Đàm luận Phật Pháp
- 209 -

Thiền quán niệm: Hướng dẫn thực hành
VI. Quán các cảm thọ

 
1_contents.jpg
1_contents.jpg
1287 * 850
2_chuong6.jpg
2_chuong6.jpg
1247 * 845
3_sati_khung.jpg
3_sati_khung.jpg
1346 * 930
4_khia-canh.jpg
4_khia-canh.jpg
1197 * 897
5_wheel4.jpg
5_wheel4.jpg
960 * 909
6_tudai.jpg
6_tudai.jpg
1286 * 824
7_thamsansi.jpg
7_thamsansi.jpg
1106 * 714
8-108tho.jpg
8-108tho.jpg
1265 * 869
9-kho_lac.jpg
9-kho_lac.jpg
1197 * 736
10-dentist.jpg
10-dentist.jpg
733 * 800

  

BỐN PHÁP LẬP NIỆM
Kinh Lập Niệm
Satipaṭṭhāna Sutta, MN 10

Lược trích

Này các tỳ-khưu, tỳ-khưu sống quán thân như thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, chế ngự tham ưu ở đời. Thế nào là tỳ-khưu sống quán thọ như các thọ?

[QUÁN THỌ]

Ở đây tỳ-khưu khi cảm giác lạc thọ, biết rõ: “Tôi cảm giác lạc thọ;” khi cảm giác khổ thọ, biết rõ: “Tôi cảm giác khổ thọ;” khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ, biết rõ: “Tôi cảm giác bất khổ bất lạc thọ”.

Hay khi cảm giác lạc thọ thuộc vật chất, biết rõ: “Tôi cảm giác lạc thọ thuộc vật chất;” hay khi cảm giác lạc thọ không thuộc vật chất, biết rõ: “Tôi cảm giác lạc thọ không thuộc vật chất”.

Hay khi cảm giác khổ thọ thuộc vật chất, biết rõ: “Tôi cảm giác khổ thọ thuộc vật chất;” hay khi cảm giác khổ thọ không thuộc vật chất, biết rõ: “Tôi cảm giác khổ thọ không thuộc vật chất”.

Hay khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ thuộc vật chất, biết rõ: “Tôi cảm giác bất khổ bất lạc thọ thuộc vật chất;” hay khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ không thuộc vật chất, biết rõ: “Tôi cảm giác bất khổ bất lạc thọ không thuộc vật chất”.

Như vậy, vị ấy sống quán thọ như các thọ bên trong; hay sống quán thọ như các thọ bên ngoài; hay sống quán thọ như các thọ bên trong và bên ngoài. Hay vị ấy sống quán tính sinh khởi trong các thọ, hay sống quán tính diệt tận trong các thọ; hay sống quán tánh sinh và diệt trong các thọ. Hay nhận thức “có cảm thọ đây”được thiết lập nơi vị ấy với mức độ cần thiết để hiểu biết và ghi nhớ đầy đủ. Và vị ấy không nương tựa, không chấp trước vật gì trên đời. Này các tỳ-khưu, như vậy là tỳ-khưu sống quán thọ như các thọ.

(Kinh Lập Niệm - Satipaṭṭhāna Sutta, MN10)


Kinh Niệm Xứ (MA 98)
Trung A-hàm, kinh số 98

“Thế nào gọi là niệm xứ quán thọ như thọ?

Tỳ-khưu khi thọ nhận cảm giác lạc liền biết đang thọ nhận cảm giác lạc, khi thọ nhận cảm giác khổ liền biết đang thọ nhận cảm giác khổ, khi thọ nhận cảm giác không lạc không khổ liền biết đang thọ nhận cảm giác không lạc không khổ.

Khi thân thọ nhận cảm giác lạc, thân thọ nhận cảm giác khổ, thân thọ nhận cảm giác không lạc không khổ;

khi tâm thọ nhận cảm giác lạc, tâm thọ nhận cảm giác khổ, tâm thọ nhận cảm giác không lạc không khổ;

cảm giác lạc khi ăn, cảm giác khổ khi ăn, cảm giác không lạc không khổ khi ăn; cảm giác lạc khi không ăn, cảm giác khổ khi không ăn, cảm giác không lạc không khổ khi không ăn;

cảm giác lạc khi có dục, cảm giác khổ khi có dục, cảm giác không khổ không lạc khi có dục; cảm giác lạc khi không có dục, cảm giác khổ khi không có dục, cảm giác không lạc không khổ khi không có dục.

