Đàm luận Phật Pháp
- 316 -

Tỉnh thức trước bệnh tật và cái chết
Lời Phật dạy trong kinh văn nguyên thủy

16. CÁC HƯỚNG DẪN LÚC LÂM CHUNG  

 
1-mucluc16.jpg
1-mucluc16.jpg
1179 * 898
2-du_luu1.jpg
2-du_luu1.jpg
1332 * 920
3-du_luu2.jpg
3-du_luu2.jpg
1308 * 890
4-du_luu3.jpg
4-du_luu3.jpg
1265 * 824

 

XVI

16. CÁC HƯỚNG DẪN LÚC LÂM CHUNG    
Bhikkhu Anālayo, Mindfully facing disease and death (2017)

XVI.1 GIỚI THIỆU

Bài kinh trong chương này một lần nữa trình bày các lời giảng dạy từ bi của Trưởng lão Sāriputta. Ngoài ra, trong chương còn có hai nhân vật đã được đề cập trong Chương 9 là gia chủ Anāthapiṇḍika lâm trọng bệnh gần lâm chung và Trưởng lão Ānanda quan tâm đến thăm, cho thấy có một mối quan hệ chặt chẽ giữa bệnh tật và cái chết. Trong Chương 9, ông Anāthapiṇḍika hồi phục, khỏi bệnh sau khi nghe thuyết giảng, nhưng trong chương này, ông đang ở gần giờ phút cuối cùng của cuộc đời. Để thích hợp cho một tình huống như vậy, ngài Sāriputta đã thuyết giảng cho ông ấy một giáo lý xuyên thấu về tuệ giác.

Bài kinh Giáo giới Cấp Cô Độc trong Trung bộ (Anāthapiṇḍikovāda sutta, MN 143) có điểm chung với bài kinh tương đương trong Tạp A-hàm (SĀ 1032) và Tăng nhất A-hàm (EĀ 51.8) là ở cuối câu chuyện sau khi được nghe ngài Sāriputta thuyết giảng giáo lý về tuệ giác, gia chủ Anāthapiṇḍika rơi nước mắt bởi vì trước đó, ông ấy đã không nhận được những hướng dẫn sâu sắc như thế. Trong những tham luận khác, tôi đã xem xét chi tiết về lời tuyên bố này, dựa trên một bản dịch của bài kinh tương đương trong Tạp A-hàm. Mặc dù lời tuyên bố như thế có thể mang lại một ấn tượng rằng giáo lý về tuệ giác đã được giữ lại, không thuyết giảng cho hàng cư sĩ, nhưng khi kiểm tra chặt chẽ qua các đoạn kinh có liên quan, cho thấy đoạn văn của bài kinh trong chương này có thể được hiểu rõ ràng hơn khi chúng ta biết rõ về nhân cách của ông Anāthapiṇḍika từ các bài kinh khác.

Như đã đề cập trong Chương 9, gia chủ Anāthapiṇḍika đắc quả Dự lưu trong cuộc gặp gỡ đầu tiên với Đức Phật và vì thế, trong quan điểm của Phật giáo Sơ kỳ, ông không còn bị thối chuyển trên con đường tu tập. Tuy nhiên, các bài kinh khác cho một ấn tượng rằng ông ít quan tâm đến các lời giảng dạy về tuệ giác và về hành thiền. Ông ấy rõ ràng là thỏa mãn đóng vai trò của một nhà tài trợ, một vị thí chủ, như phản ánh trong tên gọi là Anāthapiṇḍika – Cấp Cô Độc, người cấp dưỡng những kẻ cô thế, nghèo túng, và ông đã có được tên gọi này thậm chí trước khi trở thành một Phật tử.

Một bài kinh khác trong Tăng chi bộ (AN 5.176) và bài kinh tương đương trong Tạp A-hàm (SĀ 482) có ghi lại câu chuyện Đức Phật khuyến nhủ ông Anāthapiṇḍika rằng, ngoài việc hỗ trợ cúng dường các tu sĩ, ông cũng nên phát triển thiền lạc. Điều này cho thấy hành thiền có vẻ không phải là khuynh hướng tự nhiên của ông ấy. Ở những bài kinh khác trong Tăng chi bộ (AN 9.20), Trung A-hàm (MĀ 155) và Tăng nhất A-hàm (EĀ 27.3), Đức Phật khuyên ông Anāthapiṇḍika nên tu tập phát triển tuệ giác để được nhiều kết quả, hơn là chỉ biết cúng dường thức ăn và chỗ ở đến Đức Phật và chư Tăng. Điều này cho thấy Đức Phật đã cố gắng dạy cho ông Anāthapiṇḍika biết rằng ông không nên thỏa mãn với việc bố thí cũng dường, mà nên phát triển tuệ giác.

