Đàm luận Phật Pháp
- 127 -

10 Pháp Quán tưởng - Kết luận
Kinh Girimānanda (AN 10.60) 

 

00-sach.jpg
00-sach.jpg
1285 * 855
01-5uan.jpg
01-5uan.jpg
1403 * 881
02-6xu.jpg
02-6xu.jpg
1216 * 649
03-32phancothe.jpg
03-32phancothe.jpg
1403 * 900
04-sick.jpg
04-sick.jpg
1711 * 850
05-quan_tubo.jpg
05-quan_tubo.jpg
1328 * 903
06-niemhoitho.jpg
06-niemhoitho.jpg
1331 * 874
07-10tuong_ket.jpg
07-10tuong_ket.jpg
1349 * 800

 

TÓM TẮT

Mindfully Facing Disease and Death: Compassionate Advice from Early Buddhist Texts, Bhikkhu Anālayo (2017). pp 236-241

*

(…) Nhìn lại toàn bộ tiến trình thiền quán, thực hành mười pháp quán tưởng có thể được hình dung như là một tiến trình xoắn ốc theo hình nón, bắt đầu từ gốc nền đến đỉnh ngọn. Hai pháp quán tưởng đầu tiên trong kinh Girimānanda, quán tưởng về vô thường (1) và vô ngã (2), đặt nền tảng cơ bản cho tuệ quán trong các bước tiếp theo và có thể xem như trục chính của hình nón. Tâm điểm quy chiếu cho toàn thể pháp hành là sự thông hiểu toàn diện về bản chất vô thường trong mọi khía cạnh của bản thân hành giả, được bổ sung bằng bản chất trống rỗng của tất cả mọi hiện tượng trải nghiệm.

Từ đó, tiến trình từ pháp quán tưởng thứ ba đến thứ chín có thể xem như tiến theo đường xoắn chạy dọc theo vòng tròn ở mặt đáy và tiến dần lên đỉnh nón. Đường xoắn ốc nầy đi theo hai vòng tròn qua bốn hướng chính, tương ứng với bốn pháp lập niệm (satipaṭṭhānas – niệm xứ: thân, thọ, tâm, pháp).

Ở đây, quán tưởng về bất mỹ (3) bao gồm quán tưởng về Thân và quán tưởng về nguy hại (4) đưa đến quán tưởng về Thọ. Quán tưởng về từ bỏ (5) phản án sự phân biệt giữa các trạng thái tâm thiện và bất thiện là pháp quán Tâm; và tưởng ly tham, đoạn diệt, v.v. (6 đến 9) hướng tâm đến giác ngộ, tâm điểm của quán các Pháp.

Sau khi hoàn tất vòng đầu tiên với bốn pháp lập niệm, pháp quán tưởng thứ mười là niệm hơi thở (10) liên quan đến một vòng xoắn ốc khác tiến gần đến đỉnh nón. Vòng thứ hai nầy cũng tiến hành theo bốn hướng chính của bốn pháp lập niệm, tương ứng với bốn nhóm bộ bốn của pháp niệm hơi thở. Với bước cuối cùng trong mười sáu bước niệm hơi thở, hành giả đạt đến đỉnh của hình nón, đơn giản chỉ là trạng thái tỉnh giác trong thời khắc hiện tại về bản chất vô thường, thay đổi của mọi hiện tượng vô ngã với thái độ buông xả.

Nhận thức về sự thay đổi với thái độ buông xả, đặc biệt là buông xả bất kỳ sự nắm giữ và bám víu nào, kết hợp với tuệ quán về vô thường và kèm theo về vô ngã. Cũng giống như đường xoắn ốc theo hình nón hội tụ hướng đến chóp đỉnh, toàn thể chương trình hành thiền có thể xem như hội tụ và tiến sâu hơn vào các mức độ của buông xả.

Như đã đề cập từ trước, một khuôn mẫu cơ bản của các nhóm bộ bốn được áp dụng trong tiến trình hành thiền mô tả trong kinh Girimānanda. Di chuyển theo đường xoắn ốc từ đáy hình nón lên đến đỉnh, sau khi thiết lập trục chính của hình nón qua hai pháp quán tưởng đầu tiên có thể so sánh với một bài nhạc với tiết tấu (rhythm) bốn ô nhịp (bar) và hai đoạn tăng dần (crescendo) bắt đầu từ chủ đề nhạc qua âm điệu của quán tưởng 1 và 2.

