Đàm luận Phật Pháp
- 303 -

Tỉnh thức trước bệnh tật và cái chết
Lời Phật dạy trong kinh văn nguyên thủy

03. MŨI TÊN CỦA ĐAU KHỔ

 
01-mucluc03.jpg
01-mucluc03.jpg
1221 * 921
02-y_vuong.jpg
02-y_vuong.jpg
1389 * 900
03-5uan.jpg
03-5uan.jpg
1296 * 770
04-5uan_chapthu.jpg
04-5uan_chapthu.jpg
1312 * 884
05-thanbenh_taman.jpg
05-thanbenh_taman.jpg
1329 * 897
06-arrow.jpg
06-arrow.jpg
1280 * 858
07-tuymien.jpg
07-tuymien.jpg
1444 * 927

 

III

Mũi tên của đau khổ
Bhikkhu Anālayo, Mindfully facing disease and death (2017)

III.1 GIỚI THIỆU

Chương này tiếp tục chủ đề được giới thiệu trong bài kinh ở chương trước, cho thấy rõ rằng tâm trí có thể tránh bị bệnh khi cơ thể bị tác động bởi bệnh tật. Trong bài kinh đó, lời giảng ngắn gọn của Đức Phật đã được ngài Trưởng lão Sāriputta giải thích chi tiết sự bám thủ vào năm uẩn – sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

Uẩn thứ hai trong số năm uẩn này, cảm thọ, đặc biệt liên quan đến việc học tập cách tránh cơn đau của cơ thể làm ảnh hưởng đến tâm trí. Đây là chủ đề của bài kinh được trình bày trong chương này, minh họa bằng một ví dụ mô tả việc bị bắn bởi một hoặc hai mũi tên.

Bài kinh ở đây trích trong Tạp A-hàm (SĀ 470) và bài kinh tương ứng trong Tương ưng bộ (SN 36.6). Cả hai bài kinh cho thấy nỗi đau thể xác có thể dẫn đến những phiền não cản trở con đường đưa đến giải thoát. Những phiền não lậu hoặc này được thể hiện trong ba khuynh hướng phiền não ngủ ngầm, thường được gọi là ba tùy miên (anusaya). Kinh điển Phật giáo Sơ kỳ liệt kê bảy khuynh hướng tiềm ẩn như vậy, đó là sự kiện mà tâm trí bị tác động theo cách thức thường không được nhận biết một cách có ý thức. Những động lực tiềm ẩn trong tâm trí này có xu hướng kích hoạt sự phát sinh của tâm ô nhiễm sau đây:

• Dục ái,
• Sân (phẫn nộ),
• Tà kiến,
• Hoài nghi,
• Ngã mạn,
• Hữu ái,
• Vô minh.

Bài kinh trong chương này đề cập đến ba trong bảy tùy miên đó: tùy miên về dục ái, sân và vô minh. Ba tùy miên nầy liên quan đến ba loại cảm thọ. Cảm thọ lạc, dễ chịu, có thể kích hoạt tùy miên dục ái; cảm thọ khổ, đau đớn, có thể kích hoạt tùy miên sân; và cảm thọ trung tính, không lạc, không khổ có thể kích hoạt tùy miên vô minh. Kết quả của tương quan đó như sau:

• Cảm thọ lạc ---> dục ái,
• Cảm thọ khổ ---> sân,
• Cảm thọ trung tính ---> vô minh.

Do đó, nhiệm vụ chính liên quan đến trải nghiệm các cảm thọ là để tránh kích hoạt các tùy miên cơ bản này.


III.2 KINH VĂN

Tạp A-hàm (SĀ 470)
TIỄN (Mũi tên)
[1]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật trú trong vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, thành Vương xá. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các tỳ-khưu:

“Phàm phu ngu si không học sinh khổ thọ, lạc thọ, không khổ không lạc thọ. Đa văn thánh đệ tử cũng sinh khổ thọ, lạc thọ, không khổ không lạc thọ. Này các tỳ-khưu, như vậy giữa phàm phu và thánh nhân có gì sai khác?”

Các tỳ-khưu bạch Phật:

“Thế Tôn là căn bản của pháp, là con mắt của pháp, là sở y của pháp. Lành thay, Thế Tôn! Cúi xin nói đầy đủ, các tỳ-khưu sau khi nghe xong sẽ lãnh thọ thực hành.”

Phật bảo các tỳ-khưu tiếp:

“Hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì các ông mà nói.

“Này các tỳ-khưu, phàm phu ngu si không học, vì thân xúc chạm sinh các thọ, tăng thêm các khổ đau, cho đến bị cướp mất mạng sống, sầu bi, thán oán, khóc lóc, kêu gào, tâm sinh cuồng loạn. Ngay lúc đó hai thọ tăng trưởng, là thân thọ và tâm thọ.