Những đoạn kinh như thế cho thấy trường hợp của ông Anāthapiṇḍika không phản ánh bất kỳ một sự thiên vị nào trong việc truyền giảng giáo lý giải thoát. Thật vậy, bài kinh giảng cho ông Mānadiṇṇa, được dịch trong Chương 8, đã cho thấy rõ rằng các đệ tử cư sĩ phải nhận được những lời giảng dạy về tuệ giác, nếu không, ông ấy khó có thể đắc được quả vị Dự lưu. Điều tương tự thậm chí còn rõ ràng hơn trong trường hợp của vị đệ tử cư sĩ Citta, được trình bày trong Chương 22, đã được Đức Phật khen ngợi là vị đệ tử cư sĩ xuất sắc về thuyết giảng giáo pháp. Tuy nhiên, câu chuyện trong bài kinh ở chương này có ngụ ý rằng việc thuyết giảng về tuệ giác không áp đặt lên những ai chưa sẵn sàng tiếp nhận. Ở đây, trong giờ phút lâm chung, gia chủ Anāthapiṇḍika rõ ràng là trở nên dễ tiếp thu những giáo lý như thế hơn những lúc trước.

Dưới đây tôi dịch phần đầu của bài kinh trong Tăng nhất A-hàm (EĀ 51.8) về câu chuyện khi ông Anāthapiṇḍika qua đời, cũng có ghi lại trong kinh Giáo giới Cấp Cô Độc của Trung bộ (MN 143) và một bài kinh trong Tạp A-hàm (SĀ 1032).

XVI.2 KINH VĂN

EĀ 51.8
Kinh số 8, Phẩm Phi thường
Hòa thượng Thích Đức Thắng dịch
Bình Anson hiệu đính dựa theo bản Anh dịch của Tỳ-khưu Anālayo

Trích đoạn:

(...) Tôi nghe như vầy. Một thời, Phật trú tại nước Xá-vệ, trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà. Bấy giờ gia chủ Cấp Cô Độc thân mang trọng bệnh.

Ngài Xá-lợi-phất, với thiên nhãn thanh tịnh không bợn nhơ, thấy gia chủ Cấp Cô Độc thân mang trọng bệnh, bèn nói với ngài A-nan: “Thầy cùng tôi đi đến thăm gia chủ Cấp Cô Độc.” Ngài A-nan đáp: “Vâng. Thầy biết bây giờ là đúng thời.”

Bấy giờ, đúng thời ngài Xá-lợi-phất và ngài A-nan khoác y ôm bát vào thành Xá-vệ khất thực; lần hồi đi đến nhà gia chủ. Đến nơi, các ngài ngồi xuống. Sau khi ngồi, ngài Xá-lợi-phất đang ở trên chỗ ngồi, nói với gia chủ Cấp Cô Độc:

“Bệnh của ông hôm nay tăng hay giảm? Có cảm thấy đau đớn giảm dần, không tăng thêm?”

Gia chủ đáp: “Bệnh của con trở nên trầm trọng, có rất ít hy vọng. Con chỉ cảm thấy tăng thêm, không giảm bớt.”

Ngài Xá-lợi-phất nói: “Này gia chủ, bây giờ ông hãy nhớ tưởng đến Phật, rằng Như Lai là bậc A-la-hán, Chí Chân Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, hiệu Phật, Thế Tôn.

“Ông cũng hãy nhớ tưởng đến Pháp, rằng Pháp của Như Lai rất thâm sâu, đáng tôn đáng quý, không gì sánh bằng, là điều mà Hiền Thánh tu hành.

“Ông cũng hãy nhớ tưởng đến Tăng, rằng Thánh chúng của Như Lai hòa thuận trên dưới, không tranh tụng, thành tựu pháp tùy pháp. Thánh chúng ấy thành tựu giới, thành tựu tam-muội, thành tựu trí tuệ, thành tựu giải thoát, thành tựu tri kiến về giải thoát. Tăng ấy gồm bốn đôi tám hạng. Đó gọi là Thánh chúng của Như Lai đáng tôn đáng quý, là ruộng phước vô thượng của thế gian.