Theo phương cách thực hành tôi đã đề nghị ở trên, quán tưởng về bất mỹ (3) và về nguy hại (4) có thể thực hiện với bốn lần quét toàn thân, bắt đầu từ các phần bên ngoài thân, dần dần hướng vào bên trong thân, rồi tiến đến khuynh hướng khởi sinh đau đớn, phiền khổ. Tiếp theo là quán về bốn loại tâm như là chủ đề chính của quán từ bỏ (5), kế đó là bốn pháp quán tưởng hướng tâm đến Niết-bàn (6 đến 9). Các nhóm bộ bốn nầy dần dần tiến đến những gì vi tế và thâm sâu, và điểm cao của đoạn tăng thứ nhất nầy được đạt đến với quán tưởng tất cả các hành là vô thường (9).

Chuyển đổi từ trạng thái thâm sâu của tâm hướng đến Niết-bàn trong pháp quán tưởng thứ chín trở về hiện tượng tương đối thế tục của hơi thở dài đánh dấu điểm khởi đầu của đoạn tăng thứ nhì. Đoạn tăng thứ nhì nầy cũng có tiết tấu tương tự với bốn ô nhịp, khi pháp niệm hơi thở được thực hành qua bốn nhóm bộ bốn, mỗi nhóm có bốn bước.

Cùng đôi đoạn tăng dần dựa trên tiết tấu cơ bản của ô nhịp, vòng xoay hình xoắn dần dần đưa lên đến điểm cực đại tại đỉnh, với bước cuối cùng của pháp niệm hơi thở: buông xả, thành quả của tuệ quán về bản chất vô thường và rỗng không của mọi chứng nghiệm.

Đoạn tăng thứ nhì nầy có cùng một giai điệu của bốn pháp lập niệm như đoạn tăng thứ nhất. Tuy nhiên, thay vì dùng một ban hợp tấu với nhiều nhạc cụ – hay là nhiều loại quán tưởng, ở đây chỉ sử dụng một nhạc cụ duy nhất, đó là hơi thở. Sau bốn dạng thái bổ sung cho nhau hướng đến Niết-bàn như là nốt nhạc cuối của đoạn tăng thứ nhất, bài nhạc chuyển sang độc tấu với quán niệm hơi thở đem mọi việc trở về thực tế. Thay vì để hành giả phải đấu tranh với sự tương phản giữa những đỉnh cao của các quán tưởng nầy (6 đến 9) và điều kiện thấp kém hơn của mình, sự chuyển đổi tiếp theo giúp duy trì được động lượng tương tự nhưng đưa nó về những gì rất tầm thường, đó là tiến trình của hơi thở. Điều nầy giúp hành giả kết nối với thực nghiệm khoảnh khắc hiện tại như nó đang là, cho dù có thể đang đau đớn hay gần kề cái chết.

Giai điệu cơ bản của bốn pháp lập niệm được thể hiện qua các trình bày trong hai đoạn nhạc tăng dần. Pháp quán tưởng số 3 và nhóm bộ bốn thứ nhất trong pháp niệm hơi thở đều liên quan đến các khía cạnh về chức năng của thân, đó là các bộ phận của thân thể và hơi thở. Trong khi pháp quán tưởng 3 đặt nặng về sự bất mỹ, bất tịnh của thân và vì thế không hấp dẫn, có khi ghê tởm, nhóm bộ bốn thứ nhất cân bằng điều nầy qua cách dẫn đến trải nghiệm an tịnh các hoạt động của thân. Tương tự, mối quan tâm về nguy hại tiềm ẩn trong thân đưa đến bệnh hoạn và do đó đưa đến các tưởng về thọ khổ trong pháp quán tưởng thứ 4 được cân bằng với những cảm thọ hỷ lạc trong nhóm bộ bốn thứ nhì của pháp niệm hơi thở. Pháp quán tưởng 5 có liên quan đến từ bỏ các tư tưởng bất thiện, sự từ bỏ nầy được tiếp tục đi xa hơn với nhóm bộ bốn thứ ba trong niệm hơi thở, bỏ đi bất kỳ tư tưởng nào đưa tâm cảm nghiệm như thế. Các pháp quán tưởng 6 đến 9 là những trạng thái tâm khác nhau hướng đến Niết-bàn có những tương ứng trong nhóm bộ bốn thứ tư của niệm hơi thở. Sau khi đem tính vô thường làm sự chú tâm hàng đầu, bộ bốn cuối cùng nầy sử dụng cùng chủ đề về ly tham và đoạn diệt như quán tưởng 6 và 7, và bước cuối cùng trong niệm hơi thở để buông xả có thể xem như tương ứng với sự không tha thiết với toàn thế giới của pháp quán tưởng 8 và buông bỏ tất cả các hành trong quán tưởng 9.

