Đàm luận Phật Pháp
- 311 -

Tỉnh thức trước bệnh tật và cái chết
Lời Phật dạy trong kinh văn nguyên thủy

11. NHỮNG LỜI DẠY GIẢI THOÁT TỪ MỘT BỆNH NHÂN  

 
1-mucluc_11.jpg
1-mucluc_11.jpg
1179 * 898
2-vongatuong.jpg
2-vongatuong.jpg
1177 * 863
3-dgt_2.jpg
3-dgt_2.jpg
1310 * 797
4-dgt_3.jpg
4-dgt_3.jpg
1177 * 853
5-dgt_4.jpg
5-dgt_4.jpg
1222 * 821
6-daukho.jpg
6-daukho.jpg
1244 * 838

 

XI

NHỮNG LỜI DẠY GIẢI THOÁT TỪ MỘT BỆNH NHÂN
Bhikkhu Anālayo, Mindfully facing disease and death (2017)

XI.1 GIỚI THIỆU

Sự khác biệt vi tế được đề cập trong Chương X giữa việc thực chứng vô ngã khi nhập dòng thánh giải thoát, đắc quả Dự Lưu, và việc tích hợp đầy đủ nhận thức này vào tâm trí của hành giả khi hoàn toàn giác ngộ là chủ đề của bài kinh được trình bày trong chương này.

Giáo thuyết vô ngã (anattā) không phải dễ thấu đạt. Bài kinh trong chương này cho thấy một nhóm các vị tỳ-khưu dường như chưa hoàn toàn hiểu rõ ràng về sự khác biệt giữa thực chứng khi nhập vào dòng thánh giải thoát, hành giả không còn thấy một cái ngã thường tồn ở bất cứ đâu, và sự tự do hoàn toàn thoát khỏi các ý tưởng ngã mạn và cái tôi, đạt được khi hoàn tất tuệ học trong tam vô lậu học giới-định-tuệ, hoàn toàn giác ngộ.

Việc nhận thức được rằng tất cả các khía cạnh của trải nghiệm về cái tôi chỉ đơn thuần là các tiến trình luôn luôn thay đổi tự nó đã khá sâu sắc, nhưng vẫn cần có thêm nhiều nỗ lực hơn nữa để thực chứng đầy đủ các kết quả của nhận thức đó. Trong bài kinh được đề cập ở đây, trích từ Tạp A-hàm (SĀ 103) và Tương ưng bộ (SN 22.89), ngài Tỳ-khưu Khemaka đã giải thích rõ ràng sự khác biệt này, kèm theo những ví dụ để làm rõ vấn đề.

XI.2 KINH VĂN

SĀ 103
SAI-MA-CA
Hòa thượng Thích Đức Thắng dịch
Bình Anson hiệu đính dựa theo bản dịch tiếng Anh của Bhikkhu Anālayo

Tôi nghe như vầy. Bấy giờ, có số đông tỳ-khưu thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la (瞿師羅, Ghosita), nước Câu-xá-di (拘舍彌, Kosambī). Lúc ấy cũng ở nước Câu-xá-di tại vườn Bạt-đà-lê (跋陀梨, Badarika) có Tỳ-khưu Sai-ma-ca (差摩迦, Khemaka) thân mang trọng bệnh. Bấy giờ, Tỳ-khưu Đà-sa-ca (陀娑迦, Dāsaka) là người nuôi bệnh.

Tỳ-khưu Đà-sa-ca đến chỗ các tỳ-khưu thượng tọa, lễ dưới chân các tỳ-khưu thượng tọa rồi đứng sang một bên. Các tỳ-khưu thượng tọa bảo Tỳ-khưu Đà-sa-ca rằng: “Thầy trở về chỗ Tỳ-khưu Sai-ma-ca nói rằng: ‘Các thượng tọa hỏi thăm thầy, thân thể có an ổn chút nào không? Đau đớn không tăng lắm chứ?’”

Lúc ấy, Tỳ-khưu Đà-sa-ca vâng lời các tỳ-khưu thượng tọa trở về chỗ Tỳ-khưu Sai-ma-ca, nói với Tỳ-khưu Sai-ma-ca rằng: “Các thượng tọa hỏi thăm thầy, thân thể có an ổn chút nào không? Đau đớn không tăng lắm chứ?”

Tỳ-khưu Sai-ma-ca nói với Tỳ-khưu Đà-sa-ca rằng: “Bệnh của tôi không bớt, thân không được an ổn, các thứ khổ bức bách càng tăng thêm, không cứu nổi. Giống như người có nhiều sức mạnh bắt lấy người gầy yếu đuối, dùng dây trói chặt vào đầu cùng hai tay, rồi siết chặt làm cho đau đớn vô cùng. Hiện tại sự thống khổ của tôi còn hơn cả người kia nữa. Giống như tên đồ tể dùng dao bén mổ bụng bò lấy nội tạng nó ra; sự đau đớn ở bụng con bò như thế nào có thể chịu nổi, còn hiện tại sự đau đớn ở bụng của tôi, hơn cả sự đau đớn của con bò kia. Như hai lực sĩ bắt một người yếu đuối treo lên trên lửa rồi đốt hai chân họ, hiện nay hai chân của tôi còn nóng hơn chân người kia.”

Bấy giờ, Tỳ-khưu Đà-sa-ca đến lại chỗ các thượng tọa, đem những lời đã nói về bệnh trạng của Tỳ-khưu Sai-ma-ca bạch lại đầy đủ cho các thượng tọa. Các thượng tọa lại sai Tỳ-khưu Đà-sa-ca trở về chỗ Tỳ-khưu Sai-ma-ca và nói với Tỳ-khưu Sai-ma-ca rằng: “Đức Thế Tôn đã dạy có năm thủ uẩn. Đó là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Tỳ-khưu Sai-ma-ca, thầy có thể quán sát về năm thủ uẩn này là không phải ngã, không phải ngã sở, được không?”

Tỳ-khưu Đà-sa-ca vâng lời các tỳ-khưu thượng tọa dạy rồi trở về nói với Tỳ-khưu Sai-ma-ca rằng: “Các thượng tọa nhắn lại thầy là: ‘Thế Tôn đã từng dạy về năm thủ uẩn, thầy có thể quán sát về năm thủ uẩn này là không phải ngã, không phải ngã sở, được không?’”

Tỳ-khưu Sai-ma-ca nói với Tỳ-khưu Đà-sa-ca rằng: “Đối với năm thủ uẩn này, tôi có thể quán sát là không phải ngã, không phải ngã sở.”

Tỳ-khưu Đà-sa-ca trở lại bạch với các thượng tọa rằng: “Tỳ-khưu Sai-ma-ca nói: ‘Đối với năm thủ uẩn này, tôi có thể quán sát là không phải ngã, không phải ngã sở.’”