“Này gia chủ, nếu ai tu hành niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng như thế, sẽ được phước đức ấy không thể tính kể, sẽ được nếm vị cam lồ bất tử của diệt tận.

“Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghĩ nhớ đến ba ngôi báu Phật, Pháp, và Thánh chúng như thế thì sẽ không bao giờ đọa vào ba đường ác. Thiện nam tử, thiện nữ nhân nào tu niệm ba ngôi báu ấy chắc chắn sẽ đi đến cõi lành, được sinh vào cõi trời, cõi người.

“Này gia chủ, đừng chấp thủ vào sắc và cũng đừng chấp thủ vào thức do duyên sắc, đừng chấp thủ vào âm thanh và cũng đừng chấp thủ vào thức do duyên âm thanh, đừng chấp thủ vào mùi hương và cũng đừng chấp thủ vào thức do duyên mùi hương, đừng chấp thủ vào vị nếm và cũng đừng chấp thủ vào thức do duyên vị nếm, đừng chấp thủ vào vật xúc chạm và cũng đừng chấp thủ vào thức do duyên vật xúc chạm, đừng chấp thủ vào các ý tưởng và cũng đừng chấp thủ vào thức do duyên các ý tưởng.

“Đừng chấp thủ vào đời này hay đời sau và cũng đừng chấp thủ vào thức do duyên đời này hay đời sau. Đừng chấp thủ vào ái và cũng đừng chấp thủ vào thức do duyên ái. Vì sao thế? Do duyên ái mà có thủ, duyên thủ mà có hữu, duyên hữu mà có sinh, duyên sinh mà có chết, sầu ưu khổ não không thể tính kể.” (…)

XVI.3 THẢO LUẬN

Các hướng dẫn trong bài kinh của Tăng nhất A-hàm đề cập tiếp theo về năm thủ uẩn và sau đó áp dụng lý duyên sinh cho mỗi trong sáu căn, một giải trình mà không thấy đề cập trong các phiên bản khác. Các phiên bản khác cũng không bắt đầu các hướng dẫn của ngài Sāriputta về quán niệm Phật, Pháp, Tăng như trong bản kinh của Tăng nhất A-hàm.

Mô tả về các quán niệm trên trong phiên bản này của Tăng nhất A-hàm cung cấp thêm thông tin chi tiết về các đối tượng của ba chi phần đầu tiên của quả vị Dự Lưu được đề cập trong Chương 9 về Tam Bảo. Đầu tiên là Đức Phật, được mô tả với một loạt các danh hiệu tiêu chuẩn về phẩm chất của một bậc giác ngộ và giảng dạy như một vị thầy đầy lòng từ bi. Trong trường hợp của Pháp, phẩm chất sâu sắc và truyền cảm hứng tôn quý của Pháp là những gì chư thánh nhân tu tập. Những điều này tạo nên Cộng đồng Thánh nhân (Thánh chúng), những vị đã thành tựu năm phẩm chất cao quý của giới đức, thiền định, trí tuệ, giải thoát, và tri kiến về giải thoát (tương ứng với năm uẩn giải thoát được đề cập trong Chương 14). Đáng chú ý ở đây là việc đề cập đến “bốn đôi tám hạng người” để mô tả Thánh chúng, một mô tả tìm thấy tương tự trong các bài kinh nguyên thủy khác. Tám hạng người tạo nên bốn đôi là những vị đang trên đường (đạo) đến một trong bốn cấp độ giác ngộ và những người vị đạt đến một trong bốn cấp độ đó (quả) – đó là Dự lưu, Nhất lai, Bất lai và A-la-hán.

Chuyển sang các hướng dẫn về tuệ giác sâu sắc được tìm thấy tương tự trong cả ba phiên bản, giáo lý mà ngài Sāriputta thuyết giảng tập trung vào sự cần thiết để tránh bám chấp vào bất kỳ khía cạnh nào của kinh nghiệm qua sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Đây chính xác là những gì cần phải thực hiện tại thời điểm cận kề cái chết: buông bỏ bất kỳ sự chấp thủ nào. Đây có lẽ là điểm nổi bật nhất xuất hiện từ bài kinh này và sẽ là một chủ đề được lặp lại nhiều lần trong các chương tiếp theo của cuốn sách. Trong câu chuyện ở đây, cả ba phiên bản xác nhận rằng lời hướng dẫn này đã được đưa ra tại thời điểm lúc gần lâm chung, và gia chủ Anāthapiṇḍika qua đời không bao lâu sau khi nhận được lời dạy thâm sâu của ngài Sāriputta.

