vị thánh đệ tử ấy buông bỏ sự tham luyến vào cõi sắc giới, chỉ vui với Niết-bàn, thì nên tùy hỷ khen ngợi.

“Như vậy, này Nan-đề, vị thánh đệ tử kia được nhắc nhở chỉ dạy từng bước để buông xả và đạt đến Niết bàn, giống như tỳ-khưu đã giải thoát được một trăm năm, đạt đến Niết-bàn.”

Phật nói kinh này xong, Nan-đề và các người họ Thích nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tùy hỷ, đảnh lễ ra về.

Ghi chú:
[*] ngũ dục thế gian: sắc, thanh, hương, vị, xúc dục ở cõi người.


SN 55.54
BỊ BỆNH
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch
Bình Anson hiệu đính dựa theo bản Anh dịch của Bhikkhu Bodhi

Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng họ Thích, tại Kapilavatthu, khu vườn các cây bàng (Nigrodha). Lúc bấy giờ, nhiều tỳ-khưu đang làm y cho Thế Tôn, nghĩ rằng khi y làm xong, Thế Tôn sau ba tháng sẽ đi du hành.

Thích tử Mahānāma được nghe: “Nhiều tỳ-khưu đang làm y cho Thế Tôn và họ nghĩ rằng khi y làm xong, Thế Tôn sau ba tháng sẽ đi du hành.”

Rồi Thích tử Mahānāma đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, ngồi xuống một bên, rồi bạch Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, con được nghe nhiều tỳ-khưu đang làm y cho Thế Tôn và họ nghĩ rằng khi y làm xong, Thế Tôn sau ba tháng sẽ ra đi du hành. Chúng con chưa được tự thân nghe từ Thế Tôn, tự thân lãnh thọ từ Thế Tôn rằng khi một cư sĩ đệ tử có trí tuệ bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh, cần phải được một cư sĩ đệ tử có trí tuệ khác giáo giới như thế nào?”

“Này Mahānāma, một cư sĩ đệ tử có trí tuệ bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh, cần phải được an ủi với bốn pháp an ủi như sau (assāsanīya dhamma): Tôn giả hãy yên tâm, tôn giả đã có lòng tịnh tín bất động đối với Phật: ‘Ðây bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.’ Tôn giả hãy yên tâm, tôn giả đã có lòng tịnh tín bất động đối với Pháp: ‘Pháp do Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, có hiệu quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu.’ Tôn giả hãy yên tâm, tôn giả đã có lòng tịnh tín bất động đối với Tăng: ‘Diệu hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn, trực hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn, ứng lý hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn, chân chánh hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn, tức là bốn đôi tám chúng, chúng đệ tử của Thế Tôn là đáng cung kính, đáng cúng dường, đáng tôn trọng, đáng được chấp tay, là phước điền vô thượng ở đời.’ Tôn giả hãy yên tâm, tôn giả đã thành tựu các giới hạnh mà các bậc Thánh ái kính, không bị phá hoại, không bị đâm cắt, không bị nhiễm ô, không bị uế nhiễm, đem lại giải thoát, được người trí tán thán, không bị chấp thủ, đưa đến thiền định.’

“Sau khi một cư sĩ có trí tuệ bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh được một cư sĩ có trí tuệ giáo giới với bốn pháp an ủi này, cần phải hỏi vị ấy: ‘Tôn giả có quan tâm đến cha mẹ không?’

“Nếu vị ấy nói: ‘Tôi còn có quan tâm đến cha mẹ,’ thì nên nói với vị ấy: ‘Thưa tôn giả, tôn giả thế nào cũng phải chết. Dù tôn giả có hay không có quan tâm đến cha mẹ, tôn giả cũng sẽ chết. Vậy tốt hơn là tôn giả hãy buông bỏ quan tâm đến cha mẹ.’

“Nếu vị ấy nói: ‘Tôi đã buông bỏ quan tâm đến cha mẹ,’ cần phải hỏi vị ấy: ‘Tôn giả có quan tâm đến vợ con hay không?’ Nếu vị ấy nói: ‘Tôi có quan tâm đến vợ con,’ thì nên nói với vị ấy: ‘Thưa tôn giả, tôn giả thế nào cũng phải chết. Dù tôn giả có hay không có quan tâm đến vợ con, tôn giả cũng sẽ chết. Vậy tốt hơn là tôn giả hãy buông bỏ quan tâm đến vợ con.’