Tỳ-khưu như vậy, quán thọ nơi nội thọ, quán thọ nơi ngoại thọ, dựng niệm tại thọ, có tri, có kiến, có minh, có đạt. Như vậy gọi là tỳ-khưu quán thọ như thọ. Nếu tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni từng chi tiết quán thọ như thọ như vậy, gọi là niệm xứ quán thọ như thọ.

 


Kinh Nhất Nhập Đạo (SA 12.1)
Tạp A-hàm, Phẩm 12, Kinh số 1

“Thế nào là Tỳ-khưu quán thọ nơi nội thọ?

Ở đây, Tỳ-khưu khi có cảm thọ lạc, tức thì tự giác tri rằng ta có cảm thọ lạc. Khi có cảm thọ khổ, tức thì tự giác tri rằng ta có cảm thọ khổ. Khi có cảm thọ không lạc không khổ, tự giác tri rằng ta có cảm thọ không lạc không khổ.

Nếu khi được cảm thọ lạc bởi vật dục, liền tự giác tri ta được cảm thọ lạc bởi vật dục. Nếu khi được cảm thọ khổ bởi vật dục, liền tự giác tri ta được cảm thọ khổ bởi vật dục. Nếu khi được cảm thọ không lạc không khổ bởi vật dục, liền tự giác tri ta được cảm thọ không lạc không khổ bởi vật dục.

Nếu khi được cảm thọ lạc phi vật dục, liền tự giác tri ta được cảm thọ lạc phi vật dục. Nếu được cảm thọ khổ phi vật dục, liền tự giác tri ta được cảm thọ khổ phi vật dục. Nếu khi được cảm thọ không lạc không khổ phi vật dục, liền tự giác tri ta được cảm thọ không lạc không khổ phi vật dục. Tỳ-khưu bên tự quán nội thọ như vậy.

“Lại nữa, nếu Tỳ-khưu lúc được cảm thọ lạc, lúc ấy không có cảm thọ khổ, bấy giờ tự giác tri ta đang cảm thọ lạc. Nếu lúc được cảm thọ khổ, lúc ấy không có cảm thọ lạc, bấy giờ tự giác tri ta đang cảm thọ khổ. Nếu khi được cảm thọ không lạc không khổ, lúc đó không có lạc, không có khổ, thì tự giác tri ta đang cảm thọ không lạc không khổ.

Vị đó quán pháp tập khởi mà tự an trú, cũng quán pháp diệt tận, lại quán pháp tập diệt. Hoặc lại có thọ hiện ở trước mà có thể biết, có thể thấy; vị ấy tư duy nguồn gốc của nó, không nương tựa vào đâu mà tự an trú, không khởi niệm tưởng về thế gian. Ở trong đó cũng không kinh sợ. Do không kinh sợ mà đạt đến Niết-bàn, như thật biết rằng: ‘Sinh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc phải làm đã làm xong, không còn tái sinh đời sau nữa.’ Tỳ-khưu tự quán nội thọ như vậy, trừ bỏ loạn niệm không có sầu lo. Tự quán ngoại thọ, quán nội ngoại thọ, trừ bỏ loạn niệm không có sầu lo. Như vậy Tỳ-khưu nội ngoại quán thọ."