Chủ đề trọng yếu của các quán tưởng trong bài kinh Lập Niệm (Niệm xứ, Satipaṭṭhāna-sutta) là tính vô thường, rõ ràng trong lời dạy nhắc đến nhiều lần trong bài kinh để quán soi sự sinh và diệt trong mỗi pháp lập niệm. Trong trường hợp bài kinh Girimānanda và phiên bản tương đương của Tây Tạng, chủ đề về vô thường được trình bày trước tiên, trong pháp quán tưởng về ngũ uẩn. Chủ đề đó được vang vọng lại trong quán tưởng 9, quán tưởng về vô thường trong tất cả các hành, hướng tâm về sự đoạn diệt tất cả các hành. Điều nầy đưa đến màn độc tấu trong mười sáu bước quán niệm hơi thở, tất cả đều hòa tấu chủ đề về tính vô thường của các thân hành hay các hoạt động của hơi thở. Quán tưởng 9 cùng với quán tưởng 10 thể hiện và hiện thực tiềm năng nhận thức liên tục về vô thường để đưa đến sự đột phá tiến đến Niết-bàn. Điều nầy trở nên đặc biệt nổi bật trong bộ bốn cuối cùng của niệm hơi thở, trong đó, nhận thức về vô thường là đề mục duy nhất để quán soi ngay trong bước đầu của bộ bốn đó. Các bước còn lại tiếp tục đà đó, đưa quán niệm đến tuệ tri toàn diện về vô thường, hướng tâm về Niết-bàn qua ly tham, đoạn diệt và buông xả (hay trong một phiên bản khác: từ bỏ, ly tham, và đoạn diệt).

Đỉnh điểm của hình nón thiền quán và nốt nhạc cuối cùng của buổi diễn nhạc, nhận thức về sự thay đổi với thái độ buông xả, không những là điểm hội tụ cho các pháp hành được tu tập bởi những hành giả thực hành xuyên suốt cả chương trình quán tưởng mà nó cũng giúp làm điểm khởi đầu cho những ai đang ở trong một tình huống không thể hành thiền một cách chính thức. Đặc biệt áp dụng cho những người bị bệnh năng hay trong lúc cận tử. Mặc dù tôi (Bhikkhu Ānalayo) hy vọng rằng những gì viết ra trong các trang trước đã nêu rõ tầm quan trọng của việc sửa soạn cho những tình huống đó khi hành giả vẫn còn tương đối khỏe mạnh, cuốn sách nầy sẽ không hoàn toàn đạt được mục đích nếu nó không cung cấp một lối thực hành khởi đầu cho những ai lâm vào các tình huống đó nhưng chưa kịp chuẩn bị.

Giả sử có một người thình lình bị bệnh nặng và đang chịu nhiều đau đớn và khổ sở, không thể ngồi thiền đàng hoàng hay giữ được sự yên lặng cho mình, hoặc có lẽ đang tiến gần đến cái chết. Lúc đó, người ấy phải làm gì? Một điều có thể làm được trong những tình huống như thế là giữ chánh niệm. Từ pháp thiền Phật giáo ngày trước cho đến các pháp trị liệu giảm đau ngày nay, chánh niệm hỗ trợ người ấy đối diện với bệnh tật và cái chết. Vì thế, nhiệm vụ chính chỉ đơn giản là nhận thức về các hiện tượng đang thay đổi, như chúng thực sự là như thế, ngay trong giây phút hiện tại. Chỉ cần được như thế là quá đủ. Mỗi khi thất niệm, đó chỉ là tự nhiên, người ấy đem niệm trở lại, lý tưởng nhất là với một nụ cười, nếu thực hiện được trong cơn đau đớn.