“Nếu vị ấy nói: ‘Tôi đã buông bỏ quan tâm đến vợ con,’ cần phải hỏi vị ấy: ‘Tôn giả có quan tâm đến năm dục lạc ở cõi người không?’ Nếu vị ấy nói: ‘Tôi có quan tâm đến năm dục lạc ở cõi người,’ thì nên nói với vị ấy: ‘Thưa tôn giả, dục lạc ở cõi trời còn thù diệu hơn dục lạc ở cõi người. Vậy tốt hơn là tôn giả hãy buông bỏ quan tâm đến dục lạc ở cõi người, và hướng tâm đến cõi trời Tứ đại thiên vương.’

“Nếu vị ấy nói: "Tôi đã buông bỏ quan tâm đến dục lạc ở cõi người, và hướng tâm đến cõi trời Tứ đại thiên vương,’ thì nên nói với vị ấy: ‘Chư thiên ở cõi trời Ba mươi ba (Tāvatiṃsa) còn thù diệu hơn chư thiên ở cõi trời Tứ đại thiên vương. Vậy tốt hơn là tôn giả hãy từ bỏ quan tâm đến cõi trời Tứ đại thiên vương và hướng tâm đến chư thiên ở cõi trời Ba mươi ba.’

“Nếu vị ấy nói: "Tâm tôi đã từ bỏ cõi trời Tứ đại thiên vương và hướng đến chư thiên ở cõi trời Ba mươi ba", thì nên nói với vị ấy: ‘Chư thiên ở cõi trời Yāma còn thù diệu hơn chư thiên ở cõi trời Ba mươi ba. Vậy tốt hơn là tôn giả hãy từ bỏ quan tâm đến cõi trời Ba mươi ba và hướng tâm đến chư thiên ở cõi trời Yāma.’

“Nếu vị ấy nói: ‘Tâm tôi đã từ bỏ cõi trời Ba mươi ba và hướng đến chư thiên ở cõi trời Yāma,’ thì nên nói với vị ấy: ‘Chư thiên ở cõi trời Tusita còn thù diệu hơn chư thiên ở cõi trời Yāma. Vậy tốt hơn là tôn giả hãy từ bỏ quan tâm đến cõi trời Yāma và hướng tâm đến chư thiên ở cõi trời Tusita.’

“Nếu vị ấy nói: ‘Tâm tôi đã từ bỏ cõi trời Yāma và hướng đến chư thiên ở cõi trời Tusita,’ thì nên nói với vị ấy: ‘Chư thiên ở cõi trời Hóa lạc (Nimmānarati) còn thù diệu hơn chư thiên ở cõi trời Tusita. Vậy tốt hơn là tôn giả hãy từ bỏ quan tâm đến cõi trời Tusita và hướng tâm đến chư thiên ở cõi trời Hóa lạc.’

“Nếu vị ấy nói: ‘Tâm tôi đã từ bỏ cõi trời Tusita và hướng đến chư thiên ở cõi trời Hóa lạc,’ thì nên nói với vị ấy: ‘Chư thiên ở cõi trời Tha hóa tự tại (Paranimmitavasavattī) còn thù diệu hơn chư thiên ở cõi trời Hóa lạc. Vậy tốt hơn là tôn giả hãy từ bỏ quan tâm đến cõi trời Hóa lạc và hướng tâm đến chư thiên ở cõi trời Tha hóa tự tại.’

“Nếu vị ấy nói: ‘Tâm tôi đã từ bỏ cõi trời Hóa lạc và hướng đến chư thiên ở cõi trời Tha hóa tự tại,’ thì nên nói với vị ấy: ‘Chư thiên ở cõi trời Phạm thiên (Brahmāloka) còn thù diệu hơn chư thiên ở cõi trời Tha hóa tự tại. Vậy tốt hơn là tôn giả hãy từ bỏ quan tâm đến cõi trời Tha hóa tự tại và hướng tâm đến chư thiên ở cõi trời Phạm thiên.’