Các tỳ-khưu thượng tọa lại sai Tỳ-khưu Đà-sa-ca nói với Tỳ-khưu Sai-ma-ca rằng: “Đối với năm thủ uẩn này, thầy có thể quán sát là không phải ngã, không phải ngã sở, như thế có phải thầy là bậc A-la-hán đã đoạn tận các lậu hoặc?”

Tỳ-khưu Đà-sa-ca vâng lời các tỳ-khưu thượng tọa dạy, lại đến chỗ Tỳ-khưu Sai-ma-ca, nói với Tỳ-khưu Sai-ma-ca rằng: “Đối với năm thủ uẩn này, thầy có thể quán sát là không phải ngã, không phải ngã sở, như thế có phải thầy là bậc A-la-hán đã đoạn tận các lậu hoặc?”

Tỳ-khưu Sai-ma-ca nói với Tỳ-khưu Đà-sa-ca rằng: “Tôi có thể quán sát năm thủ uẩn là không phải ngã, không phải ngã sở; nhưng tôi chưa phải là bậc A-la-hán đã đoạn tận lậu hoặc.”

Tỳ-khưu Đà-sa-ca trở lại bạch với các thượng tọa rằng: “Tỳ-khưu Sai-ma-ca nói: ‘Tôi có thể quán sát năm thủ uẩn là không phải ngã, không phải ngã sở; nhưng tôi chưa phải là bậc A-la-hán đã đoạn tận lậu hoặc.’”

Bây giờ, các thượng tọa bảo Tỳ-khưu Đà-sa-ca, “Hãy trở về nói với Tỳ-khưu Sai-ma-ca: ‘Thầy nói là thầy quán sát năm thủ uẩn là không phải ngã, không phải là ngã sở, nhưng thầy chưa phải là bậc A-la-hán đã đoạn tận lậu hoặc. Trước sau mâu thuẫn nhau.’”

Tỳ-khưu Đà-sa-ca lại vâng lời dạy các thượng tọa, đến nói với Tỳ-khưu Sai-ma-ca là: ‘Thầy nói là thầy quán sát năm thủ uẩn là không phải ngã, không phải ngã sở, nhưng thầy chưa phải là bậc A-la-hán đã đoạn tận lậu hoặc. Trước sau mâu thuẫn nhau.’

Tỳ-khưu Sai-ma-ca nói với Tỳ-khưu Đà-sa-ca rằng: “Đối với năm thủ uẩn tôi quán sát là không phải ngã, không phải ngã sở. Nhưng tôi chưa phải là bậc A-la-hán. Vì đối với ngã mạn, ngã dục, ngã sử, tôi chưa đoạn hết, chưa biết rõ, chưa xả ly, chưa nhàm chán, chưa nhổ ra hết.”

Tỳ-khưu Đà-sa-ca trở lại bạch với các thượng tọa rằng: “Tỳ-khưu Sai-ma-ca nói: ‘Đối với năm thủ uẩn tôi quán sát là không phải ngã, không phải ngã sở. Nhưng tôi chưa phải là bậc A-la-hán. Vì đối với ngã mạn, ngã dục, ngã sử, tôi chưa đoạn hết, chưa biết rõ, chưa xả ly, chưa nhàm chán, chưa nhổ ra hết.’”

Các thượng tọa lại sai Tỳ-khưu Đà-sa-ca nói với Tỳ-khưu Sai-ma-ca rằng: “Thầy nói có ngã. Vậy thì ở chỗ nào có ngã? Sắc là ngã hay sắc khác ngã? Thọ … Tưởng … Hành … Thức là ngã hay thức khác ngã?’

Tỳ-khưu Sai-ma-ca nói với Tỳ-khưu Đà-sa-ca rằng: “Tôi không nói sắc là ngã hay ngã khác sắc; tôi không nói thọ … tôi không nói tưởng … tôi không nói hành … tôi không nói thức là ngã hay thức khác ngã. Nhưng đối với năm thủ uẩn, ngã mạn, ngã dục, ngã sử, tôi chưa đoạn hết, chưa biết rõ, chưa xa lìa, chưa nhàm chán, chưa nhổ ra hết.”

Tỳ-khưu Sai-ma-ca nói tiếp với Tỳ-khưu Đà-sa-ca rằng: “Tại sao lại làm phiền thầy phải chạy qua chạy lại? Thầy mang giùm cây gậy đến đây. Tôi sẽ tự chống gậy đến gặp các vị thượng tọa kia. Xin trao gậy cho tôi.”

Tỳ-khưu Sai-ma-ca liền tự chống gậy đi đến chỗ các thượng tọa. Từ xa các vị thượng tọa nhìn thấy Tỳ-khưu Sai-ma-ca chống gậy đi lại, liền trải tòa, sửa ghế ngồi, đích thân ra đón tiếp, mang giúp y bát và mời ngồi, cùng thăm hỏi sức khỏe nhau. Rồi các vị thượng tọa nói với Tỳ-khưu Sai-ma-ca rằng:

“Thầy nói về ngã mạn; vậy thấy ngã ở đâu? Sắc là ngã chăng? Ngã khác sắc chăng? Thọ … Tưởng … Hành … Thức là ngã chăng? Thức khác ngã chăng?”

Tỳ-khưu Sai-ma-ca bạch rằng: “Không phải sắc là ngã, không phải sắc khác ngã; không phải thọ …, không phải tưởng … không phải hành … không phải thức là ngã, không phải thức khác ngã. Nhưng đối với năm thủ uẩn, ngã mạn, ngã dục, ngã sử, tôi chưa đoạn hết, chưa biết rõ, chưa xa lìa, chưa nhàm chán, chưa nhổ ra hết.

“Giống như hương thơm của hoa ưu-bát-la (uppala), bát-đàm-ma (paduma), câu-mâu-đầu (kamuda), phân-đà-lợi (puṇḍarika). Có phải là mùi hương là rễ cây, hay mùi hương khác với rễ cây? Có phải mùi hương là thân, lá, cuống, các phần tinh và thô của cây? Hay mùi hương khác với thân, lá, cuống, các phần tinh và thô của cây? Nói thế nào cho đúng?”

Các vị thượng tọa đáp rằng: “Không phải đâu, Tỳ-khưu Sai-ma-ca. Không phải mùi hương là rễ của cây hoa ưu-bát-la, bát-đàm-ma, câu-mâu-đầu, phân-đà-lợi, cũng không phải mùi hương khác với rễ các cây ấy. Không phải mùi hương là thân, lá, cuống, các phần tinh và thô của cây, cũng không phải mùi hương khác với thân, lá, cuống, các phần tinh và thô của cây.”

Tỳ-khưu Sai-ma-ca lại hỏi: “Vậy thì mùi hương đó là gì?”

Các thượng tọa đáp rằng: “Là mùi hương của hoa.”