Bên cạnh việc minh giải tầm quan trọng của sự không chấp thủ tại thời điểm kề cận cái chết, một điểm cụ thể hơn được đề cập trong bài kinh, nếu chúng ta ghi nhớ các thông tin về ông Anāthapiṇḍika trong các bài kinh khác, là một người chỉ có thể có khả năng khai mở tuệ giác thâm sâu vào lúc cận tử. Cùng với bài kinh sẽ được thảo luận trong chương cuối, điều này gợi ý sự cần thiết cho những người có mặt chung quanh bệnh nhân lúc cận tử phải cảnh giác về thái độ tinh thần của bệnh nhân, phải lưu ý đến các dấu hiệu tâm ý bệnh nhân sẵn sàng mở rộng. Chính xác là khi cái chết đến gần kề thì bệnh nhân cuối cùng rồi có thể tập trung sự can đảm để đối mặt với những gì họ đã cố gắng tránh bằng mọi giá.

* * *

 

EĀ 51.8
Kinh số 8, Phẩm Phi thường
Hòa thượng Thích Đức Thắng dịch
Bình Anson hiệu đính dựa theo bản Anh dịch của Tỳ-khưu Anālayo

Trích đoạn:

Tôi nghe như vầy. Một thời, Phật trú tại nước Xá-vệ, trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà. Bấy giờ gia chủ Cấp Cô Độc thân mang trọng bệnh.

Ngài Xá-lợi-phất, với thiên nhãn thanh tịnh không bợn nhơ, thấy gia chủ Cấp Cô Độc thân mang trọng bệnh, bèn nói với ngài A-nan: “Thầy cùng tôi đi đến thăm gia chủ Cấp Cô Độc.” Ngài A-nan đáp: “Vâng. Thầy biết bây giờ là đúng thời.”

Bấy giờ, đúng thời ngài Xá-lợi-phất và ngài A-nan khoác y ôm bát vào thành Xá-vệ khất thực; lần hồi đi đến nhà gia chủ. Đến nơi, các ngài ngồi xuống. Sau khi ngồi, ngài Xá-lợi-phất đang ở trên chỗ ngồi, nói với gia chủ Cấp Cô Độc:

“Bệnh của ông hôm nay tăng hay giảm? Có cảm thấy đau đớn giảm dần, không tăng thêm?”

Gia chủ đáp: “Bệnh của con trở nên trầm trọng, có rất ít hy vọng. Con chỉ cảm thấy tăng thêm, không giảm bớt.”

Ngài Xá-lợi-phất nói: “Này gia chủ, bây giờ ông hãy nhớ tưởng đến Phật, rằng Như Lai là bậc A-la-hán, Chí Chân Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, hiệu Phật, Thế Tôn.

“Ông cũng hãy nhớ tưởng đến Pháp, rằng Pháp của Như Lai rất thâm sâu, đáng tôn đáng quý, không gì sánh bằng, là điều mà Hiền Thánh tu hành.

“Ông cũng hãy nhớ tưởng đến Tăng, rằng Thánh chúng của Như Lai hòa thuận trên dưới, không tranh tụng, thành tựu pháp tùy pháp. Thánh chúng ấy thành tựu giới, thành tựu tam-muội, thành tựu trí tuệ, thành tựu giải thoát, thành tựu tri kiến về giải thoát. Tăng ấy gồm bốn đôi tám hạng. Đó gọi là Thánh chúng của Như Lai đáng tôn đáng quý, là ruộng phước vô thượng của thế gian.

“Này gia chủ, nếu ai tu hành niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng như thế, sẽ được phước đức ấy không thể tính kể, sẽ được nếm vị cam lồ bất tử của diệt tận.

“Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghĩ nhớ đến ba ngôi báu Phật, Pháp, và Thánh chúng như thế thì sẽ không bao giờ đọa vào ba đường ác. Thiện nam tử, thiện nữ nhân nào tu niệm ba ngôi báu ấy chắc chắn sẽ đi đến cõi lành, được sinh vào cõi trời, cõi người.