“Nếu vị ấy nói: ‘Tâm tôi đã từ bỏ cõi trời Tha hóa tự tại và hướng đến chư thiên ở cõi trời Phạm thiên,’ thì nên nói với vị ấy: ‘Cõi trời Phạm thiên là vô thường, không vững bền, chìm đắm trong thân kiến (sakkāyapariyāpanno). Vậy tốt hơn là tôn giả hãy từ bỏ quan tâm đến cõi trời Phạm thiên và hướng tâm đến đoạn diệt thân kiến (sakkāyanirodhe).’

“Nếu vị ấy nói: ‘Tâm tôi đã từ bỏ cõi trời Phạm thiên và hướng đến đoạn diệt thân kiến,’ này Mahānāma, Ta nói rằng không có gì khác biệt giữa một vị cư sĩ đã có tâm giải thoát như thế và vị tỳ-khưu có tâm giải thoát khỏi các lậu hoặc, tức là giữa sự giải thoát này và sự giải thoát kia.”


 

Itipi so Bhagavā Arahaṃ Sammāsambuddho
Vijjācaraṇasampanno Sugato Lokavidū
Anuttaro Purisadammasārathi
Satthā devamanussānaṃ
Buddho Bhagavāti.

Svākkhāto bhagavato dhammo
Sandiṭṭhiko akāliko ehipassiko
Opanayiko paccattaṃ veditabbo viññūhīti.

Supaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho
Ujupaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho
Ñāyapaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho
Sāmīcipaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho
Yadidaṃ cattāri purisayugāṇi atthapurisapuggalā
Esa bhagavato sāvakasaṅgho
Āhuneyyo pāhuneyyo dakkhiṇeyyo añjalikaranīyo
Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassāti.

Đầu ngọn cờ
Dhajagga Sutta, SN 11.3

"Này các Tỳ-khưu, Ta nói như sau: Khi quý vị đi vào rừng, đi đến gốc cây hay đi đến nhà trống, nếu run sợ, hoảng hốt, hay lông tóc dựng ngược có khởi lên, trong khi ấy hãy niệm nhớ đến Ta: 'Ngài là Thế Tôn, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn'.

Này các Tỳ-khưu, khi quý vị niệm nhớ đến Ta, thời sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược có khởi lên, sẽ được tiêu diệt.

Nếu quý vị không niệm nhớ đến Ta, hãy niệm nhớ đến Pháp: 'Ðây là Pháp do Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, có quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, do người trí tự mình giác hiểu.'

Này các Tỳ-khưu, khi quý vị niệm nhớ đến Pháp, thời sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược có khởi lên sẽ tiêu diệt.

Nếu quý vị không niệm nhớ đến Pháp, hãy niệm nhớ đến chúng Tăng: 'Chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Thiện hạnh; chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Trực hạnh; chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Chánh hạnh; chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Như pháp hạnh, tức là bốn đôi, tám chúng. Chúng Tăng đệ tử này của Thế Tôn đáng được cúng dường, đáng được hiến dâng, đáng được bố thí, đáng được chấp tay, là vô thượng phước điền ở trên đời.'

Này các Tỳ-khưu, khi quý vị niệm nhớ đến chúng Tăng, thời sợ hãi, hoảng hốt, hay lông tóc dựng ngược có khởi lên sẽ tiêu diệt.

Vì sao? Này các Tỳ-khưu, Như Lai, bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri đã ly tham, ly sân, ly si, không nhát gan, không hoảng hốt, không hoảng sợ, không hoảng chạy.

* * * * * *

 

Tỉnh thức trước bệnh tật và cái chết
Lời Phật dạy trong kinh văn nguyên thủy

Bhikkhu Analayo (2017). Mindfully Facing Disease and Death: Compassionate Advice from Early Buddhist Texts.