Tỳ-khưu Sai-ma-ca lại nói: “Vậy thì ngã cũng như vậy. Không phải sắc là ngã, không phải sắc khác ngã; không phải thọ …, không phải tưởng … không phải hành … không phải thức là ngã, không phải thức khác ngã. Nhưng đối với năm thủ uẩn, ngã mạn, ngã dục, ngã sử, tôi chưa đoạn hết, chưa biết rõ, chưa xa lìa, chưa nhàm chán, chưa nhổ ra hết.

“Các thượng tọa hãy nghe tôi nói thí dụ, vì người trí nhờ thí dụ mà được hiểu rõ. Giống như chiếc áo của người nhũ mẫu giao cho người giặt. Họ giặt bằng nước tro, tuy có sạch bụi nhơ, nhưng vẫn còn có mùi. Nếu muốn hết mùi này thì cần phải dùng các thứ hương thơm xông ướp.

“Cũng vậy, vị đa văn thánh đệ tử xa lìa năm thủ uẩn, quán sát chân chánh rằng không phải ngã, không phải ngã sở, có thể đối với năm thủ uẩn, ngã mạn, ngã dục, ngã sử chưa đoạn hết, chưa biết rõ, chưa xa lìa, chưa nhàm chán, chưa nhổ ra hết.

“Nhưng sau đó vị ấy tư duy thêm nữa, quán sát sự sinh diệt của năm thủ uẩn, rằng: ‘Đây là sắc, đây là sự tập khởi của sắc, đây là sự diệt tận của sắc. Đây là thọ … Đây là tưởng … Đây là hành … Đây là thức, đây là sự tập khởi của thức, đây là sự đoạn tận của thức.

“Đối với năm thủ uẩn sau khi đã quán sát sự sinh diệt của chúng như vậy, ngã mạn, ngã dục, ngã sử, tất cả đều được tiêu trừ. Đó gọi là quán sát chân chánh chân thật.”

Khi Tỳ-khưu Sai-ma-ca nói pháp này, thì các vị thượng tọa xa lìa được trần cấu, được Pháp nhãn thanh tịnh. Tỳ-khưu Sai-ma-ca nhờ không chấp thủ, nên tâm được giải thoát khỏi các lậu hoặc. Vì được an vui lợi ích nơi Chánh pháp nên bệnh nơi thân hoàn toàn được tiêu trừ.

Bấy giờ, các vị thượng tọa nói với Tỳ-khưu Sai-ma-ca rằng:

“Lần đầu chúng tôi được nghe những gì hiền giả nói đã hiểu rõ và mừng vui, huống chi là được nghe lại nhiều lần. Sở dĩ chúng tôi hỏi nhiều là vì muốn làm phát khởi biện tài vi diệu của hiền giả, chứ không phải có ý quấy rối. Hiền giả là người có khả năng giảng rộng Chánh pháp của Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác.”

Các vị thượng tọa sau khi nghe những gì mà Tỳ-khưu Sai-ma-ca nói, tất cả đều hoan hỷ phụng hành.

XI.3 THẢO LUẬN

Lời giải thích và đặc biệt là những ví dụ được ngài Khemaka sử dụng chính xác là những gì mà các vị trưởng lão cần phải thẩm thấu để chứng ngộ. Điều này thậm chí còn rõ ràng hơn trong bài kinh Pāli tương ứng (SN 22.89). Trong khi trong bài kinh của Tạp A-hàm (SĀ 103), các vị trưởng lão ấy được ghi nhận là đắc quả Dự Lưu sau khi thấu hiểu, trình bày như là mở được “Pháp nhãn”, thì trong bài kinh ở Tương ưng bộ (SN 22.89), các vị ấy thậm chí đắc được quả vị A-la-hán, hoàn toàn giác ngộ.

Lời giải thích do ngài Khemaka đưa ra cho thấy rõ rằng, mặc dù hành giả không còn có thể xác định bất cứ cái gì là bản ngã, khuynh hướng xác định nhân thân – “tôi là” – vẫn lan tỏa, bao trùm người ấy như mùi hương lan tỏa khắp một bông hoa. Mặc dù công phu tu tập minh sát đã đạt đến mức rửa sạch bụi bẩn của các quan niệm về bản ngã, vẫn cần phải nỗ lực hành trì thêm nữa để loại bỏ mùi hương còn lại. Việc hành trì cần thiết xem ra rất đơn giản: hướng chánh niệm đến bản chất vô thường của tất cả mọi khía cạnh của trải nghiệm. Quán soi như thế về sự sinh diệt của năm uẩn thường được đề cập trong các bài kinh nguyên thủy như là một phương thức thực hành mạnh mẽ để hoàn toàn chứng ngộ. Pháp hành thiền này sẽ được trình bày chương tiếp theo, và hướng dẫn tu tập sẽ được trình bày trong phần kết luận của quyển sách này.

Ngoài lời giảng dạy, một đặc điểm đáng chú ý khác trong bài kinh là lòng từ bi của ngài Khemaka. Mặc dù bị bệnh nặng, khi nhận biết các vị trưởng lão khác vẫn chưa hoàn toàn nắm bắt sự khác biệt vi tế – nhưng quan trọng – giữa sự thực chứng không có một cái ngã thường tồn và sự tự do hoàn toàn thoát khỏi bất kỳ một dạng thái ngã mạn nào, ngài đã cố gắng ngồi dậy và chống gậy đi đến gặp các vị ấy để để làm sáng tỏ vấn đề. Như thế, ngài Khemaka là một tấm gương tạo ra một nguồn cảm hứng để chúng ta noi theo, sẵn sàng dành ưu tiên giúp người khác cải thiện sự hiểu biết của họ mặc dù cơ thể vẫn còn đau bệnh. Trong bài kinh, hành động từ bi như thế đã được đền đáp ngay lập tức, ngài Khemaka nhờ tâm hoan hỷ khi thuyết giảng đã hồi phục được sức khỏe (bản Pāli không ghi lại sự kiện này) và hoàn toàn giác ngộ (được ghi trong cả hai phiên bản).

Một khía cạnh quan trọng khác của bài kinh có liên quan đến chủ đề chung của cuốn sách này là người giảng bài kinh có ý nghĩa sâu sắc lại chính là người đang bị bệnh. Điều này cho thấy bài kinh giảng của ngài Khemaka có thể xem như là một lời khuyến cáo chúng ta nên sẵn sàng nghe và tiếp nhận từ một người bệnh, và cũng là lời khích tấn bệnh nhân nói lên sự thật trong tâm trí của người ấy. Sự giao lưu như thế của cả hai bên có một hiệu ứng chuyển hóa đáng kể.

Trong chương tiếp theo, tôi sẽ chuyển sang trình bày một loạt các pháp hành thiền. Tương tự như lời dạy của ngài Khemaka trong bài kinh ở đây, áp dụng thành công chương trình hành thiền này có thể giúp bệnh nhân phục hồi sức khỏe và từ đó, gieo trồng những hạt giống minh sát dẫn đến toàn bộ sức khỏe tâm linh, thông qua sự giác ngộ hoàn toàn.