“Như có người thân bị trúng hai mũi tên độc, vô cùng đau đớn. Phàm phu ngu si không học lại cũng như vậy. Hai thọ tăng trưởng: thân thọ, tâm thọ vô cùng đau đớn, khổ sở. Vì sao? Vì phàm phu ngu si không học này vì không biết rõ, nên ở nơi ngũ dục mà phát sinh cảm xúc lạc thọ, lãnh thọ năm thứ dục lạc. Do lãnh thọ năm thứ dục lạc nên bị tham sử sai khiến[2]. Vì xúc chạm cảm thọ khổ nên sinh sân nhuế. Vì nổi sân nhuế nên bị nhuế sử sai khiến [3]. Nếu đối với sự tập khởi, sự diệt tận, vị ngọt, tai hại và xuất ly của hai thọ này mà không biết như thật; vì không biết như thật nên sinh cảm thọ không khổ không lạc, bị si sử sai khiến. Nó bị lạc thọ trói buộc, mãi không thể lìa [4]; bị khổ thọ trói buộc, trọn không thể lìa; bị cảm thọ không khổ không lạc trói buộc, cuối cùng không thể lìa.

“Cái gì trói buộc? Bị tham, nhuế, si trói buộc; bị sinh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não trói buộc.

“Đa văn thánh đệ tử, thân xúc sinh khổ thọ, khổ lớn bức bách cho đến cướp mất sinh mạng, mà không khởi lo buồn, thán oán, khóc lóc, kêu gào, loạn tâm phát cuồng. Ngay lúc đó chỉ sinh một thứ thọ, đó là thân thọ, chứ không sinh tâm thọ.

“Như người bị một mũi tên độc, không bị mũi tên độc thứ hai, ngay khi đó chỉ sinh có một cảm thọ, đó là thân thọ mà không sinh tâm thọ. Khi xúc chạm lạc thọ, không nhiễm dục lạc. Vì không nhiễm dục lạc nên đối với lạc thọ này, tham sử không sai khiến. Khi xúc chạm khổ thọ không sinh sân nhuế. Vì không sinh sân nhuế, nên nhuế sử không thể sai khiến. Nếu đối với sự tập khởi, sự diệt tận, vị ngọt, tai hại, sự xuất ly của hai sử này mà biết như thật; vì biết như thật cảm thọ không khổ không lạc, nên si sử không thể sai khiến được. Đối với lạc thọ được giải thoát, không bị trói buộc; khổ thọ, không khổ không lạc thọ cũng được giải thoát, không bị trói buộc.

“Không bị cái gì trói buộc? Tham, nhuế, si không trói buộc; sinh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não không trói buộc.”

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói bài kệ:

Đa văn đối khổ vui,
Không phải không cảm giác.
So với kẻ không học,
Người này thật xa khác [5].
Thọ lạc, không buông lung,
Gặp khổ không tăng sầu;
Khổ vui thảy đều bỏ,
Không thuận cũng không trái.
Tỳ-khưu siêng phương tiện,
Chánh trí không khuynh động [6],
Đối với các thọ này,
Trí tuệ thường biết rõ.
Vì biết rõ các thọ,
Hiện tại sạch các lậu,
Khi chết không đọa lạc [7],
An trú Đại Niết-bàn.

Phật nói kinh này xong, các tỳ-khưu nghe những gì Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

Chú thích:

[1] Mũi tên. Pāli, SN 36. 6 Sallattena (Salattha).
[2]. Vi tham sử sở sử. Pāli: yo sukhāya vedanāya rāgānusayo so anuseti, tiềm phục tham tùy miên đối với cảm thọ lạc.
[3]. Pāli: yo dukkhāya vedanāya paṭighānusayo so anuseti, đối với cảm thọ khổ, sân tùy miên tiềm phục.
[4]. Pāli: so sukhañce vedanaṃ vedayati, saññutto naṃ vdayati; nếu nó cảm giác lạc. Nó cảm giác bị cái đó trói buộc. 瞋 sân, 恚 khuể, nhuế (oán hận)
[5]. Trong nguyên bản: đại văn 大聞; sửa lại là đại gián 大間: cách biệt rất lớn.
[6]. Pāli: saṃpajaññaṃ na riñcati, không bỏ chánh trí. Pāli: riñcati, rời, chối bỏ, phủ nhận; bản Hán đọc là iñjati: dao động.
[7]. Hán: bất đọa số. Hán: bất đọa ư chúng số 不墮於眾數. Pāli: kāyassa bhedā dhamaṭṭho saṃkhyaṃ nopeti vedagū ti, không thể mô tả bậc Pháp trí, vị Hiền trí, khi thân hoại (định danh).

– Hòa thượng Thích Đức Thắng dịch Việt
Bình Anson hiệu đính


III.3 THẢO LUẬN

Hai bài kinh trong chương này minh họa tình huống của một người có tâm trí đau khổ cùng với nỗi đau thể xác với ví dụ về một người bị bắn bởi hai mũi tên. Ngược lại, người không bị dao động bởi nỗi đau thể xác có thể so sánh với việc bị bắn chỉ bằng một mũi tên.