Để giúp tỉnh giác liên tục từng khoảnh khắc trong hiện tại như thế về dòng chảy của chứng nghiệm, người ấy nên tạo nó thành một dạng thái bao quát của chánh niệm, hoặc là hòa mình với hơi thở, hoặc là chú tâm ghi nhận toàn thân thể, chọn cách nào thích hợp nhất cho điều kiện lúc đau bệnh. Lợi ích của chú tâm vào hơi thở là nó giúp nhận thức một cách tự nhiên về bản chất thay đổi liên tục của chứng nghiệm. Lợi ích của chú tâm trên toàn bộ cơ thể là nó giúp mở rộng nhận thức bao quát không dễ gì mất đi khi bị phân tâm, và giúp chống lại xu hướng hội tụ vào cơn đau nhức.

Cho dù người bệnh chọn một trong hai phương cách trên hay kết hợp cả hai, người ấy chỉ đơn thuần ghi nhận dòng chảy của những gì đang xảy ra, như chúng đang là như thế, không chọn lựa hay chối bỏ, dưỡng nuôi một thái độ buông xả. Buông xả mọi mong ước. Buông xả những tư tưởng mong muốn mọi việc phải như ý mình. Buông xả giả định rằng mình xứng đáng có được một thân thể khỏe mạnh. Buông xả sự phản kháng của mình chống lại một thực tế là cơ thể đang biểu lộ bản chất tự nhiên là phải bệnh hoạn và tan rã từng phần. Buông xả bất kỳ bám víu nào, trong bất cứ hình thức nào.

Bằng cách nầy, tỉnh thức nhận định từng giây khắc hiện tại như một tiến trình thay đổi, với thái độ không chấp nhận khuynh hướng bám víu và phản ứng lại, là một phương cách vững mạnh để đối diện bệnh tật và cái chết. Nó không chỉ là một phương cách khéo léo để xử lý kinh nghiệm thực tế khi bị bệnh và thậm chí cận kề cái chết, mà nó còn có thể biến trải nghiệm nầy thành một cái gì đó có nhiều ích lợi hơn, trong ý nghĩa bệnh tật và cái chết trở thành những cơ hội tốt để làm thâm sâu sự tự do khỏi mọi ràng buộc.

Buông xả và tự do khỏi mọi ràng buộc, dính mắc cũng có ý nghĩa tương tự cho những ai tận dụng cơ hội nầy để tự mình sửa soạn đối diện bệnh tật và cái chết qua chương trình hành thiền đã được mô tả ở trên. Tiến trình xoắn ốc theo hình nón, từ gốc đáy lên đến đỉnh điểm, đưa đến một dạng thái chánh niệm bao quát trên dòng chảy chứng nghiệm từng thời khắc hiện tại, với tuệ quán tu dưỡng qua các pháp hành tuần tự dẫn đến điểm kết thúc là buông xả. Với sự nhận thức và bao quát về dòng chảy của chứng nghiệm trong hiện tại đó, hành giả duy trì thái độ buông xả; buông xả các phiền nhiễu và rối loạn, các chọn lựa và chối bỏ, các mong ước và đánh giá, quá khứ và tương lai. Huân tập về buông xả cuối cùng sẽ đưa đến sự buông xả tối thượng, đó là thực chứng trạng thái Niết-bàn bất tử.

– Bhikkhu Anālayo
(Bình Anson trích dịch, 26/06/2017)

* * *

 

Kinh Girimānanda (AN 10.60)
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthī, tại Jetavana, khu vườn của ông Anāthapiṇḍika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Girimānanda bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh. [2074] Rồi Tôn giả Ānanda đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ānanda bạch Thế Tôn:

- Tôn giả Girimānanda, bạch Thế Tôn, bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh. Lành thay, nếu Thế Tôn đi đến Tôn giả Girimānanda, vì lòng từ mẫn.

- Này Ānanda, nếu Thầy đi đến tỳ-khưu Girimānanda và đọc lên mười tưởng, thời sự kiện này có thể xảy ra: tỳ-khưu Girimānanda sau khi được nghe mười tưởng, bệnh của vị ấy có thể được thuyên giảm ngay lập tức. Thế nào là mười?