“Này gia chủ, đừng chấp thủ vào sắc và cũng đừng chấp thủ vào thức do duyên sắc, đừng chấp thủ vào âm thanh và cũng đừng chấp thủ vào thức do duyên âm thanh, đừng chấp thủ vào mùi hương và cũng đừng chấp thủ vào thức do duyên mùi hương, đừng chấp thủ vào vị nếm và cũng đừng chấp thủ vào thức do duyên vị nếm, đừng chấp thủ vào vật xúc chạm và cũng đừng chấp thủ vào thức do duyên vật xúc chạm, đừng chấp thủ vào các ý tưởng và cũng đừng chấp thủ vào thức do duyên các ý tưởng.

“Đừng chấp thủ vào đời này hay đời sau và cũng đừng chấp thủ vào thức do duyên đời này hay đời sau. Đừng chấp thủ vào ái và cũng đừng chấp thủ vào thức do duyên ái. Vì sao thế? Do duyên ái mà có thủ, duyên thủ mà có hữu, duyên hữu mà có sinh, duyên sinh mà có chết, sầu ưu khổ não không thể tính kể.”

(…)


Trung Bộ MN 143
Majjhima Nikaya
Kinh Giáo giới Cấp Cô Ðộc
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch
Bình Anson hiệu đính dựa theo bản Anh dịch của Tỳ-khưu Bodhi

Trích đoạn:

(Tôn giả Sāriputta và Tôn giả Ānanda đến thăm ông Anāthapiṇḍika đang lâm trọng bệnh. Ngài Sāriputta thăm hỏi và có lời khuyến nhủ ông.)

(…)
“Do vậy, gia chủ hãy học tập như sau: ‘Tôi sẽ không chấp thủ mắt, và tôi sẽ không có thức y cứ vào mắt. Tôi sẽ không chấp thủ tai ... không chấp thủ mũi ... không chấp thủ lưỡi ... không chấp thủ thân ... Tôi sẽ không chấp thủ ý, và tôi sẽ không có thức y cứ vào ý.’ Hãy học tập như vậy.

“Gia chủ hãy học tập như sau: ‘Tôi sẽ không chấp thủ sắc, và tôi sẽ không có thức y cứ vào sắc. Tôi sẽ không chấp thủ thanh ... không chấp thủ hương ... không chấp thủ vị ... không chấp thủ xúc ... Tôi sẽ không chấp thủ pháp, và tôi sẽ không có thức y cứ vào pháp.’ Hãy học tập như vậy.

“Gia chủ hãy học tập như sau: ‘Tôi sẽ không chấp thủ nhãn thức, và tôi sẽ không có thức y cứ vào nhãn thức. Tôi sẽ không chấp thủ nhĩ thức ... không chấp thủ tỷ thức ... không chấp thủ thiệt thức ... không chấp thủ thân thức ... Tôi sẽ không chấp thủ ý thức, và tôi sẽ không có thức y cứ vào ý thức.’ Hãy học tập như vậy.

“Gia chủ hãy học tập như sau: ‘Tôi sẽ không chấp thủ nhãn xúc, và tôi sẽ không có thức y cứ vào nhãn xúc. Tôi sẽ không chấp thủ nhĩ xúc ... không chấp thủ tỷ xúc ... không chấp thủ thiệt xúc ... không chấp thủ thân xúc ... Tôi sẽ không chấp thủ ý xúc, và tôi sẽ không có thức y cứ vào ý xúc.’ Hãy học tập như vậy.

“Gia chủ hãy học tập như sau: ‘Tôi sẽ không chấp thủ thọ do nhãn xúc sinh khởi, và tôi sẽ không có thức y cứ vào thọ do nhãn xúc sinh khởi. Tôi sẽ không chấp thủ thọ do nhĩ xúc sinh khởi ... không chấp thủ thọ do tỷ xúc sinh khởi ... không chấp thủ thọ do thiệt xúc sinh khởi ... không chấp thủ thọ do thân xúc sinh khởi ... Tôi sẽ không chấp thủ thọ do ý xúc sinh khởi và tôi sẽ không có thức y cứ vào thọ do ý xúc sinh khởi.’ Hãy học tập như vậy.

“Gia chủ hãy học tập như sau: ‘Tôi sẽ không chấp thủ địa giới, và tôi sẽ không có thức y cứ vào địa giới. Tôi sẽ không chấp thủ thủy giới ... không chấp thủ hỏa giới ... không chấp thủ phong giới ... không chấp thủ hư không giới ... Tôi sẽ không chấp thủ thức giới, và tôi sẽ không có thức y cứ vào thức giới.’ Hãy học tập như vậy.