Bài kinh trong Tạp A-hàm còn cho biết các mũi tên ấy có tẩm thuốc độc. Bởi vì với một mũi tên tẩm thuốc độc, vấn đề chính sẽ là việc bị nhiễm độc phát sinh khi bị trúng tên cho dù với một mũi tên duy nhất, điều này làm một bài kinh có vẻ ít thích hợp. Khi vấn đề ở đây là nỗi đau bị tổn thương bởi một mũi tên không có chất độc, như trường hợp trong phiên bản của Tương ưng bộ, thì thực sự có một sự khác biệt giữa việc bị trúng một mũi tên hoặc hai mũi tên. Xét về mặt này, bài kinh trong Tương ưng bộ rõ ràng trình bày thích hợp hơn.

Điểm được minh họa sống động với ví dụ của hai mũi tên là rằng đau buồn và kháng cự, lo lắng và thất vọng, cũng như bất kỳ thái độ tiêu cực nào khác đối với nỗi đau thể xác, chỉ đơn giản sẽ làm tăng sự đau khổ mà một người phải trải qua. Mặc dù điều này dễ nói, nhưng nó ít được thực hiện. May mắn là bài kinh không dừng lại ở việc làm nổi bật nguyên tắc cơ bản này, mà còn cho thấy làm thế nào để áp dụng vào thực tế.

Sự khác biệt quyết định giữa một phàm nhân chịu đựng nỗi đau khổ và vị thánh đệ tử không chịu đau khổ là do sự hiểu biết tương ứng. Mũi tên thứ hai có thể tránh được bằng cách nuôi dưỡng sự hiểu biết đúng đắn về các cảm thọ. Quan trọng ở đây là hiểu biết rằng khi chúng phát sinh thì chúng sẽ tàn diệt. Điều này giúp chống lại xu hướng tự nhiên của tâm trí là nhận thức cho rằng các cảm thọ, đặc biệt là cảm giác đau đớn tại thời điểm bị bệnh, là vững bền và không bao giờ kết thúc. Thay vào đó, cảm thọ là một tiến trình thay đổi.

Mỗi khi người ta phản ứng với cơn đau với sự khó chịu, điều này sẽ kích hoạt tùy miên sân hay phẫn nộ, patigha-anusaya, phát khởi trong tâm trí. Khi khuynh hướng cơ bản này càng được kích hoạt, nó càng trở nên mạnh mẽ hơn và từ đó, việc phát sinh nỗi sân hận sẽ dễ dàng được kích hoạt hơn trong tương lai. Ngược lại, mỗi một lúc không phản ứng với cơn đau sẽ làm yếu đi khuynh hướng sân hận tiềm ẩn trong tâm và thúc đẩy phát triển của trí tuệ giải thoát. Theo cách này, nỗi đau thể xác không chỉ là một thách thức nặng nhọc, nó còn tạo ra một cơ hội mạnh mẽ để đạt được tiến bộ trên con đường đưa đến giải thoát.

Điều này không chỉ để chống lại thói quen phản ứng với sân hận. Kinh nghiệm về nỗi đau dễ dẫn đến việc theo đuổi khoái cảm nhục dục, một điểm được làm với sự rõ ràng đặc biệt trong bài kinh của Tương ưng bộ. Theo bài kinh, khi bị chạm vào nỗi đau, phàm nhân tìm kiếm một sự thay thế cho trải nghiệm đau đớn bằng một hình thức khoái cảm nhục dục nào đó. Bài kinh Pāli giải thích rằng điều này là do phàm nhân không biết có cách nào khác để thoát khỏi cơn đau, ngoại trừ đắm chìm trong khoái cảm nhục dục. Đối với suy nghĩ thông thường, việc thay thế duy nhất cho thực tế đau đớn của một cơ thể bệnh tật là đánh lạc hướng bản thân bằng một hình thức hưởng thụ cảm giác nào đó. Một chiến lược như vậy không giải quyết được vấn đề và thay vào đó, dẫn đến kích hoạt và củng cố tùy miên dục ái.