* * *

 

Thu âm và phổ biến trên YouTube:

Tham khảo:

Nghe hướng dẫn từng bài tập:

https://www.windhorsepublications.com/wp-content/uploads/2018/03/1.-Anatomy.mp3

https://www.windhorsepublications.com/wp-content/uploads/2018/03/2.-Elements.mp3

https://www.windhorsepublications.com/wp-content/uploads/2018/03/3.-Death.mp3

https://www.windhorsepublications.com/wp-content/uploads/2018/03/4.-Feeling.mp3

https://www.windhorsepublications.com/wp-content/uploads/2018/03/5.-Mind.mp3

https://www.windhorsepublications.com/wp-content/uploads/2018/03/6.-Hindrances.mp3

https://www.windhorsepublications.com/wp-content/uploads/2018/03/7.-Awakening.mp3

Tải về toàn bộ 7 bài tập, dạng nén ZIP (111 Mb):

https://www.windhorsepublications.com/wp-content/uploads/audio/satipatthana-meditation/satipatthana-recordings.zip


  1. Satipaṭṭhāna: Con Đường Thẳng Tới Chứng Ngộ, Cư sĩ Nguyễn Văn Ngân dịch (2017) - http://budsas.net/sach/vn43.pdf
     
  2. Satipaṭṭhāna: The Direct Path to Realization, Bhikkhu Analayo (2004) - http://budsas.net/sach/en41.zip  (dạng nén Zip, cần phải giải nén trước khi đọc)
     
  3. Phụ đính: MN 10 Satipatthana-sutta, in: A Comparative Study of the Majjhima-Nikaya, Bhikkhu Analayo (2011) - http://budsas.net/sach/en140.pdf
     
  4. Perspectives on Satipaṭṭhāna, Bhikkhu Analayo (2013) - http://budsas.net/sach/en141.zip  (dạng nén Zip, cần phải giải nén trước khi đọc)

 

Bhikkhu ANALAYO (1962-)
Centre for Buddhist Studies, University of Hamburg, Germany

Tỳ-khưu Analayo sinh năm 1962 tại Đức. Sư xuất gia gieo duyên năm 1990 tại chùa Wat Suan Mokkh ở miền nam Thái Lan. Năm 1994, Sư đến Sri Lanka xuất gia với ngài Hòa thượng Balangoda Ananda Maitreya, và sau đó thọ giới tỳ-khưu với Hòa thượng Pemasiri vào năm 2007 trong hệ phái Shwegyin Nikaya (bắt nguồn từ hệ phái chính Amarapura Nikaya). Tuy nhiên, Bhikkhu Bodhi là vị thầy chính.

Sư hoàn tất chương trình tiến sĩ tại University of Peradeniya năm 2000 và luận án tiến sĩ được xuất bảm thành sách với tựa đề “Satipaṭṭhāna, the Direct Path to Realization”. Cuốn sách được nhiều người khen ngợi, đã được tái bản nhiều lần và dịch sang 10 thứ tiếng. Bản tiếng Việt được Cư sĩ Nguyễn Văn Ngân dịch, với tựa đề “Satipaṭṭhāna, Con đường thẳng tới giác ngộ”, xuất bản năm 2017.

Hiện nay, Sư là giáo sư Phật học tại Trung tâm Phật học của Đại học Hamburg, Đức quốc (Centre for Buddhist Studies, University of Hamburg), Đại học Phật giáo Pháp Cổ, Đài Loan (Dharma Drum Buddhist College, Taiwan). Sư là đồng sáng lập viên Nhóm Nghiên cứu A-hàm (Āgama Research Group) và là giảng sư của Trung tâm Phật học Barre, Hoa Kỳ (Barre Center for Buddhist Studies).

Hiện nay (2018), ngài trú và tịnh tu tại Trung tâm Phật học Barre, bang Massachusetts, Hoa Kỳ.

Các nguồn thông tin:

1) Wikipedia: https://en.wikipedia.org/wiki/Bhikkhu_Analayo 
2) University of Hamburg: https://www.buddhismuskunde.uni-hamburg.de/en/personen/analayo.html 

------------------

Cư sĩ NGUYỄN VĂN NGÂN

Cư sĩ Dhammaruci Nguyễn Văn Ngân cư ngụ tại Canada, là dịch giả các cuốn sách:

Abhidhamma Áp Dụng (2002)
Giải Thoát Bằng Năm Tập Hợp (2003)
Phân Tích (2005)
Đạo Vô Ngại Giải (2006); tái bản (2015)
Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật (2016)
Satipaṭṭhāna, Con đường thẳng tới giác ngộ (2017)

 

[ Home ]

26-10-2018