“Gia chủ hãy học tập như sau: ‘Tôi sẽ không chấp thủ sắc, và tôi sẽ không có thức y cứ vào sắc. Tôi sẽ không chấp thủ thọ ... không chấp thủ tưởng ... không chấp thủ hành ... Tôi sẽ không chấp thủ thức và tôi sẽ không có thức y cứ vào thức giới.’ Hãy học tập như vậy.

“Gia chủ hãy học tập như sau: ‘Tôi sẽ không chấp thủ hư không vô biên xứ, và tôi sẽ không có thức y cứ vào hư không vô biên xứ. Tôi sẽ không chấp thủ thức vô biên xứ ... không chấp thủ vô sở hữu xứ ... Tôi sẽ không chấp thủ phi tưởng phi phi tưởng xứ, và tôi sẽ không có thức y cứ vào phi tưởng phi phi tưởng xứ.’ Hãy học tập như vậy.

“Gia chủ hãy học tập như sau: ‘Tôi sẽ không chấp thủ vào thế giới ở đây và tôi sẽ không có thức y cứ vào thế giới ở đây. Tôi sẽ không chấp thủ thế giới khác, và tôi sẽ không có thức y cứ vào thế giới khác.’ Hãy học tập như vậy.

“Gia chủ hãy học tập như sau: ‘Tôi sẽ không chấp thủ những gì được thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận biết, được tầm cầu, được khảo sát với ý, và tôi sẽ không có thức y cứ vào các pháp ấy.’ Hãy học tập như vậy.”

(…)


 

Itipi so Bhagavā Arahaṃ Sammāsambuddho
Vijjācaraṇasampanno Sugato Lokavidū
Anuttaro Purisadammasārathi
Satthā devamanussānaṃ
Buddho Bhagavāti.

Svākkhāto bhagavato dhammo
Sandiṭṭhiko akāliko ehipassiko
Opanayiko paccattaṃ veditabbo viññūhīti.

Supaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho
Ujupaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho
Ñāyapaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho
Sāmīcipaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho
Yadidaṃ cattāri purisayugāṇi atthapurisapuggalā
Esa bhagavato sāvakasaṅgho
Āhuneyyo pāhuneyyo dakkhiṇeyyo añjalikaranīyo
Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassāti.

Đầu ngọn cờ
Dhajagga Sutta, SN 11.3

"Này các Tỳ-khưu, Ta nói như sau: Khi quý vị đi vào rừng, đi đến gốc cây hay đi đến nhà trống, nếu run sợ, hoảng hốt, hay lông tóc dựng ngược có khởi lên, trong khi ấy hãy niệm nhớ đến Ta: 'Ngài là Thế Tôn, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn'.

Này các Tỳ-khưu, khi quý vị niệm nhớ đến Ta, thời sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược có khởi lên, sẽ được tiêu diệt.

Nếu quý vị không niệm nhớ đến Ta, hãy niệm nhớ đến Pháp: 'Ðây là Pháp do Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, có quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, do người trí tự mình giác hiểu.'

Này các Tỳ-khưu, khi quý vị niệm nhớ đến Pháp, thời sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược có khởi lên sẽ tiêu diệt.

Nếu quý vị không niệm nhớ đến Pháp, hãy niệm nhớ đến chúng Tăng: 'Chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Thiện hạnh; chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Trực hạnh; chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Chánh hạnh; chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Như pháp hạnh, tức là bốn đôi, tám chúng. Chúng Tăng đệ tử này của Thế Tôn đáng được cúng dường, đáng được hiến dâng, đáng được bố thí, đáng được chấp tay, là vô thượng phước điền ở trên đời.'

Này các Tỳ-khưu, khi quý vị niệm nhớ đến chúng Tăng, thời sợ hãi, hoảng hốt, hay lông tóc dựng ngược có khởi lên sẽ tiêu diệt.

Vì sao? Này các Tỳ-khưu, Như Lai, bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri đã ly tham, ly sân, ly si, không nhát gan, không hoảng hốt, không hoảng sợ, không hoảng chạy.

* * * * * *

 

Tỉnh thức trước bệnh tật và cái chết
Lời Phật dạy trong kinh văn nguyên thủy

Bhikkhu Analayo (2017). Mindfully Facing Disease and Death: Compassionate Advice from Early Buddhist Texts.