Càng chạy theo vị ngọt của các cảm thọ lạc, phàm nhân sẽ càng bị ảnh hưởng bởi mối nguy hiểm vốn có của chúng. Điều nguy hiểm này đặc biệt ở chỗ, càng có nhiều cảm thọ dễ chịu, phàm nhân sẽ càng bị ảnh hưởng bởi bản chất vô thường, thay đổi của chúng, đặc biệt khi sự thay đổi này là sự trở lại với trải nghiệm đau đớn sau một thời gian ngắn ngủi được lãng quên trong khoái lạc. Theo cách này, chiến lược bù đắp cho trải nghiệm đau đớn bằng cách đắm chìm trong khoái cảm nhục dục tuy mang lại sự nhẹ nhõm nhất thời nhưng về dài lâu sẽ chịu đau khổ nhiều hơn, tương tự với việc gãi một vết thương bị nhiễm trùng, cảm giác ngứa ngáy biến mất trong một thời gian ngắn nhưng vết thương còn bị nhiễm trùng nhiều hơn. Kết quả cuối cùng của cách tìm cảm giác khoái lạc để tâm lãng quên cơn đau thể xác là một vòng luẩn quẩn càng lúc càng tạo ra nhiều phản ứng điên rồ với các cảm thọ và từ đó phải chịu sự kích hoạt của các phiền não tùy miên.

Thiếu sự hiểu biết cũng là một vấn đề ngay cả khi có các cảm thọ trung tính, không khổ, không lạc, vì bản chất nhạt nhẽo của chúng rất dễ bị bỏ qua, điều này kích hoạt xu hướng tiềm ẩn của vô minh. Điều này đặc biệt thể hiện ở lòng mong muốn chuyển hướng từ những gì được xem là một trải nghiệm nhàm chán đến các cảm giác kích thích, khoái lạc.

Ngược lại, bằng cách tiếp cận với sự hiểu biết tỉnh giác về các trải nghiệm của cảm thọ nói chung và nỗi đau thể xác nói riêng, các trải nghiệm nầy có thể trở thành một nguồn lực mạnh mẽ của tuệ giác. Tất cả những gì cần có là duy trì tỉnh thức, trong thời khắc hiện tại, về tiến trình thay đổi của các cảm thọ như chúng là như thế, mà không phản ứng. Bài kinh trong chương nầy tuyên bố rằng người nào vượt thoát ra tầm ảnh hưởng bởi mũi tên thứ hai, người ấy có thể vượt ra toàn bộ các vấn đề mà theo chân lý cao quý đầu tiên, Khổ đế của Tứ thánh đế, tạo ra Khổ – dukkha. Theo cách này, theo quan điểm của Phật giáo Sơ kỳ, được tiếp cận với chánh niệm và trí tuệ, đau đớn về thể xác có một tiềm năng đáng kể để đưa đến giải thoát.

Mặc dù rõ ràng nhấn mạnh tầm quan trọng của trí tuệ do hành thiền đem đến, các bài kinh nguyên thủy cũng bao gồm những phẩm chất khác, có ích lợi khi ta lâm bệnh. Ngoài việc có thể chịu đựng nỗi đau, các đoạn kinh trong chương tiếp theo trình bày một tập hợp các phẩm chất đáng khen ngợi của bệnh nhân cũng như của một vị y tá để đảm bảo việc phục hồi nhanh chóng. Những đoạn kinh văn đó ghi nhận các khía cạnh thông thường của tình trạng bị bệnh, bên cạnh sự nhấn mạnh thường xuyên về cách tiếp cận một tình huống như vậy từ góc độ hành thiền. Do đó, các kinh văn ngầm cho biết rằng phương pháp hành thiền đối với bệnh tật không có nghĩa là thay thế chăm sóc y tế đúng cách, mà là để bổ sung. Khi đưa ra ví dụ hình ảnh của hai mũi tên, ý tưởng chính không phải là để khuyên chúng ta chỉ nên chịu đựng bất kỳ nỗi đau thể xác nào mà không làm gì với nó cả. Thay vào đó, chúng ta cần phải quan tâm đúng đắn đến những gì đã dẫn đến mũi tên đầu tiên với bất kỳ phương tiện y tế hợp lý và thích hợp, và bên cạnh đó chúng ta cần phải rèn luyện tâm trí để tránh mũi tên thứ hai.

* * *

 

Tạp A-hàm
Tiễn (Mũi tên)
SĀ 470
[1]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật trú trong vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, thành Vương xá. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các tỳ-khưu:

“Phàm phu ngu si không học sinh khổ thọ, lạc thọ, không khổ không lạc thọ. Đa văn thánh đệ tử cũng sinh khổ thọ, lạc thọ, không khổ không lạc thọ. Này các tỳ-khưu, như vậy giữa phàm phu và thánh nhân có gì sai khác?”

Các tỳ-khưu bạch Phật:

“Thế Tôn là căn bản của pháp, là con mắt của pháp, là sở y của pháp. Lành thay, Thế Tôn! Cúi xin nói đầy đủ, các tỳ-khưu sau khi nghe xong sẽ lãnh thọ thực hành.”

Phật bảo các tỳ-khưu tiếp:

“Hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì các ông mà nói.

“Này các tỳ-khưu, phàm phu ngu si không học, vì thân xúc chạm sinh các thọ, tăng thêm các khổ đau, cho đến bị cướp mất mạng sống, sầu bi, thán oán, khóc lóc, kêu gào, tâm sinh cuồng loạn. Ngay lúc đó hai thọ tăng trưởng, là thân thọ và tâm thọ.