MỤC LỤC TỔNG QUÁT

Dẫn nhập

BỆNH TẬT

Chương 01 - Đức Phật như là một vị y sĩ vô thượng
Chương 02 - Thân bệnh, tâm an
Chương 03 - Mũi tên của đau khổ
Chương 04 - Phẩm chất của bệnh nhân và người chăm sóc
Chương 05 - Tiềm năng chữa bệnh của các chi phần giác ngộ
Chương 06 - Giảm thiểu cơn đau trong tỉnh thức
Chương 07 - Chịu đựng cơn đau trong tỉnh thức
Chương 08 - Tỉnh thức đối mặt bệnh tật
Chương 09 - Không sợ hãi khi bị bệnh
Chương 10 - Liều thuốc nội quán
Chương 11 - Những lời dạy giải thoát từ một bệnh nhân
Chương 12 - Chương trình hành thiền chữa bệnh

CÁI CHẾT

Chương 13 - Chết là điều tất nhiên
Chương 14 - Tự do tỉnh thức không buồn rầu
Chương 15 - Cận tử và các phạm trú
Chương 16 - Các hướng dẫn trước khi chết
Chương 17 - Không chấp thủ và bệnh bất trị mạt kỳ
Chương 18 - Lời khuyên về chăm sóc thoa dịu
Chương 19 - Chết trong tỉnh thức
Chương 20 - Tiềm năng giải thoát của cái chết
Chương 21 - Sức mạnh của nội quán lúc cận tử
Chương 22 - Những lời cuối của một đệ tử cư sĩ thành đạt
Chương 23 - Trạng thái thiền của Đức Phật khi nhập diệt
Chương 24 - Quán tưởng về cái chết

Kết luận và các hướng dẫn hành thiền

Dẫn nhập
Các hướng dẫn hành thiền cho ngài Girimānanda
(1) Quán vô thường
(2) Quán vô ngã
(3) Quán bất tịnh
(4) Quán nguy hại
(5) Quán từ bỏ
(6) Quán xả ly
(7) Quán diệt tận
(8) Quán không tham luyến vào toàn thế giới
(9) Quán các hành là vô thường
(10) Quán hơi thở

 


CÁC CHỦ ĐỀ GIÁO THUYẾT TRONG MỖI CHƯƠNG

Chương 01 - Tứ thánh đế và Bát chi thánh đạo, danh hiệu của Như Lai
Chương 02 - Năm uẩn chấp thủ, vị ngọt và nguy hại
Chương 03 - Bảy khuynh hướng ngủ ngầm và ba loại cảm thọ
Chương 04 - Bốn phạm trú
Chương 05 - Năm triền cái, bảy chi phần giác ngộ và cách tu dưỡng
Chương 06 - Bốn pháp lập niệm, pháp nhãn, và đạt thiền diệt
Chương 07 - Tầm quan trọng của chư thiên
Chương 08 - Bốn cấp bậc giác ngộ, năm hạ phần kiết sử, và tam vô lậu học
Chương 09 - Bốn chi phần Dự Lưu và ngũ giới
Chương 10 - Hai mươi loại thân kiến và ba lậu hoặc
Chương 11 - Vô ngã và sự khác biệt giữa Dự Lưu và giác ngộ hoàn toàn
Chương 12 - Bốn tưởng điên đảo

Chương 13 - Phật Độc Giác và mười lực, bốn pháp vô sở úy của Như Lai
Chương 14 - Năm vô lậu học và ba mươi bảy chi phần đưa đến giác ngộ
Chương 15 - Vai trò các cõi trời
Chương 16 - Tam Bảo và đường đến quả Dự Lưu
Chương 17 - Ba tướng và bốn loại thức ăn
Chương 18 - Tinh luyện tiệm tiến của hạnh phúc
Chương 19 - Duyên sinh
Chương 20 - Chánh kiến lúc cận tử
Chương 21 - Sáu căn
Chương 22 - Tầm quan trọng của Chuyển Luân Vương
Chương 23 - Bốn tầng thiền hữu sắc và bốn tầng thiền vô sắc
Chương 24 - Quán tưởng về cái chết

* * *

 

Bhikkhu ANALAYO (1962-)
Centre for Buddhist Studies, University of Hamburg, Germany

Tỳ-khưu Analayo sinh năm 1962 tại Đức. Sư xuất gia gieo duyên năm 1990 tại chùa Wat Suan Mokkh ở miền nam Thái Lan. Năm 1994, Sư đến Sri Lanka xuất gia với ngài Hòa thượng Balangoda Ananda Maitreya, và sau đó thọ giới tỳ-khưu với Hòa thượng Pemasiri vào năm 2007 trong hệ phái Shwegyin Nikaya (bắt nguồn từ hệ phái chính Amarapura Nikaya). Tuy nhiên, Bhikkhu Bodhi là vị thầy chính.