(1) Tưởng vô thường, (2) tưởng vô ngã, (3) tưởng bất tịnh, (4) tưởng nguy hại, (5) tưởng từ bỏ, (6) tưởng ly tham, (7) tưởng đoạn diệt, (8) tưởng nhàm chán đối với tất cả thế giới, (9) tưởng vô thường trong tất cả hành, (10) tưởng niệm hơi thở vô hơi thở ra.

(1) Và này Ānanda, thế nào là tưởng vô thường? Ở đây, này Ānanda, tỳ-khưu đi đến ngôi rừng, hay đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, quán sát như sau: "Sắc là vô thường, thọ là vô thường, tưởng là vô thường, hành là vô thường, thức là vô thường." Như vậy vị ấy trú, tùy quán vô thường, trong năm thủ uẩn này. Này Ānanda, đây gọi là tưởng vô thường.

(2) Và này Ānanda, thế nào là tưởng vô ngã? Ở đây, này Ānanda, tỳ-khưu đi đến khu rừng hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, quán sát như sau: "Mắt là vô ngã, các sắc là vô ngã; tai là vô ngã, các tiếng là vô ngã; mũi là vô ngã, các hương là vô ngã; lưỡi là vô ngã, các vị là vô ngã; thân là vô ngã, xúc là vô ngã; ý là vô ngã, các pháp là vô ngã." Này Ānanda, đây gọi là tưởng vô ngã.

(3) Và này, Ānanda thế nào là tưởng bất tịnh? Ở đây, này Ānanda, tỳ-khưu quán sát thân này từ bàn chân trở lên, từ đỉnh tóc trở xuống, được da bao bọc, đầy những vật bất tịnh sai biệt như: "Trong thân này có tóc, lông, móng, răng, da, thịt, dây gân, xương, tủy, thận, quả tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bụng, phân, mật, đàm (niêm dịch), mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mũi, nước ở khớp xương, nước tiểu". Như vậy, vị ấy trú quán bất tịnh trong thân này. Này Ānanda, đây gọi là tưởng bất tịnh.

(4) Và này Ānanda, thế nào là tưởng nguy hại? Ở đây, này Ānanda, tỳ-khưu đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, quán sát như sau: "Nhiều khổ là thân này, nhiều sự nguy hại. Như vậy trong thân này, nhiều loại bệnh khởi lên. Ví như bệnh đau mắt, bệnh đau về tai, bệnh đau mũi, bệnh đau lưỡi, bệnh đau thân, bệnh đau đầu, bệnh đau vành tai, bệnh đau miệng, bệnh đau răng, bệnh ho, bệnh suyễn, bệnh sổ mũi, bệnh sốt, bệnh già yếu, bệnh đau yếu, bệnh đau bụng, bất tỉnh, kiết lỵ, bệnh đau bụng quặn, bệnh thổ tả, bệnh hủi, bệnh ung nhọt, bệnh ghẻ lở, bệnh ho lao, bệnh trúng gió, bệnh da, bệnh ngứa, bệnh da đóng vảy, bệnh hắc lào lang ben, bệnh ghẻ, bệnh huyết đảm (mật trong máu), bệnh đái đường, bệnh trĩ, bệnh mụt nhọt, bệnh ung nhọt ung loét, các bệnh khởi lên do mật, bệnh khởi lên từ đàm, niêm dịch, các bệnh khởi lên từ gió; bệnh do hòa hợp các thể dịch sinh ra; các bệnh do thời tiết sinh ra, các bệnh do làm việc quá độ sinh, các bệnh do sự trùng hợp các sự kiêng; các bệnh do nghiệp thuần thục, lạnh, nóng, đói, khát, đại tiện, tiểu tiện". Như vậy, vị ấy sống, quán sự nguy hại trong thân này. Này Ānanda, đây gọi là các tưởng nguy hại.

(5) Và này Ānanda, thế nào là tưởng từ bỏ? Ở đây, này Ānanda, tỳ-khưu, không có chấp nhận dục tầm đã sinh, từ bỏ, tẩy sạch, chấm dứt, đi đến không sinh trưởng; không có chấp nhận sân tầm đã sinh, từ bỏ, tẩy sạch, chấm dứt, đi đến không sinh trưởng; không có chấp nhận hại tầm đã sinh, từ bỏ, tẩy sạch, chấm dứt, đi đến không sinh trưởng; không có chấp nhận các ác bất thiện pháp tiếp tục khởi lên, từ bỏ, tẩy sạch, chấm dứt, đi đến không sinh trưởng. Này Ānanda, đây được gọi tưởng từ bỏ.