“Như có người thân bị trúng hai mũi tên độc, vô cùng đau đớn. Phàm phu ngu si không học lại cũng như vậy. Hai thọ tăng trưởng: thân thọ, tâm thọ vô cùng đau đớn, khổ sở. Vì sao? Vì phàm phu ngu si không học này vì không biết rõ, nên ở nơi ngũ dục mà phát sinh cảm xúc lạc thọ, lãnh thọ năm thứ dục lạc. Do lãnh thọ năm thứ dục lạc nên bị tham sử sai khiến[2]. Vì xúc chạm cảm thọ khổ nên sinh sân nhuế. Vì nổi sân nhuế nên bị nhuế sử sai khiến [3]. Nếu đối với sự tập khởi, sự diệt tận, vị ngọt, tai hại và xuất ly của hai thọ này mà không biết như thật; vì không biết như thật nên sinh cảm thọ không khổ không lạc, bị si sử sai khiến. Nó bị lạc thọ trói buộc, mãi không thể lìa [4]; bị khổ thọ trói buộc, trọn không thể lìa; bị cảm thọ không khổ không lạc trói buộc, cuối cùng không thể lìa.

“Cái gì trói buộc? Bị tham, nhuế, si trói buộc; bị sinh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não trói buộc.

“Đa văn thánh đệ tử, thân xúc sinh khổ thọ, khổ lớn bức bách cho đến cướp mất sinh mạng, mà không khởi lo buồn, thán oán, khóc lóc, kêu gào, loạn tâm phát cuồng. Ngay lúc đó chỉ sinh một thứ thọ, đó là thân thọ, chứ không sinh tâm thọ.

“Như người bị một mũi tên độc, không bị mũi tên độc thứ hai, ngay khi đó chỉ sinh có một cảm thọ, đó là thân thọ mà không sinh tâm thọ. Khi xúc chạm lạc thọ, không nhiễm dục lạc. Vì không nhiễm dục lạc nên đối với lạc thọ này, tham sử không sai khiến. Khi xúc chạm khổ thọ không sinh sân nhuế. Vì không sinh sân nhuế, nên nhuế sử không thể sai khiến. Nếu đối với sự tập khởi, sự diệt tận, vị ngọt, tai hại, sự xuất ly của hai sử này mà biết như thật; vì biết như thật cảm thọ không khổ không lạc, nên si sử không thể sai khiến được. Đối với lạc thọ được giải thoát, không bị trói buộc; khổ thọ, không khổ không lạc thọ cũng được giải thoát, không bị trói buộc.

“Không bị cái gì trói buộc? Tham, nhuế, si không trói buộc; sinh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não không trói buộc.”

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói bài kệ:

Đa văn đối khổ vui,
Không phải không cảm giác.
So với kẻ không học,
Người này thật xa khác [5].

Thọ lạc, không buông lung,
Gặp khổ không tăng sầu;
Khổ vui thảy đều bỏ,
Không thuận cũng không trái.

Tỳ-khưu siêng phương tiện,
Chánh trí không khuynh động [6],
Đối với các thọ này,
Trí tuệ thường biết rõ.

Vì biết rõ các thọ,
Hiện tại sạch các lậu,
Khi chết không đọa lạc [7],
An trú Đại Niết-bàn.

Phật nói kinh này xong, các tỳ-khưu nghe những gì Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

– Hòa thượng Thích Đức Thắng dịch Việt

Chú thích:
[1] Mũi tên. Pāli, SN 36. 6 Sallattena (Salattha).
[2]. Vi tham sử sở sử. Pāli: yo sukhāya vedanāya rāgānusayo so anuseti, tiềm phục tham tùy miên đối với cảm thọ lạc.
[3]. Pāli: yo dukkhāya vedanāya paṭighānusayo so anuseti, đối với cảm thọ khổ, sân tùy miên tiềm phục.
[4]. Pāli: so sukhañce vedanaṃ vedayati, saññutto naṃ vdayati; nếu nó cảm giác lạc. Nó cảm giác bị cái đó trói buộc. 瞋 sân, 恚 khuể, nhuế (oán hận)
[5]. Trong nguyên bản: đại văn 大聞; sửa lại là đại gián 大間: cách biệt rất lớn.
[6]. Pāli: saṃpajaññaṃ na riñcati, không bỏ chánh trí. Pāli: riñcati, rời, chối bỏ, phủ nhận; bản Hán đọc là iñjati: dao động.
[7]. Hán: bất đọa số. Hán: bất đọa ư chúng số 不墮於眾數. Pāli: kāyassa bhedā dhamaṭṭho saṃkhyaṃ nopeti vedagū ti, không thể mô tả bậc Pháp trí, vị Hiền trí, khi thân hoại (định danh).