* * *

 

SĀ 103
SAI-MA-CA
Hòa thượng Thích Đức Thắng dịch
Bình Anson hiệu đính dựa theo bản dịch tiếng Anh của Bhikkhu Anālayo


Tôi nghe như vầy. Bấy giờ, có số đông tỳ-khưu thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la (瞿師羅, Ghosita), nước Câu-xá-di (拘舍彌, Kosambī). Lúc ấy cũng ở nước Câu-xá-di tại vườn Bạt-đà-lê (跋陀梨, Badarika) có Tỳ-khưu Sai-ma-ca (差摩迦, Khemaka) thân mang trọng bệnh. Bấy giờ, Tỳ-khưu Đà-sa-ca (陀娑迦, Dāsaka) là người nuôi bệnh.

Tỳ-khưu Đà-sa-ca đến chỗ các tỳ-khưu thượng tọa, lễ dưới chân các tỳ-khưu thượng tọa rồi đứng sang một bên. Các tỳ-khưu thượng tọa bảo Tỳ-khưu Đà-sa-ca rằng: “Thầy trở về chỗ Tỳ-khưu Sai-ma-ca nói rằng: ‘Các thượng tọa hỏi thăm thầy, thân thể có an ổn chút nào không? Đau đớn không tăng lắm chứ?’”

Lúc ấy, Tỳ-khưu Đà-sa-ca vâng lời các tỳ-khưu thượng tọa trở về chỗ Tỳ-khưu Sai-ma-ca, nói với Tỳ-khưu Sai-ma-ca rằng: “Các thượng tọa hỏi thăm thầy, thân thể có an ổn chút nào không? Đau đớn không tăng lắm chứ?”

Tỳ-khưu Sai-ma-ca nói với Tỳ-khưu Đà-sa-ca rằng: “Bệnh của tôi không bớt, thân không được an ổn, các thứ khổ bức bách càng tăng thêm, không cứu nổi. Giống như người có nhiều sức mạnh bắt lấy người gầy yếu đuối, dùng dây trói chặt vào đầu cùng hai tay, rồi siết chặt làm cho đau đớn vô cùng. Hiện tại sự thống khổ của tôi còn hơn cả người kia nữa. Giống như tên đồ tể dùng dao bén mổ bụng bò lấy nội tạng nó ra; sự đau đớn ở bụng con bò như thế nào có thể chịu nổi, còn hiện tại sự đau đớn ở bụng của tôi, hơn cả sự đau đớn của con bò kia. Như hai lực sĩ bắt một người yếu đuối treo lên trên lửa rồi đốt hai chân họ, hiện nay hai chân của tôi còn nóng hơn chân người kia.”

Bấy giờ, Tỳ-khưu Đà-sa-ca đến lại chỗ các thượng tọa, đem những lời đã nói về bệnh trạng của Tỳ-khưu Sai-ma-ca bạch lại đầy đủ cho các thượng tọa. Các thượng tọa lại sai Tỳ-khưu Đà-sa-ca trở về chỗ Tỳ-khưu Sai-ma-ca và nói với Tỳ-khưu Sai-ma-ca rằng: “Đức Thế Tôn đã dạy có năm thủ uẩn. Đó là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Tỳ-khưu Sai-ma-ca, thầy có thể quán sát về năm thủ uẩn này là không phải ngã, không phải ngã sở, được không?”

Tỳ-khưu Đà-sa-ca vâng lời các tỳ-khưu thượng tọa dạy rồi trở về nói với Tỳ-khưu Sai-ma-ca rằng: “Các thượng tọa nhắn lại thầy là: ‘Thế Tôn đã từng dạy về năm thủ uẩn, thầy có thể quán sát về năm thủ uẩn này là không phải ngã, không phải ngã sở, được không?’”

Tỳ-khưu Sai-ma-ca nói với Tỳ-khưu Đà-sa-ca rằng: “Đối với năm thủ uẩn này, tôi có thể quán sát là không phải ngã, không phải ngã sở.”

Tỳ-khưu Đà-sa-ca trở lại bạch với các thượng tọa rằng: “Tỳ-khưu Sai-ma-ca nói: ‘Đối với năm thủ uẩn này, tôi có thể quán sát là không phải ngã, không phải ngã sở.’”

Các tỳ-khưu thượng tọa lại sai Tỳ-khưu Đà-sa-ca nói với Tỳ-khưu Sai-ma-ca rằng: “Đối với năm thủ uẩn này, thầy có thể quán sát là không phải ngã, không phải ngã sở, như thế có phải thầy là bậc A-la-hán đã đoạn tận các lậu hoặc?”

Tỳ-khưu Đà-sa-ca vâng lời các tỳ-khưu thượng tọa dạy, lại đến chỗ Tỳ-khưu Sai-ma-ca, nói với Tỳ-khưu Sai-ma-ca rằng: “Đối với năm thủ uẩn này, thầy có thể quán sát là không phải ngã, không phải ngã sở, như thế có phải thầy là bậc A-la-hán đã đoạn tận các lậu hoặc?”

Tỳ-khưu Sai-ma-ca nói với Tỳ-khưu Đà-sa-ca rằng: “Tôi có thể quán sát năm thủ uẩn là không phải ngã, không phải ngã sở; nhưng tôi chưa phải là bậc A-la-hán đã đoạn tận lậu hoặc.”

Tỳ-khưu Đà-sa-ca trở lại bạch với các thượng tọa rằng: “Tỳ-khưu Sai-ma-ca nói: ‘Tôi có thể quán sát năm thủ uẩn là không phải ngã, không phải ngã sở; nhưng tôi chưa phải là bậc A-la-hán đã đoạn tận lậu hoặc.’”

Bây giờ, các thượng tọa bảo Tỳ-khưu Đà-sa-ca, “Hãy trở về nói với Tỳ-khưu Sai-ma-ca: ‘Thầy nói là thầy quán sát năm thủ uẩn là không phải ngã, không phải là ngã sở, nhưng thầy chưa phải là bậc A-la-hán đã đoạn tận lậu hoặc. Trước sau mâu thuẫn nhau.’”

Tỳ-khưu Đà-sa-ca lại vâng lời dạy các thượng tọa, đến nói với Tỳ-khưu Sai-ma-ca là: ‘Thầy nói là thầy quán sát năm thủ uẩn là không phải ngã, không phải ngã sở, nhưng thầy chưa phải là bậc A-la-hán đã đoạn tận lậu hoặc. Trước sau mâu thuẫn nhau.’