(6) Và này Ānanda, thế nào là ly tham? Ở đây, này Ānanda, tỳ-khưu đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, suy xét như sau: ”Ðây là an tịnh, đây là thù thắng, tức là sự an chỉ tất cả hành, sự từ bỏ tất cả sinh y, ái diệt, ly tham, Niết bàn”. Này Ānanda, đây được gọi tưởng ly tham.

(7) Và này Ānanda, thế nào là tưởng đoạn diệt? Ở đây, này Ānanda, tỳ-khưu đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, suy xét như sau: "Ðây là an tịnh, đây là thù thắng, tức là sự đoạn diệt tất cả hành, sự từ bỏ tất cả sinh y, ái diệt, đoạn diệt, Niết bàn". Này Ānanda, đây được gọi tưởng đoạn diệt.

(8) Và này Ānanda, thế nào là tưởng không ưa thích đối với tất cả thế giới? Ở đây, này Ānanda, phàm ở đời có những tham dự và chấp thủ, thiên kiến, dính mắc, tùy miên nào, tỳ-khưu từ bỏ chúng, không ưa thích, không chấp thủ. Này Ānanda, đây gọi là tưởng không hoan hỷ đối với tất cả thế giới.

(9) Và này Ānanda, thế nào là tưởng vô thường trong tất cả hành? Ở đây, này Ānanda, tỳ-khưu kinh sợ, xấu hổ, ghê tởm đối với tất cả các hành. Này Ānanda, đây gọi là tưởng vô thường trong tất cả hành.

(10) Và này Ānanda, thế nào là tưởng niệm hơi thở vào, hơi thở ra? Ở đây, này Ānanda, tỳ-khưu đi đến khu rừng hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, ngồi kiết-già, lưng thẳng, để niệm trước mặt. Chánh niệm, vị ấy thở vô; chánh niệm, vị ấy thở ra.

Thở vô dài, vị ấy rõ biết: "Tôi thở vô dài". Thở ra dài, vị ấy rõ biết: "Tôi thở ra dài", Hay thở vô ngắn, vị ấy rõ biết "Tôi thở vô ngắn"; hay thở ra ngắn, vị ấy rõ biết: "Tôi thở ra ngắn". "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.

"Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở ra," vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.

"Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.

"Quán vô thường, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán vô thường, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.

Này Ānanda, đó là niệm hơi thở vô, hơi thở ra.

Này Ānanda, nếu thầy đi đến tỳ-khưu Girimānanda và đọc lên mười tưởng này, sự kiện này có xảy ra: tỳ-khưu Girimānanda, sau khi nghe mười tưởng này, bệnh của vị ấy được thuyên giảm ngay lập tức".

Rồi Tôn giả Ānanda, sau khi học thuộc từ Thế Tôn mười tưởng này, đi đến Tôn giả Girimānanda, sau khi đến, nói lên với Tôn giả Girimānanda mười tưởng này. Tôn giả Girimānanda, sau khi nghe mười tưởng này, bệnh của vị ấy được thuyên giảm ngay lập tức. Tôn giả Girimānanda, được thoát khỏi bệnh ấy. Ðược đoạn tận như vậy là chứng bệnh ấy của Tôn giả Girimānanda.

 


Girimānanda Sutta (AN 10.60)
Translated by Bikkhu Bodhi

On one occasion the Blessed One was dwelling at Sāvatthī in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s Park. Now on that occasion the Venerable Girimānanda was sick, afflicted, and gravely ill. Then the Venerable Ānanda approached the Blessed One, paid homage to him, sat down to one side, and said to him: [1]

“Bhante, the Venerable Girimānanda is sick, afflicted, and gravely ill. It would be good if the Blessed One would visit him out of compassion.”

“If, Ānanda, you visit the bhikkhu Girimānanda and speak to him about ten perceptions, it is possible that on hearing about them his affliction will immediately subside. What are the ten?

“(1) The perception of impermanence, (2) the perception of non-self, (3) the perception of unattractiveness, (4) the perception of danger, (5) the perception of abandoning, (6) the perception of dispassion, (7) the perception of cessation, (8) the perception of non-delight in the entire world, (9) the perception of impermanence in all conditioned phenomena, and (10) mindfulness of breathing.