Tương ưng bộ
Mũi Tên
(Sallatha Sutta, SN 36.6)

– Này các tỳ-khưu, kẻ vô văn phàm phu, cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. Bậc đa văn thánh đệ tử cũng cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. Ở đây, này các tỳ-khưu, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nào là sai biệt giữa bậc đa văn thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu?

– Bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm chỉ đạo, lấy Thế Tôn làm chỗ nương tựa. Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn nói cho ý nghĩa của lời nói này. Sau khi nghe Thế Tôn, các tỳ-khưu sẽ thọ trì.

– Vậy này các tỳ-khưu, hãy lắng nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

– Này các tỳ-khưu, kẻ vô văn phàm phu khi cảm xúc khổ thọ, sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đấm ngực, đi đến bất tỉnh. Vị ấy cảm giác hai cảm thọ, cảm thọ về thân và cảm thọ về tâm. Ví như có người bị người ta bắn với mũi tên, rồi họ lập tức bắn người ấy với mũi tên thứ hai. Như vậy, người ấy cảm giác cảm thọ cả hai mũi tên. Cũng vậy, này các tỳ-khưu, kẻ vô văn phàm phu khi cảm xúc khổ thọ; thời sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đấm ngực, đi đến bất tỉnh. Người ấy cảm giác hai cảm thọ, cảm thọ về thân và cảm thọ về tâm.

Cảm xúc bởi khổ thọ ấy, người ấy sinh tâm sân hận với thọ ấy. Do sân hận đối với khổ thọ ấy, sân tùy miên đối với khổ thọ được tồn chỉ tùy miên (anuseti). Cảm xúc bởi khổ thọ, người ấy tìm hoan hỷ nơi dục lạc. Vì sao? Vì rằng kẻ vô văn phàm phu không tìm thấy một sự xuất ly khổ thọ nào khác, ngoài dục lạc. Do hoan hỷ dục lạc ấy, tham tùy miên đối với lạc thọ tồn tại. Người ấy không như thật rõ biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của các cảm thọ ấy. Do người ấy không như thật rõ biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của các cảm thọ ấy, nên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ tồn tại.

Nếu người ấy cảm thọ cảm giác lạc thọ, người ấy cảm thọ cảm giác như người bị trói buộc (saññutto). Nếu người ấy cảm thọ cảm giác khổ thọ, người ấy cảm thọ cảm giác như người bị trói buộc. Nếu người ấy cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ, người ấy cảm thọ cảm giác như người bị trói buộc. Này các tỳ-khưu, đây gọi là kẻ vô văn phàm phu bị trói buộc bởi sinh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng người ấy bị trói buộc bởi đau khổ.

Này các tỳ-khưu, bậc đa văn thánh đệ tử khi cảm xúc khổ thọ thời không có sầu muộn, không có than vãn, không có khóc lóc, không có đấm ngực, không có đi đến bất tỉnh. Vị ấy chỉ cảm thọ cảm giác một cảm thọ, tức là cảm thọ về thân, không phải cảm thọ về tâm. Ví như có người bị người ta bắn một mũi tên. Họ không lập tức bắn tiếp người ấy với mũi tên thứ hai. Như vậy người ấy chỉ cảm giác cảm thọ của một mũi tên. Cũng vậy, này các tỳ-khưu, bậc đa văn thánh đệ tử khi cảm xúc khổ thọ; vị ấy không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đấm ngực, không đi đến bất tỉnh. Vị ấy cảm giác chỉ một cảm thọ, tức là cảm thọ về thân, không phải cảm thọ về tâm.

Vị ấy không sinh tâm sân hận đối với khổ thọ ấy. Do không sân hận đối với khổ thọ ấy, sân tùy miên đối với khổ thọ không có tồn tại. Cảm xúc bởi khổ thọ, vị ấy không tìm hoan hỷ nơi dục lạc. Vì sao? Vì bậc đa văn thánh đệ tử có tuệ tri một sự xuất ly khác đối với khổ thọ, ngoài dục lạc. Vì vị ấy không hoan hỷ dục lạc, tham tùy miên đối với dục lạc không tồn tại. Vị ấy như thật tuệ tri sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của những cảm thọ ấy. Vì rằng, vị ấy như thật tuệ tri sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của các cảm thọ ấy. Do vị ấy như thật tuệ tri sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của các cảm thọ ấy, nên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ không tồn tại.

Nếu vị ấy cảm thọ cảm giác lạc thọ, vị ấy cảm thọ cảm giác như người không bị trói buộc. Nếu vị ấy cảm thọ cảm giác khổ thọ, vị ấy cảm thọ cảm giác như người không bị trói buộc. Nếu vị ấy cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ, vị ấy cảm thọ cảm giác như người không bị trói buộc. Này các tỳ-khưu, đây gọi là tỳ-khưu không bị trói buộc bởi sinh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng vị ấy không bị trói buộc bởi đau khổ.