Tỳ-khưu Sai-ma-ca nói với Tỳ-khưu Đà-sa-ca rằng: “Đối với năm thủ uẩn tôi quán sát là không phải ngã, không phải ngã sở. Nhưng tôi chưa phải là bậc A-la-hán. Vì đối với ngã mạn, ngã dục, ngã sử, tôi chưa đoạn hết, chưa biết rõ, chưa xả ly, chưa nhàm chán, chưa nhổ ra hết.”

Tỳ-khưu Đà-sa-ca trở lại bạch với các thượng tọa rằng: “Tỳ-khưu Sai-ma-ca nói: ‘Đối với năm thủ uẩn tôi quán sát là không phải ngã, không phải ngã sở. Nhưng tôi chưa phải là bậc A-la-hán. Vì đối với ngã mạn, ngã dục, ngã sử, tôi chưa đoạn hết, chưa biết rõ, chưa xả ly, chưa nhàm chán, chưa nhổ ra hết.’”

Các thượng tọa lại sai Tỳ-khưu Đà-sa-ca nói với Tỳ-khưu Sai-ma-ca rằng: “Thầy nói có ngã. Vậy thì ở chỗ nào có ngã? Sắc là ngã hay sắc khác ngã? Thọ … Tưởng … Hành … Thức là ngã hay thức khác ngã?’

Tỳ-khưu Sai-ma-ca nói với Tỳ-khưu Đà-sa-ca rằng: “Tôi không nói sắc là ngã hay ngã khác sắc; tôi không nói thọ … tôi không nói tưởng … tôi không nói hành … tôi không nói thức là ngã hay thức khác ngã. Nhưng đối với năm thủ uẩn, ngã mạn, ngã dục, ngã sử, tôi chưa đoạn hết, chưa biết rõ, chưa xa lìa, chưa nhàm chán, chưa nhổ ra hết.”

Tỳ-khưu Sai-ma-ca nói tiếp với Tỳ-khưu Đà-sa-ca rằng: “Tại sao lại làm phiền thầy phải chạy qua chạy lại? Thầy mang giùm cây gậy đến đây. Tôi sẽ tự chống gậy đến gặp các vị thượng tọa kia. Xin trao gậy cho tôi.”

Tỳ-khưu Sai-ma-ca liền tự chống gậy đi đến chỗ các thượng tọa. Từ xa các vị thượng tọa nhìn thấy Tỳ-khưu Sai-ma-ca chống gậy đi lại, liền trải tòa, sửa ghế ngồi, đích thân ra đón tiếp, mang giúp y bát và mời ngồi, cùng thăm hỏi sức khỏe nhau. Rồi các vị thượng tọa nói với Tỳ-khưu Sai-ma-ca rằng:

“Thầy nói về ngã mạn; vậy thấy ngã ở đâu? Sắc là ngã chăng? Ngã khác sắc chăng? Thọ … Tưởng … Hành … Thức là ngã chăng? Thức khác ngã chăng?”

Tỳ-khưu Sai-ma-ca bạch rằng: “Không phải sắc là ngã, không phải sắc khác ngã; không phải thọ …, không phải tưởng … không phải hành … không phải thức là ngã, không phải thức khác ngã. Nhưng đối với năm thủ uẩn, ngã mạn, ngã dục, ngã sử, tôi chưa đoạn hết, chưa biết rõ, chưa xa lìa, chưa nhàm chán, chưa nhổ ra hết.

“Giống như hương thơm của hoa ưu-bát-la (uppala), bát-đàm-ma (paduma), câu-mâu-đầu (kamuda), phân-đà-lợi (puṇḍarika). Có phải là mùi hương là rễ cây, hay mùi hương khác với rễ cây? Có phải mùi hương là thân, lá, cuống, các phần tinh và thô của cây? Hay mùi hương khác với thân, lá, cuống, các phần tinh và thô của cây? Nói thế nào cho đúng?”

Các vị thượng tọa đáp rằng: “Không phải đâu, Tỳ-khưu Sai-ma-ca. Không phải mùi hương là rễ của cây hoa ưu-bát-la, bát-đàm-ma, câu-mâu-đầu, phân-đà-lợi, cũng không phải mùi hương khác với rễ các cây ấy. Không phải mùi hương là thân, lá, cuống, các phần tinh và thô của cây, cũng không phải mùi hương khác với thân, lá, cuống, các phần tinh và thô của cây.”

Tỳ-khưu Sai-ma-ca lại hỏi: “Vậy thì mùi hương đó là gì?”

Các thượng tọa đáp rằng: “Là mùi hương của hoa.”

Tỳ-khưu Sai-ma-ca lại nói: “Vậy thì ngã cũng như vậy. Không phải sắc là ngã, không phải sắc khác ngã; không phải thọ …, không phải tưởng … không phải hành … không phải thức là ngã, không phải thức khác ngã. Nhưng đối với năm thủ uẩn, ngã mạn, ngã dục, ngã sử, tôi chưa đoạn hết, chưa biết rõ, chưa xa lìa, chưa nhàm chán, chưa nhổ ra hết.

“Các thượng tọa hãy nghe tôi nói thí dụ, vì người trí nhờ thí dụ mà được hiểu rõ. Giống như chiếc áo của người nhũ mẫu giao cho người giặt. Họ giặt bằng nước tro, tuy có sạch bụi nhơ, nhưng vẫn còn có mùi. Nếu muốn hết mùi này thì cần phải dùng các thứ hương thơm xông ướp.

“Cũng vậy, vị đa văn thánh đệ tử xa lìa năm thủ uẩn, quán sát chân chánh rằng không phải ngã, không phải ngã sở, có thể đối với năm thủ uẩn, ngã mạn, ngã dục, ngã sử chưa đoạn hết, chưa biết rõ, chưa xa lìa, chưa nhàm chán, chưa nhổ ra hết.

“Nhưng sau đó vị ấy tư duy thêm nữa, quán sát sự sinh diệt của năm thủ uẩn, rằng: ‘Đây là sắc, đây là sự tập khởi của sắc, đây là sự diệt tận của sắc. Đây là thọ … Đây là tưởng … Đây là hành … Đây là thức, đây là sự tập khởi của thức, đây là sự đoạn tận của thức.

“Đối với năm thủ uẩn sau khi đã quán sát sự sinh diệt của chúng như vậy, ngã mạn, ngã dục, ngã sử, tất cả đều được tiêu trừ. Đó gọi là quán sát chân chánh chân thật.”

Khi Tỳ-khưu Sai-ma-ca nói pháp này, thì các vị thượng tọa xa lìa được trần cấu, được Pháp nhãn thanh tịnh. Tỳ-khưu Sai-ma-ca nhờ không chấp thủ, nên tâm được giải thoát khỏi các lậu hoặc. Vì được an vui lợi ích nơi Chánh pháp nên bệnh nơi thân hoàn toàn được tiêu trừ.