MỤC LỤC TỔNG QUÁT

Dẫn nhập

BỆNH TẬT

Chương 01 - Đức Phật như là một vị y sĩ vô thượng
Chương 02 - Thân bệnh, tâm an
Chương 03 - Mũi tên của đau khổ
Chương 04 - Phẩm chất của bệnh nhân và người chăm sóc
Chương 05 - Tiềm năng chữa bệnh của các chi phần giác ngộ
Chương 06 - Giảm thiểu cơn đau trong tỉnh thức
Chương 07 - Chịu đựng cơn đau trong tỉnh thức
Chương 08 - Tỉnh thức đối mặt bệnh tật
Chương 09 - Không sợ hãi khi bị bệnh
Chương 10 - Liều thuốc nội quán
Chương 11 - Những lời dạy giải thoát từ một bệnh nhân
Chương 12 - Chương trình hành thiền chữa bệnh

CÁI CHẾT

Chương 13 - Chết là điều tất nhiên
Chương 14 - Tự do tỉnh thức không buồn rầu
Chương 15 - Cận tử và các phạm trú
Chương 16 - Các hướng dẫn trước khi chết
Chương 17 - Không chấp thủ và bệnh bất trị mạt kỳ
Chương 18 - Lời khuyên về chăm sóc thoa dịu
Chương 19 - Chết trong tỉnh thức
Chương 20 - Tiềm năng giải thoát của cái chết
Chương 21 - Sức mạnh của nội quán lúc cận tử
Chương 22 - Những lời cuối của một đệ tử cư sĩ thành đạt
Chương 23 - Trạng thái thiền của Đức Phật khi nhập diệt
Chương 24 - Quán tưởng về cái chết

Kết luận và các hướng dẫn hành thiền

Dẫn nhập
Các hướng dẫn hành thiền cho ngài Girimānanda
(1) Quán vô thường
(2) Quán vô ngã
(3) Quán bất tịnh
(4) Quán nguy hại
(5) Quán từ bỏ
(6) Quán xả ly
(7) Quán diệt tận
(8) Quán không tham luyến vào toàn thế giới
(9) Quán các hành là vô thường
(10) Quán hơi thở

 


CÁC CHỦ ĐỀ GIÁO THUYẾT TRONG MỖI CHƯƠNG

Chương 01 - Tứ thánh đế và Bát chi thánh đạo, danh hiệu của Như Lai
Chương 02 - Năm uẩn chấp thủ, vị ngọt và nguy hại
Chương 03 - Bảy khuynh hướng ngủ ngầm và ba loại cảm thọ
Chương 04 - Bốn phạm trú
Chương 05 - Năm triền cái, bảy chi phần giác ngộ và cách tu dưỡng
Chương 06 - Bốn pháp lập niệm, pháp nhãn, và đạt thiền diệt
Chương 07 - Tầm quan trọng của chư thiên
Chương 08 - Bốn cấp bậc giác ngộ, năm hạ phần kiết sử, và tam vô lậu học
Chương 09 - Bốn chi phần Dự Lưu và ngũ giới
Chương 10 - Hai mươi loại thân kiến và ba lậu hoặc
Chương 11 - Vô ngã và sự khác biệt giữa Dự Lưu và giác ngộ hoàn toàn
Chương 12 - Bốn tưởng điên đảo

Chương 13 - Phật Độc Giác và mười lực, bốn pháp vô sở úy của Như Lai
Chương 14 - Năm vô lậu học và ba mươi bảy chi phần đưa đến giác ngộ
Chương 15 - Vai trò các cõi trời
Chương 16 - Tam Bảo và đường đến quả Dự Lưu
Chương 17 - Ba tướng và bốn loại thức ăn
Chương 18 - Tinh luyện tiệm tiến của hạnh phúc
Chương 19 - Duyên sinh
Chương 20 - Chánh kiến lúc cận tử
Chương 21 - Sáu căn
Chương 22 - Tầm quan trọng của Chuyển Luân Vương
Chương 23 - Bốn tầng thiền hữu sắc và bốn tầng thiền vô sắc
Chương 24 - Quán tưởng về cái chết

* * *

 

Bhikkhu ANALAYO (1962-)
Centre for Buddhist Studies, University of Hamburg, Germany

Tỳ-khưu Analayo sinh năm 1962 tại Đức. Sư xuất gia gieo duyên năm 1990 tại chùa Wat Suan Mokkh ở miền nam Thái Lan. Năm 1994, Sư đến Sri Lanka xuất gia với ngài Hòa thượng Balangoda Ananda Maitreya, và sau đó thọ giới tỳ-khưu với Hòa thượng Pemasiri vào năm 2007 trong hệ phái Shwegyin Nikaya (bắt nguồn từ hệ phái chính Amarapura Nikaya). Tuy nhiên, Bhikkhu Bodhi là vị thầy chính.