Này các tỳ-khưu, đây là sự đặc thù, đây là thù thắng, đây là sự sai biệt giữa bậc đa văn thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu.

Bậc trí tuệ đa văn,
Lạc khổ không chi phối,
Giữa kẻ trí, phàm phu,
Sự sai biệt rất lớn.

Bậc đa văn, tầm pháp,
Thấy đời này, đời sau,
Ái pháp không phá tâm,
Không ái, không sân hận.

Tùy thuận hay đối nghịch,
Tiêu tán, diệt, không còn,
Vị ấy biết con đường,
Ðường không cấu, không sầu,
Chánh trí, đoạn tái sinh,
Ðến được bờ giác ngộ.

– Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Bình Anson hiệu đính, 25/05/2017)

* * *

 

Tỉnh thức trước bệnh tật và cái chết
Lời Phật dạy trong kinh văn nguyên thủy

Bhikkhu Analayo (2017). Mindfully Facing Disease and Death: Compassionate Advice from Early Buddhist Texts.

MỤC LỤC TỔNG QUÁT

Dẫn nhập

BỆNH TẬT

Chương 01 - Đức Phật như là một vị y sĩ vô thượng
Chương 02 - Thân bệnh, tâm an
Chương 03 - Mũi tên của đau khổ
Chương 04 - Phẩm chất của bệnh nhân và y tá
Chương 05 - Tiềm năng chữa bệnh của các chi phần giác ngộ
Chương 06 - Giảm thiểu cơn đau trong tỉnh thức
Chương 07 - Chịu đựng cơn đau trong tỉnh thức
Chương 08 - Tỉnh thức đối mặt bệnh tật
Chương 09 - Không sợ hãi khi bị bệnh
Chương 10 - Liều thuốc nội quán
Chương 11 - Những lời dạy giải thoát từ một bệnh nhân
Chương 12 - Chương trình hành thiền chữa bệnh

CÁI CHẾT

Chương 13 - Chết là điều tất nhiên
Chương 14 - Tự do tỉnh thức không buồn rầu
Chương 15 - Cận tử và các phạm trú
Chương 16 - Các hướng dẫn trước khi chết
Chương 17 - Không chấp thủ và bệnh bất trị mạt kỳ
Chương 18 - Lời khuyên về chăm sóc thoa dịu
Chương 19 - Chết trong tỉnh thức
Chương 20 - Tiềm năng giải thoát của cái chết
Chương 21 - Sức mạnh của nội quán lúc cận tử
Chương 22 - Những lời cuối của một đệ tử cư sĩ thành đạt
Chương 23 - Trạng thái thiền của Đức Phật khi nhập diệt
Chương 24 - Quán tưởng về cái chết

Kết luận và các hướng dẫn hành thiền

Dẫn nhập
Các hướng dẫn hành thiền cho ngài Girimānanda
(1) Quán vô thường
(2) Quán vô ngã
(3) Quán bất tịnh
(4) Quán nguy hại
(5) Quán từ bỏ
(6) Quán xả ly
(7) Quán diệt tận
(8) Quán không tham luyến vào toàn thế giới
(9) Quán các hành là vô thường
(10) Quán hơi thở

 


CÁC CHỦ ĐỀ GIÁO THUYẾT TRONG MỖI CHƯƠNG

Chương 01 - Tứ thánh đế và Bát chi thánh đạo, danh hiệu của Như Lai
Chương 02 - Năm uẩn chấp thủ, vị ngọt và nguy hại
Chương 03 - Bảy khuynh hướng ngủ ngầm và ba loại cảm thọ
Chương 04 - Bốn phạm trú
Chương 05 - Năm triền cái, bảy chi phần giác ngộ và cách tu dưỡng
Chương 06 - Bốn pháp lập niệm, pháp nhãn, và đạt thiền diệt
Chương 07 - Tầm quan trọng của chư thiên
Chương 08 - Bốn cấp bậc giác ngộ, năm hạ phần kiết sử, và tam vô lậu học
Chương 09 - Bốn chi phần Dự Lưu và ngũ giới
Chương 10 - Hai mươi loại thân kiến và ba lậu hoặc
Chương 11 - Vô ngã và sự khác biệt giữa Dự Lưu và giác ngộ hoàn toàn
Chương 12 - Bốn tưởng điên đảo

Chương 13 - Phật Độc Giác và mười lực, bốn pháp vô sở úy của Như Lai
Chương 14 - Năm vô lậu học và ba mươi bảy chi phần đưa đến giác ngộ
Chương 15 - Vai trò các cõi trời
Chương 16 - Tam Bảo và đường đến quả Dự Lưu
Chương 17 - Ba tướng và bốn loại thức ăn
Chương 18 - Tinh luyện tiệm tiến của hạnh phúc
Chương 19 - Duyên sinh
Chương 20 - Chánh kiến lúc cận tử
Chương 21 - Sáu căn
Chương 22 - Tầm quan trọng của Chuyển Luân Vương
Chương 23 - Bốn tầng thiền hữu sắc và bốn tầng thiền vô sắc
Chương 24 - Quán tưởng về cái chết