(1) “And what, Ānanda, is the perception of impermanence? Here, having gone to the forest, to the foot of a tree, or to an empty hut, a bhikkhu reflects thus: ‘Form is impermanent, feeling is impermanent, perception is impermanent, volitional activities are impermanent, consciousness is impermanent.’ Thus he dwells contemplating impermanence in these five aggregates subject to clinging. This is called the perception of impermanence.

(2) “And what, Ānanda, is the perception of non-self? Here, having gone to the forest, to the foot of a tree, or to an empty hut, a bhikkhu reflects thus: ‘The eye is non-self, forms are nonself; the ear is non-self, sounds are non-self; the nose is non-self, odors are non-self; the tongue is non-self, tastes are non-self; the body is non-self, tactile objects are non-self; the mind is non-self, mental phenomena are non-self.’ Thus he dwells contemplating non-self in these six internal and external sense bases. This is called the perception of non-self.

(3) “And what, Ānanda, is the perception of unattractiveness? Here, a bhikkhu reviews this very body upward from the soles of the feet and downward from the tips of the hairs, enclosed in skin, as full of many kinds of impurities: ‘There are in this body hair of the head, hair of the body, nails, teeth, skin, flesh, sinews, bones, bone marrow, kidneys, heart, liver, pleura, spleen, lungs, intestines, mesentery, stomach, excrement, bile, phlegm, pus, blood, sweat, fat, tears, grease, saliva, snot, fluid of the joints, urine.’ Thus he dwells contemplating unattractiveness in this body. This is called the perception of unattractiveness.

(4) “And what, Ānanda, is the perception of danger? Here, having gone to the forest, to the foot of a tree, or to an empty hut, a bhikkhu reflects thus: ‘This body is the source of much pain and danger; for all sorts of afflictions arise in this body, that is, eye-disease, disease of the inner ear, nose-disease, tonguedisease, body-disease, head-disease, disease of the external ear, mouth-disease, tooth-disease, [2] cough, asthma, catarrh, pyrexia, fever, stomach ache, fainting, dysentery, gripes, cholera, leprosy, boils, eczema, tuberculosis, epilepsy, ringworm, itch, scab, chickenpox, scabies, hemorrhage, diabetes, hemorrhoids, cancer, fistula; illnesses originating from bile, phlegm, wind, or their combination; illnesses produced by change of climate; illnesses produced by careless behavior; illnesses produced by assault; or illnesses produced as the result of kamma; and cold, heat, hunger, thirst, defecation, and urination.’ Thus he dwells contemplating danger in this body. This is called the perception of danger.

(5) “And what, Ānanda, is the perception of abandoning? Here, a bhikkhu does not tolerate an arisen sensual thought; he abandons it, dispels it, terminates it, and obliterates it. He does not tolerate an arisen thought of ill will . . . an arisen thought of harming . . . bad unwholesome states whenever they arise; he abandons them, dispels them, terminates them, and obliterates them. This is called the perception of abandoning.

(6) “And what, Ānanda, is the perception of dispassion? Here, having gone to the forest, to the root of a tree, or to an empty hut, a bhikkhu reflects thus: ‘This is peaceful, this is sublime, that is, the stilling of all activities, the relinquishment of all acquisitions, the destruction of craving, dispassion, nibbāna.’ This is called the perception of dispassion. [3]

(7) “And what, Ānanda, is the perception of cessation? Here, having gone to the forest, to the root of a tree, or to an empty hut, a bhikkhu reflects thus: ‘This is peaceful, this is sublime, that is, the stilling of all activities, the relinquishment of all acquisitions, the destruction of craving, cessation, nibbāna.’ This is called the perception of cessation.

(8) “And what, Ānanda, is the perception of non-delight in the entire world? Here, a bhikkhu refrains from [4] any engagement and clinging, mental standpoints, adherences, and underlying tendencies in regard to the world, abandoning them without clinging to them. This is called the perception of non-delight in the entire world.