Sư hoàn tất chương trình tiến sĩ tại University of Peradeniya năm 2000 và luận án tiến sĩ được xuất bảm thành sách với tựa đề “Satipaṭṭhāna, the Direct Path to Realization”. Cuốn sách được nhiều người khen ngợi, đã được tái bản nhiều lần và dịch sang 10 thứ tiếng. Bản tiếng Việt được Cư sĩ Nguyễn Văn Ngân dịch, với tựa đề “Satipaṭṭhāna, Con đường thẳng tới giác ngộ”, xuất bản năm 2017.

Hiện nay, Sư là giáo sư Phật học tại Trung tâm Phật học của Đại học Hamburg, Đức quốc (Centre for Buddhist Studies, University of Hamburg), Đại học Phật giáo Pháp Cổ, Đài Loan (Dharma Drum Buddhist College, Taiwan). Sư là đồng sáng lập viên Nhóm Nghiên cứu A-hàm (Āgama Research Group) và là giảng sư của Trung tâm Phật học Barre, Hoa Kỳ (Barre Center for Buddhist Studies).

Hiện nay (2018), ngài trú và tịnh tu tại Trung tâm Phật học Barre, bang Massachusetts, Hoa Kỳ.

Các nguồn thông tin:

1) Wikipedia: https://en.wikipedia.org/wiki/Bhikkhu_Analayo 
2) University of Hamburg: https://www.buddhismuskunde.uni-hamburg.de/en/personen/analayo.html 

------------------

Giáo sư AMING TU

Giáo sư Aming Tu (杜正民 - Đỗ Chính Dân, Du Zhengmin) là một sáng lập viên của hội CBETA (Chinese Buddhist Electronic Text Association, Hiệp hội Kinh văn Điện tử Phật giáo Trung Hoa) và đã từng là Giám đốc Điều hành của Hội (1998-2006). Ông là giáo sư Tin học và đã có nhiều đóng góp quan trọng trong dự án số hóa Tam tạng Kinh điển tiếng Hán. Năm 2005, ông bị bệnh và được chẩn đoán là bị bệnh ung thư gan, phải vào bệnh viện 10 ngày và trải qua một cơn đau đớn rất khắc nghiệt.

Sau khi rời bệnh viện, ông tìm đọc các bản kinh trong Hán tạng và tạng Pali có ghi lại các lời dạy của Đức Phật và các vị đại đệ tử để đối phó với cơn đau, bệnh tật và cái chết. Ông suy ngẫm và thực hành theo đó, và nhờ vậy, đã giúp ông rất nhiều để chịu đựng các cơn đau và viễn ảnh của cái chết không thể tránh được.

Ông thảo luận các vấn đề nầy với tỳ-khưu Anālayo – lúc ấy, Sư đang nghiên cứu và dịch các bản kinh A-hàm. Ông đề nghị Sư khai triển thành một cuốn sách với nội dung về phương cách đối diện với bệnh tật và cái chết, dựa theo các bản kinh của Phật giáo Sơ kỳ – bộ A-hàm trong Hán tạng và Nikāya trong tạng Pāli, cùng với những hướng dẫn thực tế để hành thiền, giúp hành giả có đủ nghị lực, hiểu biết và tỉnh thức để trực diện với các vấn đề tất yếu đó của kiếp người.

Sau khi Sư hoàn tất viết cuốn sách, Gs Tu đọc bản thảo, rất hoan hỷ và viết Lời Bạt, đề cập đến nguyên nhân ra đời của cuốn sách. Cuốn sách được xuất bản vào đầu năm 2017 và được nhiều vị thiền sư, học giả khen ngợi, tán thán. Một điều buồn là Gs Aming Tu không thấy được ấn bản chính thức. Ông qua đời vào tháng 11 năm 2016.

* * *

[ Home ]

20-07-2020