* * *

 

Bhikkhu ANALAYO (1962-)
Centre for Buddhist Studies, University of Hamburg, Germany

Tỳ-khưu Analayo sinh năm 1962 tại Đức. Sư xuất gia gieo duyên năm 1990 tại chùa Wat Suan Mokkh ở miền nam Thái Lan. Năm 1994, Sư đến Sri Lanka xuất gia với ngài Hòa thượng Balangoda Ananda Maitreya, và sau đó thọ giới tỳ-khưu với Hòa thượng Pemasiri vào năm 2007 trong hệ phái Shwegyin Nikaya (bắt nguồn từ hệ phái chính Amarapura Nikaya). Tuy nhiên, Bhikkhu Bodhi là vị thầy chính.

Sư hoàn tất chương trình tiến sĩ tại University of Peradeniya năm 2000 và luận án tiến sĩ được xuất bảm thành sách với tựa đề “Satipaṭṭhāna, the Direct Path to Realization”. Cuốn sách được nhiều người khen ngợi, đã được tái bản nhiều lần và dịch sang 10 thứ tiếng. Bản tiếng Việt được Cư sĩ Nguyễn Văn Ngân dịch, với tựa đề “Satipaṭṭhāna, Con đường thẳng tới giác ngộ”, xuất bản năm 2017.

Hiện nay, Sư là giáo sư Phật học tại Trung tâm Phật học của Đại học Hamburg, Đức quốc (Centre for Buddhist Studies, University of Hamburg), Đại học Phật giáo Pháp Cổ, Đài Loan (Dharma Drum Buddhist College, Taiwan). Sư là đồng sáng lập viên Nhóm Nghiên cứu A-hàm (Āgama Research Group) và là giảng sư của Trung tâm Phật học Barre, Hoa Kỳ (Barre Center for Buddhist Studies).

Hiện nay (2018), ngài trú và tịnh tu tại Trung tâm Phật học Barre, bang Massachusetts, Hoa Kỳ.

Các nguồn thông tin:

1) Wikipedia: https://en.wikipedia.org/wiki/Bhikkhu_Analayo 
2) University of Hamburg: https://www.buddhismuskunde.uni-hamburg.de/en/personen/analayo.html 

------------------

Giáo sư AMING TU

Giáo sư Aming Tu (杜正民 - Đỗ Chính Dân, Du Zhengmin) là một sáng lập viên của hội CBETA (Chinese Buddhist Electronic Text Association, Hiệp hội Kinh văn Điện tử Phật giáo Trung Hoa) và đã từng là Giám đốc Điều hành của Hội (1998-2006). Ông là giáo sư Tin học và đã có nhiều đóng góp quan trọng trong dự án số hóa Tam tạng Kinh điển tiếng Hán. Năm 2005, ông bị bệnh và được chẩn đoán là bị bệnh ung thư gan, phải vào bệnh viện 10 ngày và trải qua một cơn đau đớn rất khắc nghiệt.

Sau khi rời bệnh viện, ông tìm đọc các bản kinh trong Hán tạng và tạng Pali có ghi lại các lời dạy của Đức Phật và các vị đại đệ tử để đối phó với cơn đau, bệnh tật và cái chết. Ông suy ngẫm và thực hành theo đó, và nhờ vậy, đã giúp ông rất nhiều để chịu đựng các cơn đau và viễn ảnh của cái chết không thể tránh được.

Ông thảo luận các vấn đề nầy với tỳ-khưu Anālayo – lúc ấy, Sư đang nghiên cứu và dịch các bản kinh A-hàm. Ông đề nghị Sư khai triển thành một cuốn sách với nội dung về phương cách đối diện với bệnh tật và cái chết, dựa theo các bản kinh của Phật giáo Sơ kỳ – bộ A-hàm trong Hán tạng và Nikāya trong tạng Pāli, cùng với những hướng dẫn thực tế để hành thiền, giúp hành giả có đủ nghị lực, hiểu biết và tỉnh thức để trực diện với các vấn đề tất yếu đó của kiếp người.

Sau khi Sư hoàn tất viết cuốn sách, Gs Tu đọc bản thảo, rất hoan hỷ và viết Lời Bạt, đề cập đến nguyên nhân ra đời của cuốn sách. Cuốn sách được xuất bản vào đầu năm 2017 và được nhiều vị thiền sư, học giả khen ngợi, tán thán. Một điều buồn là Gs Aming Tu không thấy được ấn bản chính thức. Ông qua đời vào tháng 11 năm 2016.

* * *

[ Home ]

13-04-2019