Bấy giờ, các vị thượng tọa nói với Tỳ-khưu Sai-ma-ca rằng:

“Lần đầu chúng tôi được nghe những gì hiền giả nói đã hiểu rõ và mừng vui, huống chi là được nghe lại nhiều lần. Sở dĩ chúng tôi hỏi nhiều là vì muốn làm phát khởi biện tài vi diệu của hiền giả, chứ không phải có ý quấy rối. Hiền giả là người có khả năng giảng rộng Chánh pháp của Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác.”

Các vị thượng tọa sau khi nghe những gì mà Tỳ-khưu Sai-ma-ca nói, tất cả đều hoan hỷ phụng hành.

--------------------------

SN 22.89
KHEMAKA
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch
Bình Anson hiệu đính dựa theo bản dịch tiếng Anh của Bhikkhu Bodhi và Bhikkhu Sujato


Một thời, nhiều tỳ-khưu trưởng lão sống ở Kosambī, tại vườn Ghosita. Lúc bấy giờ, Tôn giả Khemaka trú tại vườn Badarika, bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh.

Rồi vào buổi chiều, các tỳ-khưu trưởng lão từ chỗ tịnh cư đứng dậy và gọi Tôn giả Dāsaka: “Này hiền giả Dāsaka, hãy đi đến Tỳ-khưu Khemaka và nói: ‘Này hiền giả Khemaka, các trưởng lão nói với hiền giả như sau: 'Này hiền giả, hiền giả có kham nhẫn được không? Hiền giả có chịu đựng được không? Có phải khổ thọ thuyên giảm, không tăng trưởng? Có phải có những dấu hiệu thuyên giảm, không tăng trưởng?’”

“Thưa vâng, chư hiền”. Tôn giả Dāsaka trả lời, rồi đi đến Tôn giả Khemaka. Sau khi đến, truyền đạt lời nói ấy.

Tôn giả Khemaka trả lời: “Thưa hiền giả, tôi không thể kham nhẫn. Tôi không thể chịu đựng. Khổ thọ tăng trưởng, không thuyên giảm. Có những dấu hiệu tăng trưởng, không thuyên giảm.”

Rồi Tôn giả Dāsaka đi đến các tỳ-khưu trưởng lão và trình lại những gì Tôn giả Khemaka đã nói. Các tỳ-khưu trưởng lão nói: “Này hiền giả Dāsaka, hãy đi đến Tỳ-khưu Khemaka và nói: ‘'Này hiền giả Khemaka, các vị trưởng lão nói rằng có năm thủ uẩn đã được Thế Tôn nói đến, tức là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Trong năm thủ uẩn này, Tôn giả Khemaka quán có uẩn nào là ngã hay ngã sở không?’”

“Thưa vâng, chư hiền”. Tôn giả Dāsaka trả lời, rồi đi đến Tôn giả Khemaka. Sau khi đến, truyền đạt lời nói ấy.

Tôn giả Khemaka trả lời: “Thưa hiền giả, năm thủ uẩn đã được Thế Tôn nói đến, tức là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Trong năm thủ uẩn này, tôi quán không thấy uẩn nào là ngã hay ngã sở.”

Rồi Tôn giả Dāsaka đi đến các tỳ-khưu trưởng lão và trình lại những gì Tôn giả Khemaka đã nói. Các tỳ-khưu trưởng lão nói: “Này hiền giả Dāsaka, hãy đi đến Tỳ-khưu Khemaka và nói: 'Này hiền giả Khemaka, các vị trưởng lão nói có năm thủ uẩn đã được Thế Tôn nói đến, tức là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Trong năm thủ uẩn này, nếu hiền giả quán không thấy uẩn nào là ngã hay ngã sở thì hiền giả là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã được đoạn tận.’”

“Thưa vâng, chư hiền”. Tôn giả Dāsaka trả lời, rồi đi đến Tôn giả Khemaka. Sau khi đến, truyền đạt lời nói ấy.

Tôn giả Khemaka trả lời: “Có năm thủ uẩn đã được Thế Tôn nói đến, tức là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Trong năm thủ uẩn này, tôi quán không thấy uẩn nào là ngã hay ngã sở nhưng tôi chưa là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã được đoạn tận. Đối với năm thủ uẩn, dù rằng ý tưởng “Tôi là” vẫn chưa tan biến, nhưng tôi không thấy “Tôi là cái này” trong năm thủ uẩn ấy.

Rồi Tôn giả Dāsaka đi đến các tỳ-khưu trưởng lão và trình lại những gì Tôn giả Khemaka đã nói. Các tỳ-khưu trưởng lão nói: “Này hiền giả Dāsaka, hãy đi đến Tỳ-khưu Khemaka và nói: 'Này hiền giả Khemaka, các vị trưởng lão nói khi hiền giả nói “Tôi là”, cái gì mà hiền giả nói đến như “Tôi là”? Có phải hiền giả nói “Tôi là” sắc, hay hiền giả nói “Tôi là” khác với sắc? … “Tôi là” thọ … “Tôi là” tưởng … “Tôi là” các hành … “Tôi là” thức, hay hiền giả nói “Tôi là” khác với thức? Khi hiền giả nói “Tôi là”, cái gì mà hiền giả nói đến như “Tôi là”?’”

“Thưa vâng, chư hiền”. Tôn giả Dāsaka trả lời, rồi đi đến Tôn giả Khemaka. Sau khi đến, truyền đạt lời nói ấy.

“Thôi đủ rồi, hiền giả Dāsaka! Chạy qua, chạy lại như thế này để làm gì? Hãy đem cây gậy lại cho tôi. Tôi sẽ đi đến các tỳ-khưu trưởng lão.”

Rồi Tôn giả Khemaka chống gậy đi đến các tỳ-khưu trưởng lão. Sau khi đến, trao đổi những lời chào đón hỏi thăm, rồi ngồi xuống một bên. Các tỳ-khưu trưởng lão nói với Tôn giả Khemaka: “Này hiền giả Khemaka, khi hiền giả nói “Tôi là”, cái gì mà hiền giả nói đến như “Tôi là”? Có phải hiền giả nói “Tôi là” sắc, hay hiền giả nói “Tôi là” khác với sắc? … “Tôi là” thọ … “Tôi là” tưởng … “Tôi là” các hành … “Tôi là” thức, hay hiền giả nói “Tôi là” khác với thức? Khi hiền giả nói “Tôi là”, cái gì mà hiền giả nói đến như “Tôi là”?”

“Thưa chư hiền, tôi không nói ‘Tôi là sắc’, tôi cũng không nói ‘Tôi là khác sắc’ ... ‘Tôi là thọ’ ... ‘Tôi là tưởng’ ... ‘Tôi là các hành’... Tôi không nói ‘Tôi là thức’, tôi cũng không nói ‘Tôi là khác thức’. Đối với năm thủ uẩn, dù rằng ý tưởng “Tôi là” vẫn chưa tan biến, nhưng tôi không thấy “Tôi là cái này” trong năm thủ uẩn ấy.