Sư hoàn tất chương trình tiến sĩ tại University of Peradeniya năm 2000 và luận án tiến sĩ được xuất bảm thành sách với tựa đề “Satipaṭṭhāna, the Direct Path to Realization”. Cuốn sách được nhiều người khen ngợi, đã được tái bản nhiều lần và dịch sang 10 thứ tiếng. Bản tiếng Việt được Cư sĩ Nguyễn Văn Ngân dịch, với tựa đề “Satipaṭṭhāna, Con đường thẳng tới giác ngộ”, xuất bản năm 2017.

Hiện nay, Sư là giáo sư Phật học tại Trung tâm Phật học của Đại học Hamburg, Đức quốc (Centre for Buddhist Studies, University of Hamburg), Đại học Phật giáo Pháp Cổ, Đài Loan (Dharma Drum Buddhist College, Taiwan). Sư là đồng sáng lập viên Nhóm Nghiên cứu A-hàm (Āgama Research Group) và là giảng sư của Trung tâm Phật học Barre, Hoa Kỳ (Barre Center for Buddhist Studies).

Hiện nay (2018), ngài trú và tịnh tu tại Trung tâm Phật học Barre, bang Massachusetts, Hoa Kỳ.

Các nguồn thông tin:

1) Wikipedia: https://en.wikipedia.org/wiki/Bhikkhu_Analayo 
2) University of Hamburg: https://www.buddhismuskunde.uni-hamburg.de/en/personen/analayo.html 

------------------

Giáo sư AMING TU

Giáo sư Aming Tu (杜正民 - Đỗ Chính Dân, Du Zhengmin) là một sáng lập viên của hội CBETA (Chinese Buddhist Electronic Text Association, Hiệp hội Kinh văn Điện tử Phật giáo Trung Hoa) và đã từng là Giám đốc Điều hành của Hội (1998-2006). Ông là giáo sư Tin học và đã có nhiều đóng góp quan trọng trong dự án số hóa Tam tạng Kinh điển tiếng Hán. Năm 2005, ông bị bệnh và được chẩn đoán là bị bệnh ung thư gan, phải vào bệnh viện 10 ngày và trải qua một cơn đau đớn rất khắc nghiệt.

Sau khi rời bệnh viện, ông tìm đọc các bản kinh trong Hán tạng và tạng Pali có ghi lại các lời dạy của Đức Phật và các vị đại đệ tử để đối phó với cơn đau, bệnh tật và cái chết. Ông suy ngẫm và thực hành theo đó, và nhờ vậy, đã giúp ông rất nhiều để chịu đựng các cơn đau và viễn ảnh của cái chết không thể tránh được.

Ông thảo luận các vấn đề nầy với tỳ-khưu Anālayo – lúc ấy, Sư đang nghiên cứu và dịch các bản kinh A-hàm. Ông đề nghị Sư khai triển thành một cuốn sách với nội dung về phương cách đối diện với bệnh tật và cái chết, dựa theo các bản kinh của Phật giáo Sơ kỳ – bộ A-hàm trong Hán tạng và Nikāya trong tạng Pāli, cùng với những hướng dẫn thực tế để hành thiền, giúp hành giả có đủ nghị lực, hiểu biết và tỉnh thức để trực diện với các vấn đề tất yếu đó của kiếp người.

Sau khi Sư hoàn tất viết cuốn sách, Gs Tu đọc bản thảo, rất hoan hỷ và viết Lời Bạt, đề cập đến nguyên nhân ra đời của cuốn sách. Cuốn sách được xuất bản vào đầu năm 2017 và được nhiều vị thiền sư, học giả khen ngợi, tán thán. Một điều buồn là Gs Aming Tu không thấy được ấn bản chính thức. Ông qua đời vào tháng 11 năm 2016.

* * *

[ Home ]

03-08-2020