(9) “And what, Ānanda, is the perception of impermanence in all conditioned phenomena? Here, a bhikkhu is repelled, humiliated, and disgusted by all conditioned phenomena. This is called the perception of impermanence in all conditioned phenomena. [5]

(10) “And what, Ānanda, is mindfulness of breathing? Here, a bhikkhu, having gone to the forest, to the foot of a tree, or to an empty hut, sits down. Having folded his legs crosswise, straightened his body, and established mindfulness in front of him, just mindful he breathes in, mindful he breathes out.

“Breathing in long, he knows: ‘I breathe in long’; or breathing out long, he knows: ‘I breathe out long.’ Breathing in short, he knows: ‘I breathe in short’; or breathing out short, he knows: ‘I breathe out short.’ He trains thus: ‘Experiencing the whole body, I will breathe in’; he trains thus: ‘Experiencing the whole body, I will breathe out.’ He trains thus: ‘Tranquilizing the bodily activity, I will breathe in’; he trains thus: ‘Tranquilizing the bodily activity, I will breathe out.’

“He trains thus: ‘Experiencing rapture, I will breathe in’; he trains thus: ‘Experiencing rapture, I will breathe out.’ He trains thus: ‘Experiencing happiness, I will breathe in’; he trains thus: ‘Experiencing happiness, I will breathe out.’ He trains thus: ‘Experiencing the mental activity, I will breathe in’; he trains thus: ‘Experiencing the mental activity, I will breathe out.’ He trains thus: ‘Tranquilizing the mental activity, I will breathe in’; he trains thus: ‘Tranquilizing the mental activity, I will breathe out.’ [6]

“He trains thus: ‘Experiencing the mind, I will breathe in’; he trains thus: ‘Experiencing the mind, I will breathe out.’ He trains thus: ‘Gladdening the mind, I will breathe in’; he trains thus: ‘Gladdening the mind, I will breathe out.’ He trains thus: ‘Concentrating the mind, I will breathe in’; he trains thus: ‘Concentrating the mind, I will breathe out.’ He trains thus: ‘Liberating the mind, I will breathe in’; he trains thus: ‘Liberating the mind, I will breathe out.’ [7]

“He trains thus: ‘Contemplating impermanence, I will breathe in’; he trains thus: ‘Contemplating impermanence, I will breathe out.’ He trains thus: ‘Contemplating fading away, I will breathe in’; he trains thus: ‘Contemplating fading away, I will breathe out.’ He trains thus: ‘Contemplating cessation, I will breathe in’; he trains thus: ‘Contemplating cessation, I will breathe out.’ He trains thus: ‘Contemplating relinquishment, I will breathe in’; he trains thus: ‘Contemplating relinquishment, I will breathe out.’

“This is called mindfulness of breathing.

“If, Ānanda, you visit the bhikkhu Girimānanda and speak to him about these ten perceptions, it is possible that on hearing about them he will immediately recover from his affliction.” Then, when the Venerable Ānanda had learned these ten perceptions from the Blessed One, he went to the Venerable Girimānanda and spoke to him about them. When the Venerable Girimānanda heard about these ten perceptions, his affliction immediately subsided. The Venerable Girimānanda recovered from that affliction, and that is how he was cured of his affliction.

NOTES:

[1] Apart from this text there is no further information about Girimānanda in the Nikāyas. In Theravāda Buddhist countries this sutta has achieved the status of a paritta, a “protective discourse,” which bhikkhus often recite to people afflicted with illness.

[2] In Be only, oṭṭharogo, lip disease, is between dantarogo and kāso.

[3] Both this and the following perception are reflective contemplations on nibbāna. In the classical scheme of forty meditation subjects, they can be subsumed under the “recollection of peace” (upasamānussati), explained at Vism 293–94, Ppn 8:245–51.

[4] Where Ce and Ee read pajahanto viramati anupādiyanto, Be has pajahanto viharati anupādiyanto. Mp offers no clarification.

[5] It is hard to see exactly how the explanation is connected to the theme of impermanence. Some manuscripts read this perception as sabbasaṅkhāresu anicchāsaññā, “perception of wishlessness (or desirelessness) in regard to all conditioned phenomena,” which seems to tie up better with the definition.

[6] The mental activity (cittasaṅkhāra) here is perception and feeling, for these things are said to be bound up with the mind and to occur in dependence on it (see MN 44.15, I 301,28–29).

[7] That is, liberating the mind from the obstacles to the refinement of serenity and insight.

* * *

[ Home ]

26-06-2017