“Ví như, này chư hiền, hương thơm của hoa sen xanh, hay hoa sen hồng, hay hoa trắng. Nếu có người nói ‘Hương thơm thuộc về cánh hoa’ hay ‘Hương thơm thuộc về cuống hoa’ hay ‘Hương thơm thuộc về nhụy hoa’, nói như vậy có nói đúng không?”

“Thưa không, này hiền giả.”

“Vậy chư hiền, trả lời như thế nào là đúng?”

“Này hiền giả, hương thơm là thuộc về hoa. Trả lời như vậy là đúng.”

“Cũng vậy, này chư Hiền, tôi không nói ‘Tôi là sắc’, tôi cũng không nói ‘Tôi là khác sắc’ ... ‘Tôi là thọ’ ... ‘Tôi là tưởng’ ... ‘Tôi là các hành’... Tôi không nói ‘Tôi là thức’, tôi cũng không nói ‘Tôi là khác thức’. Đối với năm thủ uẩn, dù rằng ý tưởng “Tôi là” vẫn chưa tan biến, nhưng tôi không thấy “Tôi là cái này” trong năm thủ uẩn ấy.

“Này chư hiền, dù cho đối với vị thánh đệ tử, năm hạ phần kiết sử đã được đoạn tận, đối với năm thủ uẩn, vẫn còn các dư tàn ngã mạn 'Tôi là", dư tàn dục 'Tôi là’, dư tàn tùy miên 'Tôi là’ chưa được đoạn trừ. Vị ấy sau một thời gian, sống quán sự sinh diệt trong năm thủ uẩn: ‘Ðây là sắc, đây là sắc tập khởi, đây là sắc đoạn diệt. Ðây là thọ ... Ðây là tưởng ... Ðây là các hành ... Ðây là thức, đây là thức tập khởi, đây là thức đoạn diệt.’ Vì rằng vị ấy sống, quán sự sinh diệt trong năm thủ uẩn này, các dư tàn ngã mạn 'Tôi là", dư tàn dục 'Tôi là’, dư tàn tùy miên 'Tôi là’ chưa được đoạn trừ, nay đi đến đoạn tận.

“Này chư hiền, ví như một tấm vải nhớp nhúa dính bụi, người chủ giao nó cho một người thợ giặt. Người thợ giặt sau khi nhồi nó, đập nó trong nước muối, hay trong nước kiềm, trong nước phân bò rồi giặt sạch nó với nước trong. Dù cho tấm vải ấy nay được sạch sẽ, trắng tinh, nhưng nó vẫn còn dư tàn mùi muối hay mùi kiềm hay mùi phân bò. Người thợ giặt giao lại tấm vải cho người chủ. Người chủ đem bỏ nó vào trong một cái hòm có ướp hương thơm. Như vậy, dư tàn mùi muối hay mùi kiềm hay mùi phân bò chưa được trừ khử, nay được trừ khử.

“Cũng vậy, này chư hiền, dù cho đối với vị thánh đệ tử, năm hạ phần kiết sử đã được đoạn tận, đối với năm thủ uẩn, vẫn còn các dư tàn ngã mạn 'Tôi là", dư tàn dục 'Tôi là’, dư tàn tùy miên 'Tôi là’ chưa được đoạn trừ. Vị ấy sau một thời gian, sống quán sự sinh diệt trong năm thủ uẩn: ‘Ðây là sắc, đây là sắc tập khởi, đây là sắc đoạn diệt. Ðây là thọ ... Ðây là tưởng ... Ðây là các hành ... Ðây là thức, đây là thức tập khởi, đây là thức đoạn diệt.’ Vì rằng vị ấy sống, quán sự sinh diệt trong năm thủ uẩn này, các dư tàn ngã mạn 'Tôi là", dư tàn dục 'Tôi là’, dư tàn tùy miên 'Tôi là’ chưa được đoạn trừ, nay đi đến đoạn tận.”

Khi được nói vậy, các tỳ-khưu trưởng lão nói với Tôn giả Khemaka: “Không phải chúng tôi vì muốn phiền nhiễu Tôn giả Khemaka mà chúng tôi hỏi, nhưng vì chúng tôi nghĩ rằng Tôn giả Khemaka có thể giải đáp, thuyết giảng, trình bày, xác chứng, khai triển, phân tích, hiển lộ một cách rộng rãi giáo lý của Thế Tôn. Và đó là những gì Tôn giả Khemaka đã thực hiện.”

Tôn giả Khemaka thuyết giảng như vậy. Các tỳ-khưu trưởng lão hoan hỷ, tín thọ lời Tôn giả Khemaka giảng. Trong khi lời giảng dạy này được nói lên, tâm của sáu mươi tỳ-khưu trưởng lão và của Tôn giả Khemaka được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không chấp thủ.

* * ** * *

 

Tỉnh thức trước bệnh tật và cái chết
Lời Phật dạy trong kinh văn nguyên thủy

Bhikkhu Analayo (2017). Mindfully Facing Disease and Death: Compassionate Advice from Early Buddhist Texts.

MỤC LỤC TỔNG QUÁT

Dẫn nhập

BỆNH TẬT

Chương 01 - Đức Phật như là một vị y sĩ vô thượng
Chương 02 - Thân bệnh, tâm an
Chương 03 - Mũi tên của đau khổ
Chương 04 - Phẩm chất của bệnh nhân và người chăm sóc
Chương 05 - Tiềm năng chữa bệnh của các chi phần giác ngộ
Chương 06 - Giảm thiểu cơn đau trong tỉnh thức
Chương 07 - Chịu đựng cơn đau trong tỉnh thức
Chương 08 - Tỉnh thức đối mặt bệnh tật
Chương 09 - Không sợ hãi khi bị bệnh
Chương 10 - Liều thuốc nội quán
Chương 11 - Những lời dạy giải thoát từ một bệnh nhân
Chương 12 - Chương trình hành thiền chữa bệnh

CÁI CHẾT

Chương 13 - Chết là điều tất nhiên
Chương 14 - Tự do tỉnh thức không buồn rầu
Chương 15 - Cận tử và các phạm trú
Chương 16 - Các hướng dẫn trước khi chết
Chương 17 - Không chấp thủ và bệnh bất trị mạt kỳ
Chương 18 - Lời khuyên về chăm sóc thoa dịu
Chương 19 - Chết trong tỉnh thức
Chương 20 - Tiềm năng giải thoát của cái chết
Chương 21 - Sức mạnh của nội quán lúc cận tử
Chương 22 - Những lời cuối của một đệ tử cư sĩ thành đạt
Chương 23 - Trạng thái thiền của Đức Phật khi nhập diệt
Chương 24 - Quán tưởng về cái chết

Kết luận và các hướng dẫn hành thiền

Dẫn nhập
Các hướng dẫn hành thiền cho ngài Girimānanda
(1) Quán vô thường
(2) Quán vô ngã
(3) Quán bất tịnh
(4) Quán nguy hại
(5) Quán từ bỏ
(6) Quán xả ly
(7) Quán diệt tận
(8) Quán không tham luyến vào toàn thế giới
(9) Quán các hành là vô thường
(10) Quán hơi thở

 


CÁC CHỦ ĐỀ GIÁO THUYẾT TRONG MỖI CHƯƠNG

Chương 01 - Tứ thánh đế và Bát chi thánh đạo, danh hiệu của Như Lai
Chương 02 - Năm uẩn chấp thủ, vị ngọt và nguy hại
Chương 03 - Bảy khuynh hướng ngủ ngầm và ba loại cảm thọ
Chương 04 - Bốn phạm trú
Chương 05 - Năm triền cái, bảy chi phần giác ngộ và cách tu dưỡng
Chương 06 - Bốn pháp lập niệm, pháp nhãn, và đạt thiền diệt
Chương 07 - Tầm quan trọng của chư thiên
Chương 08 - Bốn cấp bậc giác ngộ, năm hạ phần kiết sử, và tam vô lậu học
Chương 09 - Bốn chi phần Dự Lưu và ngũ giới
Chương 10 - Hai mươi loại thân kiến và ba lậu hoặc
Chương 11 - Vô ngã và sự khác biệt giữa Dự Lưu và giác ngộ hoàn toàn
Chương 12 - Bốn tưởng điên đảo

Chương 13 - Phật Độc Giác và mười lực, bốn pháp vô sở úy của Như Lai
Chương 14 - Năm vô lậu học và ba mươi bảy chi phần đưa đến giác ngộ
Chương 15 - Vai trò các cõi trời
Chương 16 - Tam Bảo và đường đến quả Dự Lưu
Chương 17 - Ba tướng và bốn loại thức ăn
Chương 18 - Tinh luyện tiệm tiến của hạnh phúc
Chương 19 - Duyên sinh
Chương 20 - Chánh kiến lúc cận tử
Chương 21 - Sáu căn
Chương 22 - Tầm quan trọng của Chuyển Luân Vương
Chương 23 - Bốn tầng thiền hữu sắc và bốn tầng thiền vô sắc
Chương 24 - Quán tưởng về cái chết

* * *

 

Bhikkhu ANALAYO (1962-)
Centre for Buddhist Studies, University of Hamburg, Germany

Tỳ-khưu Analayo sinh năm 1962 tại Đức. Sư xuất gia gieo duyên năm 1990 tại chùa Wat Suan Mokkh ở miền nam Thái Lan. Năm 1994, Sư đến Sri Lanka xuất gia với ngài Hòa thượng Balangoda Ananda Maitreya, và sau đó thọ giới tỳ-khưu với Hòa thượng Pemasiri vào năm 2007 trong hệ phái Shwegyin Nikaya (bắt nguồn từ hệ phái chính Amarapura Nikaya). Tuy nhiên, Bhikkhu Bodhi là vị thầy chính.

Sư hoàn tất chương trình tiến sĩ tại University of Peradeniya năm 2000 và luận án tiến sĩ được xuất bảm thành sách với tựa đề “Satipaṭṭhāna, the Direct Path to Realization”. Cuốn sách được nhiều người khen ngợi, đã được tái bản nhiều lần và dịch sang 10 thứ tiếng. Bản tiếng Việt được Cư sĩ Nguyễn Văn Ngân dịch, với tựa đề “Satipaṭṭhāna, Con đường thẳng tới giác ngộ”, xuất bản năm 2017.

Hiện nay, Sư là giáo sư Phật học tại Trung tâm Phật học của Đại học Hamburg, Đức quốc (Centre for Buddhist Studies, University of Hamburg), Đại học Phật giáo Pháp Cổ, Đài Loan (Dharma Drum Buddhist College, Taiwan). Sư là đồng sáng lập viên Nhóm Nghiên cứu A-hàm (Āgama Research Group) và là giảng sư của Trung tâm Phật học Barre, Hoa Kỳ (Barre Center for Buddhist Studies).

Hiện nay (2018), ngài trú và tịnh tu tại Trung tâm Phật học Barre, bang Massachusetts, Hoa Kỳ.

Các nguồn thông tin:

1) Wikipedia: https://en.wikipedia.org/wiki/Bhikkhu_Analayo 
2) University of Hamburg: https://www.buddhismuskunde.uni-hamburg.de/en/personen/analayo.html 

------------------

Giáo sư AMING TU

Giáo sư Aming Tu (杜正民 - Đỗ Chính Dân, Du Zhengmin) là một sáng lập viên của hội CBETA (Chinese Buddhist Electronic Text Association, Hiệp hội Kinh văn Điện tử Phật giáo Trung Hoa) và đã từng là Giám đốc Điều hành của Hội (1998-2006). Ông là giáo sư Tin học và đã có nhiều đóng góp quan trọng trong dự án số hóa Tam tạng Kinh điển tiếng Hán. Năm 2005, ông bị bệnh và được chẩn đoán là bị bệnh ung thư gan, phải vào bệnh viện 10 ngày và trải qua một cơn đau đớn rất khắc nghiệt.

Sau khi rời bệnh viện, ông tìm đọc các bản kinh trong Hán tạng và tạng Pali có ghi lại các lời dạy của Đức Phật và các vị đại đệ tử để đối phó với cơn đau, bệnh tật và cái chết. Ông suy ngẫm và thực hành theo đó, và nhờ vậy, đã giúp ông rất nhiều để chịu đựng các cơn đau và viễn ảnh của cái chết không thể tránh được.

Ông thảo luận các vấn đề nầy với tỳ-khưu Anālayo – lúc ấy, Sư đang nghiên cứu và dịch các bản kinh A-hàm. Ông đề nghị Sư khai triển thành một cuốn sách với nội dung về phương cách đối diện với bệnh tật và cái chết, dựa theo các bản kinh của Phật giáo Sơ kỳ – bộ A-hàm trong Hán tạng và Nikāya trong tạng Pāli, cùng với những hướng dẫn thực tế để hành thiền, giúp hành giả có đủ nghị lực, hiểu biết và tỉnh thức để trực diện với các vấn đề tất yếu đó của kiếp người.

Sau khi Sư hoàn tất viết cuốn sách, Gs Tu đọc bản thảo, rất hoan hỷ và viết Lời Bạt, đề cập đến nguyên nhân ra đời của cuốn sách. Cuốn sách được xuất bản vào đầu năm 2017 và được nhiều vị thiền sư, học giả khen ngợi, tán thán. Một điều buồn là Gs Aming Tu không thấy được ấn bản chính thức. Ông qua đời vào tháng 11 năm 2016.

* * *

[ Home ]

15-06-2020